TRỰC QUÁN LAMRIM –

Tác giả: LOSANG JINPA

TRÌNH TỰ ĐƯỜNG TU GIÁC NGỘ BAO GỒM MỌI NGHĨA TRỌNG YẾU

[A Direct Meditation on the Graduated Path Containing All the Important Meanings]

Điều kiện hành trì: Mọi người đều có thể đọc tụng.

Lợi ích: Bài tụng Lam-rim ngắn gọn này bao gồm tinh túy của trọn vẹn đường tu giác ngộ, chuyên tâm đọc tụng sẽ gieo được thiện duyên thành tựu mọi chứng ngộ trên trọn đường tu, định hướng cho đời mình với chí nguyện vì chúng sinh cầu mau chóng đạt quả chánh đẳng giác bằng cách tu theo trình tự đường tu dành cho ba loại căn cơ, đặc biệt là Mật tông tối thượng du già.

 Là tinh túy của  / khắp mười phương Phật;  / là cội của khắp  / giáo truyền giáo chứng;  / là bậc trọng yếu  / trong hàng Thánh Tăng: / Ân sư nhiệm mầu  / con xin đảnh lễ.

Kính xin Ân sư  / từ bi gia hộ, / giúp cho tâm con  / chuyển thành chánh pháp, / giúp cho chánh pháp  / chuyển thành đường tu,  / giúp cho đường tu[1]   / lìa xa chướng ngại.

Chờ cho đến ngày  / con thành chánh quả,  / xin Thầy gia hộ  / cho con được như  / hai vị bồ tát  / đức Tài Đồng Tử / và đức Thường Đề[2] / tâm hạnh đều sáng : / theo gót Ân sư;  / thấy việc Thầy làm  / đều luôn thanh tịnh;  / thực hiện trọn vẹn  / lời dạy của Thầy. [Đây là cách nương thiện tri thức, gốc rễ của vô thượng bồ đề].

Xin Thầy gia hộ  / cho con thấy ra  / thân người này đây  / tự tại thuận tiện,  / thật là khó tìm,  / mà lại dễ mất;  / thấy nghiệp và quả  / thật quá thâm sâu;  / thấy khổ ác đạo  / thật không kham nổi;  / Xin Thầy gia hộ,  / cho đáy lòng con  / về nương Tam bảo / lánh mọi điều ác  / làm mọi điều lành / thuận theo chánh pháp. [Đó là trình tự đường tu sơ căn]

Cho dù nhờ vậy  / lên cõi trời, người,  / cũng vẫn triền miên  / chịu khổ sinh tử  / là vì chưa dứt  / phiền não vô minh.  / Xin Thầy gia hộ  / cho con khéo hiểu  / cảnh luân hồi này  / luân chuyển ra sao, / ngày đêm chuyên tâm  / tu Giới Định Tuệ, / là thiện phương tiện  / giải thoát luân hồi. [Đó là trình tự đường tu trung căn]

Cho dù nhờ vậy  / đạt quả giải thoát,  / thử hỏi sáu cõi  / ai không từng là  / cha mẹ của con?  / Xin Thầy gia hộ  / cho con có thể  / khởi tâm độ sinh  / không cầu vui nhỏ  / niết bàn riêng biệt,  / rồi nhờ bình-đẳng-hoán-chuyển-ngã-tha / mà phát được tâm  / bồ đề trân quí;  / Tu hạnh bồ tát  / sáu ba la mật… [Đó là trình tự đường tu thượng căn]

Theo đường tu hiển  / luyện tâm như vậy  / nên khổ luân hồi  / dù chịu bao lâu  / cũng không quản ngại. / Nhưng con xin Thầy  / gia hộ cho con  / nhìn chúng sinh mà  / xót không chịu nổi  / để dấn thân vào  / đường tu chóng vánh  / cỗ xe Kim cang.  / Khi ấy, xin Thầy  / gia hộ cho con  / giữ gìn giới hạnh  / cùng với mật thệ  / quí hơn mạng sống  / mau chóng thành tựu / địa vị hợp nhất  / Phật Kim Cang Trì, / ngay kiếp hiện tiền  / giữa thời mạt pháp. [Đó là trình tự đường tu mật thừa tối thượng căn]

[hết]

Ghi chú:

Tác giả bài pháp này là đức Dorje Chang Losang Jinpa Pal Zangpo, bậc Thánh giả cát tường. Lama Zopa Rinpoche chuyển Anh ngữ tại Tu Viện Kopan, Nepal, Jan 12-16, 2013. Merry Colony chép lại. Ven. Sarah Thresher, Merry Colony and Tom Truty cập nhật với lời giảng của Lama Zopa Rinpoche, 2014. Phần nói lợi ích là tóm tắt lời giảng của Lama Zopa Rinpoche tháng 10, 2010 tại Shedrup Ling, Mongolia. 

Hồng Như chuyển Việt ngữ 2006, dịch lại 2018.


[1] Bao gồm 84,000 pháp môn Phật dạy, trong đó có pháp tiểu
thừa, đại thừa ba la mật thừa và đại thừa mật tông. Tất cả các giáo pháp này
đúc kết thành pháp lam-rim, trình tự đường tu giác ngộ, chia thành trình tự đường
tu sơ căn, trung căn và thượng căn. Ba đường tu này là trọn vẹn pháp lam-rim,
và nằm trong Ba điểm tinh yếu của đường tu giác ngộ.

[2] Nd: Songnu Norsan và Taktungu, Alway Crying One.




Thánh Nữ Khandroma: CHUYỂN NGHỊCH CẢNH ĐẠI DỊCH THÀNH ĐƯỜNG TU

Tác giả: Thánh Nữ Khadro Namsel Dorje Rinpoche
Hồng Như Thupten Munsel chuyển Việt ngữ

Ogyen Rinpoche – đức Liên Hoa Sanh- xin giúp chúng con!

Vì bởi tướng nghiệp / của khắp chúng sinh / trong thời tối ám, / thế gian ngập tràn / đại dịch truyền nhiễm. / Chúng con nay phải / rơi vào ngục sâu, / không nơi nương náu, / không nguồn hy vọng / lặng lẽ cô đơn, / không chốn chở che / không quân bảo vệ, / tuyệt vọng bật khóc.

Đại dịch đã khiến / đảo lộn đất trời, / con thiết tha gọi / xin Phật ba thời / lắng nghe cho lời / con nói ở đây.

Chúng sinh chấp ngã, / nhưng ngã vốn không, / cho nên bên ngoài / tứ đại xáo trộn: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Vọng tâm chấp vào / hiện hữu thật có, / nhưng làm gì có / hiện hữu thật có, / nên chúng sinh bị / tam độc chiếm ngự: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Bị con rắn đen / khái niệm chấp ngã / điều khiển thao túng, / nên con cứ phải / tranh dành phần thắng, / khiến người phải thua: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Tâm hư vọng kia / chấp ngã, chấp có, / nhìn cảnh toàn hảo / trong cõi luân hồi / lại tưởng là nơi / nương dựa thanh tịnh. / Thình lình dịch đến / thành bãi tha ma / của nghiệp trổ quả, / lạc thú thế gian / thành như đất đá / không chút niềm vui. / Đã đến thời điểm / của tâm đại bi / cùng tâm đại từ. / Nghiệp báo nhân quả / nhất định phải chịu, / duyên khởi là điều / nhất định không sai.

Đối trước ngoại cảnh / khách quan hiển hiện, / chúng sinh tin vào / lạc thú giác quan / sinh tâm luyến chấp./ Nhưng chỉ giống như / là giấc huyễn mộng. / Xin hộ trì cho / con chứng duyên khởi / cùng với tánh không. / Xin hộ trì cho / con chứng tánh không / cùng với duyên khởi.

Sau khi chứng biết / duyên khởi kia vốn / không có tự tánh, / xin hãy hộ trì / cho con thấy được / chân tánh của tâm.

Vọng tâm chấp ngã, / dù ngã không có, / lại để vọng tâm / thao túng chính mình / nên vướng trọng bệnh / ích kỷ kinh niên: / bảo vệ người thân, / hủy diệt kẻ thù, / khiến cho khổ đau / triền miên dậy sóng / làm tiêu tan hết / đời này kiếp sau. / Không nhìn ra được / chúng sinh là mẹ / ơn lớn nhường nào, / nên con biến thành / một kẻ vong ơn: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Sau khi bước vào / chánh pháp thanh tịnh / cỗ xe kim cang, / con làm hư vỡ / mật thệ kim cang / thọ từ quán đảnh: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Đức Kim Cang Trì / từ cõi Pháp thân / vắng niệm phân biệt, / Ngài là kho báu / chu toàn tất cả / nguyện ước, nhu cầu. / Đức Kim Cang Trì, / là đóa sen trắng / tánh không – từ bi, / là đấng phổ chủ / của mọi bộ Phật, / quét sạch ba thời, / là chốn chở che / duy nhất của con / làm cho tan hết / vô minh tăm tối. / Ngài vốn là Phật / nhưng con lại thấy / Ngài là người phàm: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

[Ghi chú, tác giả giải thích đoạn này nói về đức Đalai Lama]

Dù được dạy rằng / nhân quả không sai, / con vẫn giống như / là kẻ đóng tuồng, / đeo lớp mặt nạ / tu theo chánh pháp, / nhưng lại sống bằng / phương tiện bất lương: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Ngoài Tam bảo ra / không hề có chốn / quy y nào khác, / vậy mà con vẫn / dựa theo giáo pháp / không phải Phật dạy: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Mặc dù chánh pháp / có nhiều cỗ xe, / vậy mà con vẫn / để mình chạy theo / tri kiến sai lầm / của tâm lý học: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Ung dung sung mãn / là điều khó gặp, / tràn đầy ý nghĩa, / vậy mà vẫn tăng / những việc vô ích.

Vốn có trí tuệ / của tâm bản lai, / nhưng lại không thấy / rằng tâm mình đây / chính là Pháp thân: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Từ nơi bản thể / hình thành tướng hiện, / vì không hiểu được / nên con lầm tưởng / Pháp thân, Báo thân / mới được khởi sinh: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Tóm lại, nương nhờ / Ân sư từ bi / con thấy ra rằng / tướng hiện chúng sinh / trong cõi sinh tử / vốn không hề có / hiện hữu chắc thật, / luôn là tự do, / tự giải thoát và / trực tiếp tự do.

Đức Kim Cang Trì / hiện thân tam căn, / là nơi quy y, / là nguồn hy vọng, / ban cho mọi điều / chúng con ước mong. / Thị hiện tam thân / huyễn ảo nhiệm mầu, / bi-trí quý giá, / con khẩn xin Ngài / xóa tan tật dịch, / nạn đói, chiến tranh.

[Ghi chú, tác giả giải thích đoạn này nói về đức Đalai Lama]

Bao nhiêu ác nghiệp / con cùng chúng sinh / vì bởi vô minh / động thân miệng ý / mà phát sinh ra, / nay xin phát lộ / không chút che dấu / tội lỗi đã làm. / Sự sám hối này, / và người sám hối, / đối tượng sám hối / đều không thật có, / nên con sám hối / bằng sự huyễn ảo / ở trong cảnh giới / của không tự tánh.

Này người bạn đạo / thân gần với tôi, / này người quen biết, / xin hãy tận lực / quán chiếu thân người / ung dung sung mãn / là điều khó đạt; / xin hãy tận lực / quán chiếu vô thường; / xin hãy tận lực / quán chiếu nhân quả / không hề sai chạy; / xin hãy tận lực / quán chiếu luân hồi / thật đáng chán ngán; / xin hãy tận lực / quán chiếu giải thoát / thật đáng mong cầu; / xin hãy tận lực / quán chiếu trách nhiệm / của bản thân mình / đối với thế gian. / Từ bi, vị tha / và tâm bồ đề, / là tài sản quý, / sẽ không bao giờ / khiến ta thất vọng.

Và đặc biệt là / xin hãy tận lực / tu pháp mật chú / cỗ xe kim cang, / gặp là giải thoát. / Xin hãy tận lực / tu pháp tinh túy / tánh không – đại bi / vốn là chân tánh / bản lai, viên mãn.

Xin hãy tự tin / rằng chánh pháp này / chỉ để hàng phục / tâm của chính mình / và làm lợi ích / cho khắp chúng sinh. / Hãy ngừng lo lắng! / Nương vào những bậc / bổn tôn quyền năng thì mọi khổ đau / sẽ thành trợ duyên / cho nguồn hạnh phúc. / Quy y Tam Bảo / chốn không hư ngụy, / dù xả thân mạng / cũng đừng phân lìa.

Tín tâm, từ bi / chính là nền tảng / đạt mọi mong cầu, / đừng nên hoảng sợ. / Cứ hãy khẩn cầu / từ tận đáy lòng, / liên tục cầu xin / Ân sư, bổn tôn / ban lực gia trì.

Quả báo nếu vẫn / còn phương cứu chữa / chẳng lý do gì / phải tiếc phải lo. / Còn nếu thật sự / vô phương cứu chữa / thì lo hay tiếc / cũng chẳng ích gì.

Tụng chú Mani, Benza, Tarê [xem ghi chú phía dưới], / chân thành cầu khẩn / nhất định sẽ thoát / được mọi chướng ngại.

Nguyện mọi sự cát tường / nhờ Ân sư, Tam Bảo;
Nguyện mọi sự cát tường / nhờ cảnh giới chân thật / siêu việt mọi có không;
Nguyện mọi sự cát tường, / cho chúng sinh mẹ hiền / được an vui hạnh phúc;
Nguyện mọi sự cát tường, / cho con được diện kiến / đấng Chân Sư từ hòa;
Nguyện mọi sự cát tường / cho tứ hạnh giác ngộ / được viên thành tự nhiên;
Nguyện mọi sự cát tường / cho thắng đạo giải thoát / con được thấy và nghe ;
Nguyện mọi sự cát tường / cho tự nhiên đắc quả / tam thân Phật nhiệm mầu / viên thành không dụng công;
Nguyện mọi sự cát tường / cho toàn là thịnh vượng.

Chú Mani (Quan Thế Âm): OM MANI PADME HUM
Chú Benza (Liên Hoa Sanh): OM AH HUM BENZA GURU PEMA SIDDHI HUM
Chú Tare (Tara): OM TARE TUTTARE TURE SOHA

Lời Cuối Sách:

Ngay lúc này đây, vì nạn đại dịch khuẩn covid-19 lan tràn toàn thế giới, loài người phải chịu nỗi sợ hãi mất mạng, khổ đau cảnh mất mát, ví dụ như mất mát vật chất, tiền tài. Vì vậy, như người trong cùng một nhà, tất cả mọi người trên thế giới đều đang phải cùng nhau trải qua khổ nạn lớn. Có người hỏi tôi [lời đức Khadro Namsel Dorje] nên làm gì để mau chóng chấm dứt đại dịch này. Tôi khuyên hãy nên hành trì pháp Đạo Sư Du Già của đấng Đại Thánh Giả Tay Cầm Hoa Sen (đức Quan Thế Âm – Chenrezig) bất nhị với đấng hiện thân của Đại Bi của tất cả chư Thế tôn, hóa thân của tánh không và đại bi hợp nhất bất nhị, đấng quét khổ ba thời (đức Đalai Lama).

Mọi người hãy nên đọc tụng Lục Tự Chú (chú Mani) và minh chú hồng danh của Đại Đạo Sư (đức Liên Hoa Sanh) [xem ghi chú]

Đặc biệt để mau chóng quét nạn dịch, tôi nghĩ nếu Tây tạng và y học allopathic phối hợp lại với nhau để tìm thuốc chữa hay thuốc ngừa, sẽ lợi ích rất lớn. Bản thân tôi là Phật tử, tôi luôn hướng tâm về thiết tha cầu thỉnh Tam Bảo, là chốn không hư ngụy, đồng thời tận lực hành trì tứ hạnh phối hợp với nguyện cầu.

Sau khi nhận lời cầu thỉnh chân thành của nhiều bằng hữu trên toàn thế giới, tôi viết bài viết này vào ngày 30 tháng 3 năm 2020.

Khadro Namsel Dorje




Chogyi Gyaltshen: CÁC HỆ LẬP KIẾN (Tenets)

 

TRÌNH BÀY VỀ CÁC HỆ LẬP KIẾN

Tác Luận: Tôn giả Văn Thù Chögyi Gyältshän
Hồng Như Thupten Munsel chuyển Việt ngữ từ bản Tạng ngữ.
17/5/2021 - Bản dịch nháp tạm dùng, chưa hiệu đính.

 

Đệ tử đảnh lễ chư tôn giác giả chân tánh bất nhị với Tôn Sư Hộ Trì Văn Thù Sư Lợi.

[Tổng quan]

Trình Bày Về Các Hệ Lập Kiến sẽ được giải thích ở đây qua ba phần:

  1. định nghĩa;
  2. phân loại; và
  3. giải nghĩa.

1. [hlk] Định Nghĩa

Một, người tuyên thuyết hệ lập kiến và nhận Tam bảo làm nơi quy y chân chính, không tin nhận đối tượng quy y nào khác, đó là định nghĩa của thuyết gia hệ lập kiến Phật giáo.

2. [hlk] Phân Loại

Hai, thuyết gia hệ lập kiến có bốn:

  1. thuyết gia Hữu bộ [phạn: Vaibhasika; tạng: བྱེ་བྲག་སྨྲ་བ།, còn gọi là Nhất thiết Hữu bộ hay là Tì bà sa luận bộ];
  2. thuyết gia Kinh lượng bộ [phạn: Sautrantika; tạng: མདོ་སྡེ་པ།];
  3. thuyết gia Duy thức tông [phạn: Cittamatra; tạng: སེམས་ཙམ་པ། nghĩa là Duy tâm tông][1]; và
  4. thuyết gia Trung quán tông [phạn: Madhyamika; tạng: ངོ་བོ་ཉིད་མེད་པར་སྨྲ་བ། nghĩa là Vô tánh tông][2].

Trong số đó, hai hệ đầu được gọi là bộ phái thuyết ngoại cảnh [là thật có].

3. [hlk] Giải Nghĩa Từng Hệ Lập Kiến

Thứ ba, giải nghĩa các hệ lập kiến Hữu bộ; Kinh lượng bộ; Duy thức tông và Trung quán tông.

I. [hb] HỮU BỘ [VAIBHASIKA]

Hệ lập kiến thứ nhất là Hữu bộ sẽ được trình bày qua bảy điểm:

  1. định nghĩa;
  2. phân loại;
  3. từ nguyên;
  4. cách tiếp nhận đối cảnh;
  5. cách tiếp nhận chủ thể;
  6. cách tiếp nhận vô ngã; và
  7. trình bày về chứng địa chứng đạo.

1. [hb] Định Nghĩa

Một, người tuyên thuyết hệ lập kiến tiểu thừa, chấp nhận ngoại cảnh là thật có nhưng không chấp nhận có tự chứng phần, đó là định nghĩa của thuyết gia Hữu bộ.

2. [hb] Phân Loại

Hai, tông phái này phân thành ba bộ phái thuộc ba vùng Kashmiris, Aparantakas và Magadhas.

3. [hb] Từ Nguyên

Ba, vì sao gọi là ‘Hữu bộ’ [hay là ‘Tì bà sa luận bộ’]?

Vì chư vị dựa theo luận Đại Tì Bà Sa [skt. Mahavibhasa] để lập kiến, và vì chư vị nói rằng ba thời là đặc tướng của vật thể.

4. [hb] Đối Cảnh

Bốn, nói về cách tiếp nhận đối cảnh.

Sự vật được định nghĩa là thứ có khả năng tạo tác dụng.

Sự vật, pháp có, và đối tượng của sự biết [sở tri] là cùng một nghĩa.

Sự vật có hai loại,

  1. sự vật thường hằng; và
  2. sự vật vô thường.

Sự vật thường hằng là như không gian vô vi, trạch diệt [sự vật diệt bằng quán trí], phi trạch diệt [sự vật diệt không bằng quán trí].

Sự vật vô thường là như những hiện tượng được sinh ra, tạo nên, và không trường tồn.

Sự vật cũng có thể phân thành hai loại,

  1. thế tục đế; và
  2. thắng nghĩa đế.

Thế tục đế được định nghĩa là hiện tượng mà nếu bị vỡ hay bị tách rời thành từng mảnh trong tâm tưởng thì cái trí nhận thấy hiện tượng ấy sẽ không còn. Tướng căn bản [của thế tục đế] là ví dụ như cái bình hay tấm vải len: bình bị búa đập vỡ hay vải len bị rút rời từng sợi thì cái trí nhận thấy cái bình hay vải len sẽ không còn.

Thắng nghĩa đế được định nghĩa là hiện tượng dù bị vỡ hay bị phân ra thành từng mảnh trong tâm tưởng thì cái trí nhận thấy hiện tượng ấy vẫn còn. Tướng căn bản [của thắng nghĩa đế] là ví dụ như đơn vị không gian bất khả phân, đơn vị tâm thức bất khả phân, hay như các hiện tượng vô vi.

Vì Luận A tì đạt ma câu xá nói rằng: thứ gì một khi bị vỡ hay dùng tâm ý tách ra thành thứ khác thì trí không còn nhận thấy được nữa, ví dụ như bình hay nước, là thứ có trong thế tục đế. Những thứ khác là có trong thắng nghĩa đế.

Vì vậy mà chấp nhận ba thời là vật thể, vì cái bình có trong quá khứ và cũng có trong tương lai.

5. [hb] Chủ Thể

Năm, nói về chủ thể, tông phái này có nhiều quan điểm khác nhau. Có nơi cho rằng

  • tướng căn bản của một cá nhân[3] chỉ đơn giản là tổ hợp năm của hợp thể, cũng có nơi cho rằng
  • tướng căn bản của một cá nhân là ý thức, vân vân…

Trí biết[4] có hai loại,

  1. chánh lượng [nhận thức đúng]; và
  2. phi lượng [không phải nhận thức đúng].

Chánh lượng có hai loại,

  1. chánh hiện lượng [nhận thức đúng hiện tiền] và
  2. chánh tỷ lượng [nhận thức đúng suy lý].

Chánh hiện lượng có ba loại,

  1. giác quan [chánh] hiện lượng [nhận thức giác quan hiện tiền];
  2. ý [chánh] hiện lượng [nhận thức ý hiện tiền]; và
  3. du già [chánh] hiện lượng [nhận thức du già hiện tiền].

Giác quan chánh hiện lượng không nhất thiết phải là thức, vì nhãn căn [con mắt] cũng là chánh hiện lượng.

Du già hiện lượng có hai loại,

  1. du già hiện lượng trực chứng nhân vô ngã; và
  2. du già hiện lượng trực chứng vô thường vi tế.

Du già hiện lượng trực chứng nhân vô ngã có hai loại,

  1. du già hiện lượng trực chứng sự không có một cá nhân thường nhất chủ tể; và
  2. du già hiện lượng trực chứng sự không có một cá nhân tự lập có thực chất.

6. [hb] Vô ngã

Sáu, nói về cách tiếp nhận vô ngã.

Vô ngã vi tế và nhân vô ngã vi tế được xem là đồng nghĩa, nhưng [tông phái này] không chấp nhận có pháp vô ngã vì cho rằng nếu đã là nền tảng thiết lập thì nhất thiết phải là pháp ngã.

Trong đó có một bộ phái tên là Độc tử bộ [Vasiputriyans]. Tông phái này chấp nhận vô ngã là không có một cá nhân thường nhất chủ tể nhưng không chấp nhận vô ngã là không có một cá nhân tự lập có thực chất, vì cái ngã tự lập có thực chất ấy bộ phái này khẳng định là có, chỉ không thể diễn tả được là đồng một thể hay khác thể với ngũ uẩn [phi tức uẩn phi li uẩn], là thường hay vô thường.

7. [hb] Chứng địa chứng đạo

Bảy, trình bày về chứng địa và chứng đạo gồm có hai phần,

  1. đối tượng cần xả bỏ; và
  2. nội dung chính của chứng địa và chứng đạo.

7a. [hb] Đối Tượng Cần Xả Bỏ

Một, nói về đối tượng cần xả bỏ, tông phái này khẳng định có hai loại chướng ngại,

  1. phiền não chướng; và
  2. phi phiền não chướng, và cho rằng

không có cái gì để gọi là “trí chướng.”

Phiền não chướng chủ yếu làm ngăn ngại quả giải thoát.

Phi phiền não chướng chủ yếu làm ngăn ngại quả biết-tất-cả.

Tướng căn bản của phiền não chướng là ví dụ như niệm chấp vào một cá nhân tự lập có thực chất, kèm với tam độc cùng hạt giống của tam độc từ đó phát sinh.

Tướng căn bản của trí chướng là ví dụ như tập khí của niệm chấp có một cá nhân tự lập có thực chất, kèm với tâm thô trọng[5] từ đó phát sinh.

7b. [hb] Nội Dung Chính của Chứng Địa và Chứng Đạo

Hai, nói về nội dung chính của chứng địa và chứng đạo.

Bước đường hành đạo của người tu ba cỗ xe có nhiều điểm khác nhau:

-Người thuộc chủng tánh thanh văn lấy tri kiến chứng biết sự không có một cá nhân tự lập có thực chất, phối hợp cùng với lượng công đức nhỏ, tu tập trong thời gian ba đời hay nhiều hơn, chứng quả bồ đề bậc nhỏ.

-Người thuộc chủng tánh độc giác lấy tri kiến như trên, phối hợp cùng với lượng công đức vừa, tu tập trong thời gian dài một trăm đại kiếp hay nhiều hơn, đắc quả bồ đề bậc trung.

Bồ tát lấy tri kiến như trên, phối hợp cùng với lượng công đức lớn, tu tập trong thời gian dài ba lần vô lượng kiếp hay nhiều hơn, đắc quả đại bồ đề.

Cách tích lũy công đức của chư vị có nhiều điểm khác biệt:

Bồ tát từ đại địa của tư lương đạo trở xuống, tích lũy công đức trong thời gian dài ba lần vô lượng kiếp hay nhiều hơn, rồi chứng đắc mọi quả vị kể từ noãn địa của gia hành đạo cho đến hết vô học đạo trong cùng một thời tọa thiền.

-Người thuộc chủng tánh độc giác từ đại địa của tư lương đạo trở xuống, tích lũy công đức trong thời gian dài một trăm đại kiếp, chứng đắc mọi quả vị kể từ noãn địa của gia hành đạo cho đến hết vô học đạo trong cùng một thời tọa thiền.

-Người thuộc chủng tánh thanh văn, tích lũy công đức qua bốn hữu học đạo. Sau khi đắc vô thượng đạo rồi vẫn tiếp tục tu bốn hữu học đạo thêm tối đa là mười bốn đời.

Hữu bộ nói thân sắc uẩn của Phật không phải là Phật, vì là thân ấy là đối tượng cần xả bỏ. Lý do là vì thân Phật khi thành Phật là cùng một đời với thân bồ tát gia hạnh đạo trước đó, mà thân bồ tát gia hạnh đạo là thân ngũ uẩn do nghiệp và phiền não đi trước sinh ra.

Hữu bộ không chấp nhận có thọ dụng thân và nói rằng khi hóa thân tối thắng nhập vô dư niết bàn thì dòng tâm thức cũng đồng thời đoạn dứt.

Mặc dù đức Phật đã xả bỏ mọi khổ đau và nguyên nhân tạo khổ, nhưng khổ đế trong tâm thức vẫn còn chứ chưa đoạn diệt. Điều này không mâu thuẫn, vì Phật đã không còn bất cứ phiền não nào ứng với khổ đế nên có thể nói rằng là Phật đã xả bỏ khổ đế.

A la hán thanh văn và độc giác chưa xả bỏ thân mạng thì an trú hữu dư niết bàn, xả bỏ thân mạng rồi thì an trú vô dư niết bàn.

Trú ở hữu dư niết bàn thì phiền não chướng đã xả hết không thừa sót, nhưng phi phiền não chướng vẫn còn. Còn trú ở vô dư niết bàn thì mặc dù phi phiền não chướng không bị lực đối trị phá hủy nhưng cũng đã không còn, là vì dòng tâm thức làm nền tảng cho phiền não chướng lúc ấy đã đoạn diệt.

Chư vị chủ trương thuyết thật có đều xác định kinh nghĩa thật hay nghĩa tạm bằng cách xét xem kinh ấy có thể hiểu được theo nghĩa đen hay không.

Hai tông phái chủ trương thuyết ngoại-cảnh-thật-có không chấp nhận kinh đại thừa là lời Phật dạy, vì các bộ phái thuộc Hữu bộ phần lớn đều khẳng định kinh Phật thì nhất thiết phải là kinh nghĩa thật.

II. [kl] KINH LƯỢNG BỘ [Sautrantika]

Hệ lập kiến thứ hai là Kinh lượng bộ sẽ được trình bày qua bảy điểm:

  1. định nghĩa;
  2. phân loại;
  3. từ nguyên;
  4. cách tiếp nhận đối cảnh;
  5. cách tiếp nhận chủ thể;
  6. cách tiếp nhận vô ngã; và
  7. trình bày về chứng địa chứng đạo.

1. [kl] Định Nghĩa

Một, người tuyên thuyết hệ lập kiến tiểu thừa và khẳng định có tự chứng phần và có ngoại cảnh, đó là định nghĩa của thuyết gia Kinh lượng bộ.

Kinh lượng bộ [Sautrantika] là cùng một nghĩa với Thí Dụ Bộ [Darstantika].

2. [kl] Phân loại

  • Hai, Kinh lượng bộ có hai bộ phái:
  • 1. Kinh lượng bộ Y cứ Giáo lý; và
  • 2. Kinh lượng bộ Y cứ Luận lý.

Thuyết gia Y Cứ Giáo Lý là thuyết gia Kinh lượng bộ y cứ theo luận A-tì-đạt-ma-câu-xá [của Ngài Thế Thân].

Thuyết gia Y Cứ Luận Lý là thuyết gia Kinh lượng bộ y cứ theo Nhân Minh Thất Luận [của ngài Pháp Xứng].

3. [kl] Từ Nguyên

Ba, vì sao gọi là ‘Kinh lượng bộ’?

Vì chư vị thuyết về hệ lập kiến dựa theo kinh Phật, hay gọi là ‘Thí dụ bộ’ vì chư vị muốn giảng mọi pháp qua ví dụ.

4. [kl] Đối Cảnh

Bốn, nói về cách tiếp nhận đối cảnh.

Pháp-có được định nghĩa là đối cảnh của chánh lượng.

Pháp-có có hai loại,

  1. thế tục đế; và
  2. thắng nghĩa đế.

Thắng nghĩa đế được định nghĩa là những gì có khả năng tạo tác dụng trong thắng nghĩa. Thắng nghĩa đế, thứ thật có, sự vật, vật được tạo, vật vô thường, vật hữu vi, thực thể, và tự tướng là cùng một nghĩa.

Thế tục đế được định nghĩa là những gì không có khả năng tạo tác trong thắng nghĩa.

Thế tục đế, giả lập, thường hằng, và cộng tướng [khái niệm] là cùng một nghĩa.

Pháp-có cũng có thể phân thành hai loại,

  1. hiện tượng phủ định; và
  2. hiện tượng khẳng định.

Hiện tượng phủ định được định nghĩa là đối cảnh mà cái trí nắm cảnh ấy chứng được bằng cách đoạn diệt đối tượng phủ định của mình.

Hiện tượng khẳng định được định nghĩa là đối cảnh mà cái trí nắm cảnh ấy chứng được bằng cách không đoạn diệt đối tượng phủ định của mình.

Phủ định có hai loại,

  1. phủ định không khẳng định; và
  2. phủ định có khẳng định.

Tướng căn bản của phủ định không khẳng định là giống như không gian vô vi, diệt đế, tánh không, vân vân…

Tướng căn bản của phủ định có khẳng định là giống như: phản nghĩa của “không phải sự vật,” hay là phản nghĩa của không-phải-cái-bình hiện ra trong khái niệm thấy cái bình.

Pháp-có còn có thể phân thành hai loại,

  1. đồng nhất; và
  2. dị biệt.

Pháp đồng nhất cũng có hai loại,

  1. đồng nhất giả; và
  2. đồng nhất thật.

Đồng nhất giả là ví dụ như đối tượng của sự biết [sở tri], hay như cộng tướng [đặc tướng chung, khái niệm].

Đồng nhất thật là ví dụ như sự vật hay như pháp vô thường.

Pháp dị biệt cũng có hai loại,

  1. dị biệt giả; và
  2. dị biệt thật.

Dị biệt giả là ví dụ như một cặp gồm hai lần phản nghĩa cái bình và hai lần phản nghĩa cái cột.

Dị biệt thật là ví dụ như một cặp gồm cái bình và cái cột.

Hai thời quá khứ và tương lai đều là pháp thường hằng.

Hiện tại và sự vật là cùng một nghĩa.

5. [kl] Chủ thể

Năm, nói về cách tiếp nhận chủ thể. Trong Kinh lượng bộ có nơi cho rằng tướng căn bản của một cá nhân là dòng liên tục của ngũ uẩn, lại có nơi cho rằng tướng căn bản của một cá nhân là ý thức. Chủ trương tướng căn bản của một cá nhân là dòng liên tục của ngũ uẩn là bộ phái y cứ theo luận A Tì đạt ma câu xá, và chủ trương tướng căn bản của một cá nhân là ý thức là bộ phái y cứ theo Nhân Minh Thất Luận.

Trí được định nghĩa là thứ có tánh sáng và tánh biết.

Trí có hai loại,

  1. chánh lượng; và
  2. phi chánh lượng.

5a. [kl] Chánh Lượng [nhận thức đúng]

Chánh Lượng được định nghĩa là cái-biết mới nhất và không hư vọng.

Muốn phân định giới hạn trong định nghĩa của “chánh lượng” thì phải nói đủ ba yếu tố: mới nhất, không hư vọng, và biết. Nói “mới nhất” thì loại trừ được việc xem thức đi sau là chánh lượng; nói “không hư vọng” thì loại trừ được việc xem giả định đúng là chánh lượng; và nói “biết” thì loại trừ được việc xem sắc căn là chánh lượng.

Chánh lượng có hai loại,

  1. chánh hiện lượng [cái-biết đúng hiện tiền] và
  2. chánh tỷ lượng [cái-biết đúng suy lý].

Hiện lượng [cái-biết hiện tiền] được định nghĩa là cái-biết ly niệm và không điên đảo.

Chánh hiện lượng được định nghĩa là cái-biết mới nhất, không hư vọng và li niệm.

Chánh hiện lượng chia ra có bốn loại,

  1. tự chứng phần chánh hiện lượng;
  2. giác quan chánh hiện lượng;
  3. ý chánh hiện lượng; và
  4. du già chánh hiện lượng.

Cái-biết mới nhất, không hư vọng, ly niệm, đi chung với cái thấy và chỉ hướng vào trong, đó là định nghĩa của chánh hiện lượng loại thứ nhất [tự chứng phần chánh hiện lượng].

Cái-biết mới nhất, không hư vọng và li niệm, khởi sinh từ sắc căn làm duyên chính [tăng tượng duyên] riêng của mình, đó là định nghĩa của chánh hiện lượng loại thứ hai [giác quan chánh hiện lượng].

Cái-biết mới nhất, không hư vọng và li niệm, khởi sinh từ ý căn làm duyên chính [tăng thượng duyên] riêng của mình, đó là định nghĩa của chánh hiện lượng loại thứ ba [ý chánh hiện lượng].

Trí giác[6] trực chứng vô thường vi tế, hay trực chứng nhân vô ngã thô lậu, hay trực chứng nhân vô ngã vi tế, khởi sinh từ chánh-định-hợp-nhất-chỉ-quán làm duyên chính của mình, đó là định nghĩa của chánh hiện lượng loại thứ tư [du già chánh hiện lượng].

Du già chánh hiện lượng chia ra có ba loại:

  1. chánh lượng trực chứng vô thường vi tế;
  2. chánh lượng trực chứng nhân vô ngã thô lậu; và
  3. chánh lượng trực chứng nhân vô ngã vi tế.

Chánh tỷ lượng [nhận thức suy lý đúng] được định nghĩa là xác-định-thức[7] mới nhất, không hư vọng, dựa theo tướng trạng đúng mà có.

Chánh tỷ lượng chia ra có ba loại:

  1. suy ra từ sự việc;
  2. suy ra từ danh tiếng; và
  3. suy ra từ sự tin.

Tỷ lượng suy ra từ cái lý “âm thanh là thứ được tạo” mà chứng biết âm thanh là vô thường là tướng căn bản của tỷ lượng loại thứ nhất [chánh tỷ lượng suy ra từ sự việc].

Tỷ lượng suy ra từ cái lý “thứ có hình thỏ là thuộc phạm trù khái niệm” mà chứng biết “thứ có hình thỏ” ấy có thể được gọi bằng cái tên “mặt trăng.” là tướng căn bản của tỷ lượng loại thứ hai [chánh tỷ lượng suy ra từ danh tiếng].

Tỷ lượng suy ra từ cái lý “kinh này xét qua cả ba lối quán sát đều không sai” mà chứng biết câu “phú quý nhờ thí, an lạc nhờ giới,” v.v… ở trong kinh ấy là không hư vọng là tướng căn bản của tỷ lượng loại thứ ba [chánh tỷ lượng suy ra từ sự tin].

Tỷ lượng suy ra từ danh tiếng hết thảy đều là tỷ lượng suy ra từ sự việc.

Hiện lượng không nhất thiết phải là chánh hiện lượng và tỷ lượng không nhất thiết phải là chánh tỷ lượng, vì sát na thứ hai của giác quan hiện lượng thấy sắc cảnh, hay là sát na thứ hai của tỷ lượng chứng âm thanh là vô thường, đều là những thức đi sau [không phải mới nhất nên không phải là chánh lượng]

Sớ giải Ứng Lý[8] nói rằng: “Hiện lượng và tỷ lượng ở sát na thứ nhất đều là chánh lượng. Còn những nhận thức sau đó chỉ là sự tiếp nối liên tục, dù xét trên phương diện thành hay trú gì cũng đều không khác nên không còn là chánh lượng.”

5b. [kl] Phi Lượng

Thứ hai, phi lượng được định nghĩa là cái-biết không phải mới nhất, và không phải không hư vọng.

Phi lượng chia ra có năm loại,

  1. thức đi sau;
  2. tà thức;
  3. nghi;
  4. giả định đúng; và
  5. trí bất quyết.

Cái-biết chứng điều đã chứng rồi, đó là định nghĩa của phi lượng loại thứ nhất [thức đi sau].

Thức đi sau có hai loại,

  1. hữu niệm; và
  2. vô niệm.

Một [thức đi sau hữu niệm] là giống như ký ức nhớ lại màu xanh sinh ra từ giác quan hiện lượng thấy màu xanh, hay như sát na thứ hai của tỷ lượng chứng biết âm thanh là vô thường.

Hai [thức đi sau vô niệm] là giống như sát na thứ hai của giác quan hiện lượng thấy hình sắc.

Cái-biết lãnh hội sai, đó là định nghĩa của phi lượng loại thứ hai [tà thức].

Tà thức có hai loại,

  1. tà thức hữu niệm; và
  2. tà thức vô niệm.

Một [tà thức hữu niệm] là ví dụ như ý niệm thấy âm thanh là vô thường.

Hai [tà thức vô niệm] là ví dụ như nhận thức giác quan[9] thấy một mặt trăng hiện thành hai, hay như nhận thức giác quan thấy núi tuyết hiện thành màu xanh.

Yếu tố tâm thức [tâm sở] tự lưỡng lự giữa hai chọn lựa bằng lực của chính mình, đó là định nghĩa của phi lượng loại thứ ba [nghi].

Ý thức đồng thời hiện hành với nghi tâm sở này và cảm thọ đi kèm với ý thức ấy tự chúng không lưỡng lự giữa hai chọn lựa bằng lực của chính mình, mà lưỡng lự là vì chi phối của nghi.

Nghi có ba loại,

  1. nghi hướng về nghĩa đúng;
  2. nghi hướng về nghĩa không đúng; và
  3. nghi đồng đều hai bên.

Một, [nghi hướng về nghĩa đúng] là giống như hoài nghi tự hỏi phải chăng âm thanh là vô thường.

Hai, [nghi hướng về nghĩa không đúng] là giống như hoài nghi tự hỏi phải chăng âm thanh là thường còn.

Ba, [nghi đồng đều hai bên] là giống như hoài nghi tự hỏi không biết âm thanh là thường còn hay vô thường.

Xác-định-thức tuy xác định đúng với nghĩa thật nhưng hư vọng trong lối xác định đối cảnh của mình, đó là định nghĩa của phi lượng loại thứ tư [giả định đúng].

Giả định đúng có năm loại,

  1. giả định đúng nhưng không lý do;
  2. giả định đúng nhưng lý do mâu thuẫn;
  3. giả định đúng nhưng lý do bất quyết;
  4. giả định đúng nhưng lý do không dùng được; và
  5. giả định đúng có lý nhưng không thấu đạt.

Tướng căn bản của loại giả định thứ nhất [giả định đúng nhưng không lý do] là giống như cái trí chỉ vì nghe nói “âm thanh là vô thường” mà nắm lấy nghĩa “âm thanh là vô thường,” [tuy đúng nhưng không lý do] vì lời nói ấy tuy nêu lên mệnh đề “âm thanh là vô thường” nhưng không trình bày lý do vì sao âm thanh là vô thường.

Tướng căn bản của loại giả định thứ hai [giả định đúng nhưng lý do mâu thuẫn] là giống như cái trí dựa vào lý do “âm thanh không có khả năng tạo tác” mà nắm lấy nghĩa “âm thanh là vô thường,” [tuy đúng nhưng lý do mâu thuẫn,] là vì “không có khả năng tạo tác” thì mâu thuẫn với “âm thanh.”

Tướng căn bản của loại giả định thứ ba [giả định đúng nhưng lý do bất quyết] là giống như cái trí dựa vào lý do “âm thanh là thứ có thể lượng biết” mà nắm lấy nghĩa “âm thanh là vô thường,” [tuy đúng nhưng lý do bất quyết,] là vì lý do “là đối cảnh của sự lượng biết” không đủ để quyết định “âm thanh là vô thường.”

Tướng căn bản của loại giả định thứ tư [giả định đúng nhưng lý do không dùng được] là giống như cái trí dựa trên lý do “là cái thấy của nhãn thức” mà nắm lấy nghĩa “âm thanh là vô thường,” [lý do này không dùng được] vì lý do “là đối cảnh của nhãn thức” không thể dùng để thiết lập “âm thanh là vô thường.”

Tướng căn bản của loại giả định thứ năm [giả định đúng lý nhưng không thấu đạt] là giống như cái trí dựa trên lý do “âm thanh là thứ được tạo” mà nắm lấy nghĩa “âm thanh là vô thường,” và trí này nằm ở trong tâm của một người không có chánh lượng thấu đạt ý nghĩa âm thanh là vô thường. [Tuy đúng lý nhưng không thấu đạt] là vì mặc dù lý do “âm thanh là thứ được tạo” là chánh lý để thiết lập “âm thanh là vô thường,” nhưng người kia lại không thấu đạt chánh lý ấy.

Cái-biết kzhông điên đảo, đối cảnh tuy hiện rõ nhưng trí không xác quyết được trước đối cảnh của mình, đó là định nghĩa của phi lượng loại thứ năm [trí bất quyết].

Trí bất quyết chia ra có ba loại,

  1. giác quan hiện tiền;
  2. ý hiện tiền; và
  3. tự chứng phần hiện tiền.

Một [giác quan hiện tiền bất quyết] là giống như nhĩ thức tiếp âm thanh trong lúc nhãn thức đang mải mê với cảnh đẹp.

Hai [ý hiện tiền bất quyết] là giống như ý hiện lượng thấy năm đối cảnh của giác quan như sắc, thanh, đại loại…trong tâm của người phàm.

Ba [tự chứng phần hiện tiền bất quyết] là giống như tự chứng phần trong tâm của người phàm khi ý hiện lượng đang thấy năm đối cảnh của giác quan như là sắc, thanh đại loại.

[kl] Người, ngữ, chánh lượng

Nói chung, chủ thể có ba loại:

  1. người;
  2. ngữ; và
  3. chánh lượng.

Chủ thể chánh lượng có ba loại:

  1. chánh nhân;
  2. chánh ngữ; và
  3. chánh thức.

Chánh nhân là như đức bổn sư từ phụ [đức Phật Thích Ca].

Chánh Ngữ là như tứ đế pháp luân.

Chánh thức là như chánh hiện lượng hay chánh tỷ lượng.

6. [kl] Vô ngã

Sáu, cách tiếp nhận vô ngã.

Nhân vô ngã thô lậu là không có một cá nhân thường nhất chủ tể;

nhân vô ngã vi tế là không có một cá nhân tự lập có thực chất.

Phái này không chấp nhận có pháp vô ngã.

7. [kl] Về địa và đạo

Bảy, trình bày về chứng địa và chứng đạo.

Vì nói người tu thuộc ba chủng tánh [thanh văn, duyên giác và bồ tát] đều tích lũy công đức qua cả bốn hữu học đạo nên tông phái này chấp nhận thân sắc uẩn của Phật chính là Phật.

Cách trình bày về các chướng ngại và cách đi qua các chứng địa và chứng đạo vân vân… đều tương tự như cách trình bày của Hữu bộ.

III. [dt] DUY THỨC TÔNG [Cittamatra]

Hệ lập kiến thứ ba là Duy thức tông sẽ được giải thích qua bảy điểm như trước.

1. [dt] Định Nghĩa

Một, người tuyên thuyết hệ lập kiến đại thừa, không chấp nhận có ngoại cảnh nhưng chấp nhận tự chứng phần là thật có, đó là định nghĩa của thuyết gia Duy thức tông.

Thuyết gia Duy thức tông [skt. Vijnaptivadin], thuyết gia Duy tâm tông [skt. Cittamatrin], và Du già hành [skt. Yogacarin] là cùng một nghĩa.

2. [dt] Phân loại

Duy thức tông có hai bộ phái,

  1. Thật tướng tông [Skt. Satyākāravādin]; và
  2. Giả tướng tông [alīkākāravādin].

Thuyết gia Duy thức Thật tướng tông được định nghĩa là người chủ trương thuyết Duy thức tông và chấp nhận rằng hiện lượng trong dòng tâm thức của người phàm khi thấy sắc thể thô lậu ở phần tướng hiện thì không bị tập khí vô minh làm cho ô nhiễm.

Thuyết gia Duy thức Giả tướng tông được định nghĩa là người chủ trương Duy thức tông và chấp nhận rằng hiện lượng trong dòng tâm thức của người phàm khi thấy sắc thể thô lậu ở phần tướng hiện thì bị tập khí vô minh làm cho ô nhiễm.

Duy thức Thật tướng tông có ba bộ phái,

  1. chủ thể và đối tượng đồng số lượng;
  2. quả trứng bổ đôi; và
  3. phi đa loại.

Mỗi bộ phái đều có cách tiếp nhận riêng

Gọi là chủ thể và đối tượng đồng số lượng, vì thuyết này cho rằng khi nhãn thức thấy những đốm màu trên cánh bướm thì từ phía đối cảnh đặc tướng của từng màu xanh vàng đủ loại khác nhau xuất ra và, ứng theo đó, từ phía chủ thể đặc tướng của từng màu xanh vàng đủ loại khác nhau khởi sinh dưới dạng có đặc tướng.

Gọi là quả trứng bổ đôi vì thuyết này chấp nhận rằng khi nhãn thức thấy những đốm màu trên cánh bướm thì từ phía đối cảnh đặc tướng của từng màu xanh vàng đủ loại khác nhau xuất ra và, ứng theo đó, từ phía chủ thể đặc tướng của từng màu xanh vàng đủ loại khác nhau khởi sinh dưới dạng vô đặc tướng.

Gọi là phi đa loại vì thuyết này chấp nhận rằng khi nhãn thức thấy những đốm màu trên cánh bướm thì phía đối cảnh không xuất ra đặc tướng của từng màu xanh vàng đủ loại khác nhau mà chỉ xuất ra tổng tướng, còn phía chủ thể thì đặc tướng của từng màu xanh vàng đủ loại khác nhau không khởi sinh mà có tổng tướng khởi sinh dưới dạng vô đặc tướng.

Duy thức Giả tướng tông có hai bộ phái,

giả tướng có ô nhiễm; và

giả tướng không ô nhiễm.

3. [dt] Từ Nguyên

Ba, vì sao gọi là ‘Duy thức tông’?

Vì chư vị khẳng định mọi sự vật chỉ đơn thuần là tánh của thức, hay gọi là “Duy tâm tông’ vì chư vị cho rằng mọi sự chỉ đơn thuần là tánh của tâm.

4. [dt] Đối Cảnh

Bốn, nói về cách tiếp nhận đối cảnh.

Đối tượng của sự biết [sở tri] có hai loại,

  1. thắng nghĩa đế; và
  2. thế tục đế.

Thắng nghĩa đế được định nghĩa là đối tượng chứng đắc của chánh hiện lượng trực tiếp chứng biết cảnh ấy bằng sự tịch lặn tướng nhị biên.

Thắng nghĩa đế và pháp tánh [skt. dharmata], pháp giới [skt. dharmadhatu], và trú xứ cứu cánh là cùng một nghĩa.

Thắng nghĩa đế nếu phân ra có hai loại,

  1. nhân vô ngã vi tế; và
  2. pháp vô ngã vi tế.

Pháp vô ngã vi tế nếu chia theo nền tảng của tánh không thì có 20 loại, quy nạp thành 18, thành 16, hay thành 4, vân vân…

Tướng căn bản của pháp vô ngã vi tế là ví dụ như tánh không là không có thực chất khác nhau giữa sắc và chánh lượng thấy sắc ấy, hay như tánh không là lấy cái sắc không có qua tự tướng làm nền tảng lập danh cho chữ “sắc.”

Tướng căn bản của nhân vô ngã vi tế là ví dụ như tánh không là không có một cá nhân tự lập có thực chất.

Thế tục đế được định nghĩa là đối cảnh chứng đắc do chánh hiện lượng trực tiếp chứng biết cảnh ấy bằng sự đi cùng với tướng nhị biên.

Thế tục đế bao gồm hai loại hiện tượng,

  1. tùy thuộc; và
  2. giả lập.

Thế tục đế loại hiện tượng tùy thuộc là đồng nghĩa với pháp hữu vi.

Thế tục đế loại hiện tượng giả lập và những pháp vô vingoài thắng nghĩa đế là cùng một nghĩa.

[Tông phái này] khẳng định rằng mọi sự vật là điểm gặp[10] của thật có và giả tướng, mọi pháp tánh là điểm gặp của thật có và thật tướng, và mọi pháp vô vi ngoài pháp tánh là điểm gặp của giả có và giả tướng.

Pháp tánh nhất thiết phải là phủ định phi khẳng định. Còn tướng căn bản của những loại phủ định phi khẳng định khác thì [tông phái này nói] tương tự như Kinh lượng bộ.

Năm đối cảnh như là sắc, thanh, vân vân… đều dựa trên tập khí của cộng nghiệp và biệt nghiệp lưu ký trên a lại da thức mà sinh ra từ thực chất của nội thức chứ không phải là đối cảnh được thiết lập ở bên ngoài.

Theo Thật tướng tông thì năm đối cảnh như sắc thanh đại loại, tuy không phải là vật có từ ngoại cảnh nhưng vẫn được xem là có ở dạng thô.

Theo Giả tướng tông thì năm đối cảnh như sắc thanh đại loại…không phải là vật thô, vì nếu là vật thô thì nhất định phải có ở ngoại cảnh.

5. [dt] Chủ Thể

Năm, cách tiếp nhận đối cảnh, chư t huyết gia Thật tướng tông khẳng định tâm thức có 8: ngoài 6 thức của các hệ lập kiến khác ra còn có thêm a lại da thức và nhiễm ý [mạt na thức], cộng lại là tám.

A lại da thức và nhiễm ý đều có tướng căn bản riêng.

A lại da thức khác với nhóm sáu thức kia, không lấy ngũ căn làm duyên chính [tăng thượng duyên].

Nhiễm ý thì cảnh của nó là a lại da thức, tướng của nó là chấp có một cá nhân tự lập có thực chất.

Thuyết này xác định A lại da thức là tướng căn bản của một cá nhân chứa nghiệp và nghiệp quả.

Còn Giả tướng tông chấp nhận có sáu thức và thiết lập ý thức đơn thuần làm tướng căn bản của một cá nhân chứa nghiệp và nghiệp quả.

Trí biết được chấp nhận là có hai loại,

  1. chánh lượng; và
  2. phi lượng.

Chánh lượng được xem là có hai loại,

  1. chánh hiện lượng; và
  2. chánh tỷ lượng.

Hiện lượng có bốn loại, trong đó

– tự chứng phần hiện lượng và du già hiện lượng nhất thiết đều là nhận thức không điên đảo;

– giác quan hiện lượng trong tâm người phàm nhất thiết đều là nhận thức điên đảo;

– còn ý hiện lượng trong tâm người phàm thì có thứ điên đảo, có thứ không điên đảo.

Hiện lượng không nhất thiết phải là chánh hiện lượng vì tâm người phàm tuy có ý hiện lượng thấy hình sắc nhưng lại không có ý chánh hiện lượng thấy hình sắc. Đó là vì ở trong tâm người phàm ấy, dù là tự chứng phần biết ý hiện lượng thấy hình sắc hay giác quan hiện lượng thấy hình sắc ở sát na thứ hai đều không phải là chánh hiện lượng.

Du già hiện lượng có bốn,

  1. du già hiện lượng trực chứng vô thường vi tế;

2-4. du già hiện lượng trực chứng nhân vô ngã vi tế; nhân vô ngã thô lậu; và pháp vô ngã.

Chánh tỷ lượng nhất thiết phải là khái niệm, [nhưng] tỷ lượng của pháp nào thì không nhất thiết phải là khái niệm của pháp ấy. Ví dụ như tỷ lượng chứng âm thanh vô thường, mặc dù là tỷ lượng của “không có âm thanh thường hằng” nhưng lại không phải là khái niệm của điều ấy. Đó là vì nếu đúng là khái niệm của pháp nào thì đặc tướng của pháp ấy nhất thiết phải hiện, nhưng với tỷ lượng chứng biết “âm thanh vô thường” thì đặc tướng của sự “không có âm thanh thường hằng” không hiện, nên đây không phải là chứng ngộ trực tiếp, chỉ là nhờ trực tiếp chứng “âm thanh vô thường” mà gián tiếp chứng được sự “không có âm thanh thường hằng.”

6. [dt] Vô ngã

Sáu, cách nhìn về vô ngã.

Tướng căn bản của vô ngã thô lậu và vô ngã vi tế được thiết lập tương tự như các tông phái Trung quán tự lập trở xuống.

Tướng căn bản của pháp vô ngã là ví dụ như tánh không là không có thực chất khác biệt giữa sắc và chánh lượng thấy sắc ấy.

7. [dt] Về địa và đạo

Bảy, Trình bày về chứng địa và chứng đạo gồm có hai phần,

  1. đối tượng cần xả bỏ; và
  2. nội dung chính của chứng địa và chứng đạo.

7a. [dt] Đối Tượng Cần Xả Bỏ

Một, khái niệm chấp nhân ngã và chủng tử, đi kèm với tam độc và chủng tử từ đó phát sinh được xem là phiền não chướng;

khái niệm chấp thật có và chủng tử, đi kèm với tập khí và mọi vọng cảnh nhị biên từ đó phát sinh được chấp nhận là trí chướng.

7b. [dt] Nội dung chính của chứng địa chứng đạo

Hai, [trình bày nội dung chính của chứng địa chứng đạo].

Người thuộc chủng tánh thanh văn vì để tự lợi, phối hợp tri kiến chứng nhân vô ngã với lượng công đức nhỏ.

Người thuộc chủng tánh duyên giác vì để tự lợi, phối hợp tri kiến chứng nhân vô ngã với lượng công đức vừa; và tu tập trong thời gian tối thiểu là ba đời, hay một trăm đời vân vân, thành tựu quả bồ đề tương ứng.

Bồ tát phối hợp tri kiến chứng sự “không có thực chất khác biệt giữa cái thấy và cái được thấy [kiến phần và tướng phần],” với lượng công đức lớn tích lũy vì lợi tha, tu tập trong thời gian dài ba lần vô lượng kiếp hay nhiều hơn, làm cho hiện tiền quả bồ đề tương ứng.

Chư vị thuộc Thật tướng tông nói rằng chư thanh văn A la hán và duyên giác A la hán khi nhập vô dư niết bàn thì dòng tâm thức của chư vị sẽ đoạn diệt, và cũng nói rằng dòng tâm thức của đức Phật thì không thể nào đoạn diệt, bởi vì bồ tát khi vừa mới thành Phật, ngay từ đầu tại Sắc cứu cánh thiên[11] đã có báo thân, luân hồi chưa trống thì dòng tâm thức đồng tướng với báo thân này cũng chưa đoạn diệt, vì lợi tha mà thị hiện đủ loại hóa thân thích ứng với căn duyên của từng người cần được giáo hóa. Chủng tánh của ba cỗ xe khác biệt này là cố định, vì [tông phái này] cho rằng chúng sinh từ vô thủy vốn đã thuộc về ba chủng tánh với ba căn địa khác nhau, vì vậy mà có ba loại tâm địa khác nhau, dẫn tới ba đường tu và ba chứng quả khác nhau.

Chư vị thuộc Giả tướng tông không chấp nhận rằng dòng tâm thức của thanh văn A la hán và duyên giác A la hán sẽ đoạn diệt khi nhập vô dư niết bàn, vì chư vị mặc dù chấp nhận rằng dòng nhận thức đơn thuần thuộc phạm vi của khổ đế và tập đế sẽ đoạn diệt khi ấy, nhưng cũng chấp nhận rằng dòng nhận thức đơn thuần sẽ đi đến đến tận Phật địa. Do đó tông phái này chủ trương chỉ có duy nhất một cỗ xe cứu cánh.

[tq] TRUNG QUÁN TÔNG [Madhyamaka, hay Nihsvabhava – Vô Tánh Tông]

Hệ lập kiến thứ tư là Trung quán tông sẽ được giải thích qua định nghĩa, phân loại, giải nghĩa.

1. [tq] Định nghĩa

Một, người tuyên thuyết hệ lập kiến đại thừa và không chấp nhận sự-vật-thật-có dù là trên phương diện danh ngôn thế tục, đó là định nghĩa của thuyết gia Trung quán tông.

2. [tq] Phân Loại

Hai, Trung quán tông có hai bộ phái,

  1. Trung quán Tự lập phái [Skt. Svatantrika]; và
  2. Trung quán Ứng thành phái [Skt. Prasangika].

3. [tq] Giải nghĩa từng bộ phái

Ba, giải thích về Trung quán Tự lập phái và Trung quán Ứng thành phái.

[tqtl] TRUNG QUÁN TỰ LẬP PHÁI [Svatantrika]

Tông phái Trung quán thứ nhất là Tự lập phái sẽ được trình bày qua bảy điểm:

  1. định nghĩa;
  2. phân loại;
  3. từ nguyên;
  4. cách tiếp nhận đối cảnh;
  5. cách tiếp nhận chủ thể;
  6. cách tiếp nhận vô ngã; và
  7. trình bày về chứng địa chứng đạo.

1. [tqtl] Định Nghĩa

Một, người tuyên thuyết hệ lập kiến Trung quán, không chấp nhận sự-vật-thật-có dù là trên phương diện danh ngôn thế tục bằng cách nêu lên luận lý tự lập[12], đó là định nghĩa của thuyết gia Tự lập phái.

Thuyết gia Trung quán Tự lập phái và thuyết gia Trung quán chủ trương có-tự-tánh là cùng một nghĩa.

2. [tqtl] Phân loại

Hai, Trung quán Tự lập phái có hai bộ phái,

  1. Kinh lượng Trung quán Tự lập phái; và
  2. Du già Trung quán Tự lập phái.

Thuyết gia Kinh lượng Tự lập phái được định nghĩa là thuyết gia Trung quán nói về cảnh danh ngôn thế tục phần lớn giống cách trình bày của Kinh lượng bộ.

Thuyết gia Trung quán Du già Tự lập phái được định nghĩa là thuyết gia Trung quán nói về cảnh danh ngôn thế tục phần lớn giống cách trình bày của Duy thức tông.

Thuyết gia Trung quán Kinh lượng Tự lập phái là ví dụ như chư vị Thanh biện[13] và Trí tạng[14]

Thuyết gia Trung quán Du già Tự lập phái là ví dụ như chư đại sư Thiện hải tịch hộ[15], Sư tử hiền[16] và Liên hoa giới[17]

3. [tqtl] Từ Nguyên

Ba, gọi ngài Thanh biện là thuyết gia Trung quán Tự lập phái là có nguyên do. Gọi như vậy là vì ngài là thuyết gia Trung quán tông chấp nhận luận lý tự lập.

4. [tqtl] Đối Cảnh

Bốn, nói về cách tiếp nhận đối cảnh.

Hiện hữu có tự tướng, hiện hữu từ phía mình, và hiện hữu có tự tánh là cùng một nghĩa.

Không gian vô vi, diệt đế, quá khứ và tương lai, và nhân vô ngã vi tế đều vừa là phủ định phi khẳng định, vừa là thế tục đế.

Thắng nghĩa đế, pháp tánh, và pháp vô ngã vi tế là cùng một nghĩa.

Trung quán Kinh lượng Tự lập phái khẳng định rằng năm đối cảnh của giác quan như sắc, thanh đại loại… là không cùng thực chất với tâm thức mà là ngoại vật thô lậu cấu thành từ những phân tử vật lý cực vi bất khả phân.

Trung quán Du già Tự lập phái khẳng định rằng năm đối cảnh của giác quan như sắc, thanh, đại loại… là cùng thực chất với tâm thức nhận biết chúng.

5. [tqtl] Chủ Thể

Năm, chư thuyết gia Tự lập phái chấp nhận ý thức là tướng căn bản của một cá nhân, và chấp nhận có sáu thức.

Trí biết có hai loại,

  1. chánh lượng; và
  2. phi lượng.

Chánh lượng có hai loại,

  1. Chánh hiện lượng; và
  2. Chánh tỷ lượng.

Trung quán Kinh lượng Tự lập phái không chấp nhận có tự chứng phần hiện lượng.

Còn Trung quán Du già Tự lập phái thì chấp nhận cả bốn loại hiện lượng, trong đó tự chứng phần hiện lượng và du già hiện lượng nhất thiết phải là nhận thức không điên đảo, hai hiện lượng còn lại [giác quan hiện lượng và ý hiện lượng] thì có thứ điên đảo, có thứ không điên đảo.

Kinh lượng bộ, Duy thức tông và Trung quán Tự lập phái đều khẳng định rằng:

– hiện lượng thì nhất thiết phải ly niệm;

– thức đi sau thì nhất thiết phải là phi lượng;

– thức điên đảo trước xác-định-cảnh của mình thì nhất thiết phải là tà thức.

– đã là tà thức của điều gì thì nhất định không phải là chánh lượng của điều ấy;

– đã là tỷ lượng [của cảnh hiện nào] thì nhất thiết không phải là chánh lượng của cảnh hiện ấy, đại loại như vậy.

6. [tqtl] Vô ngã

Nhân vô ngã thô lậu được nhận là không có một cá nhân thường nhất chủ tể và

Nhân vô ngã vi tế là không có một cá nhân tự lập có thực chất.

Pháp vô ngã thô lậu được chấp nhận là không có thực chất khác biệt giữa sắc và chánh lượng thấy sắc ấy, và

Pháp vô ngã vi tế được chấp nhận là các pháp nhất thiết không thật có.

Hai loại vô ngã được phân biệt qua đối tượng phủ định chứ không qua nền tảng của tánh không, là vì xét trên nền tảng của một cá nhân mà phá đi đối tượng phủ định là sự thật-có thì đó là pháp vô ngã vi tế; xét trên nền tảng của một cá nhân mà phá đi đối tượng phủ định là sự tự lập có thực chất thì đó là nhân vô ngã vi tế.

Hai loại ngã chấp được phân biệt qua cách chấp chứ không qua chỗ chấp, vì nhìn vào nền tảng một cá nhân mà chấp cá nhân ấy là thật có thì đó là chấp pháp ngã, và nhìn vào nền tảng một cá nhân mà chấp cá nhân ấy là tự lập có thực chất thì đó là chấp nhân ngã.

7. [tqtl] Về địa và đạo

Bảy, theo Trung quán Du già Tự lập phái, nét đặc thù của người tu ba ba cỗ xe được thiết lập từ ba loại chướng khác nhau—là đối tượng chính cần xả, và từ ba loại tri kiến khác nhau—là đối tượng chính cần tu.

Người thuộc chủng tánh thanh văn lấy niệm chấp có hiện hữu tự lập có thực chất cùng mọi thứ đi kèm làm đối tượng chính cần bỏ, lấy thuốc đối trị là tri kiến chứng sự không có một cá nhân tự lập có thực chất làm đối tượng chính cần tu, đạt quả tiểu bồ đề.

Người thuộc chủng tánh duyên giác, lấy niệm chấp vào thực chất khác biệt giữa sắc và chánh lượng thấy sắc ấy làm đối tượng chính cần bỏ; lấy thuốc đối trị là tri kiến chứng sự không có thực chất khác biệt giữa cái thấy và cái được thấy làm đối tượng chính cần tu; đạt quả bồ đề bậc trung.

Bồ tát lấy niệm chấp thật có cùng tập khí đi kèm làm đối tượng chính cần bỏ, lấy thuốc đối trị là tri kiến chứng vạn pháp hết thảy đều không thật có làm đối tượng chính cần tu, đạt quả đại bồ đề.

Theo Trung quán Kinh lượng Tự lập phái, giữa thanh văn và duyên giác không có sự khác biệt ở đối tượng chính cần bỏ hay ở đối tượng chính cần tu, là vì cả hai đều lấy phiền não làm đối tượng chính cần bỏ, và đều lấy nhân vô ngã làm đối tượng chính cần tu.

Tuy vậy, hai cỗ xe này quả tu cao thấp khác nhau là có lý do: vì lượng công đức nhiều ít khác nhau và thời gian tu dài ngắn khác nhau.

Tương tự như Duy thức, [tông phái này cho rằng] kinh Phật có hai loại là kinh đại thừa và kinh tiểu thừa, và cũng phân thành hai phần là kinh nghĩa thật và kinh nghĩa tạm. nhưng lại không nói giống nhau về tướng căn bản. Duy thức tông cho rằng hai thời kỳ chuyển pháp luân trước là kinh nghĩa tạm, thời kỳ chuyển pháp luân cuối là kinh nghĩa thật, còn ở đây lại nói hai thời kỳ chuyển pháp luân đầu và cuối là kinh nghĩa tạm, thời kỳ chuyển pháp luân giữa nghĩa thật và nghĩa tạm đều có, ấy là vì [ đối với tông phái này] kinh nào đối tượng phủ định ứng với thắng nghĩa thì được xem là kinh nghĩa thật, không ứng với thắng nghĩa thì được xem là kinh nghĩa tạm.

[tqut] TRUNG QUÁN ỨNG THÀNH PHÁI [Prasangika]

Tông phái Trung quán thứ hai, là Ứng thành phái, sẽ được giải thích qua bảy phần như cũ.

1. [tqut] Định Nghĩa

Một, người tuyên thuyết hệ lập kiến Trung quán, không chấp nhận sự-vật-thật-có dù là trên phương diện danh ngôn thế tục, bằng cách đơn giản khẳng định hệ quả ứng với những gì đối phương đã biết, đó là định nghĩa của thuyết gia Trung quán Ứng thành phái.

2. [tqut] Phân loại

Hai, [Trung quán Ứng thành phái] là ví dụ như chư vị A xà lê Phật hộ, Nguyệt xứng, và Tịch thiên.

3. [tqut] Từ Nguyên

Ba, gọi A xà lê Phật hộ là Trung quán Ứng thành phái là có lý do. Gọi như vậy vì ngài Phật hộ cho rằng chỉ cần luận pháp hệ quả [phi lý] thôi là đủ cho đối phương phát sinh tỷ lượng chứng đắc mệnh-đề-tôn.

4. [tqut] Đối Cảnh

Bốn, nói về cách tiếp nhận đối cảnh.

Đối cảnh có hai loại,

  1. ẩn mật và
  2. hiện tiền.

Đối cảnh nào cần phải suy lý mới có thể chứng biết thì gọi là cảnh ẩn mật. Đối cảnh nào không cần suy lý, chỉ nhờ vào lực thường nghiệm của người phàm là có thể biết chắc thì gọi là cảnh hiện tiền.

Tướng căn bản của cảnh ẩn mật là ví dụ như sự vô thường của âm thanh, và sự không có âm thanh thật có. Tướng căn bản của cảnh hiện tiền là ví dụ như cái bình hay tấm vải len.

Hiện cảnh[18] và cảnh hiện tiền[19] là cùng một nghĩa.

Cảnh cũng có thể chia làm hai loại,

  1. thế tục đế; và
  2. thắng nghĩa đế.

Một, những gì được tìm thấy bởi chánh lượng quán chiếu danh ngôn thế tục và làm cho chánh lượng quán chiếu danh ngôn thế tục trở thành chánh lượng quán chiếu danh ngôn thế tục, đó là định nghĩa của thế tục đế.

Chia thế tục đế ra thành hai loại thật và hư là không hợp lý, vì không làm gì có thế tục đế thật. Bởi vì đã là thế tục đế thì nhất định không phải là thật, đã là thế tục đế thì nhất định phải là hư ảo.

Nhìn từ phương diện nhận thức thế gian thì chia thế tục đế ra thành hai loại thật và hư là hợp lý, vì xét theo nhận thức thế gian thì hình sắc là thật, và xét theo nhận thức thế gian thì hình ảnh của khuôn mặt hiện trong gương là hư ảo.

Là thật đối với nhận thức thế gian không nhất thiết phải là thật có, vì sắc là thật [nhưng không thật có].

Hai, những gì được tìm thấy bởi chánh lượng quán chiếu cảnh cứu cánh, và làm cho chánh lượng quán chiếu cảnh cứu cánh trở thành chánh lượng quán chiếu cảnh cứu cánh, đó là định nghĩa của thắng nghĩa đế.

Cách phân loại tương tự như Duy thức tông, và ở đây khẳng định rằng diệt đế nhất thiết đều là thắng nghĩa đế.

5. [tqut] Chủ Thể

Năm, cách tiếp nhận chủ thể.

Cái ngã đơn thuần giả lập trên ngũ uẩn được nhận là tướng căn bản của một cá nhân, và nhất thiết đều là bất tương ưng hành pháp[20]

Trí biết có hai loại, chánh lượng và phi lượng.

Chánh lượng có hai loại, chánh hiện lượng và chánh tỷ lượng.

[Tông phái này] không chấp nhận có tự chứng phần hiện lượng, và nói rằng nhận thức giác quan trong dòng tâm thức của chúng sinh nhất thiết đều phải là nhận thức điên đảo, còn ý thức và du già hiện lượng thì có thứ điên đảo, có thứ không điên đảo.

Chánh hiện lượng có hai loại,

  1. chánh hiện lượng hữu niệm; và
  2. chánh hiện lượng vô niệm.

Tướng căn bản của loại thứ nhất [chánh hiện lượng hữu niệm] là ví dụ như sát na thứ hai của tỷ lượng chứng biết âm thanh vô thường, hay như hồi ức nhớ lại đúng nghĩa màu xanh khởi sinh từ giác quan hiện lượng thấy màu xanh.

Hai, tướng căn bản của loại thứ hai [chánh hiện lượng vô niệm] là ví dụ như giác quan hiện lượng thấy hình sắc.

Là chánh hiện lượng thì không nhất thiết phải là cảnh hiện tiền, vì du già hiện lượng đều không phải là cảnh hiện tiền. Đó là vì hiện lượng[21] và cảnh hiện tiền[22] là cùng một nghĩa.

thức đi sau[23] [notes] thì nhất thiết phải là chánh hiện lượng.

Tỷ lượng chia ra có bốn loại,

  1. tỷ lượng suy ra từ sự việc;
  2. tỷ lượng suy ra từ danh tiếng;
  3. tỷ lượng suy ra từ ví dụ; và
  4. tỷ lượng suy ra từ sự tin.

Tỷ lượng suy ra từ danh tiếng và tỷ lượng suy ra từ ví dụ nhất thiết đều là tỷ lượng suy ra từ sự việc.

Là chánh lượng thì không nhất thiết phải là nhận thức không điên đảo đối với xác-định-cảnh của mình,[24] vì tỷ lượng chứng âm thanh vô thường là nhận thức điên đảo của âm thanh vô thường.

Là thức thì nhất thiết phải chứng biết đối-tượng-lượng-biết[25] của mình, vì khái niệm[26] sừng thỏ là đối-tượng-lượng-biết của ý niệm thấy sừng thỏ, và khái niệm âm thanh thường còn là đối tượng lượng biết của ý niệm thấy âm thanh thường còn.

6. [tqut] Vô ngã

Sáu, nói về cách tiếp nhận vô ngã.

Nhân vô ngã thô lậu được xem là không có một cá nhân tự lập có thực chất.

Nhân vô ngã vi tế được xem là không có một cá nhân thật có.

Sự không có thực chất khác biệt giữa vật thô tổ hợp của những phân tử bất khả phân và chánh lượng thấy vật thô ấy được thiết lập là pháp vô ngã thô lậu, và

Sự không có ngũ uẩn thật có làm nền tảng lập danh được thiết lập là pháp vô ngã vi tế.

Hai loại vô ngã được phân biệt qua nền tảng của tánh không chứ không qua đối tượng phủ định. Lấy nền tảng là một cá nhân mà bác bỏ đối tượng phủ định là sự thật-có thì đó là nhân vô ngã vi tế. Lấy nền tảng là ngũ uẩn các thứ mà bác bỏ đối tượng phủ định là sự thật-có thì đó là pháp vô ngã vi tế.

Hai loại ngã chấp được phân biệt qua cảnh nhìn chứ không qua cách chấp. Nhìn vào nền tảng là nhân mà chấp là thật có thì đó là chấp nhân ngã vi tế. Nhìn vào nền tảng lập danh là ngũ uẩn các thứ mà chấp là thật có thì đó là chấp pháp ngã vi tế.

7. [tqut] Về địa và đạo

Bảy, trình bày về chứng địa và chứng đạo gồm có hai phần, đối tượng cần xả bỏ và nội dung chính của chứng địa và chứng đạo.

7a. [tqut] Đối Tượng Cần Xả Bỏ

Một, tất cả mọi khái niệm chấp ngã thô tế cùng chủng tử của chúng, kèm với mọi phiền não tham sân các thứ cùng chủng tử của chúng từ đó phát sinh được khẳng định là phiền não chướng, chủ yếu tạo chướng ngại cho việc chứng đắc quả giải thoát.

Tập khí chấp thật có và mọi khía cạnh của vọng cảnh nhị biên từ đó phát sinh được khẳng định là trí chướng, chủ yếu tạo chướng ngại cho việc chứng đắc trí toàn giác.

7b. [tqut] Nội dung chính của chứng địa chứng đạo

Nói về tri kiến cần tu thì không có sự cao thấp khác biệt giữa ba cỗ xe, vì cỗ xe nào cũng đều lấy nhân vô ngã và pháp vô ngã thô lậu và vi tế làm đối tượng tu tập chính yếu.

Nhưng nếu nói về đối tượng chính cần xả bỏ thì có sự khác biệt. Chư thanh văn duyên giác lấy hai loại ngã chấp cùng chủng tử của chúng làm đối tượng chính cần xả bỏ, còn chư bồ tát thì lấy tập khí của chúng làm đối tượng chính cần xả bỏ.

Tánh như của sự xả bỏ hai loại ngã chấp cùng chủng tử của chúng trong dòng tâm thức của chư A la hán thanh văn và A la hán duyên giác khi nhập định là vô dư niết bàn, còn tánh như của sự xả bỏ hai loại ngã chấp cùng chủng tử của chúng trong dòng tâm thức của chư A la hán thanh văn và duyên giác khi xuất định là hữu dư niết bàn.

Người nào ngay từ đầu đã thuộc về chủng tánh đại thừa chánh định tụ thì lúc xả bỏ phiền não chướng là đồng thời chứng đắc địa thứ tám, và lúc xả bỏ trí chướng là đồng thời hiện chứng bốn thân Phật.


[1] tiếng Tạng gọi là Duy tâm tông.

[2] tiếng Tạng gọi là Vô tánh tông.

[3] Một cá nhân, phạn: pudgala; tạng: གང་ཟག། ứng với chữ “nhân”, như trong nhân vô ngã. Có nơi dịch là bổ đặc dà la, theo hán âm.

[4] Tạng: བློ། g ứng với khả năng thấy biết, từ trí thông minh phàm phu cho đến trí giác bồ đề.

[5] Sems kyi gns ngan len སེམས་ཀྱི་གནས་ངན་ལེན།

[6] Phạn: Jnana; Tạng: ཡེ་ཤེས།

[7] Zhen rig

[8] Là sớ giải của ngài Pháp Thượng [Dharmottara] giải thích về Lượng Quyết Định Luận của ngài Pháp Xứng [Dharmakirti].

[9] Snang pa’I dwang zhes །

[10] zhin ‘thun

[11] Tạng. ogmin

[12] Tạng. rang rgyud kyi rtags

[13] skt. Bhavaviveka, tib. Legs-ldan-‘byed

[14] skt. Jnanagarbha, tib. Ye-she-snying-po

[15] Phạn. Shantarakshita, tạng. shi-ba-‘tsho

[16] Phạn. Haribhadra, tạng. Seng-ge-bzang-po

[17] Phạn. Kamalashila, tib. Ka.ma.la.shi.la

[18] mngon sum: nghĩa là hiện tiền, nhưng cùng một gốc tạng ngữ này mà ứng với cả ba nghĩa hiện cảnh, hiện kiến, và hiện lượng.

[19] mngon gyur

[20]  không phải là tâm thức cũng không phải là vật thể.

[21] Tạng. mngon sum

[22] Tạng. mngon gyur

[23] Thức ở sát na thứ hai.

[24] Tạng. རང་གི་ཞེན་ཡུལ

[25] Tạng གཞལ་བྱ་, tiếng Việt còn gọi là sở lượng.

[26] Tạng. དོན་སྤྱི་, còn gọi là cộng nghĩa.




Gedun Rinpoche: HẠNH PHÚC Cần Chi Đau Đáu Trông Tìm

Tác giả: Đại Sư Drakpu Gedun Rinpoche
Việt ngữ: Hồng Như

Hạnh phúc đâu thể tìm
Bằng nỗ lực, ý chí,
Vốn đã sẵn cạnh bên
Trong an nhiên, buông xả

Con ơi đừng vất vả
Không cần làm gì cả

Những điều hiện trong tâm
Nào có quan trọng gì.
Không mảy may thật có
Dây vướng vào làm chi

Cũng chẳng cần phê phán
Để trò chơi tự diễn
Tự nhồi lên, dập xuống
Vẫn có khác gì đâu
Rồi sẽ tan biến hết
Sẽ mới lại từ đầu
Không bao giờ kết thúc

Vì cứ mãi tìm cầu
Nên không thể nào gặp
Rượt đuổi ánh cầu vồng
Làm sao mà nắm bắt

Là vì không thật có
Nên luôn ở cạnh ta
Chưa bao giờ lìa xa

Những kinh nghiệm trải qua
Dù an vui hung hiểm
Con ơi, đừng tin vào
Chỉ như cầu vồng hiện

Tại sao muốn nắm bắt
Điều không thể nắm bắt
Để hao mòn kiệt quệ
Nào được lợi ích chi

Chỉ cần tâm buông ra
Là không gian bao la
Luôn rộng mở đón mời

Con ơi hãy tận hưởng
Vốn đã là của ta
Hãy thôi, đừng tìm kiếm
Đừng lặn lội rừng sâu
Tìm voi, voi đang vẫn
Ung dung đợi ở nhà

Đâu có gì để làm
Đâu cần gì cố gắng
Đâu việc gì phải mong
Muôn sự tự nhiên thành.//.




Changkya Rolpai Dorje: NHẬN BIẾT MẶT MẸ: Tri Kiến Chứng Đạo Ca

Tựa đề Tạng ngữ ༄༅། །ལྟ་མགུར་ཨ་མ་ངོས་འཛིན་བཞུགས་སོ། །
Tựa đề Việt ngữ: Nhận Biết Mặt Mẹ: Tri Kiến Chứng Đạo Ca
Tác luận: Changkya Rolpai Dorje
Chuyển Việt ngữ: Hồng Như Thupten Munsel, bản dịch tạm tháng 01/2021

E MA HÔ!

1. Trần trụi tánh nhiệm mầu / của duyên khởi thâm sâu,
Ân sư đã chỉ ra / đúng y như sự thật.
Lòng từ ái của Thầy / thật vô bờ vô bến,
Xin trụ giữa tim con, / cho con nói đôi lời /
về ý tưởng thoạt hiện / thấp thoáng trong tâm con.

2. Đứa con điên khùng này / lạc mẹ già đã lâu,
Nay sắp sửa tình cờ
Thấy được điều chưa thấy,
Rằng mẹ hiền xưa nay / vẫn luôn cạnh bên mình.

3. Hay có khi mẹ là / những không-không-có-có
Như người anh Duyên-khởi / đã lặng lẽ mách cho.
Đối đãi nhị nguyên này / là nụ cười của mẹ,
Sinh tử biến chuyển này / là lời mẹ nói dối.

4. Người mẹ không hư ngụy / đã dối gạt tôi rồi!
Dù mong anh Duyên-khởi / đến che chở cho tôi,
Nhưng rốt lại cũng chỉ / nhờ vào ơn của mẹ
Tôi mới mong tìm được / nguồn hy vọng giải thoát.

5. Đối đãi phân biệt kia / nếu đúng như mình thấy
Thì dù Phật ba thời / cũng vô phương cứu độ,
Nhưng thiên biến vạn hóa / thật ra cũng chỉ là
Nét mặt Mẹ-bất-biến, / nên vẫn còn lối ra.

6. Người mẹ này của tôi / không thể nào diễn tả.
Không có ở đâu cả, / nhưng giả hiện khắp nơi.
Riêng mối tương quan này / là lời dạy trọng yếu.

7. Tìm cha già không gặp
Thì như vậy thật ra / là tìm thấy mẹ già.
Ngay ở trong lòng mẹ / mà tìm gặp được cha,
Nghe nói đây là cách / cha mẹ hiền cứu con.

8. Diện mạo của mẹ tôi / không một cũng không khác,
Hiện rõ trong tấm gương / của Duyên-khởi anh tôi,
Giống như là thật có / nhưng không thể nắm bắt.
Nhưng kẻ khùng như tôi / nào đâu có biết gì.

9. Đức Long Thọ, Nguyệt Xứng / gửi huấn từ vào gió
Và đức Văn Thù Tạng / nhờ chú chim mang về.
Để tránh nỗi khó khăn / phải tìm tòi lâu lắc,
Tôi mong mình thấy được / mẹ già ở cạnh bên.

10. Ngày nay có vẻ như / một số người có trí
Vướng kẹt trong chữ nghĩa / như “tự khởi,” “thật hữu,”
Chỉ lo tìm những thứ / có sừng để mà diệt,
Cảnh ngờ ngờ trước mắt / lại cứ để y nguyên.

11. Nhưng ở trên khuôn mặt / không che chướng của mẹ
Nghe nói đâu hề có / cảnh đối đãi rạch ròi.
Lắm tranh cãi lạc đề / mãi mê trong hý luận,
Chắc chỉ khiến mẹ già / phải trốn chạy mất thôi.

12. Tuy có nhưng không phải / là có kiểu như vầy,
Không phải kiểu cứng ngắt / của đối đãi lưỡng phân.
Tương quan bất khả phân / của cha mẹ từ hòa
Đúng ra phải thật là / dịu nhẹ và yên vui.

13-14. Tông môn Tì[1], Kinh[2], Duy[3], / và Tam Trí Đông Ấn[4],
Cho dù họ đối với / Mẹ Voi Trắng Như Vôi,
Gán đặt đủ thứ tên / phong phú đầy màu sắc
Giống như là “ngoại cảnh, / ” là “hổ vằn cười nhăn,”
là “chủ thể chấp thủ,” / là “khỉ điên mất trí,”
Là “tự tánh bất nhị” / là “gấu hoang hung dữ,”
Sao thấy họ dường như / đã lạc mất mẹ già.

15-16. Nhiều học giả hành giả / dòng Sa[5], Nying[6], Kar[7], Druk[8],
Tự hào phô đủ loại / chữ nghĩa thật phong phú,
Như là “tâm tự biết“: / phi chủ thể, sáng – không;
Là “tánh tịnh bản nhiên:” diện mục đức Phổ Hiền;
Hay là “đại thủ ấn:” / bản tánh vô dụng công;
Phi hữu, phi phi hữu,” / siêu việt mọi khẳng định.
Nói vậy nếu trúng đích / thì thật là điều lành,
Nhưng chẳng rõ chư vị / muốn trỏ vào điều chi!

17. Vì cảnh vật bên ngoài / không hề bị phá bỏ
Nên Tì bà, sa bộ / cùng với Kinh lượng bộ /
không cần phải bận tâm, / xin cứ hãy vui đi.
“Tâm tự biết” tuy không, / nhưng vẫn có sự biết / và chủ thể sự biết,
Nên hết thảy Duy thức / xin cứ hãy vui đi.
Tự tướng tuy không có, / duyên khởi vẫn rành rành,
Nên Tam Trí Đông Ấn / xin cũng cứ vui đi.

18. Sáng – không không mâu thuẫn / nên đều có thể giữ:
Chư chấp trì huấn giáo / không cần phải e sợ.
Dù bản lai thanh tịnh, / lành ác vẫn ứng lý:
Chư du già minh trì[9] / không cần phải chấp tịnh.

19. Dù thiền còn dụng công / tánh bản lai vẫn khởi,
Nên thiền giả lâu năm / không cần quá cố gắng.
Niệm có, không, hết thảy / đều siêu việt được cả
Nên luận giả cứng đầu / không cần phải bực bội.

20. Có lẽ đó chỉ vì / do sự học còn non,
Không biết cách vận dụng / cảnh tục đế quy ước.
Tôi không hề có ý / bất kính với chư vị,
Nếu như lỡ xúc phạm / xin lượng thứ dùm tôi.

21. Tuy không là toàn giác / nhưng tôi biết cách cưỡi
Thớt ngựa quý thuần giống / của khế kinh chính tông,
Với nỗ lực kiên trì / bền bỉ đầy sốt sắng,
Hy vọng sẽ vượt qua / mọi bước đường hiểm trở.

22. Không cần phải tìm kiếm / vì là chính người tìm;
Đừng chấp là chân thật / vì chỉ là giả thôi;
Nhưng giả cũng đừng tránh / vì đó là chân lý:
Hãy về đây ngơi nghỉ, / chốn không đoạn, không thường.

23. Cho dù không thấy mẹ, / chỉ cần tên gọi thôi
Đã như về hội tụ / với mẹ cha từ hòa,
Bấy lâu nay thất lạc / bỗng như về cạnh bên.

24. Ôi Long Thọ phụ tử / ơn thật lớn lắm thay!
Ôi Losang Drakpa / ơn thật lớn lắm thay!
Ôi Ân sư của con / ơn thật lớn lắm thay!
Để đền trả ơn này / xin làm vui lòng mẹ.

25. Do con nhỏ có trí / về gặp gỡ sum vầy
Với mẹ già không sinh / và không thể diễn tả,
Từ đó hạnh phổ hiền / tưng bừng ngày hội lớn,
Nguyện dẫn mẹ đa sinh / đến với niềm thường lạc.

26. Ôi tuyệt vời! Rolpai Dorje!
Đã thế thì nay ngay tại đây
A ha! Ta múa điệu vui này
Để làm cho đẹp lòng Tam Bảo.

Trên đây là đôi hàng vọng ngữ nói về chuyện nhận biết mặt mẹ, mệnh danh “Âm Điệu của Tiếng Vang,” do kẻ ngưỡng mộ sâu xa Đại Trung Quán là Changkya Rölpai Dorjé viết tại thánh địa Ngũ Đài Sơn. Tỷ kheo Gelek Namkha ghi chép.

Chuyển Việt ngữ: Hồng Như Thupten Munsel, dịch từ tiếng Tạng nhờ tham khảo với bản dịch Anh ngữ 2021 của Thupten Jinpa, tựa đề: Recognizing My Mother: An Experiential Song on the View. Bản tiếng Việt tạm dùng, chưa hiệu đính. Tháng 1 năm 2021. [Translated from Tibetan by Hong Nhu Thupten Munsel with precious help from the English translation by Thupten Jinpa (2021), entitled Recognizing My Mother: An Experiential Song on the View. First draft January 2021.

Mọi sai sót là của người dịch
Mọi công đức xin hồi hướng pháp giới chúng sinh

GHI CHÚ

[1] Tì bà sa bộ [Vaibhāṣika]

[2] Kinh lượng bộ [Sautrāntika]

[3] Duy thức tông [Vijñānavāda]

[4] Tam Trí Đông Ấn là ba vị luận sư Trung quán Y tự khởi  [Madhyamika Svātantrika], sống vào thế kỷ thứ 8 vùng Đông ấn, đó là đức Trí Tạng [Jana Garbha], đức Thiện Hải Tịch Hộ [Shantaraksita] và đức Liên Hoa Giới [Kamalashila].

[5] Sakya

[6] Nyingma

[7] Karma – thuộc dòng Kagyu

[8] Drukpa – thuộc dòng Kagyu

[9] vidyādhara yogis





Chư Kadampa: MƯỜI TÂM BẢO SÂU KÍN

– MƯỜI TÂM BẢO SÂU KÍN –
Của Chư Geshes Kadampa
[Ten Innermost Jewels of the Kadampa Geshes]

-Trích Tuyển Tập Tụng Niệm Nhập Thất [FPMT Retreat Prayer Book],
Hồng Như chuyển Việt ngữ, 03/2020

Chỉ cần giữ mười tâm bảo sâu kín của chư tổ Kadampas trong tim là thành trì vọng tưởng sụp đổ, con thuyền ác nghiệp tan rã, quý vị sẽ đạt địa vị chữa lành rất an lạc. Vì vậy có được mười tâm bảo sâu kín này thì sẽ đạt quả giải thoát và giác ngộ một cách chóng vánh không gặp khó khăn; sẽ được yên vui trong đời này và mọi kiếp về sau.

[Ghi chú: LZR là trích từ bài giảng của Lama Zopa Rinpoche.]

Trước chư sư phụ, / tổ sư truyền thừa,
Như đức Mâu ni, / đạo sư từ hòa, / chúng con thỉnh nguyện:
Gia trì cho con / được như câu chuyện
Bậc giác ngày xưa / buông chuyện đời này.

Người con vô song / của vua Tịnh Phạn / thấy già, bệnh, chết,
Sinh lòng chán ngán / từ bỏ ngai vàng.
Sau khi trải qua / sáu năm khổ hạnh,
Bên bờ Ni liên / thành vô thượng giác.

Bậc Giác quá khứ / đều từng như vậy,
Vì nhớ cái chết, / và nhớ vô thường / nên chán sinh tử,
Tâm buông chuyện đời, / tu nơi hoang vắng,
Đạt quả vị Phật / ngay kiếp hiện tiền.

Cũng giống như vậy, / thử nghĩ mà xem
Nào ai biết được / bao giờ chết đến,
Sao chuyện đời này / níu mãi không buông?

Bao nhiêu lạc thú, / danh vọng quyền lực,
Đất nước, ruộng vườn, / nhà cửa, người thân, / thức ăn, tài sản,
Đối với chánh pháp / có ích gì đâu?

Cùng lắm chỉ để  / duy trì mạng sống.
Ngoài ba bộ áo / cùng một bình bát,
Những thứ còn lại  / vàng bạc châu ngọc
Hãy vì bản thân / đừng giữ chút gì.

Chết mới là điều / chắc chắn sẽ đến
Khi ấy tài sản, / bằng hữu, thân nhân, / liệu có ích gì !
Chỉ khiến thêm sâu / nỗi đau ly biệt
Nhờ nghĩ như vậy / thôi bám chuyện đời.

BỐN PHÓ THÁC – The Four Entrustments

Sâu thẳm tâm trí / gửi cho chánh Pháp
Sâu thẳm chánh Pháp / gửi cho khất sĩ
Sâu thẳm khất sĩ / gửi cho cái chết
Sâu thẳm cái chết / gửi cho hang sâu.

BA KIM CƯƠNG – The Three Vajras

Kim-cang-không-dính, / khéo giữ trước mắt

LZR: Khéo giữ tâm kim cang trong nỗi chán ngán sinh tử không lay chuyển, tu theo chánh pháp mà không bị người thân bắt dính.

Kim cang không thẹn, / phải biết quay lưng

LZR: Quay lưng với mọi nỗi bận tâm thế tục: “bất kể thiên hạ nói gì, dù khen hay chê, đi trong cuộc đời mà tâm vẫn ở yên trong nỗi chán ngán sinh tử, không lay chuyển.

Kim cang trí giác / phải nên đồng hành

LZR: Cân bằng việc đạo và việc đời mà không phá phạm thệ nguyện buông bỏ chuyện đời này.

BA CÔNG PHU – The Three Practices

Công phu cần phải / lìa xa loài người

LZR: Không giống một ai trong cõi con người, họ đều bám dính chuyện đời. Hãy giữ mình ở vị trí thấp hèn, mặc áo rách, ...

đến gần loài chó,

LZR: ...chấp nhận mất hết cơm, áo, tiếng tăm. Bất kể phải chịu bao nhiêu đói, khát, cực nhọc, vẫn gánh chịu để tu theo chánh Pháp.

Và phải nỗ lực / lên đến loài trời.

LZR: Nhờ buông bỏ mọi tạo tác thế gian và viên thành pháp hành nơi thanh tịnh mà đạt được quả siêu việt trời người, nghĩa là quả đại giác ngộ, ngay trong đời này.

Đó chính là mười / tâm bảo sâu kín / của chư hành giả / dòng Kadampas.
Tóm lại, vô thường / cùng với cái chết / sẽ mau xuất hiện,
Vậy nay tôi hãy / ngưng tự dối mình,
Hãy để kiếp người, / vốn như tia chớp,
Thoát cảnh lạc thú, / chộn rộn thế gian,
Thoát cả biển rộng / khổ đau sinh tử,
Đến với đại lạc / vô thượng bồ đề,
Nhất là vì khắp / thân mẫu đa sinh,
Ngay lúc này đây / phải nên buông mọi / lo toan đời này.
Nương lực đại từ / của chư đạo sư
Nguyện tôi có thể / bận tâm đời này / buông ngay lập tức.

LZR: Nhờ đọc tụng và chiêm nghiệm ý nghĩa những dòng này, quý vị sẽ có thể mau chóng buông bỏ hoàn toàn mọi lo toan cho đời này.

[Hết]




Lama Tsongkhapa: LAMRIM NHỎ – CHƯƠNG 1

LUẬN VỀ TRÌNH TỰ ĐƯỜNG TU GIÁC NGỘ
Độ Dài Trung Bình

Tác giả: Lama Tsongkhapa
Hồng Như Việt dịch – [Chỉ mới Chương 1 thôi, bản nháp có nhuận văn.]

Ghi chú về bản dịch Việt ngữ: 
Sơ Tổ Lama Tsongkhapa (Tông Khách Ba) có viết ba bộ luận về bài pháp Đèn Soi Đường Giác Ngộ của đức Atisa. Ba bộ luận này trước đây chúng tôi dịch tựa theo tiếng Anh thành Lamrim Đại Luận, Lamrim Trung Luận, và Lamrim Tinh Yếu Luận, tương ứng với độ dài ngắn khác nhau. Nay xin chỉnh lại theo tiếng Tạng thành Lamrim Đại Luận, còn gọi là Lamrim Lớn; Lamrim TIểu Luận, còn gọi là Lamrim Nhỏ; và Lamrim Tinh Yếu Luận, còn gọi là Chứng Đạo Ca.

Bộ luận Lamrim Nhỏ dài cỡ trung bình, bao gồm 6 chương: Chương I – Dẫn Nhập; Chương II – Sơ Căn; Chương III – Trung Căn; Chương IV – Thượng Căn; Chương V – Chỉ Quán; Chương VI – Kết Luận.

Ở đây là bản dịch Việt ngữ từ Tạng ngữ của bộ Lamrim Tiểu luận: Lamrim Nhỏ, chương I – Tháng 09 năm 2020. [Cập nhật tháng 2 năm 2023: Đổi tựa].

Chương 1 – Dẫn Nhập 

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh

Phần 1. LÝ DO VIẾT LUẬN & NÓI VỀ TÁC GIẢ

[ND: Tác giả và tác phẩm ở đây ứng với chánh văn luận Đèn Soi Đường Giác Ngộ của đức Atisa. Đức Tsongkhapa đang luận giải bài chánh văn này]

Dưới chân chư Tôn Thắng Đại Bi, đệ tử chí thành đảnh lễ

1a – LÝ DO TÁC LUẬN

Bày tỏ lòng thành kính và phát nguyện tác luận

Kính đức Phật Thế tôn, / hóa chủ cõi Kham Nhẫn;
đức Di lạc Từ thị / nhận ủy thác của Phật;
đức Văn thù, cha sinh / duy nhất của chư Phật;
đức Long Thọ, Vô Trước, / được đức Phật tiên tri
Đối trước khắp chư vị, / con thiết tha kính lạy.

Lạy rồi, trình tự tu 
Của tri kiến thâm sâu, / và thiện hạnh quảng đại 
Con xin được trình bày / ngắn gọn thêm lần nữa 
Để có thể thâm nhập / mau chóng và dễ dàng.

Trình bày tổng quát về giáo pháp giảng ở đây

Pháp thuyết ở đây tóm lược toàn bộ giáo pháp Phật dạy không có thiếu sót, thuận theo truyền thống tu của hai cỗ xe tiên phong lớn Long Thọ và Vô Trước. Đây là hệ giáo pháp dành cho bậc thượng nhân hướng về quả vị toàn giác, bao gồm trọn vẹn trình tự đường tu dành cho chúng sinh 3 loại căn cơ, hướng dẫn phương pháp dùng trình tự đường tu giác ngộ này để dẫn dắt kẻ thiện duyên vào Phật địa.

Theo tôn ý của chư Hiền thánh Học viện Vikamasila, có ba điều tối quan trọng cần trình bày trước khi giảng pháp, đó là: giới thiệu về sự vĩ đại của tác giả; giới thiệu về sự vĩ đại của tác phẩm; và cách giảng pháp, nghe pháp.

Thuận theo tôn ý của chư vị, lời giảng về trình tự đường tu giác ngộ ở đây có 4 phần:

  1. nói về sự vĩ đại của tác giả để thấy nguồn gốc chân chính của Pháp được giảng;
  2. nói về sự vĩ đại của tác phẩm để khởi lòng tôn kính lời giảng;
  3. giáo pháp với hai sự vĩ đại như vậy, nên nghe như thế nào và giảng như thế nào; và
  4. trình tự dẫn dắt người tu qua nội dung chính của lời giảng.

1b – TÁC GIẢ

Nói về sự vĩ đại của tác giả để thấy nguồn gốc chân chính của Pháp được giảng

Trước tiên, nói về tác giả. Giáo pháp giảng ở đây nói chung là pháp của đức Di lạc Từ thị dạy trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận, và đặc biệt là dựa trên nền tảng của bài pháp Bồ Đề Đạo Đăng Luận. Tác giả nói ở đây chính là tác giả của luận này. Hồng danh của Ngài là Nhiên Đăng Cát Tường Trí (Dīpaṃkaraśrījñāna), thường được mọi người gọi là đức Cát Tường Atisa.

Đức Atisa có ba sự vĩ đại: 1. cách Ngài hạ sanh vào dòng tộc tối hảo; 2. cách Ngài nhờ đó đạt thiện đức; và 3. cách Ngài đạt thiện đức rồi vì chánh Pháp mà thi triển thiện hạnh.

Dịch giả của đức Atisa đã nói về Ngài như sau:

Ở nơi vương quốc / Zahor phía Đông //
Có một thành lớn //
Tên gọi Vikra-maṇipura //
Ngay chính giữa thành / có một cung điện //
Cực kỳ rộng lớn //
Tên Kim Phan điện //
Đời sống phồn vinh, / quyền lực, tài lực //
Thật chẳng khác gì / hoàng đế Trung Hoa //.
Quốc vương xứ ấy, tên là Đức Cát (Kalyāṇaśrī) //
Cùng với hoàng hậu, tên là Cát Quang (Śrīprabha) //
Có ba Hoàng Nam //
Tên là Liên Tạng, / Nguyệt Tạng, // Cát Tạng.
Vương tử Liên Tạng //
Có 5 Vương phi / và 9 người con,//
Trưởng tử tên là, Phước Đức Cát Tường, //
Bậc đại hiền thánh//
Mọi người đều gọi / là Dhanaśrī.//
Con út Cát Tạng, //
Chính là tỷ-kheo / Vīryacandra//
Còn người con giữa, / Nguyệt Tạng, chính là//
Thượng sư tôn quý / của chúng ta đây.

Cách Ngài đạt thiện đức có hai điểm: cách đạt thiện đức của trí uyên thâm giáo truyền;
Cách đạt thiện đức của chân thành tựu giáo chứng.

Thứ nhất [Cách Ngài đạt thiện đức của trí uyên thâm giáo truyền]: Đến năm 21 tuổi Ngài đã tinh thông cả 4 lĩnh vực kiến thức chung: ngôn ngữ học (thanh minh), luận lý học (nhân minh), kỹ thuật học (công xảo minh), và y học (y phương minh). Đặc biệt năm Ngài 15 tuổi, đức Drolungpa vĩ đại kể rằng sau khi nghe qua một lần bài pháp Giọt Luận Lý [Nyāyabinduprakaraṇa], đức Atisa tranh biện với một vị luận sư ngoại đạo nổi tiếng uyên thâm và đã thắng, từ đó danh tiếng Ngài vang lừng khắp nơi.

Sau đó, đức Atisa thọ quán đảnh từ bậc đạo sư hành giả tự tại cát tường Rāhulagupta tại tu viện núi Hắc Sơn, là bậc thầy đã đạt linh kiến Bổn tôn Hevajra và được đức Kim Cang Đà Kì Ni (Vajraḍākini) ban cho lời tiên tri. Đức Atisa nhận mật danh Trí Mật Kim Cang (Jñānaguhyavajra). Từ đó đến năm 29 tuổi, đức Atisa tu pháp Kim cang thừa cùng nhiều bậc đạo sư chứng ngộ cao, thông đạt kinh văn giáo truyền. Mỗi khi đức Atisa chợt nổi ý nghĩ rằng mình viên thông mật chú, chư Đà kì ni hiện vào trong giấc mơ, chỉ cho nhiều tập mật chú mà Ngài chưa từng thấy qua, khiến tâm kiêu mạn của Ngài tan biến.

Sau đó, nhiều đạo sư và Bổn tôn của Ngài, hoặc là trực tiếp, hoặc qua giấc mơ, nói với Ngài rằng nếu xuất gia thì chánh pháp sẽ vô cùng hưng thịnh, đông đảo chúng sinh được lợi ích lớn lao. Nghe theo lời thúc dục ấy, đức Atisa thọ giới xuất gia, do đấng đại hộ trì giới hạnh Śīlarakṣita, trưởng lão dòng truyền thừa Mahāsaṁghika, đạt đại định như lý trong gia hạnh đạo, chủ trì truyền giới và ban cho pháp hiệu Cát Tường Nhiên Đăng Trí (Śrī Dīpaṃkarajñāna). 

Từ đó đến năm 31 tuổi, Ngài học tam tạng kinh điển hai hệ dưới và trên của nội điển lý thừa, đặc biệt là bộ Đại tì bà sa luận [Mahāvibhāṣā] Ngài đã học hết 12 năm cùng sư phụ Dharmarakṣita tại Odantapuri. Nhờ uyên thâm kinh điển của cả bốn tông phái gốc, Ngài nắm vững không rối loạn từng chi tiết tỉ mỉ về điều cần lấy cần bỏ theo mọi tông phái, ví dụ như giới luật về việc nhận phẩm bố thí.

Thứ hai [cách Ngài đạt thiện đức của chân thành tựu giáo chứng]: Vì nói chung hết thảy giáo truyền của đức Thế tôn đều nằm trong tam tạng kinh điển, vì vậy giáo chứng cũng thuộc về ba môn học Giới Định Tuệ trân quí. 

Nói về Giới, kinh luận đều tán dương đây chính là nền tảng của mọi thiện đức khác, ví dụ như Định và Tuệ, vì vậy trước tiên cần phải đạt thiện đức giáo chứng về Giới. Bộ giới thứ nhất trong ba bộ giới—giới biệt giải thoát,—đức Atisa giữ như thế nào? Thọ cụ túc giới rồi, Ngài giữ giới như trâu núi giữ đuôi: lông đuôi vướng vào cây, thấy thợ săn đuổi giết, trâu thà mất mạng chứ một sợi lông đuôi cũng giữ không lìa. Tương tự như vậy, đức Atisa từng nhánh nhỏ chi li của nền tảng giới pháp dù mất mạng cũng giữ không bỏ, huống chi nền tảng lớn của giới pháp đã thọ. Vì vậy mà gọi Ngài là bậc trưởng lão hộ trì giới hạnh vĩ đại. 

Nói về giới Bồ tát, Ngài trải qua một thời gian dài luyện tâm bồ đề, lấy đại từ đại bi làm gốc, đặc biệt là theo đức Serlingpa luyện tâm theo dòng giáo pháp tối hảo từ đức Di lạc và đức Văn Thù truyền qua cho đức Vô Trước và đức Tịch Thiên, nhờ đó Tâm Bồ đề quý người khác hơn chính bản thân khởi sinh trong tim. Bồ đề tâm nguyện này dẫn đến bồ đề tâm hành, phát thệ tu hạnh bồ tát rộng lớn rồi Ngài hành trì giới pháp, nhờ việc lành này Ngài không từng phá phạm giới hạnh bồ tát.

Nói về giới kim cang: vì có được đại định thấy thân mình là bổn tôn của giai đoạn khởi hiện và ý kim cang của giai đoạn viên thành, Ngài trở thành thành bậc thượng thủ trong hàng hành giả, và đặc biệt là ngài luôn giữ gìn mật thệ đúng cách, không bao giờ phá phạm.

Đức Atiśa can đảm phát thệ thọ ba bộ giới, không những vậy, thọ rồi Ngài còn giữ giới đúng như thệ nguyện, không để giới luật bị phá phạm. Vạn nhất có phạm, dù chỉ mảy may, Ngài cũng mau chóng thực hiện những pháp sám cần thiết để vãng hồi giới ấy.

Pháp tu Định của Ngài có hai: nói về mặt thông thường, Ngài đạt tâm nhu nhuyễn của định chỉ (xa-ma-ta); nói về mặt phi thường, Ngài đạt tâm cực kỳ an định của giai đoạn khởi hiện. Thêm vào đó, trong thời gian 3 năm, cũng có thể là 6 năm, ngài hành trì trí hạnh du già.

Pháp tu Tuệ của Ngài, nói về mặt thông thường, Ngài đạt chánh định tỳ bát xá na chỉ quán hợp nhất; nói về mặt phi thường, ngài đạt chánh định siêu việt của giai đoạn viên thành.

Việc Ngài làm cho chánh pháp có hai: phụng sự chánh pháp tại Ấn Độ và phụng sự chánh pháp tại Tây Tạng. 

Thứ nhất [Cách Ngài phụng sự chánh pháp tại Ấn độ]: Tại điện Đại Giác Ngộ ở Bồ Đề Đạo Tràng, ngài đã ba lần dùng chánh pháp đánh bại luận sư ngoại đạo, nhờ đó giữ được Phật pháp. Với người trong đạo, ngài quét sạch mọi cấu nhiễm đến từ sự không biết, hay biết mà biết sai, hay là nghi hoặc đối với các hệ giáo pháp trên dưới, nhờ đó hoằng dương chánh pháp. Vì vậy mà tất cả mọi tông phái đều kính Ngài như hạt ngọc vương đỉnh không phân bộ phái. 

Tại Tây Tạng: có hai chú cháu Lha Lama lần lượt gửi sang Ấn Độ dịch giả Gyatsön Seng rồi dịch giả Nagtso Tsültrim Gyalwa, bỏ công sức lớn lao nhiều lần thỉnh cầu chánh pháp, nên đến đời Vua Jangchub Ö, đức Atisa đi sang vùng Thượng Ngari, nhận lời thỉnh cầu làm sạch giáo pháp. viết ra bộ Luận Đèn Soi Đường Giác Ngộ (Bồ Đề Đạo Đăng Luận) cùng các tác phẩm khác, thu gọn mọi điểm trọng yếu của hiển pháp và mật pháp thành một đường tu có trình tự. Ngài nán lại 3 năm ở Ngari, 9 năm ở Nyetang, 5 năm ở nơi khác vùng U Tsang, dạy cho người hữu duyên tất cả kinh điển và khẩu truyền của hiển pháp và mật pháp không có thiếu sót, tông môn nào đã tàn thì làm cho sống dậy, tông môn nào còn lại chút ít thì làm cho tăng trưởng, vết bẩn của tà kiến thì khéo làm cho sạch, giúp cho chánh pháp lìa xa mọi cấu nhiễm.

Để viết một bài pháp minh giải ý thật của Phật, cần phải có ba nhân lành như sau: 1. thông đạt năm lãnh vực kiến thức (ngũ minh); 2. thọ nhận lời khai thị hành trì về nội dung tinh yếu xuất phát từ bậc Chánh Đẳng Chánh Giác qua một dòng truyền thừa thù thắng không gián đoạn; 3.  diện kiến đấng Bổn tôn, được Bổn tôn trực tiếp cho phép nói pháp. Chỉ cần có được một trong ba nhân lành ấy là có thể tác luận, nếu đủ được cả ba lại càng lớn lao thù thắng. Ba nhân lành ấy, đại đạo sư Atisa có đủ cả.

Về việc Ngài được chư Bổn tôn hộ trì, sách Tán Dương nói như sau:

Hỉ-Kim-Cang cát tường (Hevajra) //
Mật Thệ Trang Nghiêm Vương (Samayāvyūharāja)//
Thế Tự Tại Đại Hùng (Avalokiteśvara)//
Tôn Phật mẫu Tara cùng chư Bổn tôn khác //
Ngài đều được diện kiến, và nhận lời hứa khả //
Trong mộng hay trực tiếp //
Diệu pháp rộng và sâu //
Ngài luôn được nghe thấy. //

Đức Atiśa thọ nhận và nắm giữ rất nhiều dòng truyền thừa đến từ cả hai cỗ xe phổ thông thừa và đại thừa. Trong đại thừa, Ngài có hai cổ xe ba-la-mật thừa và mật chú thừa. Trong ba-la-mật thừa, Ngài có hai dòng tri kiến và thiện hạnh. Trong thiện hạnh, Ngài có cả hai dòng pháp, từ đức Di lạc và từ đức Văn thù, vậy là có ba dòng [ba-la-mật thừa]. Mật chú Ngài cũng thọ năm dòng truyền thừa, cùng các dòng truyền thừa khác như dòng hệ tri kiến, dòng gia trì, dòng các loại khai thị, vân vân.

Nói về chư đạo sư trực tiếp truyền pháp cho Ngài, sách Tán Dương nói như sau:

Trong số các đạo sư / mà Ngài luôn nương dựa://
Có đức Bảo tích tịnh (Śāntipa – Ratnākaraśānti) //
Cùng với đức Pháp Xứng (Serlingpa – Suvarņadvīpa), //
Có đức Quang Bồ Đề (Bhadrabodhi),//
và đức Trí Cát Tường (Jñānaśrī-), //
Rất nhiều bậc đạo sư / đã đạt đại thành tựu,//
Đặc biệt là hai dòng / khai thị quảng và thâm //
Từ Long Thọ truyền xuống //
Từng đời không gián đoạn, //
Ngài là người nắm giữ.

Đức Atisa nổi tiếng có 12 hai vị sư phụ đã đạt đại thành tựu, cùng nhiều vị sư phụ khác. Việc ngài thông đạt ngũ thông trên đây đã nhắc đến. Do vậy mà nói đức Atiśa có đủ khả năng nói đúng ý thật của Phật.

Với bậc Thầy như vậy, đệ tử ở Ấn Độ, Kashmir, Oḍḍiyāna, Nepal và Tây tạng số lượng nhiều không thể tưởng, tuy vậy đại đệ tử vẫn là bốn vị hiền thánh Ấn Độ, trí tuệ ngang bằng với sư phụ: Bitopa, Dharmākaramati, Madhyasiṃha và Kṣitigarbha. Cũng có nơi nói có đức  Mitraguhya là đại đệ tử thứ 5. Ở Ngari có hai đại dịch giả Rinchen Zangpo và Nagtso, cùng với Lhalama Jangchub Ö. Ở tỉnh Tsang có Gargewa và Gokugpa Lhaytsay. Ở Lodrag có Chagpa Trichog và Gewa Kyong. Ở Kham có Naljorpa Chenpo, Gönpawa, Sherab Dorjé, and Chadar Tönpa. Rồi ở miền Trung thổ Tây tạng có ba vị Khu, Ngog, và Drom. Trong số chư vị còn có đức Dromtönpa Gyalwa Jungné, là người được đức Tara tiên tri, bậc tổ sư vĩ đại nắm giữ dòng truyền thừa và tiếp nối thiện hạnh hoằng pháp của đức Atiśa.

Ở đây chỉ vài lời ngắn gọn về sự vĩ đại của tác giả. Cần tìm hiểu rộng hơn nhờ dựa vào các bộ sách nói về cuộc đời siêu việt của ngài.

[Chương1, Hết Phần 1. Nói về tác giả] 

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh

LUẬN VỀ TRÌNH TỰ ĐƯỜNG TU GIÁC NGỘ
Độ Dài Trung Bình, Chương 1. Phần 2



Tác giả: Lama Tsongkhapa
Hồng Như Việt dịch, 09/2020

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh

Nói về sự vĩ đại của tác phẩm để khởi lòng tôn kính lời giảng;

2 – TÁC PHẨM

Hai [Nói về sự vĩ đại của tác phẩm để khởi lòng tôn kính lời giảng]: nói về Pháp, chánh văn của luận giải này là bài pháp Ngọn Đèn Soi Đường Giác Ngộ (Bồ Đề Đạo Đăng luận)

 Mặc dù đức Atiśa đã viết rất nhiều luận giải, tuy nhiên, rốt ráo trọn vẹn nhất, như là cái gốc, chính là Ngọn Đèn này. Tất cả tinh yếu của hiển và mật đều được thu gọn nơi đây, bài pháp này bao gồm trọn vẹn đường tu giác ngộ. Lại chủ yếu trình bày cách thuần tâm theo trình tự từng bước một, nên rất dễ tu. Với lời khai thị trang nghiêm của hai bậc đại sư thâm chứng hai dòng [quảng thâm] của Đại thừa, pháp này thắng diệu nhất trong tất cả các pháp.

Chánh văn luận giải này có 4 sự vĩ đại.

Một, vĩ đại vì giúp ta hiểu được rằng tất cả giáo pháp Phật dạy đều không mâu thuẫn.

Toàn bộ giáo pháp Phật dạy đều là đường tu thành Phật cho cùng một người, có những pháp là đường tu chính, có những pháp là đường tu phụ.

Điều mà bồ tát nào cũng đều mong mỏi đó là thành tựu lợi ích cho toàn cõi thế gian. Để có khả năng hộ trì người tu thuộc ba loại căn cơ, mỗi loại căn cơ cần tu pháp nào, bồ tát đều phải tu pháp ấy. Chính vì vậy đức Di lạc Từ Thị dạy rằng chứng biết đường tu của ba cỗ xe là phương tiện giúp bồ tát thực hiện nguyện ước.

Đường tu Đại thừa có phần chung và phần riêng. Phần chung xuất phát từ hệ kinh tiểu thừa—ngoại trừ những pháp tu liên quan đến tâm cầu giải thoát cá nhân, không thuộc lãnh vực chung,

Ngoài ra, vì quả Phật chánh đẳng giác không phải chỉ cần diệt bỏ một vài lỗi lầm chọn lọc, thực hiện một vài thiện đức chọn lọc, mà cần tận diệt tất cả mọi lỗi lầm, thành tựu tất cả mọi thiện đức. Đại thừa làm được điều ấy, tận diệt mọi lỗi lầm, phát khởi mọi thiện đức, nên mọi khía cạnh của diệt và đạo của tất cả mọi cỗ xe khác, Đại thừa cũng đều có.

Vì lý do ấy, Đại thừa, đường tu Thành Phật, bao gồm tất cả lời Phật dạy. Không có lời dạy nào của Phật là không để diệt một vài loại lỗi lầm hay để phát khởi một vài loại thiện đức, và tất cả không phải là không có trong Đại thừa.

Nếu nghĩ rằng “điều này chỉ đúng cho ba la mật thừa, không đúng cho người bước vào Kim cang thừa,” phải nên biết rằng pháp tu Ba la mật thừa, như là vô lượng phân loại minh giải về hạnh thí v.v…, mặc dù không giống Kim cang thừa, nhưng phát tâm bồ đề là nền tảng của thiện hạnh và đường tu sáu hạnh ba la mật dạng thô thì như nhau, là đường tu chung. Kinh Kim Cương Đỉnh dạy rằng:

Dù vì dưỡng mạng sống,
Không bỏ bồ đề tâm.

Sáu hạnh ba-la-mật,
Không bao giờ được bỏ.

Nhiều mật điển khác cũng nói như vậy. Vô số nghi thức mạn đà la chân chính thuộc mật tông tối thượng du già nói rằng hai bộ giới chung và riêng đều cần thiết. Giới chung nói ở đây chính là giới Bồ tát. Đức Dromtonpa thường nói: “Thầy tôi biết cách khiên Phật Pháp bằng cả bốn góc.” Lời này đáng để suy nghiệm sâu xa.

Hai, vĩ đại vì nhờ đó thấy được hết thảy giáo pháp Phật dạy đều là lời khai thị hành trì.

Có người cho rằng kinh luận chỉ giải thích về lý thuyết, không phải để tu, nói rằng ý nghĩa tinh túy của pháp hành đến từ lời khai thị trực tiếp, không có trong kinh luận, thậm chí còn cho rằng Phật Pháp có hai phần riêng biệt, giải thích và thành tựu, nằm ở hai nơi khác nhau. Nghĩ như vậy sẽ tạo chướng ngại không thể khởi tín tâm sâu xa nơi kinh điển mật điển vô cấu và nơi luận giải nói rõ ý thật của Phật.

Cần ý thức rằng nghiệp từ bỏ Phật pháp vướng phải là vì thái độ xem thường kinh luận, cho rằng kinh luận chỉ là đại cương của trí tuệ bên ngoài, không nói về ý nghĩa bên trong. Vì lý do này, người cầu giải thoát phải thấy chính kinh luận là lời khai thị tối thượng không sai lầm. Tuy vậy, cũng có người vì kém trí đại loại nên không thể dựa vào lời khai thị từ kinh luận mà đạt được niềm xác quyết. Vì vậy phải có cho được niềm tin xác quyết nơi kinh luận, nghĩ rằng “tôi sẽ đạt niềm xác quyết nơi kinh luận bằng cách dựa vào lời khai thị hành trì tối thượng này,” chứ đừng nghĩ rằng kinh luận không bao gồm nội dung tinh yếu vì chỉ trình bày đại cương của hiểu biết bên ngoài, còn lời khai thị hành trì cao hơn vì bao gồm ý nghĩa bên trong.

Hiểu được một vài quyển kinh nhỏ như bàn tay thì không thể gọi là thông đạt chánh pháp. Thông đạt chánh pháp phải là người hiểu được rằng mọi quyển kinh đều là lời khai thị hành trì.

Đức Gompa Rinchen Lama, đệ tử của đức Atisa, nói rằng: “Trong một thời công phu, tôi đã theo lời dạy của Thầy Atisa nghiền hết thân khẩu và ý thành bụi mỏng, nhờ đó hiểu được rằng mọi kinh luận đều là lời khai thị hành trì.”

Như đức Dromtönpa đã nói:

Học Phật pháp cho nhiều rồi lại cảm thấy là pháp hành cần phải tìm ở nơi khác, thật quá sai.

Tương tự như vậy, học Phật pháp thật lâu thật nhiều vẫn không biết cách hành trì, vẫn thấy rằng muốn tu phải tìm ở chỗ khác, đó là vướng lỗi như đã nói ở trên. Cũng như trong A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận có nói:

Chánh Pháp Phật dạy thực chất có hai, giáo truyền và giáo chứng.

Theo đó, ngoài giáo truyền và giáo chứng ra, không có giáo pháp nào khác. Giáo truyền là phương pháp hành trì Phật pháp và cách thành tựu chứng ngộ, còn giáo chứng là thành tựu chứng ngộ ấy. Theo phương pháp tu nào thì thành tựu pháp tu nấy, vậy giữa giáo truyền và giáo chứng có mối tương quan nhân quả. Ví dụ như khi đua ngựa, trước tiên cần dạy cho ngựa quen với trường đua, rồi cho đua ở nơi tương tự. Nếu như dạy một đàng, đua một nẻo, chẳng phải đáng cười lắm sao. Tu chứng cũng vậy, đâu thể nào văn và tư một đàng, rồi tu chứng một nẻo.

Trình Tự tu Thiền cũng nói lời tương tự:

Bất cứ những gì văn tuệ và tư tuệ chứng biết, tu tuệ cũng phải chứng biết, ngoài ra không có gì khác, cũng giống như chỉ cho ngựa đua ở đâu thì ngựa sẽ đua ở đó.

Vậy giáo pháp này tóm lượt hết thảy những điểm tinh yếu có trong kinh luận, từ bước nương dựa đạo sư cho đến pháp tu chỉ quán, nơi nào cần thiền chỉ phải áp dụng thiền chỉ, nơi nào cần thiền quán phải quán bằng tuệ quán, hết thảy đều được thu gọn lại theo trình tự của pháp hành.

Nhờ được dẫn dắt như vậy nên trọn giáo pháp hiện thành lời khai thị hành trì, từ đó khởi được niềm xác quyết rằng đây chính là lời khai thị hành trì tối thắng, dứt hẳn khái niệm sai lầm cho rằng đây chỉ là kiến thức suông, không phải là để hành trì.

Ba, vĩ đại vì giúp cho dễ dàng thấy được ý thật của Phật

Mặc dù kinh và luận hướng dẫn không đâu bằng, tuy vậy, người mới tu ít học nếu không dựa vào lời trực chỉ khai thị thắng diệu thì ý thật của kinh luận dù truy tìm vẫn không thể tìm thấy, dù có tìm thấy được chăng nữa, cũng phải mất rất nhiều thời gian công sức.

Nếu dựa vào lời khai thị của đạo sư thì dễ ngộ hơn nhiều.

Bốn, vĩ đại vì đại ác hạnh tự dứt

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Người Chân Thật giải thích như sau: “nếu vì không hiểu được rằng tất cả lời Phật dạy đều là phương tiện, hoặc là trực tiếp, hoặc là gián tiếp, dẫn dắt người tu đến với quả vị Phật. Vì không hiểu như vậy, nên khởi ý nghĩ cho rằng lời dạy của Phật, có lời giúp đạt Phật quả, có lời gây chướng ngại, rồi phân biệt lời Phật có tốt có xấu, có đúng, có sai, phân biệt Đại thừa và Tiểu thừa, cho rằng bồ tát chỉ cần tu pháp này, không cần tu pháp kia, giữ ý nghĩ sai lầm như vậy chính là gieo nghiệp từ bỏ chánh pháp.

Kinh Nhiếp Nghiên nói rằng chướng nghiệp từ bỏ chánh pháp vi tế đến nỗi rất khó mà nhận diện.

Nói về hậu quả lớn lao cực kỳ của sự từ bỏ chánh pháp, kinh Chánh Định Vương dạy như sau:

Ví như có ai / trong cõi Diêm-phù
Có bao Bảo Tháp / đều phá tan cả
Nhưng nghiệp của người / từ bỏ Khế Kinh,
So với người trước / quá hơn rất xa

Ví như có ai / giết A La Hán
Số lượng nhiều như / số cát sông Hằng
Nhưng nghiệp của người / từ bỏ Khế Kinh,
So với người trước / quá hơn rất xa.

Mặc dù nghiệp từ bỏ chánh pháp có nhiều loại, nhưng đáng nói nhất vẫn là những gì vừa giải thích trên đây. Vì vậy cần nỗ lực để thôi đi. Nói vậy có nghĩa là chỉ cần đơn giản tin tưởng xác quyết nơi những gì nói ở trên là sẽ quét được cả, nhờ vậy ác hạnh sẽ tự dứt.

Có thể tìm cầu niềm xác quyết này bằng cách học thật nhiều Phẩm Người Chân Thật cũng như Kinh Pháp Hoa. Những cách khiến từ bỏ chánh pháp khác, cần phải học từ Kinh Nhiếp Nghiên.
[Hết Phần 2, nói về Tác Giả]

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh



LUẬN VỀ TRÌNH TỰ ĐƯỜNG TU GIÁC NGỘ
Độ Dài Trung Bình, Chương 1. Phần 3

Tác giả: Lama Tsongkhapa
Hồng Như Việt dịch, 09/2020

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh

3 – GIẢNG & NGHE PHÁP

Thứ ba [Giáo pháp với hai sự vĩ đại như vậy phải nên giảng và nghe như thế nào] có ba điểm: cách nghe, cách giảng, và cách hoàn tất buổi thuyết pháp nói chung.

Điểm thứ nhất [Cách nghe pháp] có 3 phần: chiêm nghiệm về lợi ích nghe Pháp, khởi lòng tôn kính chánh pháp và người thuyết pháp, và nội dung chính của cách nghe pháp.

Một [Nhớ nghĩ đến lợi ích nghe Pháp]: trong phẩm “Nghe” [Udana-varga, Kinh Xuất Diệu (Pháp cú Bắc tông), phẩm 23] nói rằng:

Nhờ nghe Pháp hiểu được vạn pháp;
Nhờ nghe Pháp ngưng không làm ác;
Nhờ nghe Pháp, bỏ việc tào tạp;
Nhờ nghe Pháp thành tựu niết bàn

Dựa vào sự nghe, từ từ sẽ hiểu ra những điều cần lấy, cần bỏ. Từ sự hiểu này mà giữ giới không làm điều ác. Từ đó biết quay đầu với những việc làm tào tạp vô nghĩa, tâm nhờ vậy có được định, tùy ý an trú nơi thiện pháp. Rồi nhờ tu Tuệ chứng vô ngã, cùm gông gốc rễ của sinh tử luân hồi sẽ bị phá, nhờ đó đạt quả giải thoát.

Bổn Sanh Man Kinh cũng nói như sau:

Ai người nghe pháp / sẽ đầy tin tưởng
Tâm sẽ an định / vui với pháp lành
Tuệ sẽ phát sinh / vô minh tan biến
Cắt thịt mình mua /  cũng đáng lắm thay.

Nghe Pháp là đèn / quét sạch vô minh
Là tài sản không cướp nào cướp nổi
Là vũ khí diệt / kẻ thù mê muội
Là bạn tối hảo / dạy cách tu đúng.

Là bạn chí thiết / bất kể giàu nghèo
Là thuốc vô hại / trị mọi khổ bệnh
Là đội nhuệ quân / diệt lỗi đại ác
Danh vọng, vinh quang, / tài sản tối thượng
Là quà quí nhất / khi gặp quí nhân
Ở giữa đám đông / đẹp lòng kẻ trí

Lại nói rằng:

Nghe rồi dấn thân / vào trong pháp hành / lấy làm tinh túy
Thành quách sinh tử / thoát chẳng khó gì.

Thường xuyên nhớ nghĩ đến lợi ích của sự nghe pháp để từ tận đáy lòng phát khởi tín tâm.

Thứ hai [Khởi tâm tôn kính pháp và người thuyết pháp]: Kinh Địa Tạng nói rằng:

Chuyên chú nghe bằng / niềm tin tôn kính
Đừng nên chỉ trích / cũng đừng khinh rẻ
Pháp sư giảng pháp, / phụng sự cúng dường,
Thấy người ấy chẳng / khác gì Như lai.

Theo đó, hãy xem người thuyết pháp giống như đức Phật, lập tòa sư tử cung kính phụng sự, từ bỏ lòng bất kính. Kinh Bồ Tát Địa nói như sau: “Đối với Phật pháp và người nói pháp, hãy đừng kiêu mạn, đừng khinh thường, phải nên tôn kính.” Kinh Bổn Sanh Man nói như sau:

Ngồi vào chỗ thấp nhất, / tỏa hào quang giới hạnh,
Nhìn bằng đôi mắt vui, / uống lời chữ cam lồ.
Nhất tâm cung kính lạy / với tấm lòng sạch trong
Chí thành lắng nghe pháp / như bệnh nghe y sĩ.

Thứ ba [Nội dung chính về cách nghe] có hai phần: Bỏ 3 lỗi của bình chứa và dựa vào 6 tư duy

Một [Bỏ 3 lỗi của bình chứa]: Nếu đồ chứa úp ngược, hoặc ngửa lên nhưng dơ bẩn, hoặc sạch sẽ nhưng lủng đáy, thì dù chư thiên có tạo nên một loại mưa chỉ để rót vào đó, mưa vẫn không thể vào được. Cho dù có vào được cũng, sẽ bị chất bẩn trong bình làm dơ. Cho dù không bị làm dơ, cũng không giữ được gì, sẽ bị rò rỉ hết. Tương tự như vậy, nếu ngồi ở chỗ có người thuyết pháp nhưng không nghe rõ, hoặc có nghe nhưng vì phiền não tác động nên nghe sai, hoặc dù không vướng hai lỗi trên nhưng nghe rồi không ôn lại nên quên mất, cần xa rời những lỗi lầm đại loại.

Thuốc đối trị của ba lỗi này, khế kinh nói rõ: “nghe rõ, nhất tâm, và ghi nhớ.” Kinh Bồ Tát Địa còn nói rằng phải nghe với lòng khát khao muốn biết tất cả, chuyên tâm, cẩn trọng, khiêm cung và tư duy bằng trọn sự chuyên chú.

Thứ hai [Dựa vào sáu cái thấy] có 6 điểm: [1] nghiệm thấy bản thân mình giống như người bệnh; [2] nghiệm thấy người nói chánh pháp giống như y sĩ; [3] thấy giáo giới là thuốc; [4] thấy dụng công tu tập là chữa bệnh; [5] nghiệm thấy Như Lai là bậc siêu việt; [6] cầu mong chánh pháp trường tồn.

Một [Nghiệm thấy bản thân mình giống như người bệnh]: Nhập Bồ Đề Hạnh Luận nói rằng

Bệnh nhỏ đã phải
Nghe lời thầy thuốc
Huống chi trăm vạn trọng bệnh trầm kha
Như tham sân si tác hại tơi bời

Như nói ở đây, vì bị phiền não như là lòng tham tác hại mà phải chịu bệnh khổ trầm kha lâu dài rất khó chữa. Vì vậy trước tiên cần phải nhận diện được điều này. Đức Karmapa nói như sau:

“Dựa vào sự biết không đúng với thực tại mà tu thì sẽ đi sai hướng. Chúng ta là những người vướng bệnh tam độc kinh niên vô cùng nghiêm trọng, nhưng đối với bệnh của chính mình lại không hay không biết.”

Thứ hai [Nghiệm thấy người nói chánh pháp giống như y sĩ]: Ví dụ đổ bệnh trầm trọng thì tìm y sĩ chữa bệnh, tìm được mừng vui vô kể, dặn gì làm nấy, kính trọng rất mực. Tương tự như vậy,  truy tìm thiện tri thức nói Pháp, tìm được rồi làm hết tất cả những gì Thầy bảo làm, trang nghiêm không thấy đó là gánh nặng, cung kính phụng sự cúng dường.

Thứ ba [Thấy giáo giới là thuốc], thuốc y sĩ pha cho, người bệnh trân quí vô cùng. Tương tự như vậy, lời khai thị và giáo giới mà Pháp sư ban cho, phải xem đó là điều quan trọng bậc nhất, nỗ lực trân quí giữ gìn không để phí bỏ trong quên lãng.

Thứ tư [Thấy dụng công tu là chữa bệnh], y sĩ cho thuốc, không uống thì không thể hết bệnh, hiểu vậy nên người bệnh chịu khó uống thuốc. Tương tự như vậy, Pháp sư cho Pháp, không tu thì không thể hết tham hay sân v.v…, hiểu vậy hãy nên dốc sức hành trì, đừng phí công đếm số phân loại chữ nghĩa rồi không tu.

Nói cho ngay, người mắc bệnh hủi rụng cả tay chân thì uống một hai thang thuốc không thay đổi được gì. Tương tự như vậy, chúng ta từ vô thủy sinh tử đã vướng căn bệnh phiền não vô cùng dữ dội, đối với chánh pháp không thế chỉ tu một hai lần mà khỏi, cần vận dụng diệu quán sát trí để mà xét, kiên trì như dòng nước chảy, như Sám Tán nói:

Phải nói rằng tâm này luôn mê muội
Đã từ lâu nuôi dưỡng chứng bệnh này.
Người bệnh hủi, chân tay đều đã rụng,
Thuốc vài thang, thử hỏi ích gì đâu.

Vì vậy thấy được chính mình là người bệnh là điều rất quan trọng. Có được sự thấy này thì những sự thấy khác cũng sẽ đến. Còn nếu như chỉ là lời nói đầu môi thì sẽ biến thành kẻ nghe suông, không thể vì muốn dẹp phiền não mà hành trì chân nghĩa của chánh pháp. Kinh Chánh Định Vương nói rằng: như người tìm y sĩ rồi bỏ công sức chỉ để lấy toa thuốc, còn thuốc thì lại không uống, làm như vậy bệnh không thể nào hết. Kinh ấy còn nói:

Chánh Pháp tôi đã giảng,
Bạn nghe rồi không tu.
Người bệnh ôm túi thuốc,
Bệnh chẳng thể nào lành.

Nhập Bồ Đề Hạnh Luận nói rằng:

Những lời nói đây cần phải thực hành
Nói suông thì chẳng lợi ích gì đâu
Người bệnh nếu như chỉ đọc toa thuốc
Bệnh làm sao dứt?

Vậy phải có cái tâm thấy rằng dụng công với pháp hành là chữa bệnh.

Chữ “dụng công” nói ở đây có nghĩa là làm theo lời Thầy dạy về những gì cần làm, cần bỏ.

Muốn thực hành, cần phải biết. Muốn biết, cần phải nghe. Nghe là để biết, biết là để tu. Quan trọng nhất là nghe rồi tùy sức mà làm theo, bằng không đến lúc lâm chung sẽ cảm thấy hối tiếc với những gì mình đã không làm, sẽ thấy mình giống như người chỉ biết xem người khác trình diễn, hay giống kẻ thèm ngọt lại đi ăn vỏ mía.

Kinh Khuyến Đại Nguyện nói rằng:

Việc tu đã lỡ / giờ biết làm sao
Kẻ ấu trĩ này / chết trong sầu não
Không đạt thâm sâu / khổ đau phải chịu
Đó cũng chỉ vì / ưa thích nói suông.

Lại nói:

Như người ngồi giữa / đám đông xem hát
Khoe khoang tài năng / của anh hùng khác
Bản thân pháp hành / dụng công không đủ
Đó cũng chỉ vì / ưa thích nói suông.

Lại nói:

Ở trong vỏ mía / nào có gì đâu
Thứ làm ngon miệng / nằm ở trong ruột
Người nhai vỏ mía / mật ngọt phía trong
Thơm ngon thế nào / làm sao nếm được

Và rằng:

Nói suông cũng tựa / như là vỏ mía
Tư duy ý nghĩa / chính là ruột ngon
Đã vậy thì thôi / bỏ lời nói suông
Tâm không phóng dật, / tư duy ý nghĩa.

Thứ năm [nghiệm thấy Như Lai là bậc siêu việt], nhớ rằng sư phụ giảng pháp là Phật, nhờ đó khởi tâm tôn kính.

Thứ sáu [mong chánh pháp trường tồn], nghĩ rằng mong sao nhờ nghe Pháp này mà chánh pháp Phật dạy được trường tồn trên cõi thế.

Ngoài ra, khi thuyết pháp hay nghe pháp, nếu như pháp thuyết một đàng tâm để một nẻo, thì dù có là pháp gì cũng đều vô tác dụng. Phải nghe như thế nào để tâm có được sự vững vàng xác quyết. Lấy ví dụ, muốn biết trên mặt mình có dính bụi hay bùn hay thứ gì dơ hay không thì soi gương, thấy có gì dơ thì chùi đi. Nghe pháp cũng vậy, những việc làm sai trái của chính mình như tham sân v.v… cũng sẽ hiện ra trên tấm gương chánh pháp. Khi ấy giật mình: “tâm tôi bây giờ biến thành thế này,” cảm thấy nhức nhối trong tim, nhờ vậy bắt đầu quét bỏ lỗi lầm, thành tựu thiện đức, cứ làm như thế thì nhất định là theo thuận với chánh pháp.

Kinh Bổn Sanh Man nói rằng:

Nhìn thấy bộ dạng / ác hạnh của mình
Hiện lên rõ ràng / trên tấm gương Pháp
Tâm tôi nhức nhối / dày vò hối hận
Nay xin hướng trọn / về nơi chánh Pháp

Đó là lời của con trai của Sudasa nói với Bồ tát Candra để thỉnh pháp. Biết tâm ấy đủ sức đương cơ chánh pháp, nên Bồ tát nói pháp cho nghe.

Tóm lại, hãy suy nghĩ như vầy: “vì lợi ích của khắp cả chúng sinh, tôi phải đạt quả vị Phật. Để đạt quả vị Phật, cần tập luyện nhân thành Phật. Để tập luyện nhân thành Phật, cần nghe Pháp là việc hiển nhiên. Vì vậy tôi phải nghe Pháp.” Hãy phát tâm bồ đề, nhớ lợi ích nghe Pháp, giữ lòng hoan hỉ, buông bỏ các loại lỗi lầm của bình chứa để mà lắng nghe.

Điểm thứ hai [Cách giảng pháp]có bốn phần: nhớ nghĩ đến lợi ích giảng pháp; cung kính phụng sự chánh pháp và người nói chánh pháp; giảng pháp với tâm bên trong và biểu hiện bên ngoài như thế nào; phân biệt người nào mình có thể nói pháp cho, người nào không thể.

Thứ nhất [Nhớ nghĩ đến lợi ích giảng pháp]: Câu Xá Luận nói như sau:

San sẻ chánh pháp,
Không vướng nhiễm tâm,
Giảng dạy thuận theo
Kinh luận chân chính.

Luận giải Câu Xá Luận nói rằng:

“Do đó người nào giảng sai về chánh pháp, để tâm vướng phiền não, nói pháp vì cầu lợi cầu danh, muốn được người tôn kính, người ấy sẽ vì vậy mà hao tổn công đức lớn.”

Động cơ thanh tịnh của người nói Pháp là điều quan trọng bậc nhất. Như Đức Ngargompa từng nói: “tôi nếu chưa thiền quán về vô thường thì chưa thuyết pháp,” vậy xét lại động cơ của chính mình trước khi thuyết pháp là điều tối quan trọng.

Kinh Khuyến Thỉnh Đại Nguyện có nói về hai mươi lợi ích, thuộc hai thể loại, đến từ sự san sẻ thí pháp không vì tiền của lợi danh. Bạo Ác Sở Vấn Kinh cũng nói như sau: công đức của cư sĩ bố thí số lượng tài vật nhiều vô kể vẫn không thể sánh với công đức của người xuất gia cho pháp dù chỉ một câu.

Thứ hai [Cung kính phụng sự chánh pháp và người nói chánh pháp]: Khi giảng về Phật Mẫu, đức Phật Bổn sư tự tay sửa tọa cụ. Chánh pháp này đến như chư Phật còn hết lòng tôn kính phụng sự, vậy đối với chánh pháp và đối với đấng Bổn sư [Thích Ca Mâu Ni Phật] từ bi cho pháp, hãy luôn ghi nhớ ơn nặng, giữ lòng tôn kính.

Thứ ba [Giảng pháp với tâm bên trong và biểu hiện bên ngoài như thế nào] có hai: Tâm bên trong và biểu hiện bên ngoài

Một [Tâm bên trong]. Trí Hải Vấn Kinh có nói về 5 sự thấy: thấy mình là y sĩ; thấy người nghe là bệnh nhân; thấy Như Lai là bậc siêu phàm; nguyện chánh pháp trường tồn; tu từ tâm với thính chúng. Còn cái tâm ganh ghen sợ người hơn mình, cái tâm giải đãi, biếng lười, hay là chán mệt khi phải giảng đi giảng lại nhiều lần, khoe bản thân, bới lỗi người, dấu kinh sách không muốn cho mượn, lo toan y áo vật chất, những cái tâm như vậy hãy bỏ đi, nghĩ rằng: “nói pháp là vì để bản thân và người khác đạt Phật quả, công đức ấy là chính là nguồn vui của mình.”

Hai [Biểu hiện bên ngoài]. Tắm rửa khoác y áo sạch sẽ, ngồi vào tọa cụ trên pháp tòa đặt ở một nơi sạch sẽ dễ ưa, tụng chú trừ tà ma, trong phạm vi một trăm do tuần (hơn 7000km) không có loài ác ma ác thần nào có thể đến, cho dù có đến đi chăng nữa, cũng không có khả năng tạo chướng ngại, Kinh Trí Hải Vấn Kinh nói vậy.

Thứ tư [Phân biệt ai là người có thể nói Pháp cho, ai không thể], Giới Luật Kinh nói rằng “Không ai hỏi thì đừng làm.” Nói vậy, nếu không ai thỉnh pháp thì đừng giảng pháp. Có người thỉnh cũng phải xét xem người ấy có phải là bình chứa thích hợp hay không. Nhưng nếu có ai là bình chứa thích hợp thì dù không thỉnh pháp vẫn có thể cho, như Kinh Chánh Định Vương có nói. Những hạnh khác đều được nói trong Giới Luật Kinh.

Điểm thứ ba [Cách hoàn tất buổi thuyết pháp nói chung]

Phải niêm kín thiện căn đến từ sự giảng Pháp và nghe pháp bằng các bài tụng thanh tịnh như là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Vương v.v

Làm theo như vậy thì dù chỉ một lần nghe pháp hay giảng pháp chắc chắn sẽ có được lợi ích như đã nói. Nhờ đánh thẳng vào trọng điểm khi nghe pháp giảng pháp mà tịnh được hết thảy nghiệp chướng đã từng gieo vì bất kính với Thầy, với Pháp. Nghiệp mới gieo cũng đoạn lìa từ trong mầm mống.

Nhờ cách nghe đánh thẳng vào trọng tâm như vậy nên lời khai thị nói ra tạo tác dụng tốt trên dòng tâm thức người nghe. Thấy vậy nên hết thảy các bậc giác giả trong quá khứ đều dụng công làm theo, nhất là chư tổ truyền thừa, hết thảy đều dụng công lớn lao làm theo như vậy.

Đây hiển nhiên lời khai thị lớn lao. Nếu không khởi được niềm xác quyết, cách nhìn không thay đổi, thì chánh pháp thâm sâu quảng đại, bất kể giải thích bao nhiêu, cũng chỉ giống như trời đọa thành quỉ, chánh pháp chỉ để làm cho phiền não càng thêm lớn thêm nhiều mà thôi. Thường có câu nói rằng: “mùng một mà đếm sai ngày thì sẽ sai đến rằm,” người có trí phải nỗ lực huân dưỡng cách nghe pháp và giảng pháp này, mỗi khi nghe hay giảng pháp, chí ít phải có được vài phần, vì đây là điều kiện tiên quyết quan trọng bậc nhất.

[hết phần 3. Nghe & Giảng Pháp – bài sau: 4. Cách Nương Đạo Sư ]

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh



LUẬN VỀ TRÌNH TỰ ĐƯỜNG TU GIÁC NGỘ
Độ Dài Trung Bình, Chương 1. Phần 4

Tác giả: Lama Tsongkhapa
Hồng Như Việt dịch, 09/2020

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh

4 – CÁCH NƯƠNG ĐẠO SƯ

Trình tự dẫn dắt người tu qua nội dung chính của lời giảng

4 – CÁCH NƯƠNG ĐẠO SƯ

Phần bốn [Trình tự dẫn dắt người tu qua nội dung chính của lời giảng]: có hai phần: [1] cách nương dựa bậc thiện tri thức, gốc rễ của đường tu; [2] trình tự đường tu sau khi nương dựa bậc thiện tri thức

Thứ nhất [Gốc rễ đường tu: Cách nương dựa đạo sư] có hai phần: Giải thích tương đối chi tiết về cách khởi niềm xác quyết; trình bày ngắn gọn về cách duy trì niềm xác quyết.

Một [Giải thích tương đối chi tiết về cách khởi niềm xác quyết]:

Thứ nhất [Cần nương dựa bậc thiện tri thức vì mọi thiện đức có được đều tùy thuộc nơi Thầy]: nơi tâm người tu thêm được một thiện đức, bớt được một lỗi lầm, cho đến cùng tận mọi an vui, gốc rễ của tất cả nằm ở bậc thiện tri thức. Lời khai thị của Thầy từng bước dẫn dắt đệ tử, vì vậy ở bước khởi đầu quan trọng nhất là cách nương dựa đấng đạo sư thiện tri thức.

[Nội dung cách nương dựa đạo sư] có sáu phần: [1] đặc tánh của chỗ nương là Đạo sư; [2] đặc tánh người nương là đệ tử; [3] cách nương dựa; [4] lợi ích nương dựa Đạo sư; [5] khuyết điểm không nương dựa Đạo sư; [6] tóm lược phần này

Một. [đặc tánh của Đạo sư, chỗ nương dựa]. Nói chung, Kinh Luận có đã nói nhiều về việc này cho cỗ xe biệt giải thoát, ở đây vì chủ yếu là để dẫn dắt theo trình tự đường tu dành cho chúng sinh thuộc 3 loại căn cơ, nên sẽ nói về bậc Đạo sư dẫn dắt trong Đại thừa Phật đạo.

Luận Đại thừa Trang Nghiêm Kinh nói rằng:

Đạo sư đại thừa, người biết tự chế; an định; tịch tĩnh;
Thiện đức của Thầy cao hơn đệ tử; có lòng tinh tấn; có được kho tàng giáo pháp của Phật;
Viên thành chứng ngộ về chân thực tại; khéo léo ngôn từ;
có được tâm từ; bỏ lòng chán mệt: hãy nên nương vào bậc Thầy như thế.

Luận nói rằng bậc thiện tri thức nào có đủ mười điều nói trên, đệ tử phải nên nương vào

Bản thân không tự chế thì chẳng thể nói được ai. Làm đạo sư muốn chế ngự tâm của người khác thì trước tiên phải có khả năng tự chế ngự tâm của chính mình.

Kinh Biệt Giải Thoát nói rằng:

Giới là dây cương
với trăm đinh nhọn
Vừa vặn buộc vào
tâm như ngựa chứng

Như người giỏi thuần ngựa dùng dây cương tốt để kềm chế ngựa chứng bất thuần, bậc thiện tri thức dùng giới để kềm chế chính mình, không để giác quan như ngựa chứng chạy loạn theo đối cảnh tà vạy, bỏ ra công sức lớn để đưa tâm về làm việc cần làm. Vì vậy mà nói đạo sư là người biết tự kềm chế tâm như ngựa bất thuần của chính mình.

An định là có Định: dựa vào chánh niệm và tỉnh giác biết làm việc cần làm, bỏ điều cần bỏ, nội tâm luôn được bình yên, nhờ tu như vậy mà thành tựu Định vô lậu học.

“Tịch tĩnh” là có Tuệ: dựa vào tâm nhu nhuyễn tịnh chỉ (Samatha) phân tích tầm tư về chân thực tại, nhờ tu như vậy mà thành tựu Tuệ vô lậu học.

Tuy nhiên, chứng đắc Giới Định Tuệ nhờ vào đó tự thuần luyện tâm mình, chỉ bấy nhiêu là không đủ. Đạo sư còn phải là người thông đạt kinh điển, vì vậy mà nói phải “giàu giáo pháp Phật” có nghĩa là phải đa văn, học rộng biết nhiều về tam tạng kinh điển.

Theo lời Geshe Dromtonpa:

Làm đạo sư đại thừa thì khi cất lời giảng pháp phải khiến cho người nghe có được sự hiểu thâm sâu, khi hạ thủ công phu thì phải nói rõ vào thời kỳ Phật pháp cuối cùng, tu pháp nào thì được lợi ích, tu pháp nào thì trực tiếp có ý nghĩa.

“Chứng được chân tướng của thực tại” là pháp tu Tuệ đặc biệt, chứng được tánh vô ngã của vạn Pháp, tốt nhất là trực chứng, nếu không thì chứng ngộ qua khế kinh và suy nghiệm cũng chấp nhận được.

Tuy vậy, dù có giáo truyền và giáo chứng nhưng nếu như thua kém hơn, hay là ngang bằng với đệ tử thì cũng không được. Thiện đức của Đạo sư cần phải cao trội hơn của đệ tử, như Kinh Xuất Diệu (Udana-varga Pháp cú Bắc tông) có nói:

Dựa người kém hơn, / sẽ bị thoái hóa;
Dựa người ngang mình, / sẽ chẳng đổi thay;
Dựa bậc thù thắng, / sẽ đạt thắng diệu;
Vậy phải nên dựa / vào người hơn mình.
Giới hạnh, tịch tĩnh, / trí tuệ vượt bực,
Được người như vậy / để mà nương vào,
Sẽ thành thù thắng / hơn bậc thù thắng.

Đức Puchungwa nói như sau:”Khi đọc câu chuyện cuộc đời của các bậc giác giả, tôi luôn noi theo,” và đức Thazhi nói rằng: “Tôi luôn noi gương các bậc trưởng lão ở Tu viện Radreng.” Chúng ta cần phải có một ai với thiện đức cao trội để mà noi theo.

Sáu điều nói trên là sáu thiện đức đạo sư cần có cho bản thân.

Bốn thiện đức còn lại là những gì đạo sư cần có để giữ gìn cho người khác. Sách có câu nói rằng:

Mâu Ni không thể / dùng nước tẩy nghiệp
Không thể dùng tay / quét khổ chúng sinh
Chứng ngộ của mình, / không thể cho ai
Mâu Ni phổ độ / bằng cách dạy về / chân tánh thực tại

Phật dạy cho đường tu chính xác bất loạn, gìn giữ cho chúng sinh, ngoài ra Phật không thể làm những việc như là dùng nước tẩy ác nghiệp. Trong bốn điều còn lại, “khéo léo ngôn từ” nghĩa là tùy tâm của người cần giáo hóa, khéo biết trình tự dẫn dắt để nói đúng lời người nghe có thể hiểu. “Có được tâm từ” nghĩa là giảng pháp bằng cái tâm trong sáng chân thật, vì lòng từ bi mà nói pháp chứ  không vì lợi, vì danh.

Đức Potawa nói với đức Chen-nga-wa như sau: “Này con trai của Limo: Ta đã giảng bao nhiêu Pháp, nhưng chưa một lần chờ đợi lời cám ơn. Chúng sinh không một ai là không khốn khổ.” Chúng ta cần một người như thế.

”Có lòng tinh tấn” là luôn thiết tha vì lợi ích của người khác. “Bỏ lòng chán mệt” là giảng đi giảng lại nhiều lần vẫn không thấy mệt mỏi chán ngán, ngược lại nhẫn chịu khó khăn khi giảng pháp.

Đức Potowa nói rằng: “Ba môn vô lậu học, chứng chân thực tại, và trái tim từ ái là năm phẩm hạnh trọng yếu. Thầy Zhang-tsün (ཞང་བཙུན་) của tôi hiểu biết không rộng, đức nhẫn cũng không nhiều, gặp người có lòng giúp đỡ cũng không hề biết cám ơn, thế nhưng vì Thầy hội đủ năm phẩm hạnh nói trên nên, bất kể là ai, hễ đến gần bên Thầy là đều được lợi ích. Còn Thầy Nyentön (གཉན་སྟོན་) thì ngôn từ không hề khéo léo, mỗi khi giảng về lợi ích của sự hồi hướng, Thầy chỉ biết có mỗi một điều, đó là người nghe không một ai hiểu được Thầy đang nói những gì. Tuy vậy, vì có được năm điều nói trên nên ai ở gần Thầy cũng đều được lợi ích.”

Mặc dù thời nay muốn tìm cho ra một vị đạo sư với đầy đủ mọi đặc tánh như vậy là điều vô cùng khó khăn, tuy vậy, đừng bao giờ nương dựa vào người khuyến điểm nhiều hơn ưu điểm, hay là người ưu điểm và khuyết điểm bằng nhau, mà phải nên nương dựa vào người nhiều ưu điểm hơn.

Vị đạo sư mang lại quả giải thoát, đây chính là cội rễ của mục tiêu mà quí vị vẫn luôn mong cầu.  Vậy ai muốn nương dựa vào đấng đạo sư thì phải nên biết rõ về những điều kiện nói trên và phải nên dốc sức truy tìm một bậc Thầy với đầy đủ mọi phẩm hạnh. Ai muốn làm chỗ nương cho đệ tử cũng phải nỗ lực để tự mình có được những phẩm hạnh này.

Thứ hai [đặc tánh người nương là đệ tử]: 400 Thi Tụng nói rằng

Ai người tâm thẳng, có trí, thích nghe,
Thì được gọi là bình chứa chánh pháp.
Bằng không, thiện đức nơi người thuyết pháp
Hay nơi người nghe đều không thể có.

Luận giải nói rằng người nào có được ba đặc tánh này thì người ấy là bình chứa thích hợp để nghe chánh pháp. Đủ cả ba đặc tánh thì thiện đức của đạo sư sẽ hiện rõ là thiện đức chứ không hiện thành lỗi lầm, đồng thời thiện đức của người nghe cũng hiện ra đúng là thiện đức chứ không phải lầm lỗi. Còn nếu như đặc tánh của bình chứa không đủ thì bậc thiện tri thức thuyết chánh pháp bất kể là vĩ đại và thanh tịnh đến đâu, người nghe vì cái thấy sai lệch nên luôn nhìn thành có lỗi, ngược lại đối với người nói pháp đầy lầm lỗi thì lại nhìn ra thành thiện đức.

”Tâm thẳng” ở đây có nghĩa là không nghiêng về một bên, không có thiên kiến. Thiên kiến sẽ tạo che chướng, không thấy được thiện đức, không gặp được chân nghĩa của giáo pháp khéo giảng. Tinh Túy Trung Đạo nói rằng:

Ai vướng thiên kiến / tâm trí dày vò
Sẽ không thể nào / chứng được định tâm

Thiên kiến là chấp vào tông môn của mình, chống đối tông môn người khác. Xét thấy tâm mình có khuynh hướng như vậy thì phải bỏ ngay. Thử hỏi có được điều này đã đủ hay chưa? Có được tâm thẳng thắn nhưng nếu không đủ trí thông minh để phân biệt, chân đạo thiện thuyết và tà đạo ác thuyết thấy đều như nhau thì cũng không phải là bình chứa thích hợp để nghe chánh pháp.

Thử hỏi có được hai điều ấy đã đủ hay chưa? Dù có được hai điều nói trên nhưng nếu chỉ giống như người ngồi trong tranh nghe pháp thì cũng không thích hợp.  Vì vậy cần phải nỗ lực lớn lao. Luận giải nói rằng: “có lòng kính pháp,  kính người thuyết pháp, có tâm chuyên chú khi nghe thuyết pháp, thêm vào thành năm.”

Năm đặc tánh nói trên có thể qui nạp lại thành bốn: (1) nỗ lực lớn lao nơi chánh pháp; (2) chuyên chú nghe pháp; (3) triệt để tôn kính pháp và pháp sư giảng pháp; (4) loại bỏ pháp giảng tà vạy, giữ gìn pháp giảng thiện chân. Thuận duyên của bốn đặc tánh này là trí thông minh, còn yếu tố giúp loại bỏ nghịch duyên là tâm thẳng.

Những điều cần có để xứng được đạo sư dẫn dắt ấy, phải xét xem mình đã có đủ hay chưa. Nếu đủ, hãy dưỡng tâm hoan hỉ; nếu chưa đủ, phải nỗ lực tích lũy nhân duyên sao cho kịp có được toàn bộ trước khi vào kiếp sau.

Thứ ba [Cách nương dựa đạo sư]. Một khi đã đủ mọi đặc tánh của bình chứa thích hợp, hãy xét xem vị đạo sư có hay không có những đặc tánh của bậc chân sư như đã giải thích ở trên. Nếu có, hãy thọ nhận pháp mà đạo sư từ bi ban cho.

Đạo sư từ bi cho pháp nói chung, và đặc biệt là khéo dẫn dắt tâm đệ tử bằng lời khai thị chân chính nói riêng, với một vị đạo sư như vậy có hai cách nương dựa: nương bằng ý nghĩ (tâm); nương bằng hành động (hạnh).

Điểm một có hai phần: gốc rễ là luyện tín tâm; nhớ lòng từ của Thầy để khởi lòng tôn kính

Một. Kinh Đuốc Quí Đà La Ni (Bảo Cự Đà La Ni Kinh; Ratnolkadhāraṇī) nói rằng:

Là bước tiên khởi, / tín tâm giống như / mẹ sinh thiện đức /
Bảo vệ giữ gìn / làm cho tăng trưởng.

Câu kinh này nói rằng nhờ tín tâm, thiện đức nào chưa sinh sẽ sinh, thiện đức nào đã sinh sẽ được duy trì càng lúc càng thêm lớn mạnh.

Kinh Thập Pháp cũng nói như sau:

Trong số những điều / dẫn vào giải thoát
Tín tâm chính là / cỗ xe tối thượng
Vì thế cho nên / ai người có trí
Đều luôn tìm theo / nương dựa tín tâm
Còn nơi những người / thiếu mất tín tâm
Thì không thể nào / phát sinh thiện pháp
Như là hạt mầm / đã bị lửa đốt
Sẽ không thể nào / nảy được chồi xanh.

Nói vậy thì dù xét ngược hay xuôi, tín tâm vẫn là nền tảng của mọi thiện đức.

Nói chung, tín tâm có rất nhiều loại: tin nơi Tam bảo, nơi nghiệp quả, nơi tứ đế. Tuy vậy, tín tâm đang nói ở đây là tín tâm nơi đấng đạo sư. 

Về cách nhìn đạo sư, Đại Mật Kinh Quán Đảnh Kim Cang Thủ nói như sau:

Hỏi đấng Mật Chủ, đệ tử phải nên nhìn Thầy thế nào?
Phải nên nhìn Thầy như Phật Thế Tôn.

Kinh và Luật cũng có lời tương tự. Nói như vậy có nghĩa là nếu biết là Phật, tự nhiên sẽ không khởi niệm bắt lỗi, trong tâm sẽ chỉ thấy thiện đức. Tương tự như vậy, đối với Đạo sư, đừng soi lỗi ngược lại phải luyện tâm biết nhìn thiện đức của Thầy.

Mật kinh ấy còn nói:

Thiện đức của Thầy, tâm nên giữ lấy
Đừng bao giờ nên bắt lỗi nơi Thầy
Giữ thiện đức Thầy, sẽ đạt thành tựu
Nếu như giữ lỗi, thành tựu không thành

Đạo sư dù đa phần là tốt nhưng nếu đệ tử chỉ biết soi vào đôi chút lầm lỗi của Thầy, làm như vậy sẽ tạo chướng ngại cho thành tựu của chính mình. Ngược lại, Đạo sư dù đa phần là xấu nhưng nếu đệ tử luyện tín tâm bằng cách không nhìn vào khía cạnh xấu mà chỉ chú tâm đến khía cạnh tốt của Thầy, làm như vậy sẽ thành nhân mang đến quả thành tựu.

Vì vậy, đã là sư phụ của mình rồi thì dù Thầy có lỗi lầm lớn hay nhỏ gì cũng hãy nhớ rằng soi lỗi Thầy tai hại như thế nào, thường xuyên tập bỏ cái tâm soi lỗi ấy đi, cho đến khi dứt hẳn.

Gặp lúc tâm buông lung hay nhiều phiền não nên lỡ khởi niệm thấy lỗi nơi Thầy thì phải nỗ lực sám hối, kềm giữ tâm lại. Được như vậy thì dù có thấy một vài lầm lỗi nơi Thầy, vì tâm đã quen nhìn vào mặt tốt của Thầy nên tín tâm sẽ không bị ma chướng tác hại.

Ví dụ đức Atiśa thuộc hệ tri kiến Trung quán, còn đức Serlingpa thuộc hệ tri kiến Duy thức Thật Tướng Tông? (སེམས་ཙམ་རྣམ་བདེན་) xét trên phương diện tri kiến thì có cao có thấp như thế, tuy nhiên, vì trình tự đường tu phổ thông Đại thừa cùng với bồ đề tâm, đức Atiśa chứng được là nhờ nương vào đức Serlingpa, vì vậy đối với Ngài, sư phụ Serlingpa (Pháp Xứng) là bậc Đạo sư không đâu sánh bằng.

Thứ hai [Nhớ lòng từ của Thầy để khởi lòng tôn kính]. Kinh Thập Pháp nói rằng

Tôi đã lâu rồi trôi lăn sinh tử, nhờ có Thầy tìm tôi.
Tôi đã lâu rồi chìm trong giấc ngủ vô minh che chướng, nhờ có Thầy đánh thức.
Biển sinh tử tôi đã lún sâu, nhờ có Thầy kéo lại.
Đường dữ kia tôi đã sa chân, Thầy dạy cho đường lành.
Gông cùm tù ngục sinh tử, nhờ có Thầy cởi thoát.
Bệnh khổ bức bách triền miên, nhờ Thầy như bác sĩ chữa bệnh cho.
Kẻ bị tham sân phiền não đủ loại thiêu đốt như tôi.
Phải thấy Thầy như mây, làm mưa rơi xoa dịu nỗi đau này.

Kinh Hoa Nghiêm (Phẩm Nhập Pháp Giới – Gaṇḍavyūha) cũng nói như sau:

Đây là Thầy tôi / thuyết cho chánh pháp
Thiện đức vạn pháp / Thầy dạy tận tường
Dạy trọn hạnh tu / của bồ tát đạo
Một lòng nghĩ vậy / tôi đã đến đây.

Thầy sinh tất cả / giống như người mẹ
Mớm sữa thiện đức / như là vú em
Dùng chi bồ đề / làm sạch tất cả
Thầy của tôi đây / trừ hết chướng ma.

Giúp thoát già chết / như là y sĩ
Mưa cam lồ như / Đế Thích thiên vương
Tựa như mặt trăng / làm tăng thiện pháp
Mặt trời sáng tỏ, / soi nẻo bình an.

Với bạn hay thù / Thầy đều như núi
Như là biển cả / bất loạn an nhiên
Trọn vẹn giữ gìn, / và cũng như là / người lái chuyến phà
Với tâm như vậy / nên Thiện Tài tôi / đã đến nơi này.

Là chư Bồ tát / làm trí tôi sinh.
Là trưởng tử Phật / làm khởi bồ đề.
Ân sư của tôi / chư Phật tán thán,
Với tâm lành này / tôi đã đến đây.

Cứu độ thế giới / như bậc đại hùng.
Thành người thuyền trưởng, / thành bậc hộ trì / thành chốn qui y.
Thầy là đôi mắt / cho niềm an lạc.
Với tâm như vậy / tôi tôn kính Thầy.

Phải nên ghi nhớ những lời nói ở đây qua âm điệu tụng niệm, thay thế mình vào chỗ của Thiện Tài Đồng Tử.

Thứ hai [Cách nương bằng hành động]. Năm Mươi Câu Thi Tụng Tôn Kính Thầy (Gurupañcāśikā) nói như sau:

Ở đây cần chi phải nói nhiều lời:
Hãy làm những gì khiến cho Thầy vui
Bỏ hết những gì khiến Thầy trái ý
Suy xét trước sau , gắng sức mà làm
Thành tựu đến nhờ tùy thuận đạo sư
Phật Kim Cang Trì đã nói như vậy
Biết thế, hãy nên vận dụng tất cả
Làm cho đạo sư hết sức hài lòng.

Tóm lại, hãy tận lực để thực hiện những gì khiến Thầy vui, từ bỏ những gì khiến Thầy trái ý.

Thứ hai [Giải thích tóm lược về ba cách làm vui lòng đạo sư]. Để thực hiện điều này, có ba lối: cúng dường tài vật; phụng sự bằng thân và khẩu; tu tập theo lời Thầy.

Như Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận có nói:

Bằng sự cung kính, / cúng dường thanh tịnh,
Phụng sự, hành trì / mà nương đạo sư.

Ở đây, điểm thứ nhất [Hiến cúng tài vật], Năm Mươi Thi Tụng Tôn Kính Đạo Sư nói rằng:

Luôn nương đạo sư mật thệ của mình
Cho ra tất cả điều không thể cho
Vợ, con, tánh mạng, cúng dường được hết
Huống chi là chút tài sản phù du.

Hiến cúng như vậy cũng giống như là
Liên tục hiến cúng mười phương Phật đà
Hiến cúng chính là tích lũy công đức
Nhờ công đức mà thành tựu tối cao.

Điểm thứ hai [Phụng sự bằng thân và khẩu].

Hãy tắm, xoa dầu, tẩm quất, đắp y, chùi rửa, chăm bệnh v.v… và nói về thiện hạnh của Thầy.

Điểm thứ ba [Tu tập theo lời Thầy]

Được Thầy giúp đỡ, hãy nên đền ơn
Bằng cách gắng tu theo lời Thầy dạy.

Thứ tư [Nương dựa Đạo sư được lợi ích gì]. Sách nói rằng làm như vậy sẽ đến gần quả vị Phật, khiến chư Tôn Thắng vui, không thiếu thiện tri thức, không sa vào cõi dữ, khó bị ác nghiệp và phiền não tác động. Nhờ luôn ghi nhớ và không làm ngược với bồ tát hạnh nên thiện đức tích lũy càng lúc càng cao, mục tiêu trước mắt và mục tiêu tối hậu hết thảy đều thành tựu cả.

Hơn nữa, tôn kính phụng sự tôn sư thì nghiệp đọa ác đạo sẽ cạn hết ngay trong đời này chỉ phải chịu chút ít tổn hại thân tâm, hay trong giấc ngủ. Thường nói rằng lợi ích tôn kính phụng sự tôn sư vô cùng lớn lao, cả thiện căn cúng dường vô lượng Phật đà cũng không thể sánh.

Thứ năm [Không nương dựa Đạo sư tai hại ra sao]. Một khi đã nhận bậc thiện tri thức làm đạo sư rồi đổi ý không nương dựa nữa, điều này sẽ khiến bị nhiều tật bệnh tà ma ám chướng tác hại ngay trong đời này, và các kiếp về sau sẽ phải chịu cảnh khổ đau vô lượng trong các cõi ác đạo. Năm mươi Thi Tụng Tôn Kính Đạo Sư nói như sau

Đạo sư của mình / thì đừng bao giờ
Khuấy động tâm Thầy / khiến Thầy trái ý
Nếu vì ngu muội / mà làm như vậy
Nhất định địa ngục / sẽ bị nung sôi
Lời dạy chân chính / dạy rằng các cõi
Địa ngục đáng sợ / như là vô gián,
Hết thảy những ai / phỉ báng đạo sư
Sẽ phải đi vào / những nơi như vậy

Luận Về Các Điểm Nan Giải của Yama Hắc Thù cũng nói như sau:

Ai người nghe được dù chỉ một câu
đối với sư phụ / lại không nhìn nhận
hết một trăm kiếp / đọa sinh làm chó
rồi phải sinh vào / giai cấp tiện dân

Ngoài ra thiện đức nào chưa sinh sẽ không phát sinh, thiện đức nào đã sinh sẽ thoái giảm rồi tan biến.

Nếu nương vào ác tri thức và ác hữu, thiện đức sẽ tàn, lầm lỗi sẽ tăng, điều bất như ý phát sinh, vì vậy dạy rằng điều này cần phải tránh bằng mọi cách.

Sáu [Tóm lược phần này]: nói vậy, giáo pháp Đạo Sư Du Già lừng danh cũng phải được hiểu giống như những gì vừa giải thích trên đây. Nhưng chỉ thiền quán một lần là không đủ. Muốn thật sự hết lòng tu một pháp tu thì phải dựa vào sự dẫn dắt bất loạn của bậc thiện tri thức trong một thời gian dài.

Như đức Chekawa từng nói: “đã nương nơi đạo sư là luôn có nguy cơ chối bỏ Thầy.” Không biết cách nương thì chỉ gặp toàn mất mát bất lợi, vì vậy giáo pháp nương dựa đạo sư này hiển nhiên quan trọng hơn bất cứ giáo pháp nào khác, đây chính là gốc rễ của mọi điều mong cầu.

Vì phiền não thô lậu nên không biết cách nương vào đạo sư, hoặc biết mà không làm, để cho mình phạm nhiều lỗi lầm đối với pháp nương đạo sư khi nghe pháp. Tâm ấy đến cả sám hối và tự chế cũng khó mà khởi được ý. Vậy nghe bài giảng trên đây rồi, phải biết nương đạo sư lợi ích ra sao, không nương đạo sư tai hại như thế nào, để khi sẩy tâm không nương được vào đạo sư theo đúng như vậy thì hãy khởi ý sám hối và tự kềm chế tâm mình lại.

Làm như vậy, chẳng bao lâu sẽ trở thành giống như bồ tát Thường Khóc (Thường Đề) hay như Thiện Tài Đồng Tử, tầm sư học đạo không hề biết đủ.

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh



LUẬN VỀ TRÌNH TỰ ĐƯỜNG TU GIÁC NGỘ
Độ Dài Trung Bình, Chương 1. Phần 5

Tác giả: Lama Tsongkhapa
Hồng Như Việt dịch, 09/2020

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh

5 – CÁCH TU THIỀN

Thứ hai [Giải thích tóm lược cách thuần dưỡng tâm tôn kính đạo sư] có hai điểm: Nội dung chính của cách thuần dưỡng pháp thiền và lý do phải thuần dưỡng pháp thiền bằng hai cách.

Phần một [Nội dung chính về cách thuần dưỡng  pháp thiền] có hai điểm: làm gì khi tọa thiền và làm gì khi xuất thiền.

Phần một [làm gì khi tọa thiền] có ba điểm: trước thời công phu, trong thời công phu và cuối thời công phu

Một [trước thời công phu]: Có sáu pháp chuẩn bị.

Theo Câu Chuyện Cuộc Đời Siêu Việt của đức Serlingpa (Pháp Xứng), chỗ ngồi tu cần được quét dọn sạch sẽ, bày biện biểu tượng thân khẩu ý của Phật.

Sắp xếp đẹp đẽ trang nghiêm phẩm vật cúng dường lương thiện không do gạt người mà có.

Ngồi chỗ dễ chịu, thân thẳng, chân thế kiết già hoặc bán kiết già, nhất thiết để tâm hòa vào với tâm quy y và tâm bồ đề.

Ở khoảng trời phía trước mặt, quán tưởng chư tổ truyền thừa hai dòng phương tiện quảng đại và tri kiến thâm sâu, cùng vô lượng Phật đà, thánh chúng bồ tát, thanh văn, duyên giác, và những ai trú nơi khẩu Phật. Quán tưởng ruộng phước như vậy.

Thuận duyên hỗ trợ chưa tích lũy, nghịch duyên che chướng chưa thanh tịnh, thiếu mất hai điều này tâm khó lòng đạt đạo. Vì vậy cần phải theo bảy hạnh Phổ Hiền để mà luyện tâm, vì đây là trọng điểm của hai pháp tích lũy và thanh tịnh.

Nói về hạnh đảnh lễ Phật, lạy bằng trọn ba cửa thân khẩu ý được trình bày qua chỉnh cú này:

[1] Tại các thế giới / mười phương ba thời
Có bao Như Lai/ sư tử cõi người
Tôi vận dụng đủ / ba nghiệp trong sạch
Kính lạy khắp cả / không có thiếu sót.

Không phải là lạy chư Phật ở một phương quốc độ, trong một thời gian, mà là đối với hết thảy chư Như Lai ở khắp mọi phương, trong khắp mọi thời, nhất tâm vận dụng ba cửa thân khẩu và ý để mà kính lạy.

Nói về từng cửa một: lạy bằng thân được trình bày qua chỉnh cú:

(2) Năng lực uy thần / của hạnh phổ hiền
làm tôi hiện khắp / trước chư Như lai,
một thân tôi hiện / thân như cực vi
lạy khắp chư Phật / cũng như cực vi.

Hãy nghĩ rằng mình đối trước chư Phật ở khắp mọi phương hướng thời gian như thể đang trực tiếp diện kiến, hóa hiện thân mình thành số lượng nhiều như bụi mỏng, cùng quì đảnh lễ. Thêm vào đó, khởi năng lực tín tâm nơi thiện hạnh của chư vị, lấy đó làm nguồn cảm hứng.

Lạy bằng ý được trình bày qua chỉnh cú:

(3) Trong một cực vi / có chư Phật đà / nhiều bằng cực vi,
và đều ở trong / chúng hội Bồ tát;
cực vi tất cả / pháp giới vô tận / cũng là như vậy,
tâm tôi tin Phật / thật sâu và đầy.

Lạy bằng khẩu được trình bày qua chỉnh cú:

(4) Nên biển âm thanh / tôi vận dụng cả,
xuất ra vô tận / lời chữ nhiệm mầu,
cùng tận thời kỳ / của thì vị lai
tán dương biển cả / công đức của Phật.

Từ mỗi thân mình hóa hiện vô lượng cái đầu. Từ mỗi cái đầu hóa hiện vô lượng cái lưỡi, từ đó xuất ra âm thanh nhiệm mầu với lời tán dương vô tận thiện đức của chư vị. Âm thanh ở đây là lời xưng tán. Chi phần là nguyên nhân, là cái lưỡi. Biển cả, nghĩa là rất nhiều.

Nói về cúng dường thì cúng phẩm thường được trình bày qua hai chỉnh cú:

5) Tôi đem vòng hoa / tốt đẹp hơn hết,
Âm nhạc, hương xoa, / tàn lọng, bảo cái,
Đèn, hương, phẩm vật / hơn hết như vậy,
Tôi đem hiến cúng / chư vị Như lai.

(6) Y phục hơn hết, / hương liệu hơn hết,
Hương bột như là / diệu cao núi lớn
Tất cả bày biện / trang nghiêm rực rỡ
Tôi đem hiến cúng / chư vị Như lai.

“Hoa” là đủ loại hoa quí trong cõi trời và cõi người. “Vòng hoa” là hoa kết lại thành chuỗi. Hai loại này bao gồm tất cả mọi thứ hoa trong tưởng tượng và thật có.
“Âm nhạc,” là âm thanh các loại nhạc khí cổ truyền.
“Hương xoa” là dầu xoa trộn với hương thơm.
“Tàn lọng bảo cái” là dù lọng tốt đẹp nhất.
“Đèn” là ánh minh quang sáng ngời ngát thơm đến từ hương đốt, đèn đuốc, hay ánh minh quang của vàng bạc châu báu.
“Hương” là hương bột hỗn hợp nhiều loại hay riêng lẻ từng loại.
“Y phục hơn hết” là các loại y áo tốt nhất, đẹp nhất.
“Hương liệu hơn hết” là nước thơm các loại, tỏa hương thơm ngát cả tam thiên đại thiên thế giới.
“Hương bột” là gói bột thơm có thể rãi hay đốt, hay là cát màu mạn đà la, nhiều lớp, rộng và cao như núi tu di.
“Bày biện” ứng vào tất cả những điều nói trên, rất nhiều, trang nghiêm và đa dạng.

Cúng phẩm phi thường được trình bày qua chỉnh cú

(7) Tôi đem cái biết / cao rộng hơn hết
Tin tưởng sâu xa / tam thế chư Phật,
Vận dụng sức mạnh / hạnh nguyện phổ hiền
Mà khắp hiến cúng / chư vị Như lai.

Cúng phẩm thường là cúng phẩm cõi thế gian, còn cúng phẩm phi thường là phẩm vật do chư đại lực, ví dụ như chư bồ tát, thi triển thần thông hóa hiện mà có.

Hai hàng chót bổ xung điều còn thiếu cho tất cả những gì đã nói trên, dạy phải nên đảnh lễ và cúng dường với cái tâm ra sao, dành cho nơi chốn nào.

Hạnh sám hối được trình bày qua chỉnh cú sau đây:

Bao nhiêu nghiệp dữ / xưa kia tôi làm,
Đều bởi vô thỉ / những tham sân si,
Động thân ngữ ý / mà phát sinh ra,
Ngày nay tôi nguyện / sám hối tất cả.

Nhân là tam độc tham sân si, nền tảng là ba cửa thân khẩu ý, tánh chất là bản thân đã phạm, bằng cách tự mình làm, bảo người làm, hay thấy người làm mà lòng mừng theo. Hết thảy những điều nói trên đều được tóm tắt tổng quát qua câu “bao nhiêu nghiệp dữ xưa kia tôi làm.” Nếu nhớ lại ác nghiệp ấy, sinh lòng hối hận, quyết không tái phạm, khởi tâm chân thành sám hối, làm như vậy sẽ chặn đứng đà tăng của ác nghiệp quá khứ và chặt lìa ác nghiệp trong tương lai.

Hạnh tùy hỉ được trình bày qua chỉnh cú:

(9) Mười phương hết thảy / các loại chúng sinh,
Cùng với các vị / Thanh văn, Duyên giác, / tu học tiếp tục,
Tu học hoàn tất, / tất cả Như lai, / cùng với Bồ tát,
Công đức có gì / tôi tùy hỷ cả.

Nhớ nghĩ đến lợi ích của thiện đức của năm loại người, khởi tâm mừng vui.

Hạnh thỉnh chuyển pháp luân được trình bày qua chỉnh cú:

(10) Mười phương đâu có / ngọn đèn thế giới
Khi mới thành tựu / tuệ giác vô thượng,
Tôi xin thỉnh cầu / tất cả các Ngài /
Chuyển đẩy bánh xe / diệu pháp vô thượng.

Hãy lại hóa hiện thân nhiều như vi trần, đối trước chư Phật ở mười phương quốc độ vừa đạt bồ đề Phật quả, thành tựu chánh giác không chấp trước không ngăn ngại, thỉnh cầu chư vị thuyết pháp.

Hạnh cầu Phật trụ thế được trình bày qua chỉnh cú:

(11) Chư vị Như lai / muốn hiện niết bàn,
Thì tôi chí thành / thỉnh cầu các Ngài
Sống với đời kiếp / nhiều như cực vi,
Để làm lợi lạc / hết thảy chúng sinh.

Khẩn xin chư vị ở mười phương quốc độ  thị hiện niết bàn,cầu xin chư vị hãy vì lợi lạc của chúng sinh mà ở lại đời kiếp nhiều như vi trần chứ không nhập niết bàn.

Hạnh hồi hướng công đức được trình bày qua chỉnh cú:

(12) Lạy Phật, khen Phật, / và hiến cúng Phật,
Xin Phật ở đời / và chuyển Pháp luân,
Tùy hỷ sám hối / bao thiện căn ấy
Tôi đem hồi hướng / nguyện thành trí Phật.

Nhờ công đức sáu Hạnh Phổ Hiền nói trên được bao nhiêu thiện căn, mang hết ra cho khắp cả chúng sinh làm của chung, vì mãnh liệt hồi hướng về nhân bồ đề viên mãn nên thiện căn ấy sẽ không bao giờ cạn.

Lời chữ kia nếu hiểu được ý nghĩa, từ từ làm theo lời giảng, để không tâm xao lãng nơi việc khác, làm như vậy sẽ nắm được khối công đức nhiều vô lượng.

Vậy đảnh lễ, cúng dường, thỉnh Phật (chuyển pháp luân), cầu Phật (trụ thế) và tùy hỉ, năm hạnh này thuộc về pháp tích phước. Hạnh sám hối thuộc về pháp tịnh chướng. Một mặt của hạnh tùy hỉ là tùy hỉ thiện đức của chính mình, thuộc về pháp tăng bồi công đức. Còn nói về hạnh hồi hướng: nhờ tích, tịnh và tăng mà được công đức, công đức này dù ít ỏi đến đâu cũng sẽ nhờ hồi hướng mà trở thành nhiều. Những gì lẽ ra chỉ trổ quả một lần rồi hết, nhờ hồi hướng mà thành bất tận. Tóm lại có ba loại: (1) tích, (2) tịnh, và (3) tăng, khiến cho trở nên bất tận.

Tiếp theo, hãy quán tưởng cho thật rõ để cúng mạn đà la, khởi lòng thiết tha khẩn nguyện: “Khẩn cầu cho tâm bất kính điên đảo với bậc thiện tri thức được ngừng lại; cho tâm tôn kính không điên đảo với bậc thiện tri thức hết thảy được dễ dàng khởi sinh; thỉnh lực gia trì cho ngoại chướng nội chướng hết thảy đều triệt để tịnh an.

Thứ hai [Trong thời tọa thiền] có hai phần: cách thuần dưỡng pháp thiền nói chung, và cách thuần dưỡng pháp thiền cho đề mục này.

Một [Cách thuần dưỡng pháp thiền nói chung]. Tu thiền như nói ở đây mục tiêu là để cho tâm trở nên dễ sử dụng, có thể tùy ý đặt vào đề mục thiện pháp.

Nếu cứ tùy tiện nghĩ rằng mình có thể thiền đề mục này, đề mục nọ, tùy hứng mà chọn số lượng đề mục, bất chấp thứ tự, làm như vậy pháp thiền sẽ không ích lợi gì. Từ đầu nếu để thành thói quen xấu thì trọn đời công phu sẽ vướng lỗi.

Vì vậy trước tiên cần xác định rõ số lượng và thứ tự đề mục tu. Rồi kiên quyết làm theo đúng như đã định, không để tâm nghĩ đến thứ gì khác. Không thêm, không bớt, cứ như thế mà thuần dưỡng pháp thiền bằng chánh niệm và chánh tri.

Hai [Cách thuần dưỡng pháp thiền cho đề mục này]. Phải nhớ nghĩ đến lợi ích khi nương đạo sư và tai hại khi không nương.

Cái tâm thấy lỗi nơi Thầy, phải thường xuyên kiên quyết chế ngự đừng cho nổi lên. Thiện đức của Thầy như là giới hay định, tự mình chứng được gì thì hãy nhớ nghĩ đến. Tiếp tục tu cho đến khi tín tâm trong sáng phát sinh.

Theo như Khế Kinh đã trích dẫn ở trên, hãy nhớ nghĩ đến bao nhiêu ơn nặng mà mình đã nhận hay sẽ nhận trong tương lai, tiếp tục tu cho đến khi từ tận đáy lòng phát sinh niềm sâu xa tôn kính Thầy.

Ba [cuối thời công phu]. Công đức tích lũy được nhờ Hạnh Phổ Hiền hay Bảy Mươi Thi Kệ Hướng Nguyện cần mãnh liệt hồi hướng về cho ước nguyện trước mắt và ước nguyện cứu cánh.Cứ như vậy sáng, trưa, chiều, tối, mỗi ngày bốn thời công phu.

Hơn nữa, lúc ban đầu nếu thời công phu quá dài, tâm sẽ dễ bị chìm đắm hay quấy động (hôn trầm trạo cử). Để thành thói quen sẽ rất khó chữa, vì vậy nên chia thành nhiều thời công phu ngắn. Nếu ngừng khi vẫn còn đang muốn thiền thì lần sau lại sẽ vẫn hăng hái muốn tu, bằng không sẽ thành giống như chư vị thường nói, nhìn vào tọa cụ là buồn nôn. Bao giờ có được chút định tâm, hãy tăng thời gian tọa thiền, thuần dưỡng mọi pháp thiền đừng để vướng lỗi quá căng hay quá chùng. Làm theo như vậy sẽ ít gặp chướng ngại, sạch hết mọi lao lực, trì trệ, tối tăm.

Thứ hai [làm gì khi xuất thiền]. Nói chung có thể làm nhiều thứ, ví dụ như lạy Phật, đi nhiễu, hành trì tụng niệm. Tuy vậy, điểm chính yếu cần biết, đó là nếu nỗ lực cố gắng trong lúc tọa thiền nhưng khi xuất thiền dứt thời công phu lại buông lung đề mục khách quan lẫn chủ quan, không còn giữ chánh niệm và chánh tri. Làm như vậy kết quả sẽ chẳng được bao nhiêu. Vì vậy giữa hai thời thiền cũng phải nên xem lại ý nghĩa của giáo pháp đang tu, ôn đi ôn lại nhiều lần. Để giúp thiện đức phát sinh, kho bồ tư lương là thiện duyên, phải dùng đủ cách để tích lũy; chướng là ác duyên, phải dùng đủ cách để làm sạch; giới là nền tảng của tất cả, thọ giới nào rồi thì phải quyết tâm thật nhiều để giữ giới.

Ngoài ra, hãy luyện bốn nhân tố giúp dễ dàng đạt chỉ quán

Nói về sự thu nhiếp giác quan”: dựa vào căn và trần, sáu thức phát sinh. Khi ấy phải giữ đừng để cho ý thức duyên nơi sáu cảnh dễ chịu hay khó chịu để cuối cùng nổi tham nổi sân.

Nói về chánh tri, Nhập Bồ Đề Hạnh Luận dạy rằng:

1V-108. Muốn giữ chánh tri,
Nói cho ngắn gọn phải làm như sau:
Hãy thường quán xét
Xem thân và tâm đang như thế nào.

Theo đó, bao giờ thân tâm làm việc này việc nọ thì phải biết là có nên hay không nên, để hành xử cho thích đáng.

Thêm nữa, hãy quán ham ăn tai hại như thế nào, và nhớ đến lời kinh dạy về việc ăn uống để thấy rằng ăn không phải vì phiền não, ăn thì thí chủ được lợi ích, rồi các loài trùng trong thân thể, bây giờ ăn là dùng tài vật nhiếp thọ, sau này sẽ dùng Phật pháp nhiếp thọ, ăn là để thành tựu lợi ích cho khắp chúng sinh. Hãy nghĩ như vậy.

“Biết cách ăn uống chừng mực” là không ăn quá nhiều hay quá ít, chỉ ăn những gì không gây hại cho thiện hạnh của mình.

Bảo Hành Vương Chánh Luận nói rằng:

Biết rằng thực phẩm giống như là thuốc
Ăn vào đừng để vướng tham và sân
Không ăn cho no, hay cho hiển hách
Hay để phì thân, vừa đủ sống thôi.

Nói về sự nỗ lực tu pháp du già không ngủ, và làm gì khi ngủ.

Bảo Hành Vương Chánh Luận nói rằng:

Bạch đấng Pháp chủ của dòng giống Phật
Trải qua các thời công phu trọn ngày
Cùng với hai thời đầu hôm, sớm mai
Rồi khi ngủ, để quả tu đừng mất,
Hãy giữ chánh niệm, chỉ nên ngủ ở phần giữa mà thôi.

Ở đây đang giảng về cốt tủy tọa thiền của các thời công phu trong ngày cùng với hai phần đầu đêm và cuối đêm, cũng như phải làm gì khi xuất thiền. Vậy dù là đi đứng hay nằm ngồi, tâm cũng đều phải sạch năm triền cái, cho mọi việc làm đều trở nên có ý nghĩa.

Nói về hạnh ngủ: thời gian ngủ khi xuất thiền cũng không thể để lãng phí trong vô nghĩa. Thân phải làm như thế này: một đêm có ba phần, ngủ ở phần giữa, nằm nghiêng phía bên trái, chân phải đặt trên chân trái theo thế nằm sư tử.

Nói về chánh niệm: trong ngày tu những gì, phải nhớ đến thiện pháp đang làm cho đến khi ngủ. Nhớ nghĩ đến thiện pháp trước khi ngủ thì khi ngủ cũng giống khi không ngủ, vẫn có thể tiếp tục thuần dưỡng công phu hành trì, ví dụ như tu định v.v…

Nói về chánh tri: khi giữ chánh niệm, tâm nổi phiền não nào thì phải biết để bỏ đi đừng nhận.

Nói về ý thức khi tỉnh dậy: là định trước thời điểm sẽ thức dậy.

Vậy thì cách thuần dưỡng thời công phu, ngoại trừ những pháp tu phi thường, tất cả những gì phải làm cho phần sơ khởi, công phu chính, cuối thời thiền và thời gian xuất thiền như đã nói, cần được áp dụng cho mỗi chủ đề trên đường tu, từ đây cho đến tuệ quán [chứng tánh không].

[Hết phần 5 – Cách Tu Thiền]

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh



LUẬN VỀ TRÌNH TỰ ĐƯỜNG TU GIÁC NGỘ
Độ Dài Trung Bình, Chương 1. Phần 6

Tác giả: Lama Tsongkhapa
Hồng Như Việt dịch, 09/2020

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh

6 – PHÁ KHÁI NIỆM SAI LẦM VỀ PHÁP THIỀN

Hai [lý do phải thuần dưỡng bằng hai cách]. Đại thừa Trang Nghiêm Kinh Luận nói rằng: “Trước hết, nhờ học [văn] mà tác ý đúng, nhờ tác ý đúng mà sinh trí giác chứng cảnh giới chân thật.”

Nói như vậy có nghĩa là nhờ chiêm nghiệm ý nghĩa của những gì đã học mà tư tuệ sinh. Nhờ tư tuệ sinh nên tác ý đúng. Nhờ tác ý đúng nên phát khởi tu tuệ trực chứng chân nghĩa của thực tại.

Hiện Quán Trang Nghiêm Luận cũng nói rằng:

Nhánh gia hành đạo, / cùng với kiến đạo
Và tu tập đạo, ở những nơi ấy
Đều phải thường xuyên / tư duy quán chiếu,
Suy lường, quyết đoán, đó là tu đạo.

Theo đó, thường xuyên tư duy, suy lường và quyết đoán là điều phải làm trong tu tập đạo của thánh giả Đại thừa.

Tập Học Luận cũng nói như sau:

Thế thì đối với thân thể, tài sản và công đức, cứ hãy thuận theo lẽ mà liên tục cho ra, giữ gìn, làm sạch hay làm tăng đủ cách, phải tu thiền như vậy.

Theo đó thì thân thể, tài sản và thiện căn, mỗi thứ đều phải tu thiền bằng bốn hoạt động: cho ra, giữ gìn, làm sạch, và làm tăng. Khế kinh nói rằng tu thiền như vậy bao gồm hai thể loại: dưỡng thiền quán bằng tuệ phân biệt, và dưỡng thiền chỉ bằng cách nhiếp tâm không suy xét.

Vậy thì thế nào là thiền quán, thế nào là thiền chỉ?

Tín tâm nơi đạo sư, lợi ích lớn lao khó gặp của thân người ung sung sung mãn, cái chết và vô thường, nghiệp và quả, hiểm họa luân hồi, tâm bồ đề, những pháp như vậy cần tu bằng thiền quán. Để tu mỗi pháp tu ấy, tâm phải thật mạnh và phải đủ khả năng chế ngự ý tưởng trong một thời gian dài, là vì nếu không như vậy, khi bị ngược hướng, ví dụ lỡ sinh tâm bất kính đạo sư vân vân, sẽ không thể ngừng lại. Sức mạnh này của Tâm chỉ có thể phát sinh nhờ thường xuyên vận dụng trí phân biệt để thiền quán.

Lấy ví dụ như lòng tham: nếu cứ mãi chú tâm đến nét đáng yêu của thứ mình ưa thích, lòng tham sẽ nổi lên mãnh liệt. Sân cũng vậy, nếu cứ mãi nhớ đến khía cạnh đáng ghét của kẻ thù, hận thù sẽ bùng lên dữ dội. Vì thế khi tu thiền, bất luận đặc tính của đối cảnh hiện ra có rõ hay không, lực nắm của tâm luôn phải mạnh và bền. Vì vậy cần thiền quán.

Còn những người tâm chưa thể an trú, muốn có được khả năng đặt tâm ở bất cứ đề mục nào tùy ý, thế nên tu chỉ để đạt Xa-ma-ta. Tu chỉ như vậy mà cứ quán thì sẽ không trú được tâm. Trong trường hợp này, phải nên tu thiền chỉ.

Cách tu này, ai không hiểu có thể nói rằng, “là học giả thì phải thiền quán, là chân tu khổ hạnh (ku-sa-li, sādhus)  thì phải thiền chỉ.” Điều này không đúng. Cả hai bên đều cần phải tu từng món một. Học giả cũng cần tâm tịnh chỉ Xa-ma-ta, chân tu khổ hạnh cũng cần tín tâm nơi thiện tri thức vân vân.

Nếu nghĩ rằng “quán xét bằng trí phân biệt là lĩnh vực của văn và tư [học và tư duy], không thuộc lĩnh vực của tu,” nghĩ như vậy là không đúng lý.

Nếu nghĩ rằng, “tất cả mọi khái niệm đều là chấp hình tướng, làm cản trở giác ngộ bồ đề,” lầm nghĩ như vậy là vì không thấy được sự khác biệt giữa “tác ý không đúng, khái niệm chấp thật có,” và “tác ý đúng, khái niệm về chân thực tại”

Nếu cho rằng “trước hết phải đạt định để có thể đặt tâm ở bất cứ đề mục nào tùy ý, chưa có định mà quán nhiều sẽ tạo trở ngại khiến không thể đạt định,” quan niệm ấy, giáo pháp này không chấp nhận.

Ví dụ như vàng hay bạc. Thợ kim hoàn khéo tay sẽ phải nhiều lần dùng lửa nung, dùng nước rửa, sạch hết cặn bẩn rồi vàng bạc sẽ nhu nhuyễn dễ dùng. Khi ấy có thể tùy ý làm thành đủ loại trang sức, như bông tai chẳng hạn.

Tương tự như vậy, trước tiên phải vận dụng trí phân biệt để thường xuyên quán về nỗi tai hại của các phiền não chính, phiền não phụ, ác hạnh, ác nghiệp ác báo và hiểm họa luân hồi, theo như thứ tự được dạy. Tu thiền như vậy sẽ khiến tâm mỏi mòn khốn khổ, chán ngán sinh tử tột cùng. Như dùng lửa nung vàng, tâm quay lưng với nẻo tối, cấu nhiễm tịnh sạch.

Rồi lại dùng trí phân biệt thường xuyên nhớ nghĩ đến thiện đức của đạo sư, lợi ích lớn của thân người ung dung sung mãn, thiện đức của Tam bảo, thiện nghiệp thiện báo, lợi ích tâm bồ đề, theo như thứ tự được dạy. Thiền như vậy, tâm sẽ được tưới tẩm, thấm nhuần sáng trong. Như dùng nước lọc vàng, tâm hướng về nẻo sáng, đầy niềm vui, làm cho thiện pháp thấm nhuần trong tâm.

Tâm chuyển được như vậy rồi, muốn tu pháp nào, thiền chỉ hay thiền quán, chỉ cần chú tâm vào, thành tựu không khó. Vì vậy mà nói thiền quán chính là phương tiện thù thắng nhất để thành tựu chánh định vô niệm.

Thánh Vô Trước cũng nói như sau:

Ví dụ như thợ kim hoàn, hay thợ học nghề khéo tay, khi muốn làm sạch hết cặn bẩn trong miếng vàng, miếng bạc, sẽ phải nhiều phen nung bằng lửa, rửa bằng nước, biết rằng làm vậy vàng sẽ nhu nhuyễn dễ dùng, có thể chế biến thành nhiều món trang sức. Rồi người rành tay nghề—thợ chánh hay thợ học nghề—sẽ dùng dụng cụ cần thiết để muốn thứ trang sức nào thì làm ra thứ ấy.

Hành giả một khi đã quay lưng với cặn bẩn như lòng tham, tâm sẽ chán sinh tử, sẽ không còn chạy theo cảm giác bất an do phiền não tác động. Vì tâm hướng đến niềm vui nẻo thiện nên hỉ lạc hiện tiền.

Hành giả ấy, với bất cứ pháp tu nào, bất kể là thiền chỉ hay thiền quán, tâm đều triệt để thâm nhập, triệt để an trú, không dao cũng không động. Cứ thế, có thể dùng tâm ấy để thành tựu viên mãn mọi mục tiêu mong cầu.

Thêm vào đó, chướng ngại chính làm cản trở không cho tâm bám vững nơi đề mục có hai, một là chìm đắm và hai là quấy động (hôn trầm và trạo cử).

Nếu có thể, bằng cái tâm vừa mạnh vừa bền, thấy được các loại thiện đức như là thiện đức của Tam Bảo vân vân, thì đoạn lìa tâm chìm đắm là điều rất dễ thực hiện. Vì, như nhiều nguồn gốc đáng tin cậy có nói, thuốc chữa lỗi chìm đắm là nhìn vào thiện đức để nâng tâm lên.

Nếu có thể, bằng cái tâm vừa mạnh vừa bền, thấy được nỗi tai hại của vô thường và khổ vân vân, thì đoạn lìa tâm quấy động là điều rất dễ thực hiện. Vì tâm quấy động là một loại tán tâm, thuộc phạm vi của tham chấp, nhiều nguồn gốc đáng tin cậy khen tâm chán ngán sinh tử chính là thuốc hay chữa được lỗi này.

[hết phần 6. Phá khái niệm sai lầm về pháp thiền – bài sau: 7 – Thân Người]

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh



LUẬN VỀ TRÌNH TỰ ĐƯỜNG TU GIÁC NGỘ
Độ Dài Trung Bình, Chương 1. Phần 7

Tác giả: Lama Tsongkhapa
Hồng Như Việt dịch, 09/2020

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh

7 – THÂN NGƯỜI UNG DUNG SUNG MÃN

Phần thứ hai [nương đạo sư rồi phải nên luyện tâm theo trình tự như thế nào] có hai điểm: đối với nền tảng của sự ung dung ấy, một là khuyên nên nắm lấy tinh túy, hai là chỉ cách nắm lấy tinh túy.

Thứ nhất [Khuyên nên nắm tinh túy của nền tảng của sự ung dung] có 3 điểm: 1. thế nào là ung dung sung mãn; 2. nhớ hai điều này có giá trị lớn lao; 3. nhớ hai điều này rất khó gặp.

Thứ nhất [thế nào là ung dung sung mãn], có hai điểm: 1. ung dung và 2. sung mãn.

Một [thế nào là ung dung]: [Bát Nhã Bát Thiên Cú] Lược Kệ nói như sau:

Nhờ luật mà thoát được / nhiều cảnh giới súc sanh
Thoát tám cảnh không rảnh, / luôn ược sự ung dung

Theo đó, ung dung có nghĩa là không vướng tám cảnh không rảnh.

Nói về tám cảnh không rảnh, có bốn cảnh đầu là: [1] sanh vào chốn biên địa nơi không có tứ chúng đến; [2] sanh làm người khuyết tật, thiểu năng, câm ngọng, tứ chi và giác quan không đầy đủ vân vân; [3] chấp thủ tà kiến, cho rằng không có đời trước kiếp sau, không có nhân quả, không có Tam Bảo; [4] sanh vào nơi không có Phật xuất thế, không có lời Phật [dạy]. Đó là bốn cảnh không rảnh ở trong loài người. Bốn cảnh tiếp theo là: [5-7] sanh vào ba cõi ác đạo và [8] sanh vào cõi trời trường thọ. Đó là bốn cảnh không rảnh ở trong các loài không phải người.

Nói về cõi trời trường thọ, luận giải Bảo Hành Vương Chính Luận (Vyakta-padā-suhŗl-leka-țīkā) giải thích rằng chư thiên cõi ấy có hai loại, phi tưởng và vô sắc.

Chư thiên loại phi tưởng sống trong cõi tứ thiền, ở một nơi gọi là Đại Quả, cách biệt với phần còn lại cũng giống như như chốn già lam cách biệt với phố thị. Chư thiên loại vô sắc là hàng phàm phu trong cõi vô sắc giới. Trong Luận Về Tám Cảnh Không Rảnh có nói rằng chư thiên cõi dục giới luôn mải mê xao lãng trong dục lạc, và còn được gọi là chư thiên cõi trời trường thọ.

Hai [thế nào là sung mãn] có 2 điểm. Trước là năm sự sung mãn đến từ chính mình: [1] làm người; [2] sanh nơi Trung địa; [3] giác quan đầy đủ; [4] không vướng trọng nghiệp; [5] tin nơi nền tảng. Ở đây, “sanh nơi Trung địa” là sanh vào nơi có tứ chúng đến. “Đầy đủ giác quan” là không bị thiểu năng câm ngọng, đầy đủ các bộ phận thân thể chánh phụ, mắt, tai vân vân. “Không vướng trọng nghiệp” là không tự mình phạm hay bảo người khác phạm vào năm nghiệp vô gián. “Tin nơi nền tảng” là tin vào giới, vì đây nền tảng sanh ra mọi thiện pháp thế gian và xuất thế. Phải hiểu “giới” nói ở đây có nghĩa là tam tạng kinh. Đó là năm điều hội tụ trong tâm của chính mình và tạo duyên đắc pháp, vì vậy gọi là “sự sung mãn đến từ chính mình.”

Lại có năm sự sung mãn đến từ người khác, đó là: [1] có Phật xuất thế; [2] Phật thuyết Diệu Pháp;[3] Phật pháp tồn tại; [4] có người tu theo; [5] có những trái tim vị tha từ ái. Ở đây, “có Phật xuất thế” có nghĩa là sau ba thời kỳ vô số tích lũy tư lương, Phật thị hiện thành tựu quả Chánh đẳng Chánh giác. “Phật thuyết Diệu Pháp” là đức Phật hay đệ tử thanh văn của Phật thuyết Pháp. “Phật pháp tồn tại” là pháp đắc được nhờ trực chứng diệu pháp thắng nghĩa, từ khi Phật thành đạo thuyết pháp cho đến khi Phật nhập diệt niết bàn, pháp ấy không bị hư tổn. “Có người tu theo” là có người thấy rằng chính nhờ chứng ngộ Phật Pháp nên người phàm phu có khả năng trực chứng diệu Pháp, vì ngộ điều này nên tu theo Phật pháp. “có những trái tim vị tha từ ái ” là có người cúng dường và có thí chủ hiến cúng pháp y các thứ. Năm điều này nằm ở trong tâm của người khác và tạo duyên đắc pháp, vì vậy gọi là “sự sung mãn đến từ người khác”

Thứ hai, [nhớ nghĩ đến giá trị lớn lao của ung dung sung mãn, nhớ rằng đã sanh vào cõi lành đừng sống như súc sanh] Vì nguồn an lạc bền lâu, nếu không thể tu được chút chánh pháp nào, đến tận khi chết cũng vẫn chỉ biết lo tìm vui lánh khổ, nỗ lực này đến cả loài súc sanh cũng có, vậy có khác gì sanh vào cõi lành mà sống như loài súc sanh.

Muốn tu đường tu Đại thừa, thì cần phải có một nền tảng như vừa giải thích trên đây. Thư cho Đệ Tử [Śiyalekha] nói rằng:

“Nền tảng của Phật đạo / đường dẫn dắt chúng sinh
Tâm lực vĩ đại này / chỉ loài người mới có.
Dù là trời, hay rồng, / A tu la, minh trì,
Khẩn na la hay rắn, / đều không thể có được.

Có một số chư thiên trong cõi dục giới nhờ trước đây đã từng tu với thân người được sự huân tập sâu xa nên có thể ở trong cõi ấy mà lần đầu kiến đế, còn ở trong hai cõi sắc giới và vô sắc giới mà đạt thánh đạo lần đầu là điều không thể có.

Dù vậy, như đã nói, đa số chư thiên cõi dục giới thường được xem là vướng cảnh không rảnh, vì vậy đây không phải là nền tảng tốt nhất để lần đầu kiến đạo.

Thêm nữa, chúng sinh cõi Bắc Câu Lư Châu không có nền tảng thích hợp để thọ giới, vì vậy thân của chúng sinh ba đại bộ châu còn lại được khen ngợi, trong đó châu Diêm phù đề được ngợi khen hơn cả.

”Đã là như vậy, thân người tốt lành đến thế, nay có được rồi vì sao lại để cho biến thành không hoa không trái, hoàn toàn vô nghĩa, thử hỏi còn sự tự phản bội nào,  nỗi ngu xuẩn nào lớn hơn thế không? Biết bao lối đường hung hiểm của những chốn không rảnh cõi ác đạo đã phải triền miên trôi lăn, nay một lần được thoát, lại bỏ cho biến thành vô nghĩa, nếu lại phải rơi vào cõi dữ, thì có khác gì bị bùa chú làm cho mê muội, mất trí.” Cần thường xuyên quán chiếu suy nghĩ như vậy

Nhập Bồ Đề Hạnh Luận nói như sau

IV.23. Nay được lơi nghỉ
lại không tu thiện,
có nỗi ngu nào / bằng nỗi ngu này ?
chẳng thể đối xử / với mình tệ hơn

IV.26. Thân người quí hiếm / khó đạt biết bao, 
nay đã đạt rồi. / Đã biết như vậy
mà vẫn còn kéo / mình vào địa ngục.
IV.27. Khác gì bùa chú / khiến cho mất trí.
tôi thật chẳng hiểu / trong tôi thế nào

Nói vậy, thử nghĩ mà xem, thân người không chỉ có ý nghĩa lớn lao đối với mục tiêu cứu cánh, ngay cả mục tiêu trước mắt thân người cũng cho ta khả năng dễ dàng thành tựu hạnh thí, giới, nhẫn vân vân, là nhân mang đến quả sanh thiện đạo với thân thể, tài sản, tùy thuộc, tất cả đều hoàn hảo.

Nếu không vận dụng thân người đầy ý nghĩa lớn lao này, ngày đêm nỗ lực để tích lũy nhân đạt hai mục tiêu lớn lao kia thì có khác gì đến đảo châu ngọc lại trở về tay không.

Thứ ba [Ví dụ cho sự khó gặp của thân người ung dung sung mãn], Căn Bản Giáo Truyền (Āgama vastu) [phần đầu của Căn Bản Giới Luật Vinaya-vastu ] nói rằng: “Từ các cõi ác đạo và thiện đạo, số lượng chúng sinh chết đi sinh vào ác đạo nhiều như bụi trên toàn mặt đất, mà sinh vào thiện đạo chỉ như bụi mỏng trên đầu móng tay.” Vì vậy thân người ung dung sung mãn dù ở thiện đạo hay ác đạo cũng đều rất khó gặp.

Nếu tự hỏi vì sao lại khó tìm đến thế, Bốn Trăm Thi Tụng nói rằng

Người ta hầu hết
Đều bám chặt vào / những nẻo bất thiện
Vì thế hầu hết / chúng sinh phàm phu 
Chắc chắn đọa rơi / vào cõi ác đạo.

Theo đó, có rất nhiều chúng sinh loài người hay các loài khác, phần lớn chỉ bám vào mười điều bất thiện, vì vậy nên phải đọa sinh ác đạo.Hơn nữa, nếu cứ mỗi niệm nổi sân với bồ tát là phải chịu một đại kiếp trong địa ngục vô gián, vậy thì ác nghiệp tích lũy từ biết bao đời kiếp đến giờ chưa trổ quả, chưa hóa giải bằng thuốc đối trị, vẫn còn nằm trong dòng tâm thức này, nhất định sẽ khiến ta rơi vào ác đạo hàng nhiều lần đại kiếp.

Nếu bao nhiêu nhân đoạ sinh ác đạo tích lũy trước kia bây giờ thanh tịnh hết, lại đóng chặt cửa không gieo thêm nhân mới, vậy sinh thiện đạo không phải chuyện hiếm hoi gì. Nhưng trên thực tế làm được như vậy rất hiếm. Nhưng nếu không làm như vậy, để đọa sinh vào ác đạo rồi chẳng những việc thiện không thể làm được chút gì, mà việc bất thiện lại phải liên tục tạo tác, thật là “muôn vạn thời kỳ đến chữ thiện đạo cũng chẳng hề nghe,” như Nhập Bồ Đề Hạnh Luận đã nói.

Đức Potawa kể rằng

“Ở xứ Pen có thành Ma’i Chakar đã nhiều năm bị kẻ thù chiếm đóng, dân trong thành từ lâu phải sống cảnh tôi mọi. Bấy giờ có một cụ già thường vẫn luôn đau lòng vì việc này. Một hôm nghe tin đã lấy lại được thành, dù không còn sức bước đi, cụ vẫn chống giáo lê ra xem, nói rằng: ‘mong sao không chỉ là mơ’ Phải nên có cái tâm mừng vui tương tự khi thấy mình có được thân người ung dung sung mãn, nao nức hành trì chánh pháp. “

Theo đó, phải tu thiền cho đến khi có được cái tâm tương tự.

Muốn khởi tâm nguyện đủ mọi phẩm tánh để nắm lấy tinh túy của thân người ung dung, ta cần bốn sự nhớ nghĩ sau đây: (1) nhớ mình cần phải tu, vì lẽ chúng sinh bất kể là ai cũng đều muốn vui, không một ai muốn khổ, mà muốn được vui quét khổ thì chỉ có một cách, đó là phải dựa vào chánh pháp; (2) biết mình đủ sức tu, vì ngoại duyên là bậc thiện tri thức và nội duyên là thân người ung dung sung mãn đều đã có; (3) nhớ mình phải tu ngay trong đời này, vì nếu đời này không tu, vô lượng kiếp về sau sẽ khó lòng gặp lại [cảnh thuận duyên này.], (4) nhớ mình phải tu ngay bây giờ, vì không thể biết bao giờ mình sẽ chết.

Trong bốn điểm này, điểm thứ ba giúp diệt thói biếng lười không chịu tu, nghĩ rằng “đời sau sẽ tu” và điểm thứ tư giúp diệt thói biếng lười không chịu dấn thân, nghĩ rằng: “vẫn biết phải tu ngay trong đời này, thế nhưng ngày tháng năm về trước đã không tu, vậy cứ hãy đợi về sau hẳn tu cũng không muộn.” Bốn điểm nói trên có thể quy nạp thành ba, gom điểm ba và bốn lại làm một, “cần phải gấp mà tu.”

Vậy ở đây có thể quán chung với chủ đề nhớ chết, tuy vậy, vì đây là chủ đề lớn rộng nên sẽ được nói riêng ở bên dưới.

Quán xét càng nhiều phương diện, tâm lại càng thuần, vì vậy hãy nên quán theo như lời hướng dẫn bên trên. Nếu bấy nhiêu quán không nổi, hãy gom lại thành 3 điểm như sau: 1. Thân người ung dung sung mãn nói đây, thật ra là gì; 2. Xét về mục tiêu tạm thời và mục tiêu cứu cánh, thân người ung dung sung mãn có ý nghĩa lớn lao ra sao; 3. Xét về mặt nhân và quả, thân người ung dung sung mãn khó gặp như thế nào.

Quán từng điểm một như đã được giải thích bên trên, theo đó mà thiền.

Thân người ung dung sung mãn khó đạt vì nhân khó đạt:

Nói chung, chỉ đơn giản sinh vào thiện đạo thôi đã cần phải có một thiện đức thanh tịnh, ví dụ như giữ giới. Huống chi thân người với đầy đủ mọi sự ung dung sung mãn, muốn đạt được phải tích lũy rất nhiều thiện căn: phải giữ giới hạnh thanh tịnh để có được thân người, rồi phải hỗ trợ thân ấy bằng hạnh ba la mật như là hạnh thí vân vân, rồi phải kết nối thân ấy với tâm nguyện vô cấu. Nhân tố nhiều như vậy rõ ràng là không mấy ai có được. Xét theo đó có thể suy ra kết quả tương ứng—là thân người với mọi tính chất tổng quát và đặc thù—cũng hiếm hoi khó đạt đến mức nào.

Thân người ung dung sung mãn khó đạt vì quả khó đạt:

Quán về các loại chúng sinh khác với mình, hiện đang sống trong cõi ác đạo, đối với họ, để có thể sinh được vào thiện đạo là điều gần như không thể. Còn chúng sinh giống như mình hiện đang sống trong cõi thiện đạo, muốn có được đầy đủ mọi sự ung dung tự tại cũng là điều hiếm hoi vô cùng.

Geshe Dölpa nhấn mạnh rằng mọi pháp tu khác thành tựu được là nhờ pháp quán này, vì vậy phải nỗ lực cho đúng mức.

Hai, [Phương pháp rút lấy tinh túy] có hai phần. Một là khởi niềm tin xác quyết nơi nội dung trình bày về đường tu nói chung, hai là phải làm gì để từ đó rút lấy tinh túy.

[hết phần 7. Thân người ung dung sung mãn]

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh



LUẬN VỀ TRÌNH TỰ ĐƯỜNG TU GIÁC NGỘ
Độ Dài Trung Bình, Chương 1. Phần 8

Tác giả: Lama Tsongkhapa
Hồng Như Việt dịch, 09/2020

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh

8 – BA LOẠI CĂN CƠ CHÚNG SINH

Một [khởi niềm xác quyết nơi nội dung trình bày đường tu nói chung] có hai phần, một là hết thảy giáo pháp Phật dạy đều nằm trong đường tu dành cho ba loại chúng sinh; hai là xét về ba loại chúng sinh, nói lý do vì sao cần dẫn dắt theo trình tự.

Một [hết thảy giáo pháp Phật dạy đều nằm trong đường tu dành cho ba loại chúng sinh], đức Phật từ bước đầu phát tâm bồ đề, qua đoạn giữa tích lũy tư lương (phước trí), cuối cùng viên thành chánh quả, tất cả mọi việc Phật làm đều là làm vì lợi ích của chúng sinh, không có mục tiêu nào khác. Vì lẽ đó, giáo pháp Phật dạy cũng là như vậy, tất cả chỉ để thực hiện lợi ích cho chúng sinh. Lợi ích ấy có hai loại: (1) lợi ích nhất thời là sinh vào thiện đạo và (2) lợi ích cứu cánh là đạt quả chí thiện.

Trước hết, những gì lời Phật dạy để thực hiện lợi ích nhất thời đều thuộc về hệ giáo pháp dành cho hàng sơ căn, hay là chung với hàng sơ căn.

Chúng sinh hàng sơ căn là những người đặc biệt không bận tâm đến chuyện đời này, chỉ muốn làm sao cho những kiếp tái sinh về sau được sinh vào thiện đạo, vì vậy nhân tố sinh thiện đạo, họ dấn thân tìm cầu.

Bồ Đề Đạo Đăng Luận nói rằng

  1. Ai người vận dụng / đủ loại phương tiện
    Vì chính bản thân / tìm cầu lạc thú
    Trong cõi luân hồi, / những người như vậy /
    Đều thuộc về hàng / căn cơ tối thiểu.

Quả chí thiện có hai: một là giải thoát luân hồi và hai là đạt trí toàn giác. Bao nhiêu lời Phật dạy dành cho cỗ xe thanh văn và duyên giác đều thuộc về hệ giáo pháp dành cho hàng trung căn, hay là chung với hàng trung căn.

Chúng sinh trung căn là những người khởi tâm chán ngán toàn bộ cảnh sinh tử luân hồi, lấy sự giải thoát sinh tử cho chính mình làm mục tiêu, dấn thân thực hiện mục tiêu ấy bằng tam vô lậu học.

Bồ Đề Đạo Đăng Luận nói rằng

  1. Ai người không màng / niềm vui sinh tử
    Muốn cho chính mình / được sự tịnh an
    Nên bao ác nghiệp / ngưng hết không làm
    Phải biết người ấy / thuộc hàng trung căn.

Còn trí toàn giác, muốn đạt trí này có hai lối: đại thừa ba la mật và đại thừa mật chú, đều thuộc hệ giáo pháp dành cho cho hàng thượng căn. Chúng sinh thượng căn là những người chịu sự thôi thúc của tâm đại bi, vì để tận diệt khổ đau cho khắp cả chúng sinh nên nhắm đến Phật quả, và vì để thực hiện Phật quả mà hành trì sáu hạnh ba la mật và hai giai đoạn, v.v…

Bồ Đề Đạo Đăng Luận nói rằng

Ai vì trong tâm / chịu nhiều khổ não
Nên trước khổ não / của khắp chúng sinh
Muốn diệt sạch sẽ / không để thừa sót
Những người như vậy / thuộc hàng thượng căn.

Cho hàng thượng căn này, phương pháp tu thành Phật được thuyết qua hai hạng mục: ba la mật [hiển pháp]  và mật chú [mật pháp].

Ý nghĩa của cụm từ “ba hàng căn cơ” được giải thích trong nhiều kinh luận, ví dụ như Trạch Quyết Tập luận hay Câu Xá Luận Thích. Hàng sơ căn mặc dù bao gồm cả hai loại người nỗ lực vì kiếp hiện tiền và nỗ lực vì những kiếp tái sinh về sau, tuy vậy, hàng sơ căn nói ở đây chủ yếu ứng vào loại người sau. Vì vậy phải thấy hàng sơ căn là những người dấn thân vào phương pháp không hư ngụy dẫn đến sự tái sinh vào thiện đạo.

Thứ hai [lý do cần dẫn dắt theo trình tự dành cho ba hàng căn cơ] có hai phần, dẫn dắt bằng đường tu ba loại căn cơ này là để làm gì; và lý do vì sao cần dẫn dắt theo trình tự ấy.

Trước tiên [dẫn dắt bằng đường tu ba loại căn cơ này là để làm gì]: tuy chúng sinh thuộc ba loại căn cơ được giải thích như trên, nhưng đường tu của hàng thượng căn thật ra bao gồm hai loại người khác nhau, vì vậy Thầy Mã Minh dạy rằng đại thừa có hai nhánh. Vì lý do đó, những gì dạy ở đây không phải là lời hướng dẫn dành cho hàng sơ căn cầu an lạc đời này, cũng không dành cho hàng trung căn cầu giải thoát riêng mình, mà là đoạn đường tu chung với hàng sơ căn và trung căn, dẫn lối vào đường tu thượng căn.

Thứ hai [vì sao phải dẫn dắt theo trình tự như vậy] có hai điểm: 1) lý do chính và 2) mục tiêu.

Điểm thứ nhất, cửa vào Đại thừa nằm ở cái tâm hướng về vô thượng bồ đề. Phát được tâm này thì, như Nhập Bồ Đề Hạnh Luận có nói:

Chúng sinh khốn khổ trôi lăn luân hồi
Mà phát được tâm thì ngay lúc ấy
sẽ được gọi là Như Lai trưởng tử.”

Theo đó thì hễ đủ yếu tố xứng danh bồ tát là bước vào Đại thừa, thoái mất tâm bồ đề là lìa bỏ Đại thừa.

Do đó, muốn bước vào Đại thừa thì phải cố gắng đủ cách để phát tâm bồ đề. Để phát tâm, trước hết cần quán về lợi ích phát tâm để thích thú muốn làm tăng lợi ích này, và tu 7 Hạnh Phổ Hiền cùng với quy y. Học Tập Luận Nhập Bồ Đề Hạnh Luận đều dạy như vậy.

Lợi ích phát tâm gom lại có hai, lợi ích nhất thời và lợi ích cứu cánh. Lợi ích nhất thời cũng có hai: không rơi ác đạo và sinh vào thiện đạo. Phát được tâm thì mọi nhân tố sinh ác đạo đã từng tích lũy trước đây đều được tịnh sạch, đồng thời cắt đứt dòng liên tục không còn tích lũy trong tương lai. Còn nhân tố sinh thiện đạo nào đã tích lũy trong quá khứ, nhờ tâm bồ đề mà gia tăng gấp bội, nhân tố mới tích lũy cũng nhờ tâm bồ đề mà tăng trưởng bất tận.

Mục tiêu cứu cánh là giải thoát sinh tử và thành tựu chánh đẳng giác cũng đều nhờ tâm bồ đề mà đạt được một cách dễ dàng thoải mái. Nếu chưa sẵn có cái tâm thật sự khát khao muốn đạt lợi ích ấy thì dù có nói rằng,”lợi ích kia đến từ sự phát tâm, tôi phải nỗ lực để phát khởi tâm này,” cũng chỉ là lời nói suông. Cứ tự xét nơi tâm, sẽ thấy rất rõ.

Vậy để có được lòng khát khao hai lợi ích của tâm bồ đề là tái sinh thiện đạo và đạt quả chí thiện [giải thoát, thành Phật,] cần phải luyện tâm cùng chung phương pháp với hàng sơ căn và trung căn.

Một khi đã khởi được lòng khát khao lợi ích phát tâm, để có thể phát tâm bồ đề, hãy phát huy nền tảng của tâm ấy, là tâm đại từ và đại bi. Nếu nghĩ đến bản thân chính mình phải trôi lăn sinh tử, chịu khổ đau bức bách không chút niềm vui, mà không cảm thấy rợn cả lông tóc, nước mắt tuôn tràn, thì đối với cảnh khổ đau bức bách không chút niềm vui của người khác, làm sao có thể có được tấm lòng xót thương bất nhẫn.

Nhập Bồ Đề Hạnh Luận có câu nói rằng:

Tâm này chúng sinh chưa từng có được
Dù là trong mơ, dù chỉ cho mình
Làm sao có thể có được tâm này
vì khắp chúng sinh.

Vì vậy, cần theo phạm trù sơ căn để tự nhìn lại chính mình, ý thức khi cảnh ác đạo ụp đến sẽ khiến mình khổ đau đến mức nào; rồi theo phạm trù trung căn để thấy dù sinh thiện đạo vẫn khổ, không chút an vui. Từ đó mà chuyển qua nhìn về người thân, rồi nhìn về khắp cả chúng sinh, đều giống như mình. Cứ thế tâm bồ đề sẽ phát khởi, vì vậy luyện tâm chung với hàng sơ căn và trung căn là điều không thể thiếu. Đây là phương pháp phát tâm bồ đề không dụng công.

Tương tự như vậy, tâm quy y, nhớ nhân quả vân vân, nỗ lực tịnh nghiệp và tích đức bằng nhiều cách như vậy theo đường tu sơ và trung căn đều là phương pháp luyện tâm, phần sơ khởi của pháp tu phát tâm bồ đề. Vì đây cũng là một phần của bảy hạnh Phổ hiền kèm với pháp quy y, nên phải hiểu rằng đường tu sơ căn và trung căn đều là phương tiện tu phát tâm bồ đề.

Ở đây, đạo sư cần chỉ vẽ rõ ràng vì sao dòng pháp sơ căn và trung căn lại là một phần của pháp tu phát tâm bồ đề, và đệ tử cũng phải có được niềm xác quyết đối với những điều này. Trên bước đường tu sơ căn và trung căn, tu pháp thì phải nhớ pháp ấy là để phát tâm bồ đề, khi ấy sẽ thấy pháp hành này vô cùng quan trọng. Nếu không làm như vậy, đường tu thượng căn sẽ bị tách lìa khỏi đường tu còn lại, trong khi bản thân vẫn chưa thật sự bước vào đường tu của hàng thượng căn nên chưa thể có được niềm xác quyết nơi tâm bồ đề, tạo chướng ngại cho việc phát tâm và làm thoái chuyển mục tiêu lớn. Vì vậy cần phải kiên trì với bước đường tu sơ căn và trung căn này.

Tu như vậy rồi, hãy để cho tâm bồ đề không dụng công phát khởi trong tâm càng nhiều càng tốt.

Muốn cho tâm bồ đề vững chắc, trước tiên cần khởi tâm quy y phi thường, sau đó thực hành nghi thức phát tâm nguyện bồ đề rồi tu theo pháp hành này. Thường xuyên khởi ý muốn tu sáu hạnh ba la mật và bốn nhiếp pháp vân vân. Bao giờ từ tận đáy lòng có được ý nguyện thật sự muốn tu, khi ấy hãy thọ giới bồ tát thanh tịnh.

Thọ giới bồ tát rồi, dù nguy tánh mạng cũng không để cho sự phá trọng giới làm cho hoen ố, và cũng nỗ lực không để lỗi nhỏ, lỗi vừa, hay việc ác làm cho dơ bẩn. Tuy vậy, nếu lỡ phá giới, hãy khéo áp dụng phương pháp đối trị theo như lời Phật dạy để mà tịnh giới. Rồi tu sáu hạnh ba la mật nói chung, đặc biệt là Định, cốt lõi của chỉ [samatha], để có thể tùy ý đặt tâm vào đối cảnh thiện nào mình muốn.

Bồ Đề Đạo Đăng Luận nói rằng, “Muốn có thần thông, phải có tâm chỉ (Sa-ma-tha).” Đây chỉ là một ví dụ. Chính đức Atisa cũng có nói ở nơi khác rằng đạt tâm quán cũng vậy, nên muốn đạt tâm quán cũng cần phải có tâm chỉ.

Tiếp theo, dùng tri kiến để nắm lấy ý nghĩa của tánh không một cách xác quyết, chặt đứt cùm gông của hai loại chấp ngã, duy trì pháp thiền không vướng lỗi này để thành tựu tâm quán, cốt tủy của hạnh Tuệ.

Sách Giảng Về Ngọn Đèn Soi Đường Giác Ngộ nói rằng ngoài chỉ và quán ra, mọi pháp hành từ đầu cho đến giới bồ tát là thuộc về Giới, pháp tu chỉ thuộc về Định, và pháp tu quán thuộc về Tuệ.

Hơn nữa, các pháp tu từ đầu cho đến hết pháp tu chỉ là phần phương tiện, là tích lũy tư lương phước đức, là dựa trên tục đế, và là trình tự của đường tu quảng đại, còn phát ba loại tuệ giác phi thường là phần trí tuệ, là tích lũy tư lương trí tuệ, là dựa trên chân đế, và là trình tự đường tu thâm sâu. Hãy khởi niềm tin lớn lao nơi trình tự và con số nói ở đây, biết chắc rằng nếu phương tiện và trí tuệ tách lìa thì quả bồ-đề sẽ không thể nào đạt được.

Nỗ lực luyện tâm theo đường tu chung như vậy rồi, sau đó nhất định phải bước vào mật pháp, lý do là vì một khi vào mật pháp, hai bộ tư lương phước trí sẽ mau chóng viên thành.

Tuy vậy, nếu không có khả năng bước xa hơn đường tu hiển thừa, hay vì lực huân tập kém không thể đương cơ, vậy cứ hãy cứ tiếp tục phát huy đường tu bát nhã thừa.

Nói chung mọi cỗ xe, đặc biệt là mật chú thừa, đều nhấn mạnh vào pháp tu nương dựa đạo sư, vì vậy bước vào mật chú thừa rồi lại càng phải dụng công với pháp này hơn trước. Rồi nương vào pháp quán đảnh đến từ dòng truyền thừa thanh tịnh để làm cho tâm thức chín mùi. Mật thệ và giới pháp thọ nhận lúc ấy, hãy giữ bằng mạng sống. Đặc biệt là nếu phá trọng giới thì dù có thọ lại, dòng tâm thức cũng đã vướng tì vết, khó lòng phát triển thiện đức, vì vậy đừng để bị ố. Cả giới phụ cũng đừng để bị ố. Nếu lỡ có bị ố, cũng đừng để vậy không quan tâm mà phải sám hối và tự chế để thanh tịnh. Rồi hãy tùy căn cơ, dẫn dắt tâm mình bằng pháp du già hữu tướng thuộc bộ mật tông dưới và giai đoạn khởi hiện thuộc bộ mật tông trên. Rồi dựa vào đó, tùy căn cơ mà tu pháp du già vô tướng thuộc bộ mật tông dưới và giai đoạn viên thành của bộ mật tông trên.

Đó là nội dung đường tu trình bày trong Ngọn Đèn Soi Đường Giác Ngộ. Pháp Lamrim cũng hướng dẫn người tu theo phương pháp tương tự.

Thứ hai, hỏi, hệ giáo pháp sơ căn và trung căn nếu đã là pháp sơ khởi của hệ giáo pháp thượng căn, vậy sao không gọi đây là hai giai đoạn trên đường tu của hàng thượng căn, việc gì phải gọi là “đường tu chung với hàng sơ căn và hàng trung căn?”

Phân chia ba loại chúng sinh để dẫn dắt riêng có hai lý do quan trọng. Một là để giúp cho người chưa khởi được cái tâm chung với hàng sơ căn và trung căn mà tự cho là mình thuộc hàng thượng căn có thể nhờ đó dập tắt ngã mạn. Hai là để mang lợi ích lớn đến cho cả ba hàng trí lớn, trí vừa, và trí nhỏ. Gọi lợi ích lớn, là vì người tu thuộc hàng thượng và trung căn vẫn cần phải sinh vào cõi lành và đạt quả giải thoát, nên hướng dẫn họ luyện tâm sơ căn và trung căn cũng không sai, họ sẽ nhờ đó mà phát triển được thiện đức. Trong khi đó, người tu sơ căn nếu bắt đầu tu bằng pháp tu vượt quá căn cơ của mình thì không những tâm trung căn hay thượng căn đều không khởi được mà còn đánh mất cả tâm sơ căn, tí gì cũng không có. Hơn nữa, kẻ thiện duyên thuộc hai hàng căn cơ cao, đời trước đã được học và luyện tâm theo đường tu chung [với hàng sơ căn], nếu hướng dẫn họ tu theo đường tu sơ căn thì thiện đức đã khởi từ đời trước hay chưa khởi đều sẽ mau chóng phát sinh, đường tu dưới đã xong nên có thể hướng dẫn họ đi lên càng lúc càng cao hơn, sẽ không làm trì hoãn đường tu của họ.

Để giải thích việc cần khởi tâm theo trình tự, Đà La Ni Tự Tại Vương Vấn Kinh dùng ví dụ người thợ bạc thiện nghệ đánh bóng ngọc quý theo từng công đoạn. Bậc Hộ Trì Long Thọ cũng dạy phải hướng dẫn tu thiện đạo và quả chí thiện theo trình tự, như sau:

Trước tiên là pháp sinh thiện đạo
Sau đó phát sinh quả chí thiện
Là vì nhờ sinh vào thiện đạo
Mà quả chí thiện dần phát sinh

Thánh Vô Trước cũng dạy rằng,

Thêm nữa, để giúp người tu tuần tự viên thành công đức, bồ tát với chúng sinh trí nhỏ phàm phu thì mới đầu dạy pháp dễ trước, cho họ tu theo lời giảng và pháp khai thị dễ theo. Thấy họ có được trí trung bình rồi thì dạy cho giáo pháp bậc trung, cho họ tu theo lời giảng và pháp khai thị khó vừa vừa. Thấy họ có được trí lớn rồi thì dạy cho giáo pháp thâm sâu, cho họ tu theo lời giảng và pháp khai thị vi tế, cứ thế, để cho thiện hạnh tuần tự tuôn chảy mà làm lợi cho chúng sinh.

Đức Thánh Thiên trong Tập Hạnh Đăng Luận dạy rằng

Trước hãy luyện tâm / với bát nhã thừa,
Rồi phải tuần tự / bước vào mật thừa.

Để tóm tắt ý nghĩa này, ngài nói như sau,

Để cho chúng sinh / từ bước khởi đầu
Vào được chân nghĩa
Đức Phật dạy rằng / phương pháp phải theo
Giống như bậc thang.

[hết Phần 8 và hết chương 1]

MỤC LỤC
1 – Lý Do Viết Luận & Nói Về Tác Giả
2 – Nói Về Tác Phẩm
3 – Giảng & Nghe Pháp
4 – Cách Nương Đạo Sư
5 – Cách Tu Thiền
6 – Phá Khái Niệm Sai Lầm Về Pháp Thiền
7 – Thân Người Ung Dung Sung Mãn
8 – Ba Loại Căn Cơ Chúng Sinh

 




Thogme Zangpo: 37 PHÁP HÀNH BỒ TÁT

-Tựa đề tiếng Tạng (Tibetan Title): ༄༅། །རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་སོ་བདུན་མ་བཞུགས་སོ། །
-Tác Giả (author): Gyalse Thogme Zangpo
-Việt dịch (Vietnamese translation): Cư sĩ Hồng Như Thupten Munsel – 02/2019, hiệu đính 08/2019

1.  CÔNG ĐỨC PHẦN THƯỢNG—KHAI KỆ

1a. Nói tựa đề

Dưới đây là Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát

1b. Tán Dương

1b1. Nói ngắn gọn

Nam mô Đức Quan Tự Tại Lokesvaraye

1b2. Nói chi tiết

Dù thấy vạn pháp / không đi không đến,
Cũng vẫn dốc sức / chỉ vì lợi sinh:
Thượng sư tôn quí, đức Quan Thế Âm, bậc đại hộ trì,
Đệ tử hằng mang / ba cửa kính lễ.

1c. Lý do tác luận

Chư Chánh Đẳng Giác, / cội nguồn phúc lạc,
Thành Phật là nhờ / chứng đắc diệu Pháp,
Chứng đắc là nhờ / biết được pháp hành:
Vì vậy cho nên / cần phải giảng về / pháp hành bồ tát.

2. CÔNG ĐỨC PHẦN TRUNG—CHÁNH VĂN

2a. Pháp tu sơ khởi (kệ 1-7)

2a1. Thân người ung dung sung mãn khó gặp (kệ 1)

1. Ung dung, sung mãn, / thuyền lớn khó tìm / nay đã có được.
Để độ ngã tha / thoát bể sinh tử
Nên ngày lẫn đêm / đều không xao lãng
Văn tư và tu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a2. Từ bỏ quê cha (kệ 2)

2. Thân thì luyến chấp / như là nước cuốn;
Thù thì sân hận / như lửa cháy bừng;
U mê quên hết / điều cần lấy, bỏ:
Quê cha đoạn lìa — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a3. Trú nơi viễn li (kệ 3)

3. Nhờ lánh chỗ ác / nên phiền não cạn;
Tâm không tán loạn: / thiện hạnh tự  tăng;
Trí giữ sáng trong / tự tin nơi pháp:
Trú nơi viễn li — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a4. Nhớ vô thường (kệ 4)

4. Người thân lâu năm, / lần lượt giã biệt;
Tiền kiếm vất vả, / bỏ lại phía sau;
Thân là nhà trọ, / tâm thức là khách / sẽ phải rời đi:
Đời này xả li — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a5. Rời bạn xấu (kệ 5)

Có kẻ nếu gần / tam độc sẽ tăng,
Văn tư và tu / hết thảy đều giảm,
Tâm từ tâm bi / rồi sẽ mất sạch:
Rời xa ác hữu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a6. Nương thiện tri thức (kệ 6)

6. Lại có những người / nếu nương dựa vào / lầm lỗi sẽ dứt,
Thiện đức sẽ tăng / như trăng độ rằm:
Thiện tri thức ấy / hãy nên trân quí
Hơn cả thân mình — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a7. Quy Y  (kệ 7)

7. Tự mình còn vướng / tù ngục luân hồi,
Chư thiên thế tục / độ được cho ai?
Nếu đã qui y, / hãy tìm về nương / chốn không hư ngụy:
Qui y Tam bảo — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b. Giải thích về đường tu ba loại căn cơ

2b1. Đường tu sơ căn phải tu như thế nào  (kệ 8)

8. Phật dạy khổ nạn / ác đạo khó kham
Đều là quả báo / của nghiệp bất thiện.
Vì thế cho nên / chẳng thà mất mạng
Việc ác không làm — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b2. Đường tu trung căn phải tu như thế nào (kệ 9)

9. Lạc thú ba cõi / như sương đầu cỏ,
Chỉ phút giây thôi / rồi tan biến hết.
Quả vị giải thoát / thắng diệu bất biến
Thường luôn tìm cầu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3. Đường tu thượng căn phải tu như thế nào (kệ 10-24)

2b3a. Phát tâm bồ đề (kệ 10)

10. Đa sinh hiền mẫu / kể từ vô thủy / luôn rất yêu tôi.
Mẹ đều khổ cả, / con vui sao đành!
Vì để phổ độ / chúng sinh vô biên
Phát tâm bồ đề — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b. Huân tập và phát huy tâm bồ đề

2b3b1. Tâm bồ đề tục nghĩa (kệ 11-21)
2b3b1a. Nhập định quán hoán chuyển ngã tha (kệ 11)

11. Chịu khổ là vì / tôi muốn tôi vui;
Thành Phật là nhờ / tâm muốn lợi người.
Vậy thì vui tôi / đổi lấy khổ người,
Trọn vẹn hoán chuyển — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b. Xuất định quán chuyển nghịch cảnh thành đường tu (kệ 12-22)
2b3b1b1. Chuyển khổ nạn thành đường tu  (kệ 12-15)
2b3b1b1a. Tổn thất (kệ 12)

12. Dù ai vì tham / mà tài sản tôi
Họ tự tay cướp, / hoặc bảo người cướp,
Đối với người ấy / vẫn mang thân, của, / công đức ba thời,
Hồi hướng cho họ — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b1b. Khổ (kệ 13)

13. Tôi một chút lỗi / cũng không hề có,
Nhưng lại có người / chặt mất đầu tôi.
Ác nghiệp người ấy, / với tâm từ bi
Tôi sẽ gánh về — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b1c. Khẩu thiệt (kệ 14)

14. Dù có bị ai / mắng chửi  đủ điều,
Bêu rếu cùng khắp / tam thiên thế giới,
Đối với người ấy / lại càng từ hòa
Ngợi ca việc thiện — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b1d. Chỉ trích (kệ 15)

15. Dù có bị ai / ngay giữa đám đông
Bươi móc lỗi kín / thóa mạ nặng lời
Vẫn xem người ấy / là thiện tri thức
Thành tâm kính lễ — đó là pháp hành / của bậc bồ tát

2b3b1b2. Chuyển cảnh khó thành đường tu (kệ 16-17)
2b3b1b2a. Vô ơn (kệ 16)

16. Người tôi dưỡng nuôi / thương như con ruột
Lại đối với tôi / như với kẻ thù.
Tôi vẫn như mẹ / khi con lâm bệnh
Lại càng thương yêu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b2b. Nhục mạ (kệ 17)

17. Dù người bằng tôi, / hay thấp hơn tôi,
Ngã mạn lăng nhục / làm khó đủ điều,
Vẫn kính người ấy / như kính Tôn sư
Đội ở trên đầu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b3. Chuyển cảnh khốn cùng hay phú quí vào đường tu (kệ 18-19)
2b3b1b3a. Khốn cùng (kệ 18)

18. Dù nghèo xơ xác / bị đời khinh miệt,;
Dù vướng trọng bệnh, / ám chướng, tà ma,
Ác, khổ chúng sinh / vẫn xin nhận hết
Không chút nao lòng — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b3b. Phú quí (kệ 19)

19. Danh tiếng lừng vang, / đại chúng đê đầu,
Tài sản sánh tày / Đa Văn Thiên Vương,
Vẫn thấy sá gì / tiền tài thế lực,
Lòng không kiêu ngạo — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b4. Chuyển cảnh khiến sân và tham vào đường tu (kệs
20-21)
2b3b1b4a. Cảnh khiến nổi sân (kệ 20)

20. Sân hận của mình, / giặc này không dẹp
Thì giặc bên ngoài / càng quét càng tăng.
Vậy lấy từ bi / dùng làm chiến đội
Tự quét tâm mình — đó là pháp hành / của bậc bồ tát

2b3b1b4b. Cảnh khiến nổi tham (kệ 21)

21. Lạc thú giác quan / tựa như nước muối,
Càng uống bao nhiêu / càng khát bấy nhiêu.
Cứ hễ vật gì / khiến nổi tham chấp
Lập tức buông ra — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b2. Tâm Bồ Đề Chân Nghĩa (kệ 22-24)
2b3b2a. Cách Nhập Định Quán Tánh Không Như Không Gian (kệ 22)

22. Cảnh hiện hết thảy / đều là tâm ta.
Tâm này bản lai / siêu việt khái niệm.
Biết vậy nên khi / tiếp tướng đối đãi
Vẫn không tác ý — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b2b. Khi xuất thiền, làm sao ngừng thấy tham và sân là thật (kệ 23-24)
2b3b2b1. Ngừng thấy cảnh khiến nổi tham là có thật (kệ 23)

23. Khi gặp chốn nào / đẹp đẽ đáng yêu,
Thấy đó chỉ như / cầu vồng mùa hạ,
Rực rỡ hiện ra / nhưng không thật có:
Luyến chấp buông bỏ — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b2b2. Ngừng thấy cảnh khiến nổi sân là có thật (kệ 24)

24. Hết thảy khổ đau / đều giống trong mơ / thấy con mình chết,
Lấy vọng làm thật  / nên luôn đuối mệt,
Vì thế cho nên / khi gặp nghịch cảnh
Thấy đều là vọng — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3. CÔNG ĐỨC PHẦN HẠ — KẾT

3a. Dấn thân vào pháp hành bồ tát (kệ 25-37)

3a1. Sáu Ba La Mật (kệ 25-30)

3a1a. Hạnh Thí (kệ 25)

25. Muốn đạt bồ đề / đến thân còn cho
Huống chi ngoại vật. / Vì thế cho nên
Không mong hồi báo / không cầu thiện quả
Mà làm bố thí — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1b. Hạnh Giới (kệ 26)

26. Giới đã không thì / tự lợi cũng không,
Lại muốn lợi tha / thật quá nực cười!
Vậy nên vắng mọi / ham muốn thế tục
Để mà giữ giới — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1c. Hạnh Nhẫn (kệ 27)

27. Đối với bồ tát / hướng về thiện đức
thì kẻ nhiễu hại / chính là kho báu,
Nên với mọi người / lòng không thù hận,
Tu theo hạnh nhẫn — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1d. Hạnh Tấn (kệ 28)

28.Thanh văn Duyên giác / cầu tự lợi thôi
Đã tinh tấn như / lửa cháy ngang mày
Vậy vì chúng sinh / khởi tâm chuyên cần / nơi gốc thiện đức,
Tu hạnh tinh tấn — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1e. Hạnh Định (kệ 29)

29. Chỉ, nếu phối hợp / triệt để với Quán
Thì phiền não diệt. / Nhờ biết như vậy,
Siêu việt hết thảy / tứ vô sắc giới,
Tu chánh định này — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1f. Hạnh Tuệ (kệ 30)

30. Tuệ mà không có / thì năm hạnh kia
Không đủ khả năng / thành tựu chánh giác.
Dùng Phương tiện và / tam vô phân biệt,
Để tu hạnh Tuệ — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a2. Bốn Điều Khế Kinh Dạy (kệ 31-34)

3a2a. Tự Xét Lỗi Mình Để Bỏ Đi  (kệ
31)

31. Mê vọng của mình / nếu không tự xét,
Sẽ nhìn giống tu / nhưng làm trái Pháp,
Vậy thì mê vọng / phải luôn tự mình
Xét để mà buông — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a2b. Ngưng Chỉ Trích Bồ Tát  (kệ 32)

32. Vì phiền não nên / bêu lỗi bồ tát
Thì bản thân mình / sẽ bị tổn hao.
Vậy thì những ai / đã vào đại thừa,
Mình đừng nói lỗi — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a2c. Chặt Tham Chấp nơi việc nhà của thí chủ (kệ 33)

33. Vì lợi vì danh / mà sanh tranh chấp,
Làm cho hao tổn / cả văn tư tu.
Nên việc người thân, / bằng hữu, thí chủ,
Buông mọi chấp bám — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a2d. Tự Chế Ngự Lời Thô Ác  (kệ 34)

34. Lời thô ác khiến / tâm người não loạn
Và làm hao tổn / tánh hạnh bồ tát
Vậy với người khác / đừng gây khó chịu,
Buông ác ngữ đi — đó là pháp hành / của bậc bồ tát

3a3. Cách Dẹp Phiền Não  (kệ 35)

35. Phiền não quen lâu / sẽ khó đối trị,
Vũ khí giao cho / chánh niệm chánh trị,
Phiền não như là / tham sân các thứ,
Chớm nhú chặt ngay — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a4. Luyện Chánh Niệm Tỉnh Giác  (kệ
36)

36. Tóm lại, bất cứ / ở đâu, làm gì,
Cũng phải tự hỏi / tâm mình ra sao.
Luôn đi cùng với / chánh niệm tỉnh giác
Để mà độ sinh — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a5. Hồi Hướng Cồng Đức về cho Bồ Đề Viên Mãn (kệ 37)

37. Nỗ lực như vậy / được bao công đức,
Xin vì quét khổ / cho khắp chúng sinh
Mà dùng trí tuệ / siêu việt tam chấp,
Hồi hướng bồ đề  — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3b. Kết

Từ nơi ý nghĩa / của Kinh, Mật, Luận
Dựa theo viên âm / của chư Giác giả,
Nay xin viết lại / thành ba mươi bảy / pháp hành bồ tát
Cho những ai muốn / tu bồ tát đạo.

Tôi vì trí thấp / hiểu biết không nhiều,
Thi kệ không làm / đẹp lòng bậc trí,
Thế nhưng nhờ nương / lời bậc Giác giả / cùng với khế kinh,
Pháp hành bồ tát / thiết nghĩ không lầm.

Tuy vậy, sóng cả / thiện hạnh bồ tát
Thâm sâu khó lường / cho kẻ trí mọn / như là tôi đây.
Lỡ đâu mâu thuẫn / hay thiếu mạch lạc / vướng lỗi đại loại,
Xin chư  Giác giả / nhẫn nại dùm cho.

Nhờ công đức này, / nguyện khắp chúng sinh
Với tâm bồ đề / chân nghĩa, tục nghĩa,
Không vướng hai đầu / sinh tử, niết bàn,
Trở thành y như / đức Quan Thế Âm.

Bài pháp này do tỷ kheo Thogme, giáo luận sư, viết tại động đá ở  Ngulchu Rinchen, vì lợi ích của mình và của người.

Ghi chú bản tiếng Việt: Cư sĩ Hồng Như Thubten Munsel chuyển Việt ngữ tháng 2 năm 2019, hiệu đính tháng 8 năm 2019.
Chánh văn dịch từ nguyên bản tiếng Tạng, tham khảo với nhiều bản tiếng Anh trong đó có bản dịch của Alex Berzin, Adam Pearcey, Michele Martin, Ruth Sonam ; đại cương dịch từ tiếng Anh theo văn bản của Kurukulla Centre trích từ Transforming Adversity into Joy and Courage, by Geshe Jampa Tegchok.

Tạng Ngữ

ན་མོ་ལོ་ཀེ་ཤྭ་ར་ཡེ།
 ། གང་གིས་ཆོས་ཀུན་འགྲོ་འོང་མེད་གཟིགས་ཀྱང་།
 ། འགྲོ་བའི་དོན་ལ་གཅིག་ཏུ་བརྩོན་མཛད་པའི།  ། བླ་མ་མཆོག་དང་སྤྱན་རས་གཟིགས་མགོན་ལ།  ། རྟག་ཏུ་སྒོ་གསུམ་གུས་པས་ཕྱག་འཚལ་ལོ།  ། ཕན་བདེའི་འབྱུང་གནས་རྫོགས་པའི་སངས་རྒྱས་རྣམས།  ། དམ་ཆོས་བསྒྲུབས་ལས་བྱུང་སྟེ་དེ་ཡང་ནི།  ། དེ་ཡི་ལག་ལེན་ཤེས་ལ་རག་ལས་པས།  ། རྒྱལ་སྲས་རྣམས་ཀྱི་ལག་ལེན་བཤད་པར་བྱ།  ། དལ་འབྱོར་གྲུ་ཆེན་རྙེད་དཀའ་ཐོབ་དུས་འདིར།  ། བདག་གཞན་འཁོར་བའི་མཚོ་ལས་བསྒྲལ་བྱའི་ཕྱིར།  ། ཉིན་དང་མཚན་དུ་གཡེལ་བ་མེད་པར་ནི།  ། ཉན་སེམས་སྒོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། གཉེན་གྱི་ཕྱོགས་ལ་འདོད་ཆགས་ཆུ་ལྟར་གཡོ།  ། དགྲ་ཡི་ཕྱོགས་ལ་ཞེ་སྡང་མེ་ལྟར་འབར།  ། བླང་དོར་བརྗེད་པའི་གཏི་མུག་མུན་ནག་ཅན།  ། ཕ་ཡུལ་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཡུལ་ངན་སྤངས་པས་ཉོན་མོངས་རིམ་གྱིས་འགྲིབ།  ། རྣམ་གཡེང་མེད་པས་དགེ་སྦྱོར་ངང་གིས་འཕེལ།  ། རིག་པ་དྭངས་པས་ཆོས་ལ་ངེས་ཤེས་སྐྱེ།  ། དབེན་པ་བསྟེན་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཡུན་རིང་འགྲོགས་པའི་མཛའ་བཤེས་སོ་སོར་འབྲལ།
འབད་པས་བསྒྲུབས་པའི་ནོར་རྫས་ཤུལ་དུ་ལུས།  །
ལུས་ཀྱི་མགྲོན་ཁང་རྣམ་ཤེས་མགྲོན་པོས་འབོར།  ། ཚེ་འདི་བློས་བཏང་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། གང་དང་འགྲོགས་ན་དུག་གསུམ་འཕེལ་འགྱུར་ཞིང་།  ། ཐོས་བསམ་སྒོམ་པའི་བྱ་བ་ཉམས་འགྱུར་ལ།  ། བྱམས་དང་སྙིང་རྗེ་མེད་པར་སྒྱུར་བྱེད་པའི།  ། གྲོགས་ངན་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། གང་ཞིག་བསྟེན་ན་ཉེས་པ་ཟད་འགྱུར་ཞིང་།  ། ཡོན་ཏན་ཡར་ངོའི་ཟླ་ལྟར་འཕེལ་འགྱུར་བའི།  ། བཤེས་གཉེན་དམ་པ་རང་གི་ལུས་བས་ཀྱང་།  ། གཅེས་པར་འཛིན་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་ཡང་འཁོར་བའི་བཙོན་རར་བཅིངས་པ་ཡི།  ། འཇིག་རྟེན་ལྷ་ཡིས་སུ་ཞིག་བསྐྱབ་པར་ནུས།  ། དེ་ཕྱིར་གང་ལ་སྐྱབས་ན་མི་བསླུ་བའི།  ། དཀོན་མཆོག་སྐྱབས་འགྲོ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཤིན་ཏུ་བཟོད་དཀའི་ངན་སོང་སྡུག་བསྔལ་རྣམས།  ། སྡིག་པའི་ལས་ཀྱི་འབྲས་བུར་ཐུབ་པས་གསུངས།
དེ་ཕྱིར་སྲོག་ལ་བབས་ཀྱང་སྡིག་པའི་ལས།  ། ནམ་ཡང་མི་བྱེད་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།
 །  །སྲིད་གསུམ་བདེ་བ་རྩྭ་རྩེའི་ཟིལ་པ་བཞིན།  ། ཡུད་ཙམ་ཞིག་གིས་འཇིག་པའི་ཆོས་ཅན་ཡིན།  ། ནམ་ཡང་མི་འགྱུར་ཐར་པའི་གོ་འཕང་མཆོག
།དོན་དུ་གཉེར་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཐོག་མེད་དུས་ནས་བདག་ལ་བརྩེ་བ་ཡི།
 ། མ་རྣམས་སྡུག་ན་རང་བདེས་ཅི་ཞིག་བྱ།  ། དེ་ཕྱིར་མཐའ་ཡས་སེམས་ཅན་བསྒྲལ་བྱའི་ཕྱིར།  ། བྱང་ཆུབ་སེམས་བསྐྱེད་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། སྡུག་བསྔལ་མ་ལུས་བདག་བདེ་འདོད་ལས་བྱུང་།  ། རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་གཞན་ཕན་སེམས་ལས་འཁྲུངས།  ། དེ་ཕྱིར་བདག་བདེ་གཞན་གྱི་སྡུག་བསྔལ་དག
།ཡང་དག་བརྗེ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། སུ་དག་འདོད་ཆེན་དབང་གིས་བདག་གི་ནོར།
 ། ཐམས་ཅད་འཕྲོག་གམ་འཕྲོག་ཏུ་འཇུག་ན་ཡང་།  ། ལུས་དང་ལོངས་སྤྱོད་དུས་གསུམ་དགེ་བ་རྣམས།  ། དེ་ལ་བསྔོ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། བདག་ལ་ཉེས་པ་ཅུང་ཟད་མེད་བཞིན་དུ།
གང་དག་བདག་གི་མགོ་བོ་གཅོད་བྱེད་ནའང་། སྙིང་རྗེའི་དབང་གིས་དེ་ཡི་སྡིག་པ་རྣམས།  ། བདག་ལ་ལེན་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། འགའ་ཞིག་བདག་ལ་མི་སྙན་སྣ་ཚོགས་པ།  ། སྟོང་གསུམ་ཁྱབ་པར་སྒྲོགས་པར་བྱེད་ན་ཡང་།  ། བྱམས་པའི་སེམས་ཀྱིས་སླར་ཡང་དེ་ཉིད་ཀྱི།  ། ཡོན་ཏན་བརྗོད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། འགྲོ་མང་འདུས་པའི་དབུས་སུ་འགའ་ཞིག་གིས།  ། མཚང་ནས་བྲུས་ཤིང་ཚིག་ངན་སྨྲ་ན་ཡང་།  ། དེ་ལ་དགེ་བའི་བཤེས་ཀྱི་འདུ་ཤེས་ཀྱིས།  ། ཡོན་ཏན་བརྗོད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། བདག་གིས་བུ་བཞིན་གཅེས་པར་བསྐྱངས་པའི་མིས།  ། བདག་ལ་དགྲ་བཞིན་ལྟ་བར་བྱེད་ན་ཡང་།  ། ནད་ཀྱི་བཏབ་པའི་བུ་ལ་མ་བཞིན་དུ།  ། ལྷག་པར་བརྩེ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་དང་མཉམ་པའམ་དམན་པའི་སྐྱེ་བོ་ཡིས།  ། ང་རྒྱལ་དབང་གིས་བརྙས་ཐབས་བྱས་ན་ཡང་།  ། བླ་མ་བཞིན་དུ་གུས་པས་བདག་ཉིད་ཀྱི།  ། སྤྱི་བོར་ལེན་པ་རྒྱལ་སྲས་ཡིན།  ། འཚོ་བས་ཕོངས་ཤིང་རྟག་ཏུ་མི་ཡིས་བརྙས།  ། ཚབས་ཆེན་ནད་དང་གདོན་གྱིས་བཏབ་ཀྱང་སླར་།  ། འགྲོ་ཀུན་སྡིག་སྡུག་བདག་ལ་ལེན་བྱེད་ཅིང་།  ། ཞུམ་པ་མེད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། སྙན་པར་གྲགས་ཤིང་འགྲོ་མང་སྤྱི་བོས་བཏུད།  ། རྣམ་ཐོས་བུ་ཡི་ནོར་འདྲ་ཐོབ་གྱུར་ཀྱང་།  ། སྲིད་པའི་དཔལ་འབྱོར་སྙིང་པོ་མེད་གཟིགས་ནས།  ། ཁེངས་པ་མེད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་གི་ཞེ་སྡང་དགྲ་བོ་མ་ཐུལ་ན།  ། ཕྱི་རོལ་དགྲ་བོ་བཏུལ་ཞིང་འཕེལ་བར་འགྱུར་།  ། དེ་ཕྱིར་བྱམས་དང་སྙིང་རྗེའི་དམག་དཔུང་གིས།  ། རང་རྒྱུད་འདུལ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། འདོད་པའི་ཡོན་ཏན་ལན་ཚྭའི་ཆུ་དང་འདྲ།  ། ཇི་ཙམ་སྤྱད་ཅིང་སྲེད་པ་འཕེལ་བར་འགྱུར།  ། གང་ལ་ཞེན་ཆགས་སྐྱེ་བའི་དངོས་པོ་རྣམས།  ། འཕྲལ་ལ་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཇི་ལྟར་སྣང་བ་འདི་དག་རང་གི་སེམས།  ། སེམས་ཉིད་གདོད་ནས་སྤྲོས་པའི་མཐའ་དང་བྲལ།  ། དེ་ཉིད་ཤེས་ནས་གཟུང་འཛིན་མཚན་མ་རྣམས།  ། ཡིད་ལ་མི་བྱེད་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཡིད་དུ་འོང་བའི་ཡུལ་དང་འཕྲད་པ་ན།  ། དབྱར་གྱི་དུས་ཀྱི་འཇའ་ཚོན་ཇི་བཞིན་དུ།  ། མཛེས་པར་སྣང་ཡང་བདེན་པར་མེད་ལྟ་ཞིང་།  ། ཞེན་ཆགས་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། སྡུག་བསྔལ་སྣ་ཚོགས་རྨི་ལམ་བུ་ཤི་ལྟར།  ། འཁྲུལ་སྣང་བདེན་པར་བཟུང་བས་ཨ་ཐང་ཆད།  ། དེ་ཕྱིར་མི་མཐུན་རྐྱེན་དང་འཕྲད་པའི་ཚེ།  ། འཁྲུལ་བར་ལྟ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། བྱང་ཆུབ་འདོད་པས་ལུས་ཀྱང་གཏོང་དགོས་ན།  ། ཕྱི་རོལ་དངོས་པོ་རྣམས་ལ་སྨོས་ཅི་དགོས།  ། དེ་ཕྱིར་ལན་དང་རྣམ་སྨིན་མི་རེ་བའི།  ། སྦྱིན་པ་གཏོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཚུལ་ཁྲིམས་མེད་ན་རང་དོན་མི་འགྲུབ་ན།  ། གཞན་དོན་སྒྲུབ་པར་འདོད་པ་གད་མོའི་གནས།  ། དེ་ཕྱིར་སྲིད་པའི་འདུན་པ་མེད་པ་ཡི།  ། ཚུལ་ཁྲིམས་བསྲུང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། དགེ་བའི་ལོངས་སྤྱོད་འདོད་པའི་རྒྱལ་སྲས་ལ།  ། གནོད་བྱེད་ཐམས་ཅད་རིན་ཆེན་གཏེར་དང་མཚུངས།  ། དེ་ཕྱིར་ཀུན་ལ་ཞེ་འགྲས་མེད་པ་ཡི།  ། བཟོད་པ་སྒོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་དོན་འབའ་ཞིག་སྒྲུབ་པའི་ཉན་རང་ཡང་།  ། མགོ་ལ་མེ་ཤོར་བཟློག་ལྟར་བརྩོན་མཐོང་ན།  ། འགྲོ་ཀུན་དོན་དུ་ཡོན་ཏན་འབྱུང་གནས་ཀྱི།  ། བརྩོན་འགྲུས་རྩོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཞི་གནས་རབ་ཏུ་ལྡན་པའི་ལྷག་མཐོང་གིས།  ། ཉོན་མོངས་རྣམ་པར་འཇོམས་པར་ཤེས་བྱས་ནས།  ། གཟུགས་མེད་བཞི་ལས་ཡང་དག་འདས་པ་ཡི།  ། བསམ་གཏན་སྒོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཤེས་རབ་མེད་ན་ཕ་རོལ་ཕྱིན་ལྔ་ཡིས།  ། རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་ཐོབ་པར་མི་ནུས་པས།  ། ཐབས་དང་ལྡན་ཞིང་འཁོར་གསུམ་མི་རྟོག་པའི།  ། ཤེས་རབ་སྒོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་གི་འཁྲུལ་བ་རང་གིས་མ་བརྟགས་ན།  ། ཆོས་པའི་གཟུགས་ཀྱིས་ཆོས་མིན་བྱེད་སྲིད་པས།  ། དེ་ཕྱིར་རྒྱུན་དུ་རང་གི་འཁྲུལ་བ་ལ།  ། བརྟགས་ནས་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཉོན་མོངས་དབང་གིས་རྒྱལ་སྲས་གཞན་དག་གི
།ཉེས་པ་གླེང་ན་བདག་ཉིད་ཉམས་འགྱུར་བས།  ། ཐེག་པ་ཆེ་ལ་ཞུགས་པའི་གང་ཟག་གི
།ཉེས་པ་མི་སྨྲ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རྙེད་བཀུར་དབང་གིས་ཕན་ཚུན་རྩོད་འགྱུར་ཞིང་།
 ། ཐོས་བསམ་བསྒོམ་པའི་བྱ་བ་ཉམས་འགྱུར་བས།  ། མཛའ་བཤེས་ཁྱིམ་དང་སྦྱིན་བདག་ཁྱིམ་རྣམས་ལ།  ། ཆགས་པ་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རྩུབ་མོའི་ཚིག་གིས་གཞན་སེམས་འཁྲུག་འགྱུར་ཞིང་།
 ། རྒྱལ་བའི་སྲས་ཀྱི་སྤྱོད་ཚུལ་ཉམས་འགྱུར་བས།
 ། དེ་ཕྱིར་གཞན་གྱི་ཡིད་དུ་མི་འོང་བའི།  ། ཚིག་རྩུབ་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཉོན་མོངས་གོམས་ན་གཉེན་པོས་བཟློག་དཀའ་བས།  ། དྲན་ཤེས་སྐྱེས་བུས་གཉེན་པོའི་མཚོན་བཟུང་ནས།  ། ཆགས་སོགས་ཉོན་མོངས་དང་པོ་སྐྱེས་མ་ཐག
།འབུར་འཇོམས་བྱེད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  །
 །མདོར་ན་གང་དུ་སྤྱོད་ལམ་ཅི་བྱེད་ཀྱང་།  ། རང་གི་སེམས་ཀྱི་གནས་སྐབས་ཅི་འདྲ་ཞེས།  ། རྒྱུན་དུ་དྲན་དང་ཤེས་བཞིན་ལྡན་པ་ཡིས།  ། གཞན་དོན་སྒྲུབ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  །  །དེ་ལྟར་བརྩོན་པས་བསྒྲུབས་པའི་དགེ་བ་རྣམས།  ། མཐའ་ཡས་འགྲོ་བའི་སྡུག་བསྔལ་བསལ་བྱའི་ཕྱིར་།  ། འཁོར་གསུམ་རྣམ་པར་དག་པའི་ཤེས་རབ་ཀྱིས།  ། བྱང་ཆུབ་བསྔོ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ ཡིན།  ། མདོ་རྒྱུད་བསྟན་བཅོས་རྣམས་ལས་གསུངས་པའི་དོན།  ། དམ་པ་རྣམས་ཀྱི་གསུང་གི་རྗེས་འབྲངས་ནས།  ། རྒྱལ་སྲས་རྣམས་ཀྱི་ལག་ལེན་སུམ་ཅུ་བདུན།  ། རྒྱལ་སྲས་ལམ་ལ་སློབ་འདོད་དོན་དུ་བཀོད།  ། བློ་གྲོས་དམན་ཞིང་སྦྱངས་པ་ཆུང་བའི་ཕྱིར།  ། མཁས་པ་དགྱེས་པའི་སྡེབ་སྦྱོར་མ་མཆིས་ཀྱང་།  ། མདོ་དང་དམ་པའི་གསུང་ལ་བརྟེན་པའི་ཕྱིར།  ། རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་འཁྲུལ་མེད་ལེགས་པར་སེམས།  ། འོན་ཀྱང་རྒྱལ་སྲས་སྤྱོད་པ་རླབས་ཆེན་རྣམས།  ། བློ་དམན་བདག་འདྲས་གཏིང་དཔག་དཀའ་བའི་ཕྱིར།  ། འགལ་དང་མ་འབྲེལ་ལ་སོགས་ཉེས་པའི་ཚོགས།  ། དམ་པ་རྣམས་ཀྱིས་བཟོད་པར་མཛད་དུ་གསོལ།  ། དེ་ལས་བྱུང་བའི་དགེ་བས་འགྲོ་བ་ཀུན།  ། དོན་དམ་ཀུན་རྫོབ་བྱང་ཆུབ་སེམས་མཆོག་གིས།  ། སྲིད་དང་ཞི་བའི་མཐའ་ལ་མི་གནས་པའི།  ། སྤྱན་རས་གཟིགས་མགོན་དེ་དང་མཚུངས་པར་ཤོག
།ཅེས་པ་འདི་རང་གཞན་ལ་ཕན་པའི་དོན་དུ་ལུང་དང་རིགས་པ་སྨྲ་བའི་བཙུན་པ་ཐོགས་མེད་ཀྱིས་དངུལ་ཆུའི་རིན་ཆེན་ཕུག་ཏུ་སྦྱར་བའོ།།
 །




Lama Tsongkhapa: LỜI NGUYỆN CUỐI LAMRIM ĐẠI LUẬN

-Tựa Đề Tạng Ngữ (Tibetan Title): ࿓༅༎་ལམ་རིམ་སྨོན་ལམ་བཞུགས་སོ༎
-Tác giả (author): Lama Tsongkhapa (Lama Tông Khách Ba)
(sơ tổ dòng Gelug)
-Việt ngữ (translator): Hồng Như, bản mới 2018
Nghe Tụng (chanting): Lab Kyabgon Rinpoche <Youtube>
༡༽ དེར་ནི་རིང་དུ་འབད་ལས་ཚོགས་གཉིས་ནི ། །
DER NI RING DU BÄ LÄ TSHOG NYI NI
From my two collections, vast as space, that I have amassed
Bấy lâu gắng tu / được nhị lương này
མཁའ་ལྟར་ཡངས་པ་གང་ཞིག་བསགས་པ་དེས ། །
KHA TAR YANG PA GANG ZHIG SAG PA DE
From working with effort at this practice for a great length of time,
Rộng như trời rộng, / xin vì những ai
བློ་མིག་མ་རིག་གིས་ལྡོངས་འགྲོ་བ་ཀུན ། །
LO MIG MA RIG GI DONG DRO WA KÜN
May I become the chief leading buddha for all those
mắt tuệ khuất lấp / bởi màn vô minh
རྣམ་འདྲེན་རྒྱལ་བའི་དབང་པོར་བདག་གྱུར་ཅིག །
NAM DREN GYÄL WÄI WANG POR DAG GYUR CHIG
Whose mind’s wisdom eye is blinded by ignorance.
con nguyện thành Phật / thượng thủ dẫn đường

༢༽ དེར་མ་སོན་པའི་ཚེ་རབས་ཀུན་ཏུ་ཡང་། །
DER MA SÖN PÄI TSHE RAB KÜN TU YANG
Even if I do not reach this state, may I be held
Khi chưa được vậy / nguyện mọi kiếp sau
འཇམ་པའི་དབྱངས་ཀྱིས་བརྩེ་བས་རྗེས་བཟུང་ནས ། །
JAM PÄI YANG KYI TSE WÄ JE ZUNG NÄ
In your loving compassion for all lives, Manjushri,
Được đức Mạn thù / thương yêu gìn giữ,
བསྟན་པའི་རིམ་པ་ཀུན་ཚང་ལམ་གྱི་མཆོག །
TÄN PÄI RIM PA KÜN TSHANG LAM GYI CHOG
May I find the best of complete graded paths of the teachings,
Trọn vẹn thắng pháp / trình tự đạo giác,
རྙེད་ནས་སྒྲུབ་པས་རྒྱལ་རྣམས་མཉེས་བྱེད་ཤོག །
NYE NÄ DRUB PÄ GYÄL NAM NYE JE SHOG
And may I please all the buddhas by my practice.
Nguyện gặp và tu / khiến Phật đẹp lòng

༣༽ རང་གིས་ཇི་བཞིན་རྟོགས་པའི་ལམ་གྱི་གནད ། །
RANG GI JI ZHIN TOG PÄI LAM GYI NÄ
Using skillful means drawn by the strong force of compassion,
Chứng đúng như thật, cốt lõi đường tu
ཤུགས་དྲག་བརྩེ་བས་དྲངས་པའི་ཐབས་མཁས་ཀྱིས ། །
SHUG DRAG TSE WÄ DRANG WÄI THAB KHÄ KYI
May I clear the darkness from the minds of all beings
Lấy lực đại từ / làm thiện phương tiện
འགྲོ་བའི་ཡིད་ཀྱི་མུན་པ་བསལ་བྱས་ནས ། །
DRO WÄI YI KYI MÜN PA SÄL JÄ NÄ
With the points of the path as I have discerned them:
Quét sạch bóng tối / trong tâm hữu tình
རྒྱལ་བའི་བསྟན་པ་ཡུན་རིང་འཛིན་གྱུར་ཅིག །
GYÄL WÄI TÄN PA YÜN RING DZIN GYUR CHIG
May I uphold Buddha’s teachings for a very long time.
Giữ cho Pháp Phật / tồn tại dài lâu.

༤༽ བསྟན་པ་རིན་ཆེན་མཆོག་གིས་མ་ཁྱབ་པའམ།
TÄN PA RIN CHEN CHOG GI MA KHYAB PAM
With my heart going out with great compassion
Thắng Pháp quí giá / phương nào chưa thịnh,
ཁྱབ་ཀྱང་ཉམས་པར་གྱུར་པའི་ཕྱོགས་དེར་ནི ། །
KHYAB KYANG NYAM PAR GYUR WÄI CHOG DER NI
In whatever direction the most precious teachings
Hay là đã thịnh / nhưng rồi đã suy
སྙིང་རྗེ་ཆེན་པོས་ཡིད་རབ་བསྐྱོད་པ་ཡིས ། །
NYING JE CHEN PÖ YI RAB KYÖ PA YI
Have not yet spread, or once spread have declined,
Nguyện lấy đại bi / chấn động lòng người
ཕན་བདེའི་གཏེར་དེ་གསལ་བར་བྱེད་པར་ཤོག །
PHÄN DEI TER DE SÄL WAR JE PAR SHOG
May I reveal this treasure of happiness and aid.
Khai mở rạng ngời / kho tàng phúc lạc

༥༽སྲས་བཅས་རྒྱལ་བའི་རྨད་བྱུང་འཕྲིན་ལས་ལས༎
SÄ CHÄ GYÄL WÄI MÄ JUNG THRIN LÄ LÄ
May the minds of those who wish for liberation be granted bounteous peace
Nương hạnh nhiệm mầu / của Phật, Bồ tát
ལེགས་གྲུབ་བྱང་ཆུབ་ལམ་གྱི་རིམ་པས་ཀྱང་། །
LEG DRUB JANG CHUB LAM GYI RIM PÄ KYANG
And the buddhas’ deeds be nourished for a long time
Cùng với trình tự / đường tu giác ngộ
ཐར་འདོད་རྣམས་ཀྱི་ཡིད་ལ་དཔལ་སྟེར་ཞིང་། །
THAR DÖ NAM KYI YI LA PÄL TER ZHING
By even this graded path to enlightenment completed
Nguyện làm rực rỡ / tâm người cầu thoát,
རྒྱལ་བའི་མཛད་པ་རིང་དུ་སྐྱོང་གྱུར་ཅིག །
GYÄL WÄI DZÄ PA RING DU KYONG GYUR CHIG
Due to the wondrous virtuous conduct of the buddhas and their sons.
Huân dưỡng lâu dài / thiện hạnh Thế tôn.

༦༽ ལམ་བཟང་བསྒྲུབ་པའི་མཐུན་རྐྱེན་སྒྲུབ་བྱེད་ཅིང་༎
LAM ZANG DRUB PÄI THÜN KYEN DRUB JE CHING
May all human and non-human beings who eliminate adversity
Nguyện làm thuận duyên / cho pháp lành này
གལ་རྐྱེན་སེལ་བྱེད་མི་དང་མི་མིན་ཀུན ། །
GÄL KYEN SEL JE MI DANG MI MIN KÜN
And create conducive conditions for practicing the excellent paths
Nghịch duyên quét hết, / cho khắp mọi loài / nhân và phi nhân
ཚེ་རབས་ཀུན་ཏུ་རྒྱལ་བས་བསྔགས་པ་ཡི ། །
TSHE RAB KÜN TU GYÄL WÄ NGAG PA YI
Never be parted in any of their lives
Mọi đời kiếp sau / không bao giờ lìa
རྣམ་དག་ལམ་དང་འབྲལ་བར་མ་གྱུར་ཅིག །
NAM DAG LAM DANG DRÄL WAR MA GYUR CHIG
From the purest path praised by the buddhas.
Đường tu trong sáng / mà Phật tán dương.

༧༽གང་ཚེ་ཐེག་པ་མཆོག་ལ་ཆོས་སྤྱོད་བཅུའི༎
GANG TSHE THEG PA CHOG LA CHÖ CHÖ CHÜI
Whenever someone makes effort to act
Nguyện cho bao giờ / ở nơi thắng thừa
ཚུལ་བཞིན་བསྒྲུབ་ལ་བརྩོན་པ་དེ་ཡི་ཚེ ། །
TSHÜL ZHIN DRUB LA TSÖN PA DE YI TSHE
In accordance with the ten-fold Mahayana virtuous practices
Thuận theo thập thiện / hành trì tinh tấn,
མཐུ་ལྡན་རྣམས་ཀྱིས་རྟག་ཏུ་གྲོགས་བྱེད་ཅིང་། །
THU DÄN NAM KYI TAG TU DROG JE CHING
May he always be assisted by the mighty ones,
Sẽ luôn được chư / Đại lực nâng đỡ,
ཀྲ་ཤིས་རྒྱ་མཚོས་ཕྱོགས་ཀུན་ཁྱབ་གྱུར་ཅིག །
TRA SHI GYA TSÖ CHOG KÜN KHYAB GYUR CHIG
And may oceans of prosperity spread everywhere.
Biển rộng cát tường / tràn khắp mọi nơi.

ཅེས་པ་འདི་ནི་རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པས་མཛད་པའོ། །
Bài pháp này do đức Tsong Khapa trước tác




Lama Tsongkhapa: BA ĐIỂM TINH YẾU CỦA ĐƯỜNG TU

– English Title: Three Principal Aspects of the Path, English translation by Lama Zopa Rinpoche
Tác Giả (Author):
Lama Tông Khách Ba (sơ tổ dòng Gelug) –
Việt ngữ: Hồng Như – bản dịch lại 2017, nhuận văn 2021

Bản Việt ngữ mới nhuận văn: 2021

Tiếng Việt:

[TÁN DƯƠNG ĐẢNH LỄ]

Con xin kính lễ / các đấng Tôn Sư.

[HỨA VIẾT LUẬN]

[1] Giáo pháp Phật dạy / trọn nghĩa tinh yếu;
Con đường Phật và / Bồ tát tán dương;
Lối ngỏ mở ra / cho kẻ thiện duyên / khát khao giải thoát
Là những điều mà / Thầy sẽ hết lòng / giải thích ở đây.

[KHUYẾN NGHE]

[2] Ai người không cầu / lạc thú thế gian
Gắng tận dụng cảnh / ung dung sung mãn
Noi theo con đường / khiến Phật hoan hỉ,
Bậc thiện duyên này, / xin hãy lắng nghe / với tâm trong sáng.

[VÌ SAO CẦN KHỞI TÂM BUÔNG SINH TỬ]

[3] Tâm quyết cầu thoát / nếu chưa thật có
Thì biển luân hồi / tìm cầu thiện báo, / chẳng cách nào ngưng.
Lại luyến sinh tử, / nên kẻ có thân / luôn bị buộc ràng,
Vậy ngay từ đầu / phải sớm tìm cầu / tâm buông sinh tử.

[LÀM SAO PHÁT TÂM BUÔNG SINH TỬ]

[4] Ung dung sung mãn / là điều khó gặp, /
mạng sống thì lại / ngắn ngủi không bền:
Ý nghĩ này đây / tập cho quen thuộc, /
tâm rồi sẽ thôi / đắm chuyện đời này.
Phải luôn nhớ rằng / nghiệp quả không sai; /
toàn bộ luân hồi / không ngoài khổ não:
Hãy cứ như vậy / thường xuyên nhớ nghĩ, /
tâm sẽ không còn / đắm chuyện đời sau.

[THẾ NÀO MỚI ĐÚNG LÀ KHỞI TÂM BUÔNG SINH TỬ]

[5] Cứ thế, đối với / phồn vinh thế tục,
Đã tuyệt không còn / khởi niệm luyến tham,
Ngày cũng như đêm / đều mong giải thoát:
Tâm buông sinh tử / bấy giờ khởi sinh.

[VÌ SAO CẦN PHÁT TÂM BỒ ĐỀ]

[6] Nhưng dù có được / tâm buông sinh tử
Mà không phối hợp / với tâm bồ đề
Cũng chẳng thể nào / thành nhân đại lạc / của chánh đẳng giác.
Bởi vậy kẻ trí / phát tâm bồ đề.

[LÀM SAO PHÁT TÂM BỒ ĐỀ]

[7] Bị bốn sông lớn / cuồn cuộn cuống phăng,
Nghiệp cũ buộc ràng / khó lòng tháo gỡ,
Vướng kẹt trùng trùng / lưới sắt chấp ngã,
Khuất ngạt đêm dày / bóng tối vô minh,

[8] Sinh tử, tử sinh, / triền miên bất tận
Chịu ba loại khổ, bức bách không cùng.
Hiền mẫu của tôi / sống như thế đó:
Nhớ nghĩ như vậy, / để mà phát tâm / vô thượng bồ đề.

[THẾ NÀO MỚI ĐÚNG LÀ PHÁT TÂM BỒ ĐỀ]

[bổ sung] Tóm lại giống như / mẹ thấy con yêu / rơi vào hố lửa
Dù chỉ một giây / cũng đằng đẳng dài / hàng vô lượng kiếp
Nghĩ đến tất cả / hiền mẫu đa sinh / khổ đau vô tận
Tâm không chịu nổi / dù chỉ một giây,
Tự nhiên thiết tha / vì chúng sinh mà / cầu vô thượng giác,
Khi ấy là lúc / đã phát được tâm / vô thượng bồ đề.

[VÌ SAO CẦN CHỨNG NHƯ THẬT TRI KIẾN]

[9] Nhưng thiếu trí tuệ / chứng chân thực tại
Thì dù có đã / phát tâm buông xả, / và tâm bồ đề.
Cũng chẳng thể nào / chặt gốc sinh tử.
Vậy phải tìm cách / chứng lý duyên sinh.

[TRỎ RA NHƯ THẬT TRI KIẾN]

[10] Ai người thấy pháp / luân hồi, niết bàn,
Đều thuận nhân quả / không hề sai chạy,
Và mọi đối cảnh / của tâm chấp bám / toàn bộ rã tan,
Thì đó là người / bước vào con đường / khiến Phật hoan hỉ.

[NHƯ THẬT TRI KIẾN QUÁN SÁT CHƯA THÀNH]

[11] Hiểu được tướng hiện—duyên sinh không sai
Hiểu được tánh không—vắng mọi khẳng định
Hai sự hiểu này / hễ còn riêng lẻ
Là còn chưa chứng / ý thật của Phật.

[NHƯ THẬT TRI KIẾN QUÁN SÁT ĐÃ THÀNH]

[12] Bao giờ đồng loạt / không còn xen kẻ,
Chính lúc chứng biết / duyên sinh không sai
Là lúc rã tan / đối cảnh vọng chấp
Khi ấy chánh-kiến-quán-sát vẹn toàn.

[ĐIỂM THÙ THẮNG CỦA TRI KIẾN TRUNG QUÁN CỤ DUYÊN]

[13] Hơn nữa, vì hiện / mà tan chấp có;
Vì tánh không mà / tan hết chấp không.
Biết rõ thế nào / từ nơi tánh không / hiện ra nhân quả,
Khi ấy không còn / vướng chấp biên kiến.

[ĐẠT NIỀM XÁC QUYẾT RỒI, KHUYÊN TIẾP TỤC TU]

[14] Bao giờ ba điểm / tinh yếu Phật đạo
Con tự chứng biết / đúng như sự thật
Khi ấy, con ơi / tìm nơi thanh tịnh, / tu cho tinh tấn
Mục tiêu cứu cánh / hãy chóng viên thành.

hết

Xem bản Tạng – Anh – Việt ở trang sau

http://www.hongnhu.org/ba-diem-tinh-yeu/2/(opens in a new tab)

[Bản Tạng Anh Việt]

BA ĐIỂM TINH YẾU CỦA ĐƯỜNG TU của Lama Tsongkhapa
– The Three Principal Aspect Of The Path
(Lam Tso Nam Sum)

TÁN DƯƠNG ĐẢNH LỄ – Expressing the Homage
༄༅། །རྗེ་བཙུན་བླ་མ་རྣམས་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།
I bow down to my perfect guru
Con xin kính lễ / các đấng Tôn Sư.

HỨA VIẾT LUẬN – The Promise to Compose
རྒྱལ་བའི་གསུང་རབ་ཀུན་གྱི་སྙིང་པོའི་དོན།
[1] The essential meaning of the Victorious Ones’ teachings,
[1] Giáo pháp Phật dạy / trọn nghĩa tinh yếu;
རྒྱལ་སྲས་དམ་པ་རྣམས་ཀྱིས་བསྔགས་པའི་ལམ། །
The path praised by all the holy Victors and their sons,
Con đường Phật và / Bồ tát tán dương;
སྐལ་ལྡན་ཐར་འདོད་རྣམས་ཀྱི་འཇུག་ངོགས་དེ། །
The gateway of the fortunate ones desiring liberation—
Lối ngỏ mở ra / cho kẻ thiện duyên / khát khao giải thoát
ཇི་ལྟར་ནུས་བཞིན་བདག་གིས་བཤད་པར་བྱ།
This I shall try to explain as much as I can.
Là những điều mà / Thầy sẽ hết lòng / giải thích ở đây.

KHUYẾN NGHE – Persuading to Listen
གང་དག་སྲིད་པའི་བདེ་ལ་མ་ཆགས་ཤིང༌། །
[2] Those who are not attached to the pleasures of circling,
[2] Ai người không cầu / lạc thú thế gian
དལ་འབྱོར་དོན་ཡོད་བྱ་ཕྱིར་བརྩོན་པ་ཡིས། །
Who strive to make freedom and endowments meaningful,
Gắng tận dụng cảnh / ung dung sung mãn
རྒྱལ་བ་དགྱེས་པའི་ལམ་ལ་ཡིད་རྟོན་པའི། །
Who entrust themselves to the path pleasing the victorious ones–
Noi theo con đường / khiến Phật hoan hỉ,
སྐལ་ལྡན་དེ་དག་དང་བའི་ཡིད་ཀྱིས་ཉོན། །
You fortunate ones: listen with a calm mind.
Bậc thiện duyên này, / xin hãy lắng nghe / với tâm trong sáng.

VÌ SAO CẦN KHỞI TÂM BUÔNG SINH TỬ – The Purpose of Generating Renunciation
རྣམ་དག་ངེས་འབྱུང་མེད་པར་སྲིད་མཚོ་ཡི། །
[3] Without the complete intention definitely to be free from circling,
[3] Tâm quyết cầu thoát / nếu chưa thật có
བདེ་འབྲས་དོན་གཉེར་ཞི་བའི་ཐབས་མེད་ལ། །
There is no way to pacify attachment seeking pleasurable effects in the ocean of circling.
Thì biển luân hồi / tìm cầu thiện báo, / chẳng cách nào ngưng.
སྲིད་ལ་བརྐམ་པ་ཡིས་ཀྱང་ལུས་ཅན་རྣམས། །
Also, by craving for cyclic existence, embodied beings are continuously bound.
Lại luyến sinh tử, / nên kẻ có thân / luôn bị buộc ràng,
ཀུན་ནས་འཆིང་ཕྱིར་ཐོག་མར་ངེས་འབྱུང་བཙལ། །
Therefore, at the very beginning seek renunciation.
Vậy ngay từ đầu / phải sớm tìm cầu / tâm buông sinh tử.

LÀM SAO PHÁT TÂM BUÔNG SINH TỬ – How to Generate Renunciation
དལ་འབྱོར་རྙེད་དཀའ་` ཚེ་ལ་ལོང་མེད་པ། །
[4] Freedom and endowments are difficult to find, / And life has no time to spare.
[4] Ung dung sung mãn / là điều khó gặp, /
mạng sống thì lại / ngắn ngủi không bền:
ཡིད་ལ་གོམས་པས་ཚེ་འདིའི་སྣང་ཤས་ལྡོག །
By gaining familiarity with this, / Attraction to the appearances of this life is reversed.
Ý nghĩ này đây / tập cho quen thuộc, /
tâm rồi sẽ thôi / đắm chuyện đời này.
ལས་འབྲས་མི་བསླུ་འཁོར་བའི་སྡུག་བསྔལ་རྣམས། །
By thinking over and over again / That actions and their effects are unbetraying,
Phải luôn nhớ rằng / nghiệp quả không sai; /
toàn bộ luân hồi / không ngoài khổ não:
ཡང་ཡང་བསམ་པས་ཕྱི་མའི་སྣང་ཤས་ལྡོག །
And repeatedly contemplating the miseries of cyclic existence, / Attraction to the appearances of future lives is reversed.
Hãy cứ như vậy / thường xuyên nhớ nghĩ, /
tâm sẽ không còn / đắm chuyện đời sau.

THẾ NÀO MỚI ĐÚNG LÀ KHỞI TÂM BUÔNG SINH TỬ – The Definition of Having Generated Renunciation
དེ་ལྟར་གོམས་པས་འཁོར་བའི་ཕུན་ཚོགས་ལ། །
[5] When, by having trained in that way,
[5] Cứ thế, đối với / phồn vinh thế tục,
ཡིད་སྨོན་སྐད་ཅིག་ཙམ་ཡང་མི་སྐྱེ་ཞིང༌། །
There is no arising, even for a second, of attraction to the perfections of cyclic existence,
Đã tuyệt không còn / khởi niệm luyến tham,
ཉིན་མཚན་ཀུན་ཏུ་ཐར་པ་དོན་གཉེར་བློ། །
And all day and night the intention seeking liberation arises –
Ngày cũng như đêm / đều mong giải thoát:
བྱུང་ན་དེ་ཚེ་ངེས་འབྱུང་སྐྱེས་པ་ལགས། །
Then the thought of renunciation has been generated.
Tâm buông sinh tử / bấy giờ khởi sinh.

VÌ SAO CẦN PHÁT TÂM BỒ ĐỀ – The Purpose of Generating the Mind of Enlightenment
ངེས་འབྱུང་དེ་ཡང་རྣམ་དག་སེམས་བསྐྱེད་ཀྱིས། །
[6] Even if renunciation has been developed,
[6] Nhưng dù có được / tâm buông sinh tử
ཟིན་པ་མེད་ན་བླ་མེད་བྱང་ཆུབ་ཀྱི། །
If it is not possessed by the mind of enlightenment
Mà không phối hợp / với tâm bồ đề
ཕུན་ཚོགས་བདེ་བའི་རྒྱུ་རུ་མི་འགྱུར་བས། །
It does not become the cause of the perfect bliss of unsurpassed enlightenment.
Cũng chẳng thể nào / thành nhân đại lạc / của chánh đẳng giác.
བློ་ལྡན་རྣམས་ཀྱིས་བྱང་ཆུབ་སེམས་མཆོག་བསྐྱེད། །
Therefore the wise generate the supreme mind of enlightenment.
Bởi vậy kẻ trí / phát tâm bồ đề.

LÀM SAO PHÁT TÂM BỒ ĐỀ – How to Generate the Mind of Enlightenment
ཤུགས་དྲག་ཆུ་བོ་བཞི་ཡི་རྒྱུན་གྱིས་ཁྱེར། །
[7] Swept away by the current of the four powerful rivers,
[7] Bị bốn sông lớn / cuồn cuộn cuống phăng,
བཟློག་དཀའ་ལས་ཀྱི་འཆིང་བ་དམ་པོས་བསྡམས། །
Tied by the tight bonds of karma, so hard to undo,
Nghiệp cũ buộc ràng / khó lòng tháo gỡ,
བདག་འཛིན་ལྕགས་ཀྱི་དྲ་བའི་སྦུབས་སུ་ཚུད། །
Caught in the iron net of self-grasping,
Vướng kẹt trùng trùng / lưới sắt chấp ngã,
མ་རིག་མུན་པའི་སྨག་ཆེན་ཀུན་ནས་འཐིབས། །
Completely enveloped by the total darkness of ignorance,
Khuất ngạt đêm dày / bóng tối vô minh,

མུ་མེད་སྲིད་པར་སྐྱེ་ཞིང་སྐྱེ་བ་རུ། །
[8] Endlessly reborn in cyclic existence,
[8] Sinh tử, tử sinh, / triền miên bất tận
སྡུག་བསྔལ་གསུམ་གྱིས་རྒྱུན་ཆད་མེད་པར་མནར། །
Ceaselessly tormented by the three sufferings –
Chịu ba loại khổ, bức bách không cùng.
གནས་སྐབས་འདི་འདྲར་གྱུར་པའི་མ་རྣམས་ཀྱི། །
Thinking that all mothers are in such a condition,
Hiền mẫu của tôi / sống như thế đó:
ངང་ཚུལ་བསམས་ནས་སེམས་མཆོག་བསྐྱེད་པར་མཛོད། །
Generate the supreme mind of enlightenment.
Nhớ nghĩ như vậy, / để mà phát tâm / vô thượng bồ đề.

THẾ NÀO MỚI ĐÚNG LÀ PHÁT TÂM BỒ ĐỀ – The Definition of Having Generated the Mind of Enlightenment
[8a] In short, if like the mother whose cherished son has fallen into a pit of fire
Tóm lại giống như / mẹ thấy con yêu / rơi vào hố lửa
And who experiences even one second of his suffering as an unbearable eternity,
Dù chỉ một giây / cũng đằng đẳng dài / hàng vô lượng kiếp
Your reflection on the suffering of all mother sentient beings
Nghĩ đến tất cả / hiền mẫu đa sinh / khổ đau vô tận
Has made it impossible for you to bear their suffering for even one second
Tâm không chịu nổi / dù chỉ một giây,
And the wish seeking enlightenment for their sake arises without effort,
Tự nhiên thiết tha / vì chúng sinh mà / cầu vô thượng giác,
Then you have realized the supreme precious mind of enlightenment.
Khi ấy là lúc / đã phát được tâm / vô thượng bồ đề.

VÌ SAO CẦN CHỨNG NHƯ THẬT TRI KIẾN – The Reason to Meditate on the Right View
གནས་ལུགས་རྟོགས་པའི་ཤེས་རབ་མི་ལྡན་ན། །
[9] Without the wisdom realizing ultimate reality,
[9] Nhưng thiếu trí tuệ / chứng chân thực tại
ངེས་འབྱུང་བྱང་ཆུབ་སེམས་ལ་གོམས་བྱས་ཀྱང༌། །
Even though you have generated renunciation and the mind of enlightenment
Thì dù có đã / phát tâm buông xả, / và tâm bồ đề.
སྲིད་པའི་རྩ་བ་བཅད་པར་མི་ནུས་པས། །
You cannot cut the root cause of circling.
Cũng chẳng thể nào / chặt gốc sinh tử.
དེ་ཕྱིར་རྟེན་འབྲེལ་རྟོགས་པའི་ཐབས་ལ་འབད། །
Therefore, attempt the method to realize dependent arising.
Vậy phải tìm cách / chứng lý duyên sinh.

TRỎ RA NHƯ THẬT TRI KIẾN – Showing the Right View
གང་ཞིག་འཁོར་འདས་ཆོས་རྣམས་ཐམས་ཅད་ཀྱི། །
[10] One who sees the cause and effect of all phenomena
[10] Ai người thấy pháp / luân hồi, niết bàn,
རྒྱུ་འབྲས་ནམ་ཡང་བསླུ་བ་མེད་མཐོང་ཞིང༌། །
Of both cyclic existence and the state beyond sorrow as forever unbetraying,
Đều thuận nhân quả / không hề sai chạy,
དམིགས་པའི་གཏད་སོ་གང་ཡིན་ཀུན་ཞིག་པ། །
And for whom any object trusted in by the grasping mind has completely disappeared,
Và mọi đối cảnh / của tâm chấp bám / toàn bộ rã tan,
དེ་ནི་སངས་རྒྱས་དགྱེས་པའི་ལམ་ལ་ཞུགས། །
Has at that time entered the path pleasing the Buddhas.
Thì đó là người / bước vào con đường / khiến Phật hoan hỉ.

NHƯ THẬT TRI KIẾN QUÁN SÁT CHƯA THÀNH – The Definition of Not Having Completed the Analysis of the Right View
སྣང་བ་རྟེན་འབྲེལ་བསླུ་བ་མེད་པ་དང༌། །
[11] If the appearance that is unbetraying dependent relation
11] Hiểu được tướng hiện—duyên sinh không sai
སྟོང་པ་ཁས་ལེན་བྲལ་བའི་གོ་བ་གཉིས། །
Is accepted separately from emptiness,
Hiểu được tánh không—vắng mọi khẳng định
ཇི་སྲིད་སོ་སོར་སྣང་བ་དེ་སྲིད་དུ། །
As long as these two understandings are seen as separate,
Hai sự hiểu này / hễ còn riêng lẻ
ད་དུང་ཐུབ་པའི་དགོངས་པ་རྟོགས་པ་མེད། །
Then one has still not realized the Buddha’s intent.
Là còn chưa chứng / ý thật của Phật.

NHƯ THẬT TRI KIẾN QUÁN SÁT ĐÃ THÀNH – The Definition of Having Completed the Analysis of Right View
ནམ་ཞིག་རེས་འཇོག་མེད་པར་ཅིག་ཅར་དུ། །
[12] If [these two realizations] are happening simultaneously without alternation,
[12] Bao giờ đồng loạt / không còn xen kẻ,
རྟེན་འབྲེལ་མི་བསླུར་མཐོང་བ་ཙམ་ཉིད་ནས། །
The definite ascertainment comes that completely destroys
Chính lúc chứng biết / duyên sinh không sai
ངེས་ཤེས་ཡུལ་གྱི་འཛིན་སྟངས་ཀུན་ཞིག་ན། །
The way all objects are apprehended [as truly existent],
Là lúc rã tan / đối cảnh vọng chấp
དེ་ཚེ་ལྟ་བའི་དཔྱད་པ་རྫོགས་པ་ལགས། །
At that time the analysis of the ultimate view is complete.
Khi ấy chánh-kiến-quán-sát vẹn toàn.

ĐIỂM THÙ THẮNG CỦA TRI KIẾN TRUNG QUÁN CỤ DUYÊN – – The Particular Special Quality of the Prasangika View
གཞན་ཡང་སྣང་བས་ཡོད་མཐའ་སེལ་བ་དང༌། །
[13] Furthermore, appearance eliminates the extreme of existence
[13] Hơn nữa, vì hiện / mà tan chấp có;
སྟོང་པས་མེད་མཐའ་སེལ་ཞིང་སྟོང་པ་ཉིད། །
and emptiness eliminates the extreme of non-existence.
Vì tánh không mà / tan hết chấp không.
རྒྱུ་དང་འབྲས་བུར་འཆར་བའི་ཚུལ་ཤེས་ན། །
If you realize how emptiness manifests in the manner of cause and effect
Biết rõ thế nào / từ nơi tánh không / hiện ra nhân quả,
མཐར་འཛིན་ལྟ་བས་འཕྲོག་པར་མི་འགྱུར་རོ། །
Then you are not captivated by wrong notions holding extreme views.
Khi ấy không còn / vướng chấp biên kiến.

ĐẠT NIỀM XÁC QUYẾT RỒI, KHUYÊN TIẾP TỤC TU – Having Gained Definite Ascertainment, Advice on Pursuing the Practice
དེ་ལྟར་ལམ་གྱི་གཙོ་བོ་རྣམ་གསུམ་གྱི། །
[14] In this way you realize exactly
[14] Bao giờ ba điểm / tinh yếu Phật đạo
གནད་རྣམས་རང་གིས་ཇི་བཞིན་རྟོགས་པའི་ཚེ། །
The vital points of the three principal aspects of the path.
Con tự chứng biết / đúng như sự thật
དབེན་པ་བསྟེན་ཏེ་བརྩོན་འགྲུས་སྟོབས་བསྐྱེད་ནས། །
Resort to seeking solitude, generate the power of effort,
Khi ấy, con ơi / tìm nơi thanh tịnh, / tu cho tinh tấn
གཏན་གྱི་འདུན་མ་མྱུར་དུ་སྒྲུབས་ཤིག་བུ། །
And quickly accomplish your final goal, my child.
Mục tiêu cứu cánh / hãy chóng viên thành.

ཞེས་པ་འདི་ནི་མང་དུ་ཐོས་པའི་དགེ་སློང་བློ་བཟང་གྲགས་པའི་དཔལ་གྱིས་ཚ་ཁོ་དབོན་པོ་ངག་དབང་གྲགས་པ་ལ་གདམས་པའོ།། །།
Giáo pháp này do tỷ kheo hành khất Losang Dragpa, là kẻ đa văn, viết ra theo lời khuyên của cháu trai Ponpo Ngawang Dragpa




Milarepa Trăm Ngàn Bài Ca: 1: CÂU CHUYỆN THUNG LŨNG HỒNG THẠCH NGỌC

– Extract from The Hundred Thousand Songs of Milarepa, first story: “The Tale of Red Rock Jewel Valley”
Tác Giả – Author: Milarepa
– Việt ngữ: Hồng Như Việt dịch – Vietnamese only
Điều kiện – Prerequisites: Mọi người đều có thể đọc – Everyone can read

 

Đệ tử đảnh lễ hết thảy chư tôn sư

Có một lần đấng đại hành giả Milarepa về trú tại Ưng Điện nơi Thung Lũng [Hồng Thạch] Ngọc, miên mật thâm nhập chánh định Đại Thủ Ấn. Gặp lúc đói lòng, ngài định nấu chút món ăn, nhưng nhìn lại mới thấy trong động trống trơn không còn gì, không nước, không củi, đừng nói gì đến muối, dầu hay bột. “Xem ra ta đã quá bê bối rồi!” ngài tự nhủ, “phải ra ngoài nhặt ít củi thôi.”

Ngài ra khỏi động. Nhưng vừa mới nhặt được vài nhánh củi khô thì trời bỗng nhiên nổi cơn bão lớn, gió thổi bay cả củi, rách cả y. Ráng níu y lại thì củi bị gió cuốn. Ráng ghì củi lại thì y theo gió bay. Đức Milarepa tự nghĩ, “mặc dù ta hành trì theo Phật pháp và sống nơi hoang tịch đã lâu, thế nhưng ngã chấp vẫn chưa diệt! Ngã chấp không diệt thì tu để làm gì? Gió muốn thổi bay củi cứ thổi, muốn cuốn rách y cứ cuốn!” Nghĩ vậy, ngài không giữ lại nữa. Nhưng vì quá yếu do thiếu ăn nên khi gió lại nổi lên thì ngài không còn đủ sức cầm cự, ngã xuống bất tỉnh.

Đến khi hồi tỉnh, cơn bão đã qua. Cao cao trên đầu nhánh cây hãy còn vạt y rách phất phơ trong gió nhẹ. Thật phù du vô nghĩa làm sao, sự việc trong cõi thế gian này, lòng ngài sâu thẳm ngập tràn nỗi chán ngán sinh tử. Ngài ngồi xuống một tảng đá, thêm một lần nữa, thâu thần nhập định.

Chẳng mấy chốc, một cụm mây trắng nổi lên từ thung lũng Dro Wo xa về hướng Đông. “Dưới áng mây kia là ngôi chùa của Ân Sư, đức Marpa đại dịch giả,” Milarepa thốt lên lời cảm khái, “ngay lúc này đây, sư phụ và sư mẫu hẳn đang truyền quán đảnh và khai thị hành trì cho chư huynh đệ. Đúng là Ân sư đang ở nơi ấy. Nếu bây giờ có thể đến ngay, chắc chắn sẽ được gặp.” Nỗi niềm mong ngóng thiết tha vô bờ dấy lên trong tim đức Milarepa. Hai mắt tràn lệ, ngài cất lời hát lên bài ca “Tưởng Nhớ Ân Sư”:

Khi con nhớ đến Thầy,
đức Marpa từ phụ,
lòng vơi hẳn khổ đau.
Con là kẻ hành khất,
nay kính dâng Ân sư
bài ca thiết tha này.

Trên đầu Thung Lũng Ngọc,
xa xa về hướng Đông,
phiêu diêu cụm mây trắng,
bên dưới, như voi chồm,
có một tòa núi lớn;
cạnh bên, như hổ phóng
thêm chóp núi hiện ra.

Nơi thung lũng Dro-wo,
trong chùa, nơi chánh điện,
có pháp tòa bằng đá.
Vị nào ngự bên trên?
Có phải đó chính là
Marpa đại dịch giả?
Nếu đúng là Ân sư,
lòng con mừng vô hạn.
Dù tôn kính còn thiếu,
con vẫn muốn thấy Thầy.
Dù tín tâm còn yếu,
con vẫn muốn gặp Thầy.
Càng thiền định càng thấy
thiết tha mong ngóng Thầy.

Sư mẫu Dag-mê-ma
có đang ở cạnh bên?
Ơn sư mẫu với con
sâu nặng hơn mẹ hiền.
Nếu bà đang ở đó,
lòng con mừng biết bao.
Dù đường xa vạn dặm,
con vẫn muốn thấy bà.
Dù cheo leo hiểm trở,
con vẫn muốn gặp bà.
Càng thiền quán càng thấy
tâm tưởng nhớ đến Thầy.
Càng thiền định càng thấy
tâm tưởng nhớ Ân sư.

Lòng vui sướng biết bao
nếu được về cùng ngồi.
Thầy có khi đang truyền
đại pháp Hê-vai-ra.
Dù tâm con ngu độn,
con vẫn muốn được học.
Dù tâm đầy vô minh,
con vẫn mong được tụng.
Càng thiền quán càng thấy
tâm tưởng nhớ đến Thầy.
Càng thiền định càng thấy
tâm tưởng nhớ Ân sư.

Giờ này có khi Thầy
đang truyền tứ quán đảnh
của dòng tu nhĩ truyền.
Nếu được về cùng ngồi,
lòng con mừng biết bao.
Dù công đức không đủ,
con vẫn muốn thọ pháp.
Dù nghèo không phẩm cúng,
con vẫn thiết tha mong.
Càng thiền quán càng thấy
tâm tưởng nhớ đến Thầy.
Càng thiền định càng thấy
tâm tưởng nhớ Ân sư.

Giờ này có khi Thầy
đang khai thị hành trì
sáu pháp Naropa.
Nếu được về cùng ngồi,
lòng con mừng biết bao.
Dù tinh tấn còn thiếu,
con vẫn cần được học.
Dù kiên trì không đủ,
con vẫn muốn được tu.
Càng thiền quán càng thấy
tâm tưởng nhớ đến Thầy.
Càng thiền định càng thấy
tâm tưởng nhớ Ân sư.

Huynh đệ từ Weu, Tsang
có thể đang ở đó.
Nếu đúng là như vậy,
lòng con mừng biết bao.
Dù thành tựu thua kém,
con vẫn muốn so tài.
Dù nhờ lòng sâu thẳm
tin tưởng và tôn kính,
con chưa từng xa Thầy,
nhưng bây giờ con đây
mỏi mòn mong gặp mặt.
Nỗi thiết tha ngóng đợi
khiến con như hấp hối.
Nỗi khốn khổ lớn lao
khiến cơ hồ tắt thở.
Nguyện Ân sư tôn quí
xoa dịu cơn đau này.

Đức Milarepa chưa kịp dứt tiếng thì đức tôn quí Jetsun Marpa đã hiện ra trên cụm mây ngũ sắc tựa dãi áo năm màu, diện mục uy nghi, hào quang rực sáng, cưỡi lưng sư tử yên cương lộng lẫy, đến gần đức Milarepa.

“Này Đại Thuật Sĩ, con trai ta ơi,” ngài hỏi, “vì đâu con lại sâu xa xúc động mà gọi ta với lời ca tuyệt vọng như thế? Vì sao vất vả đến thế? Chẳng phải con đã có được niềm tin vững chắc nơi Thầy và nơi Phật hay sao? Hay là ngoại cảnh đã khiến con động niệm ? Hay là tám ngọn gió chướng đã thổi vào trong hang động của con? Phải chăng nỗi lo âu ngóng đợi đã làm con hao mòn nghị lực? Chẳng phải con đã nguyện không ngừng phụng sự đạo sư và Tam Bảo hay sao? Chẳng phải con đã hồi hướng tất cả về cho chúng sinh sáu cõi hay sao? Chẳng phải chính con đã đạt được chứng địa, nơi có thể thanh tịnh nghiệp chướng, tích lũy công đức hay sao? Bất kể vì lý do nào, con phải vững tin rằng Thầy và con không bao giờ phân lìa. Vậy con cứ hãy vì đạo pháp và vì chúng sinh mà tiếp tục tọa thiền.”

Lòng tràn cảm hứng trước linh kiến tươi vui này, đức Milarepa cất tiếng hồi âm:

Diện kiến đức Ân sư,
nghe được tiếng lời Thầy,
con là kẻ hành khất
nghe khí cuộn trong tim.
Nhớ giáo pháp Thầy dạy,
lòng tôn kính dâng đầy.
Lực gia trì của Thầy
từ hòa rót trong con,
Tiêu tan mọi niệm khởi.

Bài ca con thiết tha
“Tưởng Nhớ Đấng Đạo Sư”
hẳn đã đến tai Thầy,
đấng Ân sư tôn quí,
Nhưng sao tâm con vẫn
Còn tăm tối thế này?
Nguyện tôn sư thương xót
che chở dùm cho con!

Lòng tôn kính bất khuất
là phẩm cúng quí nhất
dành dâng hiến Ân sư;
để làm vui lòng Thầy,
hay nhất là nhẫn nại
kiên trì trong pháp hành;
một mình trong hang động
là cách cao quí nhất
phụng sự đà kì ni;
hiến thân cho Diệu Pháp
là việc làm tốt nhất
để phụng sự Phật Pháp;
vậy, trọn đời tu thiền,
gánh vác khổ chúng sinh.
Biết quí bệnh và chết,
đây là lực gia trì
nhờ đó tịnh ác nghiệp.
Khước từ thực phẩm cấm
sẽ giúp ta đạt được
thành tựu và giác ngộ.
Để đền ơn từ phụ
con xin luôn miên mật
hết thiền rồi lại thiền.

Lạy bổn sư của con
nguyện xin Thầy giữ gìn
Cho kẻ hành khất này
vững trú nơi thanh tịnh.

Lòng đầy sảng khoái, đức Milarepa sửa y áo và ôm nhúm củi quay về hang động. Về đến nơi, ngài giật mình thấy trong hang có năm con quỉ Ấn, mắt to bằng cái chén. Một con ngồi trên giường thuyết pháp, hai con ngồi nghe pháp, một con đang nấu nướng để cúng dường thực phẩm, và một con nữa đang mở sách đọc.

Định thần lại, đức Milarepa tự nghĩ, “đây chắc là do chư hộ thần sở tại biến hiện mà có, họ bất mãn với ta chăng? Mặc dù ta ở đây đã lâu, nhưng chưa từng thí thực hay ngợi khen gì họ cả.” Nghĩ vậy ngài cất tiếng hát bài “Xưng Tán Ca dành cho chư Hộ Thần tại Thung Lũng Hồng Thạch Ngọc”

Nơi lan nhã này,
lều của tôi đây,
là nơi khiến cho
chư Phật hoan hỉ,
là nơi trú của
chư thành tựu giả,
và cũng là nơi
tôi ở một mình.

Trên đầu thung lũng
Hồng Thạch Ngọc này,
Mây trắng dịu bay,
Bên dưới sông Tsang
êm đềm cuộn chảy,
ở giữa đất trời
chim soải cánh bay

Ong mật vo ve
trong lòng nhụy hoa
say trong hương ngọt;
chim muông sà lượn
trên những nhánh cây,
rót đầy không gian
bài ca thánh thót.

Ở trong thung lũng
Hồng Thạch Ngọc này,
chim sẻ tập bay,
khỉ vượn chuyền, nhảy,
thú rừng rượt đuổi,
còn tôi ngồi tu
hai tâm bồ đề
vui cùng pháp định.

Hết thảy quỉ ma,
loài không phải người,
đều là bạn của
Milarepa.
Xin mời uống nước
cam lồ từ bi
thỏa thuê rồi hãy
quay về trú xứ.

Nhưng mấy con quỉ Ấn không biến mất mà lại trợn mắt nhìn đức Milarepa. Hai con tiến tới, một con nhăn mặt cắn môi dưới, con kia nghiến răng rùng rợn. Con thứ ba đến phía sau lưng, nở rộ tràng cười tinh quái rồi hét lớn, chúng làm đủ bộ dạng và hành động quái gỡ, chỉ muốn làm cho đức Milarepa phải kinh sợ.

Đức Milarepa biết rõ ý đồ của bọn chúng nên ngài bắt đầu tác pháp Phật Hung Nộ đầy oai lực. Chúng vẫn không đi. Ngài lại thuyết về tâm đại bi cho chúng nghe; chúng vẫn ở lì.

Rốt lại, đức Milarepa bảo rằng: “nhờ ơn đức Marpa mà ta đã chứng biết vạn pháp đều do tâm, ngay chính tâm này cũng là không. Vậy những thứ kia liệu có ích gì. Lại từ cảnh giới bên ngoài mà tìm cách dẹp tà ma quấy nhiễu, chẳng phải đã quá ngu xuẩn hay sao!

Nói vậy rồi, ngài hiên ngang cất tiếng hát bài “Chứng Đạo Ca”:

Bổn sư Từ phụ
hàng phục Tứ ma,
đệ tử kính lễ
Marpa dịch giả.

Ta, như ngươi thấy
là người có tên,
là con trai của
Darsen Gharmo,
vua sư tử tuyết.
Nằm trong lòng thai,
dưỡng ba khí đạo.
Đương tuổi ấu thời,
ta ngủ trong nôi.
Đương tuổi thiếu thời,
ta nhìn bậu cửa.
Đương tuổi trưởng thành,
trú ở núi cao.
Cho dù núi tuyết
bão tố kinh hoàng,
ta vẫn không sợ.
Cho dù vực thẳm
cheo leo hiểm trở,
ta vẫn không lo.

Ta, như ngươi thấy,
là người có tên,
là con trai của
chim kim sí điểu
vua của loài chim.
Nằm trong lòng trứng,
dưỡng đủ lông cánh.
Đương tuổi ấu thời,
ta ngủ trong nôi;
đương tuổi thiếu thời,
ta nhìn bậu cửa;
đương tuổi trưởng thành,
lượn giữa trời cao.
Cho dù bầu trời
bao la cao rộng,
ta vẫn không sợ.
Cho dù đường bay
dốc đứng nhỏ hẹp,
ta vẫn không lo.

Ta, như ngươi thấy,
là người có tên,
là con trai của
Nya Chen Yor Mo,
vua của loài cá.
Từ trong lòng thai,
tròn đôi mắt vàng.
Đương tuổi ấu thời,
ta ngủ trong nôi.
Đương tuổi thiếu thời,
ta siêng tập bơi.
Đương tuổi trưởng thành,
vẫy vùng biển rộng.
Cho dù phong ba
sóng gầm điện chớp,
ta vẫn không sợ.
Cho dù lưỡi câu
kín giăng mọi nẻo,
ta vẫn không lo.

Ta, như ngươi thấy,
là người có tên,
là con trai của
tổ sư truyền thừa
dòng tu Kagyu.
Từ trong lòng thai,
ta dưỡng tín tâm.
Đương tuổi ấu thời,
bước vào cửa Pháp.
Đương tuổi thiếu thời,
học tập pháp Phật.
Đương tuổi trưởng thành,
một mình trong hang.
Cho dù tà ma,
quỉ dữ trăm vạn,
ta vẫn không sợ.

Móng sư tử tuyết
đâu thể cóng lạnh,
bằng không sao gọi
là sư tử vương,
Đầy đủ tất cả
ba lực tuyệt hảo!

Cánh kim sí điểu
đâu thể nào rơi!
Bằng không chẳng phải
là điều phi lý?

Khối thép tinh luyện
đâu thể dùng đá
để mà đập vỡ,
bằng không phí công
luyện sắt làm gì!

Ta là Mila,
không sợ tà ma
chẳng sợ ác quỉ.
Nếu như ma quỹ
có thể khiến cho
Mila hoảng sợ,
vậy thì chứng đắc
giác ngộ làm gì?

Này ma này quỉ
thù hận Diệu Pháp,
hôm nay ta xin
hoan hỉ đón mời.
Hãy ở lại đây,
đừng vội ra về,
cùng ta thảo luận
cùng mở cuộc chơi.
Muốn đi cũng hãy,
nán lại đêm nay.
Hãy cùng nhau lấy
pháp trắng pháp đen
mang ra chọi thử
xem phe nào thắng.
Trước khi đến đây
chúng bây đã nguyện
phá ta cho được,
thật là nhục nhã
nếu việc chưa thành
đã vội tháo lui.

Đức Milarepa vươn dậy đầy tự tín, xông thẳng vào đám ma quỉ trong hang. Kinh hãi, chúng co rúm lại, mắt trợn tuyệt vọng, thân run lẩy bẩy. Rồi cuộn lại với nhau như dòng nước xoáy, chúng nhập lại làm một rồi biến mất.

“Đây là Quỉ Vương, Vinayaka Kẻ Gây Ác Chướng, đến tìm cơ hội để gieo tai họa, “ đức Milarepa tự nghĩ. “Cơn bão cũng vậy, nhất định là do hắn tạo nên. Nhờ lòng từ ái của Ân sư mà tà ma không ám hại được ta.”
Sau việc này, đức Milarepa tu tập tiến bộ vượt bực.

Đây là câu chuyện quỉ Vương Vinayaka tấn công; câu chuyện này có ba tầng ý nghĩa khác nhau, và vì vậy mà câu chuyện này có tên gọi là “Sáu Cách Tưởng Nhớ Ân Sư,” cũng gọi là “Câu Chuyện Thung Lũng Hồng Thạch Ngọc”, hay là “Câu Chuyện Milarepa Nhặt Củi.”

hồng như chuyển việt ngữ, 2013




Lama Tsongkhapa: NỀN TẢNG MỌI THIỆN ĐỨC

 – English Title: The Foundation of All Good Qualities
– Tibetan:  ཡོན་ཏན་གཞིར་གགྱུར་མ།
Tác Giả (Author):
Lama Tông Khách Ba (sơ tổ dòng Gelug)
Việt ngữ: Hồng Như – bản dịch 2011.



LAMA TÔNG KHÁCH BA - Nền Tảng Mọi Thiện Đức - Foundaion of All Good Quality
LAMA TÔNG KHÁCH BA

Nghe giảng – Teachings: [ MP3 – Geshe Thubten Dawa ]
Đọc tiếng Anh – English version: [http://www.hongnhu.org/nen-tang-moi-thien-duc/2/]
Hạ Tải – Download[ PDF: Viet – English ]


Tiếng Việt (bản 2021)

༄༅།།ཡོན་ཏན་གཞིར་གགྱུར་མ།
NỀN TẢNG MỌI THIỆN ĐỨC
– The Foundation Of All Good Qualities
(Yöntän Zhir Gyurma)

Nền tảng mọi thiện đức là đấng tôn sư từ hòa tuyệt hảo
Nương dựa đúng cách nơi Thầy là gốc rễ của đường tu.
Nay con được sự tin hiểu này, nguyện kiên trì cố gắng
Xin hộ trì cho con tha thiết kính nương Thầy

Thân người quý giá chỉ đến một lần thôi
Tràn đầy ý nghĩa nhưng khó lòng gặp lại
Xin hộ trì cho tâm con không gián đoạn,
Ngày đêm luôn tận dụng tinh túy kiếp người.

Cuộc sống này phù du như bọt nước,
Rã tan nhanh, cái chết đến rất mau.
Sau khi chết, tựa như hình với bóng,
Quả thiện ác sẽ bám theo không rời

Nay con được sự tin hiểu này,
Xin hộ trì cho con luôn cẩn trọng,
Rời bỏ điều bất thiện dù bé nhỏ,
Hoàn thành mọi việc thiện dù khó khăn.

Lạc thú thế gian là cánh cửa dẫn vào khổ đau
Vì không bền lâu, cũng không đáng tin cậy.
Nay con được sự tin hiểu này,
Xin hộ trì cho con phát chí nguyện cầu vui giải thoát.

Từ chí nguyện cầu giải thoát trong sáng,
Chánh niệm, chánh tri, và bất phóng dật sẽ phát sinh.
Gốc rễ của chánh pháp là giữ giới biệt giải thoát [pratimoksha],
Xin che chở cho con hoàn thành pháp tu trọng yếu này.

Cũng như con trầm luân biển Ta-bà,
Hiền mẫu đa sinh của con cũng lạc vào nơi ấy.
Xin hộ trì cho con phát được tâm bồ đề,
Để gánh lấy trách nhiệm giải thoát chúng sinh.

Nhưng phát tâm bồ đề mà không giữ ba nẻo giới,
Cũng không thể thành chánh quả.
Nay con được sự tin hiểu này,
Xin hộ trì cho con dốc tâm tinh tấn giữ gìn bồ tát giới.

Bao giờ tâm con thôi xao lãng không chạy theo vọng cảnh,
Hiểu được ý nghĩa của thực tại,
Xin hộ trì cho con mau chóng khai mở từ trong dòng tâm thức,
Con đường chỉ quán bất nhị.

Một khi đường tu phổ thông,
Con hành trì thuần thục trong sáng,
Xin hộ trì cho con mở cánh cửa của những đứa con may mắn,
Vào với Kim cang thừa tối thượng.

Lúc bấy giờ, nền tảng hoàn thành hai đại thành tựu,
là giữ gìn thuần tịnh giới hạnh và mật thệ [samaya]
Nay con có được lòng tin vững chắc này,
Xin hộ trì cho con bảo vệ giới nguyện như bảo vệ mạng sống.

Hiểu được ý nghĩa của hai giai đoạn
Tinh túy của Kim cang thừa.
Thực tập tinh chuyên, không thối chuyển công phu bốn thời,
Xin hộ trì cho con thành tựu lời dạy của đấng đạo sư.

Nguyện các đấng đạo sư đã dẫn con vào đường tu cao cả,
Cùng các bạn đồng hành trên con đường tu ấy,
Có được đời sống lâu dài.
Xin hộ trì cho con chinh phục mọi chướng ngại trong ngoài.

Nguyện mọi kiếp sau / không bao giờ lìa / đạo sư toàn hảo
Nguyện luôn vui trong niềm vui chánh pháp.
Nhờ đạt thiện đức / chứng địa chứng đạo
Mau chóng thành tựu / quả Kim Cang Trì.


Tiếng Việt (bản 2006)

Nền tảng mọi thiện đức là đấng đạo sư từ hòa thanh tịnh.
Tin tưởng đúng cách nơi thầy là gốc rễ của đường tu.
Nay con được sự tin hiểu này, nguyện kiên trì cố gắng,
Xin hộ trì cho con thành kính nương dựa đấng đạo sư.

Kiếp người tự do quí giá này chỉ đến một lần thôi.
Tràn đầy ý nghĩa nhưng khó lòng gặp lại.
Xin hộ trì cho tâm con không xao lãng,
Ngày cũng như đêm không uổng phí kiếp người.

Cuộc sống phù du như bọt nước,
Rã tan nhanh, cái chết đến rất mau.
Sau khi chết, tựa như hình với bóng,
Quả báo thiện ác sẽ bám theo không rời

Nay con được sự tin hiểu này,
Xin hộ trì cho con luôn cẩn trọng,
Rời bỏ điều bất thiện dù bé nhỏ,
Hoàn thành mọi việc thiện dù khó khăn.

Lạc thú thế gian là cánh cửa dẫn vào khổ đau
Vì không bền lâu, cũng không đáng tin cậy.
Nay con được sự tin hiểu này,
Xin hộ trì cho con phát chí nguyện cầu vui giải thoát.

Từ chí nguyện cầu giải thoát trong sáng,
Chánh niệm, tỉnh giác, và tâm cẩn trọng sẽ phát sinh.
Gốc rễ của chánh pháp là giữ giới biệt giải thoát [pratimoksha],
Xin che chở cho con hoàn thành môn tu trọng yếu này.

Cũng như con trầm luân trong biển Ta-bà,
Các bà mẹ nhiều đời của con cũng lạc vào nơi ấy.
Xin hộ trì cho con phát được tâm bồ đề,
Để gánh lấy trách nhiệm giải thoát chúng sinh.

Nhưng phát tâm bồ đề mà không giữ ba nẻo giới,
Cũng không thể thành chánh quả.
Nay con được sự tin hiểu này,
Xin hộ trì cho con dốc tâm tinh tấn giữ gìn bồ tát giới.

Bao giờ tâm con thôi xao lãng không chạy theo vọng cảnh,
Hiểu được ý nghĩa của thực tại,
Xin hộ trì cho con mau chóng khai mở từ trong dòng tâm thức,
Con đường chỉ quán bất nhị.

Một khi đường tu phổ thông,
Con hành trì thuần thục trong sáng,
Xin hộ trì cho con mở cánh cửa của những đứa con may mắn,
Vào với Kim cang thừa tối thượng.

Lúc bấy giờ, nền tảng hoàn thành hai đại thành tựu,
là giữ gìn thuần tịnh giới hạnh và mật thệ [samaya]
Nay con có được lòng tin vững chắc này,
Xin hộ trì cho con bảo vệ giới nguyện như bảo vệ mạng sống.

Hiểu được ý nghĩa của hai giai đoạn
Tinh túy của Kim cang thừa.
Thực tập tinh chuyên, không thối chuyển công phu bốn thời,
Xin hộ trì cho con thành tựu lời dạy của đấng đạo sư.

Nguyện các đấng đạo sư đã dẫn con vào đường tu cao cả,
Cùng các bạn đồng hành trên con đường tu ấy,
Có được đời sống lâu dài.
Xin hộ trì cho con chinh phục mọi chướng ngại trong ngoài.

Cho mọi kiếp về sau, nguyện không lìa xa vị đạo sư toàn hảo,
Nguyện luôn vui trong niềm vui chánh pháp.
Thành tựu mọi thiện đức của chứng địa và đường tu,
Nguyện sớm đạt quả vị Phật Kim Cang Trì.

[ Hết phần Tiếng Việt ]


[view]

Đọc tiếng Anh – English version: http://www.hongnhu.org/nen-tang-moi-thien-duc/2/




 – English Title: The Foundation of All Good Qualities
– Tibetan:  ཡོན་ཏན་གཞིར་གགྱུར་མ།
Tác Giả (Author):
Lama Tông Khách Ba – Lama Tsong Khapa (sơ tổ dòng Gelug)
Việt ngữ: Hồng Như – bản dịch 2011.

Nghe giảng – Teachings: [ MP3 – Geshe Thubten Dawa ]
Đọc tiếng Anh – English version: [http://www.hongnhu.org/nen-tang-moi-thien-duc/2/]
Hạ Tải – Download[ PDF: Viet – English ]


English Version

The foundation of all good qualities is the kind and perfect, pure guru;
Correct devotion to him is the root of the path.
By clearly seeing this and applying great effort,
Please bless me to rely upon him with great respect.

Understanding that the precious freedom of this rebirth is found only once,
Is greatly meaningful and difficult to find again,
Please bless me to generate the mind that unceasingly,
Day and night, takes its essence.

This life is as impermanent as a water bubble;
Remember how quickly it decays and death comes.
After death, just like a shadow follows the body,
The results of black and white karma follow.

Finding firm and definite conviction in this,
Please bless me always to be careful
To abandon even the slightest of negativities
And accomplish all virtuous deeds.

Seeking samsaric pleasures is the door to all suffering;
They are uncertain and cannot be relied upon.
Recognizing these shortcomings,
Please bless me to generate the strong wish for the bliss of liberation.

Led by this pure thought,
Mindfulness, alertness and great caution arise.
The root of the teachings is keeping the pratimoksha vows;
Please bless me to accomplish this essential practice.

Just as I have fallen into the sea of samsara,
So have all mother migratory beings.
Bless me to see this, train in supreme bodhicitta,
And bear the responsibility of freeing migratory beings.

Even if I develop only bodhicitta, without practicing the three types of morality
I will not achieve enlightenment.
With my clear recognition of this,
Please bless me to practice the bodhisattva vows with great energy.

Once I have pacified distractions to wrong objects
And correctly analyzing the meaning of reality,
Please bless me to generate quickly within my mind-stream
The unified path of calm abiding and special insight.

Having become a pure vessel by training in the general path,
Please bless me to enter
The holy gateway of the fortunate ones:
The supreme vajra vehicle.

At that time, the basis of accomplishing the two attainments
Is keeping pure vows and samaya.
As I have become firmly convinced of this,
Please bless me to protect these vows and pledges like my life.

Then, having realized the importance of the two stages,
The essence of the Vajrayana,
By practicing with great energy, never giving up the four sessions,
Please bless me to realize the teachings of the holy guru.

Like that, may the gurus who show the noble path
And the spiritual friends who practice it have long lives.
Please bless me to pacify completely
All outer and inner hindrances.

In all my lives, never separated from perfect gurus,
May I enjoy the magnificent Dharma.
By completing the qualities of the stages and paths,
May I quickly attain the state of Vajradhara.

Colophon:
This lam-rim prayer by Lama Tsongkhapa, translated by Jampäl Lhundrup, comes from Essential Buddhist Prayers: An FPMT Prayer Book, Volume 1, 2001,
Vietnamese translation by HongNhu Thubten Munsel, comes from Nghi Thuc Tung Niem Tap Yeu FPMT, Quyển 1.




Karma Chagme: LỜI NGUYỆN VÃNG SANH CỰC LẠC (Bản Dài)

An Aspiration for Birth in the Pure Realm of Sukhavati
(Dewachen Prayer – Extended version)
རྣམ་དག་བདེ་ཆེན་ཞིང་གི་སྨོན་ལམ།
Tác giả (Author): Đức Karma Chagme
Việt ngữ: Hồng Như – bản dịch 2013
Ngôn ngữ (Languages): Tạng Văn (Tibetan) – Âm (pronunciation) – English – Việt

Điều kiện hành trì:
Pháp phổ thông, mọi người đều có thể đọc tụng.

01_adida
Tiếng Việt

Đây là kho tàng pháp hành Karma Chagme. Tôi đích thân viết ra. Thiết nghĩ pháp này sẽ mang lợi ích đến cho số lượng người không nhỏ. Nếu không muốn chép, xin hãy mượn. Không gì lợi ích hơn. Không lời khai thị nào thâm sâu hơn lời khai thị này. Đây là cội rễ của chánh pháp. Xin đừng bỏ sang một bên. Hãy nỗ lực thực hành. Vì pháp này thuộc hệ hiển thừa nên dù chưa thọ pháp vẫn có thể đọc tụng.

Ê Ma Hô
Theo hướng mặt trời lặn,
qua vô lượng quốc độ,
cao cao về phía trên,
có quốc độ Cực Lạc.
Dù mắt nhìn không thấy,
vẫn hiện rõ trong tâm.
Đây chính là trú xứ
của Phật A Di Đà,
thân uy nghi rực rỡ
rạng tỏa sắc hồng liên,
đủ ba-hai tướng chính
cùng tám mươi tướng phụ,
tướng nhục kế trên đỉnh,
thiên phúc luân dưới chân.
Ngài một mặt, hai tay.
Tay ngài cầm bình bát
và kết ấn tam muội,
khoát ba lớp cà sa
ngồi xếp chân kiết già,
tọa đài sen ngàn cánh
cùng với đài mặt trăng,
lưng tựa cội bồ đề,
từ phương xa nhìn về
bằng ánh mắt từ bi.

Bên phải của ngài là
Quan Thế Âm Bồ Tát,
thân tỏa hào quang trắng,
tay trái cầm sen trắng;
bên trái của ngài là
Kim Cang Thủ Bồ Tát,
thân tỏa sắc xanh dương,
tay trái cầm hoa sen,
trên điểm chùy kim cang;
tay phải của hai vị
đều kết ấn qui y.

Tam Thánh hiện vững vàng
như ngọn núi Tu Di,
linh động, rõ, ngời sáng,
xung quanh ngàn vạn ức
chư bồ tát xuất gia,
tất cả màu hoàng kim,
trang nghiêm tướng chính, phụ.
khoác ba lớp cà sa,
thế gian rực sắc vàng.

Nếu chí thành đảnh lễ
thì xa gần như nhau.
Bằng trọn thân, khẩu, ý,
con đảnh lễ đê đầu
A Di Đà pháp thân,
pháp chủ của Phật bộ.

Tay phải ngài hào quang
thành đức Quan Thế Âm,
từ đó mười vạn ức
đức Quan Âm lại hiện;
tay trái ngài hào quang
hiện thành đức Ta-ra,
từ đó mười vạn ức
đức Ta-ra lại hiện;
giữa tim ngài hào quang
thành đức Liên Hoa Sanh,
từ đó mười vạn ức
Liên Hoa Sanh lại hiện:
con xin đảnh lễ đấng
Vô Lượng Quang pháp thân.

Xin Phật thương, giữ gìn
cho khắp cả chúng sinh
ngày và đêm sáu buổi
đối với mỗi chúng sinh
tâm quấy động niệm nào
Phật đều luôn biết rõ;
miệng thốt lên lời nào
Phật đều luôn nghe rõ:
con xin đảnh lễ đấng
Toàn Giác A Di Đà.

Trừ phi bỏ chánh pháp
hay phạm tội ngũ nghịch
ngoài ra, bất kể ai
đủ tín tâm nơi ngài,
phát nguyện sinh Cực Lạc
đều sở cầu như ý.
Đến khi vào trung ấm,
Phật nhất định hiện ra
tiếp dẫn về cõi Phật:
con xin đảnh lễ đấng
Tiếp Dẫn A Di Đà.

Thọ mạng vô lượng kiếp,
ngài không nhập niết bàn,
thường thị hiện sắc thân.
Ai nhất tâm cầu thỉnh,
trừ phi nghiệp đã chín,
bằng không, dù mạng dứt
cũng vẫn sống trăm năm,
thoát cái chết phi thời:
con đê đầu đảnh lễ
đức Phật Vô Lượng Thọ.

Ví như có một ai
mang ngọc quí chất đầy
cả tam thiên thế giới
để mà bố thí cả,
công đức này chẳng sánh
bằng công đức chắp tay
khởi tín tâm trong sáng
khi được nghe danh hiệu
của Phật A Di Đà
và Tây Phương Cực Lạc.
Vậy con xin đảnh lễ
đức Phật A Di Đà
bằng trọn lòng thành kính.

Ai người nghe hồng danh
của Phật A Di Đà
mà khởi được tín tâm
sâu thẳm tận đáy tim,
chân thành chỉ một lần
sẽ không còn thoái chuyển
trên đường tu giác ngộ:
con xin đảnh lễ đấng
Hộ Trì A Di Đà.

Ai được nghe hồng danh
của Phật A Di Đà,
từ đấy cho đến khi
đạt tinh túy giác ngộ
sẽ không sinh thân nữ,
sinh vào nhà chánh tín,
mỗi một kiếp tái sinh
giới hạnh luôn thanh tịnh:
con xin đảnh lễ đức
Thiện Thệ A Di Đà.

Xin hiến dâng thân mạng,
cùng tài sản, thiện căn,
hết thảy mọi cúng phẩm,
phẩm cụ thể bày biện,
hay phẩm hiện trong tâm,
phẩm cát tường, thất bảo,
trọn tam thiên thế giới,
mỗi thế giới gồm đủ
núi Tu di, tứ châu
mặt trời và mặt trăng,
cùng hết thảy bảo vật
trong cõi trời, rồng, người,
tất cả hiện trong tâm,
dâng Phật A Di Đà,
kính xin Phật từ bi
vì con, nhận cúng phẩm.

Nguyện sám hối nghiệp chướng
của con cùng chúng sinh,
khắp đa sinh phụ mẫu,
đã phạm từ vô thủy
mãi cho đến bây giờ.
– Lỗi sát sanh, trộm cướp,
cùng với lỗi tà dâm:
xin phát lộ sám hối
ba việc ác của thân.
– Lỗi dối láo, hai lưỡi,
thô ác và tán gẫu:
xin phát lộ sám hối
bốn việc ác của khẩu.
– Tham, ác ý, tà kiến:
xin phát lộ sám hối
ba việc ác của ý.
– Vì ác mà sát hại
cha, mẹ, a xà lê
hay là a la hán,
làm chảy máu thân Phật:
xin phát lộ, sám hối
trọn năm tội vô gián.
– Giết tỷ kheo, sa di,
khiến chư ni phá giới,
hủy diệt hình, tháp, chùa:
xin phát lộ sám hối
mọi nghiệp cận vô gián.
– Lấy Tam Bảo, chùa, kinh,
cùng với ba chỗ nương,
giả dối mang ra thề:
xin phát lộ sám hối,
nghiệp từ bỏ chánh pháp.
– Giết sạch hết chúng sinh
trong toàn khắp ba cõi,
nghiệp này vẫn chưa bằng
nghiệp phỉ báng bồ tát:
xin phát lộ sám hối
trọng nghiệp vô nghĩa này.
– Lợi ích của thiện đức,
tai hại của nghiệp chướng,
khổ đau và thọ mạng
của chúng sinh địa ngục,
tất cả những việc này
mà nghĩ rằng không thật,
chỉ là lời nói suông,
ý nghĩ này tệ hơn
cả năm nghiệp vô gián:
xin phát lộ sám hối
ác nghiệp khó bỏ này.
– Bốn đọa, mười ba sót
giới phá, giới phải sám,
và các giới phạm nhẹ
– đầy đủ cả năm bộ:
xin phát lộ sám hối
mọi phá phạm giới luật
ba la đề mộc xoa.
– Bốn bất thiện, cùng với
năm, năm, tám đọa rơi
[là 18 trọng giới]:
xin phát lộ sám hối
phá phạm giới bồ tát.
– Đủ mười bốn trọng giới
cùng với tám nhánh chính:
xin phát lộ sám hối
mọi phá phạm mật thệ
của giới luật kim cang.
– Có những việc bất thiện
như tà dâm, rượu chè
cho dù không thọ giới,
tự nhiên vẫn bất thiện:
xin phát lộ sám hối
việc ác vô tình làm.
– Sau khi thọ qui y
cùng với pháp quán đảnh,
xin phát lộ sám hối
những phá phạm mật thệ,
chỉ vì không hiểu rõ
cần phải giữ giới gì.
– Nếu tâm không hối hận,
dù sám, nghiệp chẳng tịnh.
nay con xin phát lộ
hết thảy tội đã làm
với trọn lòng tàm quí,
sợ hãi và thống hối,
như uống phải thuốc độc.
– Nếu không hạ quyết tâm,
chẳng thể tịnh ác nghiệp.
Từ nay, dù mất mạng
nguyện không còn tái phạm.
– Xin thành tâm khẩn nguyện
Thiện thệ A Di Đà,
cùng thánh chúng bồ tát,
xin hộ trì cho con
tịnh sạch dòng tâm thức.

Thấy việc tốt của người
tâm đừng khởi ganh ghen
tùy hỉ tận đáy lòng,
thì công đức có được
sẽ ngang bằng như nhau.
Vậy con xin vui cùng
hết thảy mọi thiện hạnh
của thánh giả, phàm phu.
Vui cùng mọi công đức
phát khởi tâm bồ đề
và lợi ích chúng sinh;
công đức lánh thập ác,
công đức hành thập thiện:
cứu sinh mạng hữu tình
bố thí, giữ phạm hạnh,
luôn nói lời chân thật,
hàn gắn mọi xung đột,
thẳng thắng và ôn hòa,
nói lời có ý nghĩa,
giảm thiểu lòng ham muốn,
thuần dưỡng tâm từ bi,
chuyên tâm tu chánh pháp:
xin tùy hỉ hết thảy
những việc tốt lành này.

Trong vô lượng quốc độ
ở khắp cả mười phương
có được bao nhiêu đấng
vừa thành tựu quả Phật:
con khẩn cầu chư vị
sớm chuyển đẩy pháp luân.

Xin vận dụng thần lực
thấu cho lời nguyện này.
Chư Phật đà, bồ tát
chư trì pháp, pháp hữu,
nếu muốn hiện niết bàn
thì con xin chắp tay
thỉnh chư vị đừng vội,
nán lại cùng chúng con.

Bao nhiêu công đức này,
cùng ba thời công đức,
con nguyện mang ra hết,
hồi hướng khắp chúng sinh,
nguyện chúng sinh sớm đạt
quả vô thượng bồ đề,
đáy luân hồi ba cõi
nguyện vắng không còn ai.

Nguyện thiện đức mau chóng
chín mùi ở nơi con,
nguyện giải trừ hết thảy
mười tám chết phi thời,
nguyện sức khỏe dồi dào,
cường tráng như tuổi trẻ,
nguyện tài sản bất tận
như sông Hằng mùa hạ.
Nguyện ma vương, kẻ thù
không thể nào quấy phá.
Nguyện tu theo diệu pháp.
Nguyện thỏa mọi ước mong
thuận chánh pháp, tâm ý.
Nguyện viên thành lợi ích
cho Phật pháp, chúng sinh.
Nguyện thân người này đây
trở nên thật xứng đáng.

Nguyện con cùng những ai
có duyên nghiệp với con
vừa lìa bỏ đời này
tức thì ngay trước mắt
Phật Di Đà hiện ra.
cùng chúng tăng bồ tát.
Thấy rồi, lòng mừng vui,
nguyện bước qua cửa tử
không một chút đớn đau.
Nguyện tám đại bồ tát,
nhiệm mầu hiện trên không
và tiếp dẫn cho con
về Tây Phương Cực Lạc.

– Khổ đau cảnh ác đạo
thật không thể nào kham,
lạc thú cảnh trời, người
đều là cảnh vô thường.
Nguyện con thấy sợ hãi.

– Từ vô thủy sinh tử
cho đến tận bây giờ
luân hồi mãi trường tồn,
nguyện con thấy chán ngán.

– Cho dù luôn làm người
thì cũng vẫn phải chịu
khổ sinh lão bệnh tử,
triền miên không kể xiết.

Vào thời mạt pháp này
thật quá nhiều chướng duyên,
lạc thú cõi người, trời
như cơm trộn thuốc độc:
nguyện cho mọi tham ái
dù mỏng như sợi tóc
cũng tuyệt dứt không còn.

– Gia đình và thực phẩm
tài sản cùng bằng hữu,
vô thường như huyễn, mộng.
Nguyện cho mọi chấp luyến
dù mỏng như sợi tóc
cũng tuyệt đứt không còn.

– Quốc, hương, gia, đều như
căn nhà trong giấc mộng,
nguyện con biết nhìn thấy
hết thảy đều không thật.

– Nguyện cho con vượt thoát
biển luân hồi khó vượt,
như tù nhân vượt ngục,
nguyện con vượt sinh tử
đến Tây Phương Cực lạc,
nhất quyết chẳng quay đầu.
Đoạn lìa mọi ái, thủ,
nguyện bay vào trời Tây
như chim kên thoát bẫy,
chỉ trong một phút giây
vượt muôn trùng cõi thế,
đến tịnh độ Cực Lạc.
Nguyện thấy được dung nhan
của Phật A Di Đà,
thật sự đang ở đó.
Nguyện che chướng trong con
hết thảy đều thanh tịnh.
Xét trong bốn loại sinh,
thù thắng nhất vẫn là
sinh từ giữa lòng sen.
Nguyện vãng sinh như vậy,
thân tức thì đầy đủ,
hết thảy tướng chánh, phụ.

Nếu tâm còn chưa chắc
có vãng sanh được chăng,
hoài nghi này sẽ khiến
con kẹt giữa lòng sen
trong suốt năm trăm năm.
Nụ sen vẫn êm ái,
vẫn yên vui thoải mái,
vẫn nghe được tiếng Phật
nhưng vì sen không nở,
nên chậm thấy dung nhan
của Phật A Di Đà.
Nguyện không vướng cảnh này,
nguyện khi vừa vãng sanh,
cánh sen liền rộ nở
cho con thấy khuôn mặt
đức Di Đà Từ Tôn.

Nương công đức, thần lực,
nguyện biển mây cúng dường
từ tay con xuất ra
dâng lên cho đức Phật
cùng thánh chúng tùy tùng.

Khi ấy, nguyện Như Lai
đưa ra bàn tay phải
đặt trên đỉnh đầu con.
Được thọ ký thành Phật,
nghe chánh pháp quảng thâm,
nguyện thành thục, giải thoát,
lại được hai bồ tát
là đức Quan Thế Âm
và đức Kim Cang Thủ
cùng hộ niệm, giữ gìn.
Mỗi ngày đều luôn có
vô lượng Phật, bồ tát
từ mười phương cùng về
hiến cúng đức Di Đà,
chiêm bái cõi tịnh độ.
Khi ấy, nguyện có con
thọ cam lồ chánh pháp.

Nguyện cho con du hành
bằng thần lực vô ngại,
đến các cõi tịnh độ:
cõi Đông Phương Điều Hỉ
cõi Tây Phương Rực Rỡ,
Cõi Bắc Phương Viên Hạnh
cõi Trung Phương Mật Nghiêm.

Buổi sáng thọ quán đảnh,
gia trì và mật thệ,
từ đức Phật Bất Động
từ đức Phật Bảo Sanh,
Phật Bất Không Thành Tựu,
Phật Tì Lô Xá Na,
cùng với chư Phật khác,
dâng phẩm vật phong phú,
cho đến buổi xế chiều
nguyện tự tại trở về
cõi Tây Phương Cực Lạc.

Tại điện Pô-ta-la,
À-la-ka-va-tí,
Cha-ma-rát-vi-pa
và U-đi-ya-na,
mười vạn ức quốc độ,
trong khắp cõi báo thân,
nguyện con được diện kiến
vạn ức Quan Thế Âm,
Ta-ra, Kim Cang Thủ,
cùng đức Liên Hoa Sanh.
Cả biển rộng cúng phẩm
con nguyện dâng hiến hết,
và thọ pháp quán đảnh,
thọ khai thị thâm sâu.
Mau chóng, không ngăn ngại,
trở về lại trú xứ
cõi Cực Lạc Tây Phương.

Nguyện vận dụng thần nhãn
nhìn người thân ở lại,
tăng ni cùng đệ tử,
nguyện hộ trì tất cả.
đến khi họ mạng chung,
nguyện đưa về Cực Lạc.

Cả thời Hiền kiếp này
chỉ dài bằng một ngày
trong cõi Phật Cực Lạc.
Hằng vô lượng đại kiếp
không hề có cái chết.
Nguyện con luôn ở lại
trong cõi Cực Lạc này.

Kể từ đức Di Lạc
cho đến đức Lưu Chí
chư Phật thời Hiền kiếp
sẽ lần lượt xuất thế.
khi ấy, nguyện cho con
vận dụng thần lực mình
để cúng dường chư Phật,
và lắng nghe chánh pháp,
rồi trở về Cực Lạc
ung dung, không ngăn ngại.

Y báo của hết thảy
tám mươi mốt tỷ tỷ
cõi tịnh độ của Phật
đều hiện đủ nơi đây
thù thắng hơn hết thảy:
nguyện vãng sinh Cực Lạc.

Nền đất quí ở đây
phẳng mịn như lòng tay,
bao la và bát ngát,
hào quang chiếu rạng ngời,
dịu êm và nhu nhuyễn,
vui, dịu, rộng thênh thang:
nguyện vãng sinh tịnh độ.

Cây như ý trĩu ngọc
lá bạc cùng trái quí.
Từ nơi ấy hiện ra
chim thánh thót ngọt ngào,
thuyết giảng Pháp quảng thâm,
nguyện sinh cõi mầu nhiệm.

Nơi ấy, nước sông thơm
đủ tám đặc tính quí.
Nơi ấy, bể cam lồ,
nền lát bằng thất bảo.
Sen tỏa ngát mùi hương,
trái cây hào quang chiếu,
trên mỗi nhánh hào quang
chư Phật trang nghiêm hiện:
nguyện sinh cõi nhiệm mầu.

Vắng tám bất tự tại,
không có ba nẻo dữ
cho dù là tên gọi
cũng chưa từng được nghe.
Phiền não, ba, năm độc
bệnh, tà chướng, kẻ thù,
nghèo khổ và xung đột,
hết thảy mọi khổ nạn,
cõi này chưa từng nghe:
Nguyện vãng sinh Cực lạc.

Nơi này không ái dục
không hề sinh từ thai,
hết thảy đều sinh ra
từ lòng sen dịu ngát.
Thân ai cũng như nhau
đều tỏa ngát ánh vàng,
đầy đủ tướng chánh phụ
như nhục kế trên đảnh;
ai cũng đạt ngũ thông,
có đầy đủ ngũ nhãn:
Nguyện vãng sinh cõi này.

Với vô lượng thiện tánh.
Điện ngọc có tự nhiên,
bất kể tâm muốn gì
đều hiện ra như ý,
không cần phải dụng công,
muốn gì đều được nấy;
không khái niệm ngã, tha,
cũng không cả ngã chấp.
Tâm muốn cúng dường gì
đều từ nơi lòng tay
xuất ra cả biển mây
phẩm cúng dường phong phú.
Pháp đại thừa vô thượng
ai cũng luôn hành trì:
Nguyện sinh vào cõi này.

Nơi mà mọi an vui
đều tự nhiên hiện khởi.
Gió thơm thổi dịu ngát
rải bát ngát mưa hoa.
Từ cây cối, sông ngòi,
từ những đóa sen quí
phong phú hiện không ngớt
cả biển mây cúng phẩm
sắc, thanh, hương, vị, xúc.
Dù không có tánh phàm,
thiên nữ vẫn luôn hiện
trùng điệp dâng cúng phẩm.

Bao giờ muốn ngồi xuống
điện ngọc sẽ hiện ra.
Bao giờ muốn nằm nghỉ,
nệm gối êm sẽ hiện
trên giường bằng ngọc quí.
Bao giờ tai muốn nghe
thì chim, cây, sông, nhạc
hát diệu âm chánh pháp;
bao giờ không muốn nghe
thì yên lắng thanh tịnh.
Sông hồ đầy cam lồ,
nhiệt độ tùy ý thích:
Nguyện vãng sinh cõi này,
mọi sự đều như ý.

Trong cõi tịnh độ này
đức Phật A Di Đà
sẽ ở lại trụ thế
dài hàng vô lượng kiếp
mà không nhập niết bàn.
Nguyện trong suốt thời gian
con được phụng sự Phật.

Khi Phật nhập niết bàn,
Pháp vẫn còn tồn tại
thêm một thời gian dài
với số lượng đại kiếp
bằng hai cát sông Hằng.
Khi ấy, nguyện không lìa
bồ tát Quan Thế Âm,
là đấng thay thế Phật
để giữ gìn chánh pháp.

Rồi chánh pháp chiều tà
theo mặt trời bóng ngả.
Khi bình minh hiện ra,
bồ tát Quan Thế Âm
sẽ viên thành Phật quả.
Thành Phật, danh hiệu
“Phổ Quang Công Đức Sơn Vương”
Khi ấy nguyện cho con
phụng sự và thọ pháp.
Thọ mạng ngài sẽ dài,
chín sáu tỷ tỷ kiếp.
Nguyện suốt thời gian này
con luôn được phụng sự,
luôn giữ gìn chánh pháp,
tâm nhớ mãi không quên.

Khi Phật nhập niết bàn,
pháp của ngài ở lại
thêm sáu trăm vạn ức,
ba trăm ngàn đại kiếp.
Trong suốt thời gian này,
nguyện con giữ chánh pháp
không bao giờ lìa xa
bồ tát Kim Cang Thủ.
Rồi khi ngài thành Phật,
thành đức Như Lai
“Thiên Trụ Công Đức Bảo Vương”,
chánh pháp và thọ mạng
bằng đức Quan Thế Âm.
Nguyện con luôn phụng sự
hiến cúng Như Lai này,
và chấp trì chánh pháp.

Sau đời ấy, nguyện con
ở cõi tịnh độ này
hay tịnh độ nào khác,
nguyện đạt chánh đẳng giác
thành một đấng Phật đà.

Thành Phật rồi, nguyện xin,
như đức Vô Lượng Thọ,
hết thảy chúng hữu tình
chỉ cần thoáng qua tai
nghe được danh hiệu con,
là chín mùi, giải thoát.
Nguyện thị hiện phong phú,
dẫn dắt khắp chúng sinh
vô dụng công, nhiệm vận,
và không thể đo lường.

Như lai với thọ mạng,
công đức cùng thiện tánh,
trí giác và uy nghi
hết thảy đều vô lượng;
Pháp thân A Di Đà;
Vô Lượng Thọ Thế Tôn
Vô Lượng Trí Thế Tôn:

Phật Thích Ca dạy rằng
ai niệm hồng danh ngài
đều tránh được hiểm họa
lửa, nước, độc, vũ khí
la sát và dạ xoa
cùng mọi hiểm họa khác,
trừ phi nhằm trường hợp
nghiệp cũ đã chín mùi.

Con xin niệm hồng danh
và đê đầu đảnh lễ.
Xin Phật giữ gìn cho
thoát hung hiểm, đau khổ.
Xin ban cho chúng con
lực gia trì cát tường.

Xin nương lực gia trì
của các đấng Thế Tôn,
thành tựu Tam Thân Phật,
của pháp tánh bất biến
của tâm ý tăng bảo
không bao giờ lay chuyển,
nguyện lời nguyện nơi đây
được viên thành như ý.

Đệ tử đảnh lễ Tam Bảo
TA-ĐI-A THA PEN DZA DRI-YA A-WA BÔ ĐA NAI YÊ SÔ HA

Đà La Ni Viên Thành Nguyện Ước

Đệ tử đảnh lễ Tam Bảo
NAM MÔ MAN SU SHRI YÊ. NAM MÔ SU SHRI YÊ. NAM MÔ UTAMA SHRI YÊ SÔ HA

Đọc rồi lạy 3 lần, làm như vậy sẽ bằng 100 ngàn lần. Vậy, nếu được, hãy lạy 100 lạy, hay càng nhiều càng tốt, tối thiểu 7 lần. Nếu có thể, hãy đọc lời nguyện này mỗi ngày. Bằng không hãy đọc mỗi tháng hay mỗi năm. Chí ít, lúc có thời gian hãy đối mặt với hướng Tây mà nhớ về cõi Tây Phương Cực Lạc, khởi tín tâm chuyên nhất, chắp tay thỉnh cầu đức A Di Đà. Làm được như vậy, chướng ngại đời này sẽ tan biến, hết đời sẽ vãng sinh Cực Lạc, nhất định không sai. Đây là ý thật của Kinh A Di Đà, Kinh Cực Lạc, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa và Kinh Tiếng Trống Bất Tử. Bài pháp này do Tỷ kheo Ragasya soạn tác. Nguyện làm nhân tố cho thật nhiều hữu tình vãng sinh Cực Lạc !

Tạng Âm (Tibetan Pronunciation)

[Ghi chú: Phân đoạn mỗi bốn câu cho dễ tụng, không hợp cách phân đoạn theo nghĩa]

E MA HO! DI NE NYI MA NUP KYI CHOK ROL NA
DRANG ME JIK TEN MANG POY PA ROL NA
CHUNG SE TENG DU PAK PAY YUL SA NA
NAM PAR DAK PAY SHING KHAM DE WA CHEN

DAK GI CHU BUR MIK GI MA TONG YANG
RANG SEM SAL WAY YI LA LAM MER SAL
DE NA CHOM DEN GYAL WA O PAK ME
PE MA RA GAY DOK CHEN SI JI BAR

U LA TSUK TOR SHAP LA KHOR LO SOK
TSEN SANG SO NYI PE CHE GYE CHU TRE
SHAL CHIK CHAK NYI NYAM SHAK LHUNG SE DZIN
CHO GO NAM SUM SOL SHING KYIL TRUNG GI

PE MA TONG DEN DA WAY DEN TENG DU
JANG CHUP SHING LA KU GYAP TEN DZE DE
THUK JEY CHEN GYI GYANG NE DAK LA SIK
YE SU JANG CHUP SEM PA CHEN RE SIK

KU DOK KAR PO CHAK YON PE KAR DZIN
YON DU JANG CHUB SEM PA TU CHEN TOP
NGON PO DOR JEY TSEN PAY PE MA YON
YE NYI KYAB JIN CHAK GYA DAK LA TEN

TSO WO SUM PO RI GYAL LHUN PO SHIN
LHANG NGE LHAN NE LHAM MER SHUK PAY KHOR
JANG CHUP SEM PAY GE LONG CHE WA BUM
KUN KYANG SER DOK TSEN DANG PE CHE GYEN

CHO GO NAM SUM SOL CHING SER TEM ME
MO GU CHAK LA NYE RING KHYE ME CHIR
DAK GI GO SUM GU PAY CHAK TSAL LO
CHO KU NANG WA TA YE RIK KYI DAK

CHAK YE O SER LE TRUL CHEN RE SIK
YANG TRUL CHEN RE SIK WANG CHE WA GYA
CHAK YON O SER LE TRUL DROL MA TE
YANG TRUL DROL MA CHE WA TRAK GYA GYE

TUK KYI O SER LE TRUL PE MA JUNG
YANG TRUL OR GYEN JE WA TRAK GYA GYE
CHO KU O PAK ME LA CHAK TSAL LO
SANG GYE CHEN GYI NYIN TSEN DU DRUK TU

SEM CHEN KUN LA TSE WAY TAK TU SIK
SEM CHEN KUN GYI YI LA GANG DREN PAY
NAM TOK GANG GYU TAK TU TUK KYI KHYEN
SEM CHEN KUN GYI NGAK TU GANG ME TSIK

TAK TU MA DRE SO SOR NYEN LA SEN
KUN KHYEN O PAK ME LA CHAK TSAL LO
CHO PANG TSAM ME CHE PA MA TOK PA
KHYE LA DE CHING MON LAM TAP TSE KUN

DE WA CHEN DER KYE WAY MON LAM DRUP
BAR DOR JON NE SHING DER DREN PAR SUNG
DREN PA O PAK ME LA CHAK TSAL LO
KHYE KYI KU TSE KAL PA DRANG ME DU

NYA NGEN MI DA TA THA NGON SUM SHUK
KHYE LA TSE CHIK GU PAY SOL TAP NA
LE KYI NAM PAR MIN PA MA TOK PA
TSE SE PA YANG LO GYA THUP PA DANG

DU MIN CHI WA MA LU DOK PAR SUNG
GON PO TSE PAK ME LA CHAK TSAL LO
TONG SUM JIK TEN RAP JAM DRANG ME PA
RIN CHEN GYI KANG JIN PA JIN PA WAY

O PAK ME PAY TSEN DANG DE WA CHEN
TO NE DE PAY TAL MO JAR CHE NA
DE NI DE WAY SO NAM CHE WAR SHUNG
DE CHIR O PAK ME LA GU CHAK TSAL

GANG SHIK O PAK ME PAY TSEN TO NE
KHA SHE ME PAR NYING KHONG RU PAY TING
LEN CHIK TSAM SHIK DE PA KYE PA NA
DE NI JANG CHUP LAM LE CHIR ME DOK

GON PO O PAK ME LA CHAK TSAL LO
SANG GYE O PAK ME PAY TSEN TO NE
DE NI JANG CHUP NYING PO MA TOP BAR
BU ME MI KYE RIK NI SANG POR KYE

TSE RAP KUN TU TSUL TRIM NAM DAK GYUR
DE SEK O PAK ME LA CHAK TSAL LO
DAK GI LU DANG LONG CHO GE TSAR CHE
NGO SU JOR WAY CHO PA CHI CHI PA

YI TRUL TA SHI DZE TAK RIN CHEN DUN
DO NE DRUP PA TONG SUM JIK TEN GYI
LING SHI RI RAP NYI DA JE WA GYA
LHA LU MI YI LONG CHO TAM CHE KUN

LO YI LANG TE O PAK ME LA BUL
DAK LA PEN CHIR TUK JEY TOP KYI SHE
PA MAY TOK DRANG DAK SOK DRO KUN GYI
TOK MA ME PAY DU NE DA TAY BAR

SOK CHE MA JIN LANG DANG MI TSANG CHO
LU KYI MI GE SUM PO TOL LO SHAK
DZUN DANG TRA MA TSIK TSUP NGAK KHYAL WA
NGAK GI MI GE SHI PO TOL LO SHAK

NAP SEM NO SEM LOK PAR TA WA TE
YI KYI MI GE SUM PO TOL LO SHAK
PA MA LOP PON DRA CHOM SE PA DANG
GYAL WAY KU LA NGEN SEM KYE PA DANG

TSAM ME NGA YI LE SAK TOL LO SHAK
GE LONG GE TSUL SE DANG TSUN MA PAP
KU SUK CHO TEN LHA KHANG SHIK LA SOK
NYE WAY TSAM ME DIK CHE TOL LO SHAK

KON CHOG LHA KHANG SUNG RAP TEN SUM SOK
PANG SHE TSE TSUK NA SO LA SOK PA
CHO PANG LE NGEN SAK PA TOL LO SHAK
KHAM SUM SEM CHEN SE LE DIK CHE WA

JANG CHUP SEM PA NAM LA KUR WA TAP
DON ME DIK CHEN SAK PA TOL LO SHAK
GE WAY PEN YON DIK PAY NYE MIK DANG
NYAL WAY DUK NGEL TSE TSE LA SOK PA

TO KYANG MI DEN SHE TSO YIN SAM PA
TSAM ME NGA WE TU WAY LE NGEN PA
TAR ME LE NGEN SAK PA TOL LO SHAK
PAM PA SHI DANG LHAK MA CHU SUM DANG

PANG TUNG SOR SHAK NYE CHE DE TSEN NGA
SO TAR TSUL TRIM CHAL WA TOL LO SHAK
NGAK POY CHO SHI TUNG WA NGA NGA GYE
JANG SEM LAP PA NYAM PA TOL LO SHAK

TSA TUNG CHU SHI YEN LAK POM PO GYE
SANG NGAK DAM TSIK NYAM PA TOL LO SHAK
DOM PA MA SHU MI GEY LE CHE PA
MI TSANG CHO DANG CHANG TUNG LA SOK PA

RANG SHIN KHA NA MA TOY DIK PA TE
DIK PA DIK TU MA SHE TOL LO SHAK
KYAP DOM WANG KUR LA SOK TOP NA YANG
DE YI DOM PA DAM TSIK SUNG MA SHE

CHE PAY TUNG WA POK PA TOL LO SHAK
GYO PA ME NA SHAK PAY MI DAK PAY
NGAR CHE DIK PA KHONG DU DUK SONG TAR
NGO TSA JIK TRAK GYO PA CHEN POY SHAK

CHIN CHE DOM SEM ME NA MI DAK PAY
CHIN CHE SOK LA BAP KYANG MI GEY LE
DA NE MI GYI SEM LA DAM CHA SUNG
DE SHEK O PAK ME PA SE CHE KYI

DAK GYU YONG SU DAK PAR JIN GYI LOP
SHEN GYI GE WA CHE PA TO PAY TSE
DE LA TRAK DOK MI GEY SEM PANG NE
NYING NE GA WAY JE SU YI RANG NA

DE YI SO NAM NYAM DU TOP PAR SUNG
DE CHIR PAK PA NAM DANG SO KYE YI
GE WA GANG DRUP KUN LA YI RANG NGO
LA ME JANG CHUP CHOK TU SEM KYE NE

DRO DON GYA CHEN DZE LA YI RANG NGO
MI GE CHU PO PANG PA GE WA CHU
SHEN GYI SOK KYAB JIN PA TONG WA DANG
DOM PA SUNG SHING DEN PAR MA WA DANG

KHON PA DUM DANG SHI DUL DRANG POR MA
DON DANG DEN PAY TAM CHO DO PA CHUNG
JAM DANG NYING JE GOM SHING CHO LA CHO
GE WA DE NAM KUN LA YI RAN NGO

CHOK CHUY JIK TEN RAP JAM TAM CHE NA
DZOK SANG GYE NE RING POR MA LON PAR
DE DAK NAM LA CHO KYI KHOR LO NI
GYA CHEN NYUR DU KOR WAR DAK GI KUL

NGO SHE TUK KYI DE DON KHYEN PA SOL
SANG GYE JANG SEM TEN DZIN GE WAY SHE
NYA NGEN DA WAR SHE KUN DE DAK LA
NYA NGEN MI DA SHUK PAR SOL WA DEP

DI TSON DAK GI DU SUM GE WA NAM
DRO WA SEM CHEN KUN GYI DON DU NGO
KUN KYANG LA ME JANG CHUP NYUR TOP NE
KHAM SUM KHOR WA SONG NE TRUK GYUR CHIK

DE YI GE WA DAK LA NYUR MIN NE
TSE DIR DU MIN CHI WA CHO GYE SHI
NE ME LANG TSO GYE PAY LU TOP DEN
PAL JOR DZE ME YAR GYI GAN GA TAR

DU DRAY TSE WA ME CHING DAM CHO CHO
SAM PAY DON KUN CHO DEN YI SHIN DRUP
TEN DANG DRO LA PEN TOK GYA CHEN DRUP
MI LU DON DANG DEN PAR DRUP PAR SHOK

DAK DANG DAK LA DREL TOK KUN
DI NE TSE PO GYUR MA TAK
TRUL PE SANG GYE O PAK ME
GE LONG GEN DUN KHOR GYI KOR

DUN DU NGON SUM JON PAR SHOK
DE TONG YI GA NANG WA KYI
SHI WAY DUK NGEL ME PAR SHOK
JANG CHUP SEM PA CHE GYE NI

DZU TRUL TOP KYI NAM KHAR JON
DE WA CHEN DU DRO WA YI
LAM TON LAM NA DREN PAR SHOK
NGEN SONG DUK NGEL SO LAK ME

LHA MIY DE KYI MI TAK GYUR
DE LA TRAK SEM KYE WAR SHOK
TOK MA ME NE DA TAY BAR
KHOR WA DI NA YUN RE RING

DE LA KYO WA KYE WAR SHOK
MI NE MI RU KYE CHOK KYANG
KYE GA NA CHI DRANG ME NYONG
DU NGEN NYIK MAR BAR CHE MANG

MI DANG LHA YI DE KYI DI
DUK DANG DRE PAY SE SHIN DU
DO PA PU TSAM ME PAR SHOK
NYE DU SE NOR TUN DROK NAM

MI TAK GYU MA MI LAM SHIN
CHAK SHEN PU TSAM ME PAR SHOK
SA CHA YUL RI KHANG KHYIM NAM
MI LAM YUL GYI KHANG KHYIM TAR

DEN PAR MA DRUP SHE PAR SHOK
TAR ME KHOR WAY GYA TSO NE
NYE CHEN TSON NE TAR PA SHIN
DE WA CHEN GYI SHING KHAM SU

CHI TE ME PAR DRO PAR SHOK
CHAK SHEN TRI WA KUN CHE NE
JA GO NYI NE TAR WA SHIN
NUP KYI CHOK KYI NAM KHA LA

JIK TEN KHAM NI DRANG ME PA
KE CHIK YU LA DRO CHE NE
DE WA CHEN DU CHIN PAR SHOK
DE RU SANG GYE O PAK ME

NGON SUM SHUK PAY SHAL TONG NE
DRIP PA TAM CHE DAK PAR SHOK
KYE NE SHI YI CHOK GYUR PA
ME TOK PE MAY NYING PO LA

DZU TE KYE WA LEN PAR SHOK
KE CHIK NYI LA LU DZOK NE
TSEN PE DEN PAY LU TOP SHOK
MI KYE DOK PAY TE TSOM GYI

LO DRANG NGA GYAY BAR DAK TU
NANG DER DE KYI LONG CHO DEN
SANG GYE SUNG NI TO NA YANG
ME TOK KHA NI MA CHE WAY

SANG GYE SHAL JAL CHI WAY KYON
DE DRA DAK LA MI JUNG SHOK
KYE MA TAK TU ME TOK CHE
O PAK ME PAY SHAL TONG SHOK

SO NAM TOP DANG DZU TRUL GYI
LAK PAY TIL NE CHO PAY TRIN
SAM MI KHYAB PAR TRO CHE NE
SANG GYE KHOR CHE CHO PAR SHOK

DE TSE DE SHIN SHEK PA DEY
CHAK YE KYANG NE GO LA SHAK
JANG CHUP LUNG TEN TOP PAR SHOK
SAP DANG GYA CHEY CHO TO NE

RANG GYU MIN CHING DROL WAR SHOK
CHEN RE SIK DANG TU CHEN TOP
GYAL SE TU WO NAM NYI KYI
JIN GYI LAP SHING JE SUNG SHOK

NYIN RE SHIN DU CHOK CHU YI
SANG GYE JANG SEM PAK ME PA
O PAK ME PA CHO PA DANG
SHING DER TA CHIR JON PAY TSE

DE DAK KUN LA NYEN KUR SHING
CHO KYI DU TSI TOP PAR SHOK
DZU TRUL TOK PA ME PA YI
NGON GAY SHING DANG PAL DEN SHING

LE RAP DZOK DANG TUK PO KO
NGA TRO DE DAK NAM SU DRO
MI KYO RIN JUNG DON YO DRUP
NAM NANG LA SOK SANG GYE LA

WANG DANG JIN LAP DOM PA SHU
CHO PA DU MAY CHO CHE NE
GONG MO DE WA CHEN NYI DU
KA TSEK ME PAR LEP PAR SHOK

PO TA LA DANG CHANG LO CHEN
NGA YAP LING DANG OR GYEN YUL
TRUL KUY SHING KHAM CHE WA GYAR
CHEN RE SIK DANG DROL MA DANG

CHAK DOR PE JUNG CHE WA GYA
JAL SHING CHO PA GYA TSO CHO
WANG DANG DAM NGAK SAP MO SHU
NYUR DU RANG NE DE CHEN SHING

TOK PA ME PAR CHIN PAR SHOK
SHUL GYI NYE DU DRA LOP SOK
LHA YI MIK GI SAL WAR TONG
SUNG KYOP JIN GYI LOP CHE CHING

CHI DU SHING DER TRI PAR SHOK
KAL SANG DI YI KAL PAY YUN
DE WA CHEN GYI SHAK CHIK TE
KAL PA DRANG ME CHI WA ME

TAK TU SHING DE DZIN PAR SHOK
JAM PA NE SUNG MO PAY BAR
KAL SANG DI YI SANG GYE NAM
JIK TEN DI NA NAM JON TSE

DZU TRUL TOP KYI DIR ONG NE
SANG GYE CHO CHING DAM CHO NYEN
LAR YANG DE CHEN SHING KHAM SU
TOK PA ME PAR DRO WAR SHOK

SANG GYE CHE WA TRAK TRIK GYA TONG TRAK
GYE CHU TSA CHIK SANG GYE SHING KUN GYI
YON TEN KO PA TAM CHE CHIK DOM PA
SHING KHAM KUN LE KHYE PAK LA NA ME

DE WA CHEN GYI SHING DER KYE WAR SHOK
RIN CHEN SA SHI KHO NYOM LAK TIL TAR
YANG SHING GYA CHE SAL SHING O SER BAR
NEN NA NEM SHING TEK NA PAR CHE PA

DE JAM YANG PAY SHING DER KYE WAR SHOK
RIN CHEN DU MA LE DRUP PAK SAM SHING
LO MA DAR SAP DRE BU RIN CHEN GYEN
DE TENG TRUL PAY JA TSOK KE NYEN DRE

SAP DANG GYA CHEY CHO KYI DAR NAM DROK
NGO TSAR CHEN POY SHING DER KYE WAR SHOK
PO CHUY CHU LUNG YEN LAK GYE DEN MANG
DE SHIN DU TSIY TRU KYI DZING BU NAM

RIN CHEN NA DUN TEM KE PA GU KOR
ME TOK PE MA DRI SHIM DRE BUR DEN
PE MAY O SER PAK TU ME PA TRO
O SER TSE LA TRUL PAY SANG GYE GYEN

YAM TSEN CHEN POY SHING DER KYE WAR SHOK
MI KHOM GYE DANG NGEN SONG DRA MI DRAK
NYON MONG DUK NGA DUK SUM NE DANG DON
DRA DANG UL PONG TAP TSO LA SOK PA

DUK NEL TAM CHE SHING DER TO MA NYONG
DE WA CHEN POY SHING DER KYE WAR SHOK
BU ME ME CHING NGAL NE KYE WA ME
KUN KYANG ME TOK PE MAY BUP NE TRUNG

TAM CHE KU LU KHYE ME SER GYI DOK
U LA TSOK TOR LA SOK TSEN PEY GYEN
NGON SHE NGA DANG CHEN NGA KUN LA NGA
YON TEN PAK ME SHING DER KYE WAR SHOK

RANG JUNG RIN CHEN NA TSOK SHAL YE KHANG
CHI DO LONG CHO YI LA DREN PAY JUNG
TSO DRUP MI GO GO DO LHUN GYI DRUP
NGA KHYO ME CHING DAK TU DZIN PA ME

GANG DO CHO TRIN LAK PAY TIL NE JUNG
TAM CHE LA ME TEK CHEN CHO LA CHO
DE KYI KUN JUNG SHING KER KYE WAR SHOK
DRI SHIM LUNG GI ME TOK CHAR CHEN BEP

SHING DANG CHU LUNG PE MO TAM CHE LE
YI DU ONG WAY SUK DRA DRI RO REK
LONG CHO CHO PAY TRIN PUNG TAK TU JUNG
BU ME ME KYANG TRUL PAY LHA MOY TSOK

CHO PAY LHA MO DU MAY TAK TU CHO
DUK PAR DO TSE RIN CHEN SHAL YE KHANG
NYAL WAR DO TSE RIN CHEN TRI SANG TENG
DAR SAP DU MAY MAL TEN NGE DANG CHE

JA DANG JON SHING CHU LUNG ROL MO SOK
TO PAR DO NA NYEN PAY CHO DRA DROK
MI DO TSE NA NA WAR DRA MI DRAK
DU TSIY DZING BU CHU LUNG DE NAM KYANG

DRO DANG GANG DO DE LA DE TAR JUNG
YI SHIN DRUP PAY SHING DER KYE WAR SHOK
SHING DER DZOK PAY SANG GYE O PAK ME
KAL PA DRANG ME NYA NGEN MI DA SHUK

DE SI DE YI SHAP DRING CHE PAR SHOK
NAM SHIK O PAK ME DE SHI WAR SHEK
KAL PA GANG GAY LUNG GI CHE MA NYE
NYI KYI BAR DU TEN PA NE PAY TSE

GYAL TSAP CHEN RE SIK DANG MI DRAL SHING
DE YI YUN LA DAM CHO DZIN PAR SHOK
SO LA DAM CHO NUP PAY TO RANG LA
CHEN RE SIK DE NGON PAR SANG GYE NE

SANG GYE O SER KUN NE PAK PA YI
PAL TSEK GYAL PO SHE JAR GYUR PAY TSE
SHAL TA CHO CHING DAM CHO NYEN PAR SHOK
KU TSE KAL PA JE WA TRAK TRIK NI

BUM TRAK GU CHU TSA DRUK SHUK PAY TSE
TAK TU SHAP DRING NYEN KUR CHE PA DANG
MI JE SUNG KYI DAM CHO DZIN PAR SHOK
NYA NGEN DE NE DE YI TEN PA NI

KAL PA DUNG CHUR DRUK DANG CHE WA TRAK
BUM TRAK SUM NE DE TSE CHO DZIN CHING
TU CHEN TOP DANG TAK TU MIN DRAL SHOK
DE NE TU CHEN TOP DE SANG GYE NE

DE SHIN SHEK PA RAP TU TEN PA NI
YON TEN NOR BU TSEK PAY GYAL POR GYUR
KU TSE TEN PA CHEN RE SIK DANG NYAM
SANG GYE DE YI TAK TU SHAP DRING CHE

CHO PAY CHO CHING DAM CHO KUN DZIN SHOK
DE NE DAK GI TSE DE JE MA TAK
SHING KHAM DE AM DAK PAY SHING SHEN DU
LA ME DZOK PAY SANG GYE THOP PAR SHOK

DZOK SANG GYE NE TSE PAK ME PA TAR
TSEN TO TSAM GYI DRO KUN MIN CHING DROL
TRUL PA DRANG ME DRO WA DREN PA SOK
BE ME LHUN DRUP DRO DON PAK ME SHOK

DE SHIN SHEK PAY TSE DANG SO NAM DANG
YON TEN YE SHE SI JI TSE ME PA
CHO KU NANG WA TA YE O PAK ME
TSE DANG YE SHE PAK ME CHOM DEN DE

GANG SHIK KHYE KYI TSEN NI SU DZIN PA
NGON GYI LE KYI NAM MIN MA TOK PA
ME CHU DUK TSON NO JIN SIN PO SOK
JIK PA KUN LE KYOP PAR TUP PAY SUNG

DAK NI KHYE KYI TSEN DZIN CHAK TSAL WAY
JIK DANG DUK NGEL KUN LE KYAB DZE SOL
TA SHI PUN SUM TSOK PAR JIN GYI LOP
SANG GYE KU SUM NYE PAY JIN LAP DANG

CHO NYI MIN GYUR DEN PAY JIN LAP DANG
GEN DUN MI CHE DUN PAY JIN LAP KYI
JI TAR MON LAM TAP SHIN DRUP PAR SHOK

KON CHOG SUM LA CHAK SAL LO
TA YA THA PEN TSA DRI YA A WA BO DHA NA YE SO HA
KON CHOG SUM LA CHAK TSAL LO
NAMO MANJUSHIRIYE NAMO SUSHIRIYE NAMO UTTAMA SHRIYE SOHA

 

Tạng Văn – Tạng Âm – Anh – Việt
(Tibetan – Tibetan Pronunciation – English – Vietnamese)

[Ghi chú: Phân đoạn mỗi bốn câu cho dễ tụng, không hợp cách phân đoạn theo nghĩa]

རྣམ་དག་བདེ་ཆེན་ཞིང་གི་སྨོན་ལམ། འདི་ཉིད་ཆག་མེད་ཐུགས་དམ་མཛོད། །ལག་པ་ན་ཡང་འབད་ནས་བྲིས། །མང་པོ་འགའ་ལ་ཨེ་ཕནབསམ། །དཔེ་གཅོད་འདོད་མི་གདའ་ན་གཡོར།
།འདི་ལས་ཕན་ཡོན་ཆེ་བ་མེད། །འདི་ལས་ཟབ་པའི་གདམས་ངག་མེད། །ང་ཡི་ཆོས་ཀྱི་རྩ་བ་ཡིན། །རང་གར་མ་བསྐྱུར་ཉམས་ལེན་འབུངས། །འདི་ནི་མདོ་ལུགས་ཡིན་པའི་ཕྱིར། །ལུང་མ་ཐོབ་ཀྱང་འདོན་ནི་རུང་།
This is the treasury of Karma Chagme’s practice. I have written it with the work of my own hand. I think it might benefit quite a few beings. If you don’t want to copy it, borrow it. There is nothing more beneficial than this.There are no instructions more profound than this. It is the root of my Dharma. Don’t cast it aside; strive in its practice. As this is of the sutra tradition, it is appropriate to recite it even if you have not received the transmission.
Đây là kho tàng pháp hành Karma Chagme, do chính tay tôi viết ra. Thiết nghĩ pháp này sẽ mang lợi ích đến cho số lượng người  không nhỏ. Nếu không muốn chép, xin hãy mượn. Không gì lợi ích hơn. Không lời khai thị nào thâm sâu hơn lời khai thị này. Đây là cội rễ của chánh pháp. Xin đừng bỏ sang một bên. Hãy nỗ lực thực hành. Vì pháp này thuộc hệ hiển thừa nên dù chưa thọ pháp vẫn có thể đọc tụng.

༄༅།། ཨེ་མ་ཧོ། འདི་ནས་ཉི་མ་ནུབ་ཀྱི་ཕྱོགས་རོལ་ན། །
གྲངས་མེད་འཇིག་ཏེན་མང་པོའི་ཕ་རོལ་ན། །
ཅུང་ཟད་སྟེང་དུ་འཕགས་པའི་ཡུལ་ས་ན། །
རྣམ་པར་དག་པའི་ཞིང་ཁམས་བདེ་བ་ཅན། །
E MA HO! DI NE NYI MA NUP KYI CHOK ROL NA
DRANG ME JIK TEN MANG POY PA ROL NA
CHUNG SE TENG DU PAK PAY YUL SA NA
NAM PAR DAK PAY SHING KHAM DE WA CHEN
E Ma Ho! In the direction of the setting sun from here, past innumerable worlds
And slightly evelated above us, is the pure realm of Sukhavati.
Ê Ma Hô / Theo hướng mặt trời lặn / qua vô lượng quốc độ / cao cao về phía trên / có quốc độ Cực Lạc. /

བདག་གི་ཆུ་བུར་མིག་གིས་མ་མཐོང་ཡང་། །
རང་སེམས་གསལ་བའི་ཡིད་ལ་ལམ་མེར་གསལ། །
དེ་ན་བཅོམ་ལྡན་རྒྱལ་བ་འོད་དཔག་མེད། །
པདྨ་རཱ་གའི་མདོག་ཅན་གཟི་བརྗིད་འབར།
DAK GI CHU BUR MIK GI MA TONG YANG
RANG SEM SAL WAY YI LA LAM MER SAL
DE NA CHOM DEN GYAL WA O PAK ME
PE MA RA GAY DOK CHEN SI JI BAR
Although I do not see it with my fluid-filled eye, it is vividly clear in my mind. There resides the bhagavan Amitabha. The colour of ruby he blazes with majesty.
Dù mắt nhìn không thấy, / vẫn hiện rõ trong tâm. / Đây chính là trú xứ / của Phật A Di Đà, / thân uy nghi rực rỡ / rạng tỏa sắc hồng liên, /

༄༅། དབུ་ལ་གཙུག་ཏོར་ཞབས་ལ་འཁོར་ལོ་སོགས། །
མཚན་བཟང་སོ་གཉིས་དཔེ་བྱད་བརྒྱད་ཅུས་སྤྲས། །
ཞལ་གཅིག་ཕྱག་གཉིས་མཉམ་གཞག་ལྷུང་བཟེད་འཛིན། །
ཆོས་གོས་རྣམ་གསུམ་གསོལ་ཞིང་སྐྱིལ་ཀྲུང་གིས། །
U LA TSUK TOR SHAP LA KHOR LO SOK
TSEN SANG SO NYI PE CHE GYE CHU TRE
SHAL CHIK CHAK NYI NYAM SHAK LHUNG SE DZIN
CHO GO NAM SUM SOL SHING KYIL TRUNG GI
He is adorned by the thirty-two good marks and the eighty signs, such as the ushnisha on his head and the wheels on his feet. He has one face and two hands and holds an alms bowl in meditation. Wearing the three Dharma robes, he is seated in vajra posture
đủ ba-hai tướng chính / cùng tám mươi tướng phụ, / tướng nhục kế trên đỉnh, / thiên phúc luân dưới chân./ Ngài một mặt, hai tay, / tay ngài cầm bình bát / và kết ấn tam muội, / khoát ba lớp cà sa / ngồi xếp chân kiết già, /

པདྨ་སྟོང་ལྡན་ཟླ་བའི་གདན་སྟེང་དུ། །
བྱང་ཆུབ་ཤིང་ལ་སྐུ་རྒྱབ་བརྟེན་མཛད་དེ། །
ཐུགས་རྗེའི་སྤྱན་གྱིས་རྒྱང་ནས་བདག་ལ་གཟིགས། །
གཡས་སུ་བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའ་སྤྱན་རས་གཟིགས།
PE MA TONG DEN DA WAY DEN TENG DU
JANG CHUP SHING LA KU GYAP TEN DZE DE
THUK JEY CHEN GYI GYANG NE DAK LA SIK
YE SU JANG CHUP SEM PA CHEN RE SIK
On a thousand-petaled lotus and a moon disk seat. His back is supported by a bodhi tree. He gazes upon me from a distance with compassionate eyes. On his right is the bodhisattva Avalokita.
tọa đài sen ngàn cánh / cùng với đài mặt trăng, / lưng tựa cội bồ đề, / từ phương xa nhìn về / bằng ánh mắt từ bi. / Bên phải của ngài là / Quan Thế Âm Bồ Tát, /

༄༅། སྐུ་མདོག་དཀར་པོ་ཕྱག་གཡོན་པད་དཀར་འཛིན། །
གཡོན་དུ་བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའ་མཐུ་ཆེན་ཐོབ། །
སྔོན་པོ་རྡོ་རྗེས་མཚན་པའི་པདྨ་གཡོན། །
གཡས་གཉིས་སྐྱབས་སྦྱིན་ཕྱག་རྒྱ་བདག་ལ་བསྟན། །
KU DOK KAR PO CHAK YON PE KAR DZIN
YON DU JANG CHUB SEM PA TU CHEN TOP
NGON PO DOR JEY TSEN PAY PE MA YON
YE NYI KYAB JIN CHAK GYA DAK LA TEN
He is white and holds a white lotus in his left hand. On Amitabha’s left is the bodhisattva Vajrapani. He is blue and holds in his left hand a lotus with a vajra on it. The right hands of them both display to me the mudra of giving protection.
thân tỏa hào quang trắng, / tay trái cầm sen trắng; / bên trái của ngài là / Kim Cang Thủ Bồ Tát, / thân tỏa sắc xanh dương, / tay trái cầm hoa sen, / trên điểm chùy kim cang; / tay phải của hai vị / đều kết ấn qui y. /

གཙོ་བོ་གསུམ་པོ་རི་རྒྱལ་ལྷུན་པོ་བཞིན། །
ལྷང་ངེ་ལྷན་ནེ་ལྷམ་མེར་བཞུགས་པའི་འཁོར། །
བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་དགེ་སློང་བྱེ་བ་འབུམ། །
ཀུན་ཀྱང་གསེར་མདོག་མཚན་དང་དཔེ་བྱད་བརྒྱན།
TSO WO SUM PO RI GYAL LHUN PO SHIN
LHANG NGE LHAN NE LHAM MER SHUK PAY KHOR
JANG CHUP SEM PAY GE LONG CHE WA BUM
KUN KYANG SER DOK TSEN DANG PE CHE GYEN
These three principals are like Mount Meru, vivid, distinct and brilliant.
Their retinue is a trillion bodhisattva bhikshus. All of them are golden in colour and adorned by the marks and signs.
Tam Thánh hiện vững vàng / như ngọn núi Tu Di, / linh động, rõ, ngời sáng, / xung quanh ngàn vạn ức / chư bồ tát xuất gia, / tất cả màu hoàng kim, / trang nghiêm tướng chính, phụ. /

༄༅། །ཆོས་གོས་རྣམ་གསུམ་གསོལ་ཞིང་སེར་ལྟེམ་མེ། །
མོས་གུས་ཕྱག་ལ་ཉེ་རིང་ཁྱད་མེད་ཕྱིར། །
བདག་གི་སྒོ་གསུམ་གུས་པས་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
ཆོས་སྐུ་སྣང་བ་མཐའ་ཡས་རིགས་ཀྱི་བདག །
CHO GO NAM SUM SOL CHING SER TEM ME
MO GU CHAK LA NYE RING KHYE ME CHIR
DAK GI GO SUM GU PAY CHAK TSAL LO
CHO KU NANG WA TA YE RIK KYI DAK
Wearing the three Dharma robes, they fill the realm with yellow. As there is no difference between near and far for devoted prostration, I devotedly prostrate to you with my three gates. The dharmakaya Amitabha is the lord of the family.
khoác ba lớp cà sa, / thế gian rực sắc vàng. / Nếu chí thành đảnh lễ / thì xa gần như nhau. / Bằng trọn thân, khẩu, ý, / con đảnh lễ đê đầu / A Di Đà pháp thân, / pháp chủ của Phật bộ. /

ཕྱག་གཡས་འོད་ཟེར་ལས་སྤྲུལ་སྤྱན་རས་གཟིགས། །
ཡང་སྤྲུལ་སྤྱན་རས་གཟིགས་དབང་བྱེ་བ་བརྒྱ། །
ཕྱག་གཡོན་འོད་ཟེར་ལས་སྤྲུལ་སྒྲོལ་མ་སྟེ། །
ཡང་སྤྲུལ་སྒྲོལ་མ་བྱེ་བ་ཕྲག་བརྒྱ་འགྱེད།
CHAK YE O SER LE TRUL CHEN RE SIK
YANG TRUL CHEN RE SIK WANG CHE WA GYA
CHAK YON O SER LE TRUL DROL MA TE
YANG TRUL DROL MA CHE WA TRAK GYA GYE
The light-rays of his right hand emanate Avalokita and a billion further emanations of Avalokita. The light-rays of his left hand emanate Tara and a billion further emanations of Tara.
Tay phải ngài hào quang / thành đức Quan Thế Âm, / từ đó mười vạn ức / đức Quan Âm lại hiện; / tay trái ngài hào quang / hiện thành đức Ta-ra, / từ đó mười vạn ức / đức Ta-ra lại hiện; /

༄༅། ཐུགས་ཀྱི་འོད་ཟེར་ལས་སྤྲུལ་པདྨ་འབྱུང། །
ཡང་སྤྲུལ་ཨོ་རྒྱན་བྱེ་བ་ཕྲག་བརྒྱ་འགྱེད། །
ཆོས་སྐུ་འོད་དཔག་མེད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
སངས་རྒྱས་སྤྱན་གྱིས་ཉིན་མཚན་དུས་དྲུག་ཏུ། །
TUK KYI O SER LE TRUL PE MA JUNG
YANG TRUL OR GYEN JE WA TRAK GYA GYE
CHO KU O PAK ME LA CHAK TSAL LO
SANG GYE CHEN GYI NYIN TSEN DU DRUK TU
The light-rays of his heart emanate Padmakara and a billion further emanations of Padmakara. I prostrate to the dharmakaya Amitabha. Buddha, you kindly and constantly regard.
giữa tim ngài hào quang / thành đức Liên Hoa Sanh, / từ đó mười vạn ức / Liên Hoa Sanh lại hiện: / con xin đảnh lễ đấng / Vô Lượng Quang pháp thân. / Xin Phật thương, giữ gìn / cho khắp cả chúng sinh, / ngày và đêm sáu buổi. /

སེམས་ཅན་ཀུན་ལ་བརྩེ་བས་རྟག་ཏུ་གཟིགས། །
སེམས་ཅན་ཀུན་གྱི་ཡིད་ལ་གང་དྲན་པའི། །
རྣམ་རྟོག་གང་འགྱུ་རྟག་ཏུ་ཐུགས་ཀྱིས་མཁྱེན། །
སེམས་ཅན་ཀུན་གྱིས་ངག་ཏུ་གང་སྨྲས་ཚིག
SEM CHEN KUN LA TSE WAY TAK TU SIK
SEM CHEN KUN GYI YI LA GANG DREN PAY
NAM TOK GANG GYU TAK TU TUK KYI KHYEN
SEM CHEN KUN GYI NGAK TU GANG ME TSIK
All beings throughout the six times of day and night. You always know what thoughts Are moving through the mind of every being. You always hear distinctly the words spoken by every being.
Đối với mỗi chúng sinh / tâm quấy động niệm nào, / Phật đều luôn biết rõ; / miệng thốt lên lời nào, / Phật đều luôn nghe rõ: /

༄༅། རྟག་ཏུ་མ་འདྲེས་སོ་སོར་སྙན་ལ་གསན། །
ཀུན་མཁྱེན་འོད་དཔག་མེད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
ཆོས་སྤངས་མཚམས་མེད་བྱས་པ་མ་གཏོགས་པ། །
ཁྱེད་ལ་དད་ཅིང་སྨོན་ལམ་བཏབ་ཚད་ཀུན། །
TAK TU MA DRE SO SOR NYEN LA SEN
KUN KHYEN O PAK ME LA CHAK TSAL LO
CHO PANG TSAM ME CHE PA MA TOK PA
KHYE LA DE CHING MON LAM TAP TSE KUN
I prostrate to the omniscient Amitabha. It is said that, other than those who have rejected Dharma or done any of the five worst actions, all who have faith in you,
con xin đảnh lễ đấng / Toàn Giác A Di Đà. /  Trừ phi bỏ chánh pháp / hay phạm tội ngũ nghịch / ngoài ra, bất kể ai / đủ tín tâm nơi ngài, /

བདེ་བ་ཅན་དེར་སྐྱེ་བའི་སྨོན་ལམ་གྲུབ། །
བར་དོར་བྱོན་ནས་ཞིང་དེར་འདྲེན་པར་གསུངས། །
འདྲེན་པ་འོད་དཔག་མེད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
ཁྱེད་ཀྱི་སྐུ་ཚེ་བསྐལ་པ་གྲངས་མེད་དུ།
DE WA CHEN DER KYE WAY MON LAM DRUP
BAR DOR JON NE SHING DER DREN PAR SUNG
DREN PA O PAK ME LA CHAK TSAL LO
KHYE KYI KU TSE KAL PA DRANG ME DU
And make the aspiration to be born in Sukhavati will fulfil that aspiration. You will appear in the bardo and lead them to your realm. I prostrate to the guide Amitabha. For the length of your life, innumerable kalpas,
phát nguyện sinh Cực Lạc / đều sở cầu như ý. / Đến khi vào trung ấm, / Phật nhất định hiện ra / tiếp dẫn về cõi Phật:/ con xin đảnh lễ đấng / Tiếp Dẫn A Di Đà. / Thọ mạng vô lượng kiếp, /

༄༅། མྱ་ངན་མི་འདའ་ད་ལྟ་མངོན་སུམ་བཞུགས། །
ཁྱེད་ལ་རྩེ་གཅིག་གུས་པས་གསོལ་བཏབ་ན། །
ལས་ཀྱི་རྣམ་པར་སྨིན་པ་མ་གཏོགས་པ། །
ཚེ་ཟད་པ་ཡང་ལོ་བརྒྱ་ཐུབ་པ་དང་། །
NYA NGEN MI DA TA THA NGON SUM SHUK
KHYE LA TSE CHIK GU PAY SOL TAP NA
LE KYI NAM PAR MIN PA MA TOK PA
TSE SE PA YANG LO GYA THUP PA DANG
You will not pass into nirvana. You abide manifestly now. It is said that anyone who prays to you with one-pointed devotion, Even if their life is exhausted, unless that is caused by the ripening of karma,
ngài không nhập niết bàn, / thường thị hiện sắc thân. / Ai nhất tâm cầu thỉnh, / trừ phi nghiệp đã chín, / bằng không, dù mạng dứt /

དུས་མིན་འཆི་བ་མ་ལུས་བཟློག་པར་གསུངས། །
མགོན་པོ་ཚེ་དཔག་མེད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
སྟོང་གསུམ་འཇིག་རྟེན་རབ་འབྱམས་གྲངས་མེད་པ། །
རིན་ཆེན་གྱིས་བཀང་སྦྱིན་པ་བྱིན་པ་བས།
DU MIN CHI WA MA LU DOK PAR SUNG
GON PO TSE PAK ME LA CHAK TSAL LO
TONG SUM JIK TEN RAP JAM DRANG ME PA
RIN CHEN GYI KANG JIN PA JIN PA WAY
Will live a hundred years. You will avert all untimely death. I prostrate to the protector Amitayus. It is said that there is greater merit in hearing the names Amitabha and Sukhavati
cũng vẫn sống trăm năm, / thoát cái chết phi thời: / con đê đầu đảnh lễ / đức Phật Vô Lượng Thọ. / Ví như có một ai / mang ngọc quí chất đầy / cả tam thiên thế giới / để mà bố thí cả, /

༄༅། འོད་དཔག་མེད་པའི་མཚན་དང་བདེ་བ་ཅན། །
ཐོས་ནས་དད་པས་ཐལ་མོ་སྦྱར་བྱས་ན། །
དེ་ནི་དེ་བས་བསོད་ནམས་ཆེ་བར་གསུངས། །
དེ་ཕྱིར་འོད་དཔག་མེད་ལ་གུས་ཕྱག་འཚལ། །
O PAK ME PAY TSEN DANG DE WA CHEN
TO NE DE PAY TAL MO JAR CHE NA
DE NI DE WAY SO NAM CHE WAR SHUNG
DE CHIR O PAK ME LA GU CHAK TSAL
And joining one’s palms with faith, than in filling countless billion-world realms
With jewels and giving them in generosity. I therefore prostrate to Amitabha with devotion.
công đức này chẳng sánh / bằng công đức chắp tay / khởi tín tâm trong sáng / khi được nghe danh hiệu / của Phật A Di Đà / và Tây Phương Cực Lạc. / Vậy con xin đảnh lễ / đức Phật A Di Đà / bằng trọn lòng thành kính. /

གང་ཞིག་འོད་དཔག་མེད་པའི་མཚན་ཐོས་ནས། །
ཁ་ཞེ་མེད་པར་སྙིང་ཁོང་རུས་པའི་གཏིང་། །
ལན་གཅིག་ཙམ་ཞིག་དད་པ་སྐྱེས་པ་ན། །
དེ་ནི་བྱང་ཆུབ་ལམ་ལས་ཕྱིར་མི་ལྡོག
GANG SHIK O PAK ME PAY TSEN TO NE
KHA SHE ME PAR NYING KHONG RU PAY TING
LEN CHIK TSAM SHIK DE PA KYE PA NA
DE NI JANG CHUP LAM LE CHIR ME DOK
Anyone who, hearing Amitabha’s name, sincerely gives rise to faith From the depths of their heart even once, cannot be turned back from the path of awakening.
Ai người nghe hồng danh / của Phật A Di Đà / mà khởi được tín tâm / sâu thẳm tận đáy tim, / chân thành chỉ một lần / sẽ không còn thoái chuyển / trên đường tu giác ngộ: /

༄༅། མགོན་པོ་འོད་དཔག་མེད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
སངས་རྒྱས་འོད་དཔག་མེད་པའི་མཚན་ཐོས་ནས། །
དེ་ནི་བྱང་ཆུབ་སྙིང་པོ་མ་ཐོབ་བར། །
བུད་མེད་མི་སྐྱེ་རིགས་ནི་བཟང་པོར་སྐྱེ། །
GON PO O PAK ME LA CHAK TSAL LO
SANG GYE O PAK ME PAY TSEN TO NE
DE NI JANG CHUP NYING PO MA TOP BAR
BU ME MI KYE RIK NI SANG POR KYE
I prostrate to the protector Amitabha. Having heard the name of the buddha Amitabha, Until one reaches the essence of awakening, one will not be born as a woman without power. One will be born of good family.
con xin đảnh lễ đấng / Hộ Trì A Di Đà. / Ai được nghe hồng danh / của Phật A Di Đà, /
từ đấy cho đến khi / đạt tinh túy giác ngộ / sẽ không sinh thân nữ, / sinh vào nhà chánh tín, /

ཚེ་རབས་ཀུན་ཏུ་ཚུལ་ཁྲིམས་རྣམ་དག་འགྱུར། །
བདེ་གཤེགས་འོད་དཔག་མེད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
བདག་གི་ལུས་དང་ལོངས་སྤྱོད་དགེ་རྩར་བཅས། །
དངོས་སུ་འབྱོར་བའི་མཆོད་པ་ཅི་མཆིས་པ།
TSE RAP KUN TU TSUL TRIM NAM DAK GYUR
DE SEK O PAK ME LA CHAK TSAL LO
DAK GI LU DANG LONG CHO GE TSAR CHE
NGO SU JOR WAY CHO PA CHI CHI PA
In every birth one’s morality will be pure. I prostrate to the sugata Amitabha.
I offer my body, possessions and roots of virtue; whatever actually prepared offerings there are;
mỗi một kiếp tái sinh / giới hạnh luôn thanh tịnh: / con xin đảnh lễ đức / Thiện Thệ A Di Đà. / Xin hiến dâng thân mạng, / cùng tài sản, thiện căn, / hết thảy mọi cúng phẩm, / phẩm cụ thể bày biện, /

༄༅། ཡིད་སྤྲུལ་བཀྲ་ཤིས་རྫས་རྟགས་རིན་ཆེན་བདུན། །
གདོད་ནས་གྲུབ་པ་སྟོང་གསུམ་འཇིག་རྟེན་གྱི། །
གླིང་བཞི་རི་རབ་ཉི་ཟླ་བྱེ་བ་བརྒྱ། །
ལྷ་ཀླུ་མི་ཡི་ལོངས་སྤྱོད་ཐམས་ཅད་ཀུན། །
YI TRUL TA SHI DZE TAK RIN CHEN DUN
DO NE DRUP PA TONG SUM JIK TEN GYI
LING SHI RI RAP NYI DA JE WA GYA
LHA LU MI YI LONG CHO TAM CHE KUN
Mentally emanated auspicious substances and signs, and the seven jewels; the pre-existing billion worlds with their billion sets Of four continents, Mount Meru, the sun and the moon; and all the luxuries of devas, nagas and humans.
hay phẩm hiện trong tâm, / phẩm cát tường, thất bảo, / trọn tam thiên thế giới, / mỗi thế giới gồm đủ / núi Tu di, tứ châu / mặt trời và mặt trăng, / cùng hết thảy bảo vật / trong cõi trời, rồng, người, /

བློ་ཡིས་བླངས་ཏེ་འོད་དཔག་མེད་ལ་འབུལ། །
བདག་ལ་ཕན་ཕྱིར་ཐུགས་རྗེའི་སྟོབས་ཀྱིས་བཞེས། །
ཕ་མས་ཐོག་དྲངས་བདག་སོགས་འགྲོ་ཀུན་གྱི། །
ཐོག་མ་མེད་པའི་དུས་ནས་ད་ལྷའི་བར།
LO YI LANG TE O PAK ME LA BUL
DAK LA PEN CHIR TUK JEY TOP KYI SHE
PA MAY TOK DRANG DAK SOK DRO KUN GYI
TOK MA ME PAY DU NE DA TAY BAR
Bringing all these to mind, I offer them to Amitabha. For my benefit, accept them through your compassion. I confess all the wrongdoing I and all beings, my parents included, have done throughout beginningless time up to now,
tất cả hiện trong tâm, / dâng Phật A Di Đà, / kính xin Phật từ bi / vì con, nhận cúng phẩm. / Nguyện sám hối nghiệp chướng / của con cùng chúng sinh, / khắp đa sinh phụ mẫu, / đã phạm từ vô thủy / mãi cho đến bây giờ. /

༄༅། སྲོག་བཅད་མ་བྱིན་བླངས་དང་མི་ཚངས་སྤྱོད། །
ལུས་ཀྱི་མི་དགེ་གསུམ་པོ་མཐོལ་ལོ་བཤགས། །
རྫུན་དང་ཕྲ་མ་ཚིག་རྩབ་ངག་འཁྱལ་བ། །
ངག་གི་མི་དགེ་བཞི་པོ་མཐོལ་ལོ་བཤགས། །
SOK CHE MA JIN LANG DANG MI TSANG CHO
LU KYI MI GE SUM PO TOL LO SHAK
DZUN DANG TRA MA TSIK TSUP NGAK KHYAL WA
NGAK GI MI GE SHI PO TOL LO SHAK
Such as killing, stealing and fornication: I admit and confess the three wrongdoings of body. Lying, calumny, harsh words and gossip: I admit and confess the four wrongdoings of speech.
Lỗi sát sanh, trộm cướp, / cùng với lỗi tà dâm: / xin phát lộ sám hối / ba việc ác của thân. / Lỗi dối láo, hai lưỡi, / thô ác và tán gẫu: / xin phát lộ sám hối / bốn việc ác của khẩu. /

བརྣབ་སེམས་གནོད་སེམས་ལོག་པར་ལྟ་བ་སྟེ། །
ཡིད་ཀྱི་མི་དགེ་གསུམ་པོ་མཐོལ་ལོ་བཤགས། །
ཕ་མ་སློབ་དཔོན་དགྲ་བཅོམ་བསད་པ་དང་། །
རྒྱལ་བའི་སྐུ་ལ་ངན་སེམས་སྐྱེས་པ་དང་།
NAP SEM NO SEM LOK PAR TA WA TE
YI KYI MI GE SUM PO TOL LO SHAK
PA MA LOP PON DRA CHOM SE PA DANG
GYAL WAY KU LA NGEN SEM KYE PA DANG
Covetousness, malice and wrong views: I admit and confess the three wrongdoings of mind.The killing of one’s father, mother, acharya or an arhat and the shedding of a buddha’s blood with malicious intent:
Tham, ác ý, tà kiến: / xin phát lộ sám hối / ba việc ác của ý. / Vì ác mà sát hại / cha, mẹ, a xà lê / hay là a la hán, / làm chảy máu thân Phật: /

༄༅། མཚམས་མེད་ལྔ་ཡི་ལས་བསགས་མཐོལ་ལོ་བཤགས། །
དགེ་སློང་དགེ་ཚུལ་བསད་དང་བཙུན་མ་ཕབ། །
སྐུ་གཟུགས་མཆོད་རྟེན་ལྷ་ཁང་བཤིག་ལ་སོགས། །
ཉེ་བའི་མཚམས་མེད་སྡིག་བྱས་མཐོལ་ལོ་བཤགས། །
TSAM ME NGA YI LE SAK TOL LO SHAK
GE LONG GE TSUL SE DANG TSUN MA PAP
KU SUK CHO TEN LHA KHANG SHIK LA SOK
NYE WAY TSAM ME DIK CHE TOL LO SHAK
I admit and confess the five worst actions. Killing a bhikshu or shramanera, seducing a nun, And destroying images, stupas or temples: I admit and confess the nearly worst actions.
xin phát lộ, sám hối / trọn năm tội vô gián. /  Giết tỷ kheo, sa di, / khiến chư ni phá giới, /
hủy diệt hình, tháp, chùa: / xin phát lộ sám hối / mọi nghiệp cận vô gián. /

དཀོན་མཆོག་ལྷ་ཁང་གསུང་རབ་རྟེན་གསུམ་སོགས། །
དཔང་ཞེས་ཚད་བཙུགས་མནའ་ཟོས་ལ་སོགས་པ། །
ཆོས་སྤངས་ལས་ངན་བསགས་པ་མཐོལ་ལོ་བཤགས། །
ཁམས་གསུམ་སེམས་ཅན་བསད་ལས་སྡིག་ཆེ་བ།
KON CHOG LHA KHANG SUNG RAP TEN SUM SOK
PANG SHE TSE TSUK NA SO LA SOK PA
CHO PANG LE NGEN SAK PA TOL LO SHAK
KHAM SUM SEM CHEN SE LE DIK CHE WA
Swearing by the Three Jewels, temples, scriptures, or the three supports, and swearing by them falsely: I admit and confess the wrongdoing of rejecting Dharma. Worse than killing all beings in the three realms
Lấy Tam Bảo, chùa, kinh, / cùng với ba chỗ nương, / giả dối mang ra thề: / xin phát lộ sám hối, /  nghiệp từ bỏ chánh pháp. / Giết sạch hết chúng sinh / trong toàn khắp ba cõi, / nghiệp này vẫn chưa bằng /

༄༅། བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའ་རྣམས་ལ་སྐུར་བ་བཏབ། །
དོན་མེད་སྡིག་ཆེན་བསགས་པ་མཐོལ་ལོ་བཤགས། །
དགེ་བའི་ཕན་ཡོན་སྡིག་པའི་ཉེས་དམིགས་དང་། །
དམྱལ་བའི་སྡུག་བསྔལ་ཚེ་ཚད་ལ་སོགས་པ། །
JANG CHUP SEM PA NAM LA KUR WA TAP
DON ME DIK CHEN SAK PA TOL LO SHAK
GE WAY PEN YON DIK PAY NYE MIK DANG
NYAL WAY DUK NGEL TSE TSE LA SOK PA
Is the denigration of bodhisattvas: I admit and confess pointless great wrongdoing.
Thinking that the benefits of virtue, the harm from wrongdoing and the suffering and lifespan in hell
nghiệp phỉ báng bồ tát: / xin phát lộ sám hối / trọng nghiệp vô nghĩa này. / Lợi ích của thiện đức, / tai hại của nghiệp chướng, / khổ đau và thọ mạng / của chúng sinh địa ngục, /

ཐོས་ཀྱང་མི་བདེན་བཤད་ཚོད་ཡིན་བསམ་པ། །
མཚམས་མེད་ལྔ་བས་ཐུ་བའི་ལས་ངན་པ། །
ཐར་མེད་ལས་ངན་བསགས་པ་མཐོལ་ལོ་བཤགས། །
ཕམ་པ་བཞི་དང་ལྷག་མ་བཅུ་གསུམ་དང་།
TO KYANG MI DEN SHE TSO YIN SAM PA
TSAM ME NGA WE TU WAY LE NGEN PA
TAR ME LE NGEN SAK PA TOL LO SHAK
PAM PA SHI DANG LHAK MA CHU SUM DANG
Are untrue, mere sayings, is worse than the five worst actions: I admit and confess the wrongdoing from which it is hard to be freed. The four defeats, the thirteen remainders, the downfalls,
tất cả những việc này / mà nghĩ rằng không thật, / chỉ là lời nói suông, / ý nghĩ này tệ hơn / cả năm nghiệp vô gián: / xin phát lộ sám hối / ác nghiệp khó bỏ này. / Bốn đọa, mười ba sót / giới phá, giới phải sám, /

༄༅། སྤང་ལྟུང་སོར་བཤགས་ཉེས་བྱས་སྡེ་ཚན་ལྡ། །
སོ་ཐར་ཚུལ་ཁྲིམས་འཆལ་བ་མཐོལ་ལོ་བཤགས། །
ནག་པོའི་ཆོས་བཞི་ལྟུང་བ་ལྔ་ལྔ་བརྒྱད། །
བྱང་སེམས་བསླབ་པ་ཉམས་པ་མཐོལ་ལོ་བཤགས།
PANG TUNG SOR SHAK NYE CHE DE TSEN NGA
SO TAR TSUL TRIM CHAL WA TOL LO SHAK
NGAK POY CHO SHI TUNG WA NGA NGA GYE
JANG SEM LAP PA NYAM PA TOL LO SHAK
The confessables and the misdemeanors – the five classes: I admit and confess impairments of the pratimoksha morality. The four negativities; and the five, five and eight downfalls: I admit and confess impairments of the bodhisattva training.
và các giới phạm nhẹ / – đầy đủ cả năm bộ: / xin phát lộ sám hối / mọi phá phạm giới luật / ba la đề mộc xoa. / Bốn bất thiện, cùng với / năm, năm, tám đọa rơi [là 18 trọng giới]: / xin phát lộ sám hối / phá phạm giới bồ tát. /

རྩ་ལྟུང་བཅུ་བཞི་ཡན་ལག་སྦོམ་པོ་བརྒྱད། །
གསང་སྔགས་དམ་ཚིག་ཉམས་པ་མཐོལ་ལོ་བཤགས། །
སྡོམ་པ་མ་ཞུས་མི་དགེའི་ལས་བྱས་པ། །
མི་ཚངས་སྤྱོད་དང་ཆང་འཐུང་ལ་སོགས་པ།
TSA TUNG CHU SHI YEN LAK POM PO GYE
SANG NGAK DAM TSIK NYAM PA TOL LO SHAK
DOM PA MA SHU MI GEY LE CHE PA
MI TSANG CHO DANG CHANG TUNG LA SOK PA
The fourteen root downfalls and the eight major branches: I admit and confess impairments of secret mantra samaya. The wrongdoing done when not under vows, such as fornication and drinking alcohol,
Đủ mười bốn trọng giới / cùng với tám nhánh chính: / xin phát lộ sám hối / mọi phá phạm mật thệ / của giới luật kim cang. / Có những việc bất thiện / như tà dâm, rượu chè / cho dù không thọ giới, /

༄༅། རང་བཞིན་ཁ་ན་མ་ཐོའི་སྡིག་པ་སྟེ། །
སྡིག་པ་སྡིག་ཏུ་མ་ཤེས་མཐོལ་ལོ་བཤགས། །
སྐྱབས་སྡོམ་དབང་བསྐུར་ལ་སོགས་ཐོབ་ན་ཡང་། །
དེ་ཡི་སྡོམ་པ་དམ་ཚིག་བསྲུང་མ་ཤེས། །
RANG SHIN KHA NA MA TOY DIK PA TE
DIK PA DIK TU MA SHE TOL LO SHAK
KYAP DOM WANG KUR LA SOK TOP NA YANG
DE YI DOM PA DAM TSIK SUNG MA SHE
Actions that are naturally unwholesome: I admit and confess unwitting wrongdoing.
Although I have taken the vow of refuge and empowerments, I admit and confess downfalls of commitment through
tự nhiên vẫn bất thiện: / xin phát lộ sám hối / việc ác vô tình làm. / Sau khi thọ qui y / cùng với pháp quán đảnh, /  xin phát lộ sám hối / những phá phạm mật thệ, /

བཅས་པའི་ལྟུང་བ་ཕོག་པ་མཐོལ་ལོ་བཤགས། །
འགྱོད་པ་མེད་ན་བཤགས་པས་མི་འདག་པས། །
སྔར་བྱས་སྡིག་པ་ཁོང་དུ་དུག་སོང་ལྟར། །
ངོ་ཚ་འཇིགས་སྐྲག་འགྱོད་པ་ཆེན་པོས་བཤགས།
CHE PAY TUNG WA POK PA TOL LO SHAK
GYO PA ME NA SHAK PAY MI DAK PAY
NGAR CHE DIK PA KHONG DU DUK SONG TAR
NGO TSA JIK TRAK GYO PA CHEN POY SHAK
Not knowing how to keep the vows and samaya they entail. Without regret, confession will not purify. I confess all past wrongdoing with great shame, fear and regret, as though I had swallowed poison.
chỉ vì không hiểu rõ / cần phải giữ giới gì. / Nếu tâm không hối hận, / dù sám, nghiệp chẳng tịnh. / nay con xin phát lộ / hết thảy tội đã làm / với trọn lòng tàm quí, / sợ hãi và thống hối, / như uống phải thuốc độc. /

༄༅། ཕྱིན་ཆད་སྡོམ་སེམས་མེད་ན་མི་འདག་པས། །
ཕྱིན་ཆད་སྲོག་ལ་བབས་ཀྱང་མི་དགེའི་ལས། །
ད་ནས་མི་བགྱིད་སེམས་ལ་དམ་བཅའ་བཟུང་། །
བདེ་གཤེགས་འོད་དཔག་མེད་པ་སྲས་བཅས་ཀྱིས། །
CHIN CHE DOM SEM ME NA MI DAK PAY
CHIN CHE SOK LA BAP KYANG MI GEY LE
DA NE MI GYI SEM LA DAM CHA SUNG
DE SHEK O PAK ME PA SE CHE KYI
If there is no commitment henceforth, there will be no purification. From now onward, even at the risk of my life, I vow not to engage in wrongdoing. Sugata Amitabha and your bodhisattvas,
Nếu không hạ quyết tâm, / chẳng thể tịnh ác nghiệp. / Từ nay, dù mất mạng / nguyện không còn tái phạm. / Xin thành tâm khẩn nguyện / Thiện thệ A Di Đà, /  cùng thánh chúng bồ tát. /

བདག་རྒྱུད་ཡོངས་སུ་དག་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས། །
གཞན་གྱིས་དགེ་བ་བྱེད་པ་ཐོས་པའི་ཚེ། །
དེ་ལ་ཕྲག་དོག་མི་དགེའི་སེམས་སྤངས་ནས། །
སྙིང་ནས་དགའ་བས་རྗེས་སུ་ཡི་རང་ན།
DAK GYU YONG SU DAK PAR JIN GYI LOP
SHEN GYI GE WA CHE PA TO PAY TSE
DE LA TRAK DOK MI GEY SEM PANG NE
NYING NE GA WAY JE SU YI RANG NA
Grant your blessings that my being may be purified. If, when one hears of another’s virtue, One is without the negativity of jealousy and rejoices from one’s heart,
xin hộ trì cho con / tịnh sạch dòng tâm thức. /  Thấy việc tốt của người / tâm đừng khởi ganh ghen / nghe vui tận đáy lòng, /

༄༅། དེ་ཡི་བསོད་ནམས་མཉམ་དུ་ཐོབ་པར་གསུངས། །
དེ་ཕྱིར་འཕགས་པ་རྣམས་དང་སོ་སྐྱེ་ཡིས། །
དགེ་བ་གང་བསྒྲུབས་ཀུན་ལ་ཡི་རང་ངོ་། །
བླ་མེད་བྱང་ཆུབ་མཆོག་ཏུ་སེམས་བསྐྱེད་ནས། །
DE YI SO NAM NYAM DU TOP PAR SUNG
DE CHIR PAK PA NAM DANG SO KYE YI
GE WA GANG DRUP KUN LA YI RANG NGO
LA ME JANG CHUP CHOK TU SEM KYE NE
It is said that one will gain equal merit. I therefore rejoice in all the virtuous deeds Of aryas and ordinary beings. I rejoice in their generation of bodhicitta
thì công đức có được / sẽ ngang bằng như nhau. / Vậy con xin vui cùng / hết thảy mọi thiện hạnh / của thánh giả, phàm phu. / Vui cùng mọi công đức / phát khởi tâm bồ đề /

འགྲོ་དོན་རྒྱ་ཆེན་མཛད་ལ་ཡི་རང་ངོ་། །
མི་དགེ་བཅུ་པོ་སྤངས་པ་དགེ་བ་བཅུ། །
གཞན་གྱི་སྲོག་བསྐྱབ་སྦྱིན་པ་གཏོང་བ་དང་། །
སྡོམ་པ་སྲུང་ཞིང་བདེན་པར་སྨྲ་བ་དང་།
DRO DON GYA CHEN DZE LA YI RANG NGO
MI GE CHU PO PANG PA GE WA CHU
SHEN GYI SOK KYAB JIN PA TONG WA DANG
DOM PA SUNG SHING DEN PAR MA WA DANG
And their vast benefit for beings. The ten virtues that are the opposites of the ten wrongdoings – Saving others’ lives, giving generously, chastity, speaking truthfully,
và lợi ích chúng sinh; / công đức lánh thập ác, / công đức hành thập thiện: / cứu sinh mạng hữu tình / bố thí, giữ phạm hạnh, / luôn nói lời chân thật, /

༄༅། འཁོན་པ་བསྡུམ་དང་ཞི་དུལ་དྲང་པོར་སྨྲ། །
དོན་དང་ལྡན་པའི་གཏམ་བརྗོད་འདོད་པ་ཆུང་། །
བྱམས་དང་སྙིང་རྗེ་སྒོམ་ཞིང་ཆོས་ལ་སྤྱོད། །
དགེ་བ་དེ་རྣམས་ཀུན་ལ་ཡི་རང་ངོ་། །
KHON PA DUM DANG SHI DUL DRANG POR MA
DON DANG DEN PAY TAM CHO DO PA CHUNG
JAM DANG NYING JE GOM SHING CHO LA CHO
GE WA DE NAM KUN LA YI RAN NGO
Healing discord, speaking gently and straightforwardly, conversing meaningfully, having little desire, Cultivating love and compassion, and practising Dharma: I rejoice in those virtuous actions.
hàn gắn mọi xung đột, / thẳng thắng và ôn hòa, / nói lời có ý nghĩa, / giảm thiểu lòng ham muốn, / thuần dưỡng tâm từ bi, / chuyên tâm tu chánh pháp: / xin tùy hỉ hết thảy / những việc tốt lành này. /

ཕྱོགས་བཅུའི་འཇིག་རྟེན་རབ་འབྱམས་ཐམས་ཅད་ན། །
རྫོགས་སངས་རྒྱསནས་རིང་པོར་མ་ལོན་པར། །
དེ་དག་རྣམས་ལ་ཆོས་ཀྱི་འཁོར་ལོ་ནི། །
རྒྱ་ཆེན་མྱུར་དུ་བསྐོར་བར་བདག་གིས་བསྐུལ།
CHOK CHUY JIK TEN RAP JAM TAM CHE NA
DZOK SANG GYE NE RING POR MA LON PAR
DE DAK NAM LA CHO KYI KHOR LO NI
GYA CHEN NYUR DU KOR WAR DAK GI KUL
All you who have recently attained perfect buddhahood in any of the Numberless realms in the ten directions: I urge you to soon turn the vast dharmachakra.
Trong vô lượng quốc độ / ở khắp cả mười phương / có được bao nhiêu đấng / vừa thành tựu quả Phật: / con khẩn cầu chư vị / sớm chuyển đẩy pháp luân. /

༄༅། མངོན་ཤེས་ཐུགས་ཀྱིས་དེ་དོན་མཁྱེན་པར་གསོལ། །
སངས་རྒྱས་བྱང་སེམས་བསྟན་འཛིན་དགེ་བའི་བཤེས། །
མྱ་ངན་འདའ་བར་བཞེད་ཀུན་དེ་དག་ལ། །
མྱ་ངན་མི་འདའ་བཞུགས་པར་གསོལ་བ་འདེབས། །
NGO SHE TUK KYI DE DON KHYEN PA SOL
SANG GYE JANG SEM TEN DZIN GE WAY SHE
NYA NGEN DA WAR SHE KUN DE DAK LA
NYA NGEN MI DA SHUK PAR SOL WA DEP
I pray that you hear me with your clairvoyance. All buddhas, bodhisattvas, holders of Dharma, And spiritual friends who wish to pass into nirvana: I pray that you do not do so, but remain.
Xin vận dụng thần lực / thấu cho lời nguyện này. /  Chư Phật đà, bồ tát / chư trì pháp, pháp hữu, / nếu muốn hiện niết bàn / thì con xin chắp tay / thỉnh chư vị đừng vội, / nán lại cùng chúng con. /

འདིས་མཚོན་བདག་གི་དུས་གསུམ་དགེ་བ་རྣམས། །
འགྲོ་བ་སེམས་ཅན་ཀུན་གྱི་དོན་དུ་བསྔོ། །
ཀུན་ཀྱང་བླ་མེད་བྱང་ཆུབ་མྱུར་ཐོབ་ནས། །
ཁམས་གསུམ་འཁོར་བ་དོང་ནས་སྤྲུགས་གྱུར་ཅིག
DI TSON DAK GI DU SUM GE WA NAM
DRO WA SEM CHEN KUN GYI DON DU NGO
KUN KYANG LA ME JANG CHUP NYUR TOP NE
KHAM SUM KHOR WA SONG NE TRUK GYUR CHIK
I dedicate this and all my virtue of the three times to the benefit of all beings. May they all Quickly attain unsurpassable awakening and empty samsara’s three realms from their depths.
Bao nhiêu công đức này, / cùng ba thời công đức, / con nguyện mang ra hết, / hồi hướng khắp chúng sinh, / nguyện chúng sinh sớm đạt / quả vô thượng bồ đề, /
đáy luân hồi ba cõi / nguyện vắng không còn ai. /

༄༅། དེ་ཡི་དགེ་བ་བདག་ལ་མྱུར་སྨིན་ནས། །
ཚེ་འདིར་དུས་མིན་འཆི་བ་བཅོ་བརྒྱད་ཞི། །
ནད་མེད་ལང་ཚོ་རྒྱས་པའི་ལུས་སྟོབས་ལྡན། །
དཔལ་འབྱོར་འཛད་མེད་དབྱར་གྱི་གངྒཱ་ལྟར། །
DE YI GE WA DAK LA NYUR MIN NE
TSE DIR DU MIN CHI WA CHO GYE SHI
NE ME LANG TSO GYE PAY LU TOP DEN
PAL JOR DZE ME YAR GYI GAN GA TAR
May this virtue quickly ripen in me. In this life, may the eighteen untimely deaths be prevented. May I be healthy and as vigorous as a youth. May my wealth be as inexhaustible as the Ganges in summer.
Nguyện thiện đức mau chóng / chín mùi ở nơi con, / nguyện giải trừ hết thảy / mười tám chết phi thời, / nguyện sức khỏe dồi dào, / cường tráng như tuổi trẻ, / nguyện tài sản bất tận / như sông Hằng mùa hạ. /

བདུད་དགྲའི་འཚེ་བ་མེད་ཅིང་དམ་ཆོས་སྤྱོད། །
བསམ་པའི་དོན་ཀུན་ཆོས་ལྡན་ཡིད་བཞིན་འགྲུབ། །
བསྟན་དང་འགྲོ་ལ་ཕན་ཐོབས་རྒྱ་ཆེན་འགྲུབ། །
མི་ལུས་དོན་དང་ལྡན་པར་འགྲུབ་པར་ཤོག
DU DRAY TSE WA ME CHING DAM CHO CHO
SAM PAY DON KUN CHO DEN YI SHIN DRUP
TEN DANG DRO LA PEN TOK GYA CHEN DRUP
MI LU DON DANG DEN PAR DRUP PAR SHOK
Unharmed by maras or enemies, may I practice genuine Dharma. May all my wishes be fulfilled in accord with Dharma and my intentions.May I accomplish vast benefit for Dharma and beings. May my human body be meaningful.
Nguyện ma vương, kẻ thù / không thể nào quấy phá. / Nguyện tu theo diệu pháp. / Nguyện thỏa mọi ước mong / thuận chánh pháp, tâm ý. / Nguyện viên thành lợi ích / cho Phật pháp, chúng sinh. / Nguyện thân người này đây / trở nên thật xứng đáng. /

༄༅། བདག་དང་བདག་ལ་འབྲེལ་ཐོགས་ཀུན། །
འདི་ནས་ཚེ་འཕོས་གྱུར་མ་ཐག །
སྤྲུལ་པའི་སངས་རྒྱས་འོད་དཔག་མེད། །
དགེ་སློང་དགེ་འདུན་འཁོར་གྱིས་བསྐོར། །
DAK DANG DAK LA DREL TOK KUN
DI NE TSE PO GYUR MA TAK
TRUL PE SANG GYE O PAK ME
GE LONG GEN DUN KHOR GYI KOR
May I and all connected to me, as soon as we pass from this life, Actually see in front of us the emanated buddha Amitabha
Nguyện con cùng những ai / có duyên nghiệp với con / vừa lìa bỏ đời này / tức thì ngay trước mắt / Phật Di Đà hiện ra. /

མདུན་དུ་མངོན་སུམ་འབྱོན་པར་ཤོག །
དེ་མཐོང་ཡིད་དགའ་སྣང་བ་སྐྱིད། །
ཤི་བའི་སྡུག་བསྔལ་མེད་པར་ཤོག །
བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའ་མཆེད་བརྒྱད་ནི།
DUN DU NGON SUM JON PAR SHOK
DE TONG YI GA NANG WA KYI
SHI WAY DUK NGEL ME PAR SHOK
JANG CHUP SEM PA CHE GYE NI
Surrounded by his Sangha of bodhisattvas. Seeing them, may we feel joy. May we be without suffering at death. May the eight bodhisattvas
cùng chúng tăng bồ tát. / Thấy rồi, lòng mừng vui, / nguyện bước qua cửa tử / không một chút đớn đau. / Nguyện tám đại bồ tát, /

༄༅། རྫུ་འཕྲུལ་སྟོབས་ཀྱིས་ནམ་མཁར་བྱོན། །
བདེ་བ་ཅན་དུ་འགྲོ་བ་ཡི། །
ལམ་སྟོན་ལམ་སྣ་འདྲེན་པར་ཤོག །
ངན་སོང་སྡུག་བསྔལ་བཟོད་བླག་མེད། །
DZU TRUL TOP KYI NAM KHAR JON
DE WA CHEN DU DRO WA YI
LAM TON LAM NA DREN PAR SHOK
NGEN SONG DUK NGEL SO LAK ME
Appear miraculously in the sky. May they show me the way And lead me to Sukhavati. The suffering in lower states is unbearable.
nhiệm mầu hiện trên không / và tiếp dẫn cho con / về Tây Phương Cực Lạc. / Khổ đau cảnh ác đạo / thật không thể nào kham, /

ལྷ་མིའི་བདེ་སྐྱིད་མི་རྟག་འགྱུར། །
དེ་ལ་སྐྲག་སེམས་སྐྱེ་བར་ཤོག །
ཐོག་མ་མེད་ནས་ད་ལྟའི་བར། །
འཁོར་བ་འདི་ན་ཡུན་རེ་རིང་།
LHA MIY DE KYI MI TAK GYUR
DE LA TRAK SEM KYE WAR SHOK
TOK MA ME NE DA TAY BAR
KHOR WA DI NA YUN RE RING
The pleasures of devas and humans are impermanent. May I be afraid of this. Throughout beginningless time up to now, samsara has lasted for a very long time.
lạc thú cảnh trời, người / đều là cảnh vô thường. / Nguyện con thấy sợ hãi. / Từ vô thủy sinh tử / cho đến tận bây giờ / luân hồi mãi trường tồn, /

༄༅། དེ་ལ་སྐྱོ་བ་སྐྱེ་བར་ཤོག །
མི་ནས་མི་རུ་སྐྱེ་ཆོག་ཀྱང་། །
སྐྱེ་རྒ་ན་འཆི་གྲངས་མེད་མྱོང་། །
དུས་ངན་སྙིགས་མར་བར་ཆད་མང་། །
DE LA KYO WA KYE WAR SHOK
MI NE MI RU KYE CHOK KYANG
KYE GA NA CHI DRANG ME NYONG
DU NGEN NYIK MAR BAR CHE MANG
May I feel sorrow about this. I might be born repeatedly as a human being, but I would Experience birth, aging, sickness and death countless times. There are many obstacles in this degenerate time.
nguyện con thấy chán ngán. / Cho dù luôn làm người / thì cũng vẫn phải chịu / khổ sinh lão bệnh tử, / triền miên không kể xiết. / Vào thời mạt pháp này / thật quá nhiều chướng duyên, /

མི་དང་ལྷ་ཡི་བདེ་སྐྱིད་འདི། །
དུག་དང་འདྲེས་པའི་ཟས་བཞིན་དུ། །
འདོད་པ་སྤུ་ཙམ་མེད་པར་ཤོག །
ཉེ་དུ་ཟས་ནོར་མཐུན་གྲོགས་རྣམས།
MI DANG LHA YI DE KYI DI
DUK DANG DRE PAY SE SHIN DU
DO PA PU TSAM ME PAR SHOK
NYE DU SE NOR TUN DROK NAM
The pleasures of humans and devas are like food mixed with poison. May I have not so much as a hair’s worth of desire for them. My family, food, wealth and friends
lạc thú cõi người, trời / như cơm trộn thuốc độc: / nguyện cho mọi tham ái / dù mỏng như sợi tóc / cũng tuyệt dứt không còn. / Gia đình và thực phẩm / tài sản cùng bằng hữu, /

༄༅། མི་རྟག་སྒྱུ་མ་རྨི་ལམ་བཞིན། །
ཆགས་ཞེན་སྤུ་ཙམ་མེད་པར་ཤོག །
ས་ཆ་ཡུལ་རིས་ཁང་ཁྱིམ་རྣམས། །
རྨི་ལམ་ཡུལ་གྱི་ཁང་ཁྱིམ་ལྟར། །
MI TAK GYU MA MI LAM SHIN
CHAK SHEN PU TSAM ME PAR SHOK
SA CHA YUL RI KHANG KHYIM NAM
MI LAM YUL GYI KHANG KHYIM TAR
Are impermanent, like illusions or dreams. May I have not so much as a hair’s worth of attachment to them. My land, my vicinity and my home are just like one’s home in a dream.
vô thường như huyễn, mộng. / Nguyện cho mọi chấp luyến / dù mỏng như sợi tóc / cũng tuyệt đứt không còn. / Quốc, hương, gia, đều như / căn nhà trong giấc mộng, /

བདེན་པར་མ་གྲུབ་ཤེས་པར་ཤོག །
ཐར་མེད་འཁོར་བའི་རྒྱ་མཚོ་ནས། །
ཉེས་ཆེན་བཙོན་ནས་ཐར་པ་བཞིན། །
བདེ་བ་ཅན་གྱི་ཞིང་ཁམས་སུ།
DEN PAR MA DRUP SHE PAR SHOK
TAR ME KHOR WAY GYA TSO NE
NYE CHEN TSON NE TAR PA SHIN
DE WA CHEN GYI SHING KHAM SU
May I know them to be unreal. May I flee the ocean of samsara, from which it is so hard to get free, Like a felon escaping from prison. May I flee to the realm of Sukhavati
nguyện con biết nhìn thấy / hết thảy đều không thật. / Nguyện cho con vượt thoát / biển luân hồi khó vượt, / Như tù nhân vượt ngục / nguyện con vượt sinh tử / đến Tây Phương Cực lạc, /

༄༅། ཕྱི་ལྟས་མེད་པར་འབྲོས་པར་ཤོག །
ཆགས་ཞེན་འཁྲི་བ་ཀུན་བཅད་ནས། །
བྱ་རྒོད་རྙི་ནས་ཐར་བ་བཞིན། །
ནུབ་ཀྱི་ཕྱོགས་ཀྱི་ནམ་མཁའ་ལ། །
CHI TE ME PAR DRO PAR SHOK
CHAK SHEN TRI WA KUN CHE NE
JA GO NYI NE TAR WA SHIN
NUP KYI CHOK KYI NAM KHA LA
Without looking back. Having severed all craving and clinging, May I fly through the western sky like a vulture freed from a snare,
nhất quyết chẳng quay đầu. / Đoạn lìa mọi ái, thủ, / nguyện bay vào trời Tây / như chim kên thoát bẫy, /

འཇིག་རྟེན་ཁམས་ནི་གྲངས་མེད་པ། །
སྐད་ཅིག་ཡུད་ལ་བགྲོད་བྱས་ནས། །
བདེ་བ་ཅན་དུ་ཕྱིན་པར་ཤོག །
དེ་རུ་སངས་རྒྱས་འོད་དཔག་མེད།
JIK TEN KHAM NI DRANG ME PA
KE CHIK YU LA DRO CHE NE
DE WA CHEN DU CHIN PAR SHOK
DE RU SANG GYE O PAK ME
Passing countless worlds in an instant, And reach Sukhavati. May I see the face of Amitabha,
chỉ trong một phút giây / vượt muôn trùng cõi thế, / đến tịnh độ Cực Lạc. / Nguyện thấy được dung nhan / của Phật A Di Đà, /

༄༅། མངོན་སུམ་བཞུགས་པའི་ཞལ་མཐོང་ནས། །
སྒྲིབ་པ་ཐམས་ཅད་དག་པར་ཤོག །
སྐྱེ་གནས་བཞི་ཡི་མཆོག་གྱུར་པ། །
མེ་ཏོག་པདྨའི་སྙིང་པོ་ལ། །
NGON SUM SHUK PAY SHAL TONG NE
DRIP PA TAM CHE DAK PAR SHOK
KYE NE SHI YI CHOK GYUR PA
ME TOK PE MAY NYING PO LA
Who is actually present there. May all my obscurations be purified.
The best of the four births is instantaneous birth in the heart of a lotus flower.
thật sự đang ở đó. / Nguyện che chướng trong con / hết thảy đều thanh tịnh. / Xét trong bốn loại sinh, / thù thắng nhất vẫn là / sinh từ giữa lòng sen. /

བརྫུས་ཏེ་སྐྱེ་བ་ལེན་པར་ཤོག །
སྐད་ཅིག་ཉིད་ལ་ལུས་རྫོགས་ནས། །
མཚན་དཔེ་ལྡན་པའི་ལུས་ཐོབ་ཤོག །
མི་སྐྱེ་དྭོགས་པའི་ཐེ་ཚོམ་གྱིས།
DZU TE KYE WA LEN PAR SHOK
KE CHIK NYI LA LU DZOK NE
TSEN PE DEN PAY LU TOP SHOK
MI KYE DOK PAY TE TSOM GYI
May I take such a birth. My body complete in an instant, May it have the marks and signs. Doubt as to whether or not I will be born there
Nguyện vãng sinh như vậy, / thân tức thì đầy đủ, / hết thảy tướng chánh, phụ. / Nếu tâm còn chưa chắc / có vãng sanh được chăng, /

༄༅། ལོ་གྲངས་ལྔ་བརྒྱའི་བར་དག་ཏུ། །
ནང་དེར་བདེ་སྐྱིད་ལོངས་སྤྱོད་ལྡན། །
སངས་རྒྱས་གསུང་ནི་ཐོས་ན་ཡང་། །
མེ་ཏོག་ཁ་ནི་མི་བྱེ་བས། །
LO DRANG NGA GYAY BAR DAK TU
NANG DER DE KYI LONG CHO DEN
SANG GYE SUNG NI TO NA YANG
ME TOK KHA NI MA CHE WAY
Would cause me to remain in the lotus for five hundred years. I would be happy and comfortable And would hear the Buddha’s speech, but because of the flower not opening
hoài nghi này sẽ khiến / con kẹt giữa lòng sen / trong suốt năm trăm năm. / Nụ sen vẫn êm ái, / vẫn yên vui thoải mái, / vẫn nghe được tiếng Phật / nhưng vì sen không nở, /

སངས་རྒྱས་ཞལ་མཇལ་ཕྱི་བའི་སྐྱོན། །
དེ་འདྲ་བདག་ལ་མི་འབྱུང་ཤོག །
སྐྱེས་མ་ཐག་ཏུ་མེ་ཏོག་བྱེ། །
འོད་དཔག་མེད་པའི་ཞལ་མཐོང་ཤོག
SANG GYE SHAL JAL CHI WAY KYON
DE DRA DAK LA MI JUNG SHOK
KYE MA TAK TU ME TOK CHE
O PAK ME PAY SHAL TONG SHOK
My seeing the Buddha’s face would be delayed. May that not happen to me. As soon as I am born, may my flower open. May I see Amitabha’s face.
nên chậm thấy dung nhan / của đức Phật Di Đà. / Nguyện không vướng cảnh này, / nguyện khi vừa vãng sanh, / cánh sen liền rộ nở / cho con thấy khuôn mặt /  đức Di Đà Từ Tôn. /

༄༅། བསོད་ནམས་སྟོབས་དང་རྫུ་འཕྲུལ་གྱིས། །
ལག་པའི་མཐིལ་ནས་མཆོད་པའི་སྤྲིན། །
བསམ་མི་ཁྱབ་པར་སྤྲོས་བྱས་ནས། །
སངས་རྒྱས་འཁོར་བཅས་མཆོད་པར་ཤོག །
SO NAM TOP DANG DZU TRUL GYI
LAK PAY TIL NE CHO PAY TRIN
SAM MI KHYAB PAR TRO CHE NE
SANG GYE KHOR CHE CHO PAR SHOK
Through merit and miraculous powers, may vast clouds of offerings Emanate from my palms, may I present them to the Buddha and his entourage.
Nương công đức, thần lực / nguyện biển mây cúng dường / từ tay con xuất ra / dâng lên cho đức Phật / cùng thánh chúng tùy tùng. /

དེ་ཚེ་དེ་བཞིན་གཤེགས་པ་དེས། །
ཕྱག་གཡས་བརྐྱངས་ནས་མགོ་ལ་བཞག །
བྱང་ཆུབ་ལུང་བསྟན་ཐོབ་པར་ཤོག །
ཟབ་དང་རྒྱ་ཆེའི་ཆོས་ཐོས་ནས།
DE TSE DE SHIN SHEK PA DEY
CHAK YE KYANG NE GO LA SHAK
JANG CHUP LUNG TEN TOP PAR SHOK
SAP DANG GYA CHEY CHO TO NE
At that time, may that tathagata extend his right hand and place it on my head. May I receive prophecy of my awakening, having heard profound and vast Dharma,
Khi ấy, nguyện Như Lai / đưa ra bàn tay phải / đặt trên đỉnh đầu con. / Được thọ ký thành Phật / nghe chánh pháp quảng thâm, /

༄༅། རང་རྒྱུད་སྨིན་ཅིང་གྲོལ་བར་ཤོག །
སྤྱན་རས་གཟིགས་དང་མཐུ་ཆེན་ཐོབ། །
རྒྱལ་སྲས་ཐུ་བོ་རྣམ་གཉིས་ཀྱིས། །
བྱིན་གྱིས་བརླབས་ཤིང་རྗེས་བཟུང་ཤོག །
RANG GYU MIN CHING DROL WAR SHOK
CHEN RE SIK DANG TU CHEN TOP
GYAL SE TU WO NAM NYI KYI
JIN GYI LAP SHING JE SUNG SHOK
May my being be ripened and liberated. May I be bless ed and cared for by The two foremost bodhisattvas, Avalokita and Vajrapani.
nguyện thành thục, giải thoát, / lại được hai bồ tát / là đức Quan Thế Âm / và đức Kim Cang Thủ / cùng hộ niệm, giữ gìn. /

ཉིན་རེ་བཞིན་དུ་ཕྱོགས་བཅུ་ཡི། །
སངས་རྒྱས་བྱང་སེམས་དཔག་མེད་པ། །
འོད་དཔག་མེད་པ་མཆོད་པ་དང་། །
ཞིང་དེར་བལྟ་ཕྱིར་འབྱོན་པའི་ཚེ།
NYIN RE SHIN DU CHOK CHU YI
SANG GYE JANG SEM PAK ME PA
O PAK ME PA CHO PA DANG
SHING DER TA CHIR JON PAY TSE
Every day, innumerable buddhas and bodhisattvas gather from the ten directions in order to Present offerings to Amitabha and view that realm. At that time,
Mỗi ngày đều luôn có / vô lượng Phật, bồ tát / từ mười phương cùng về / hiến cúng đức Di Đà, / chiêm bái cõi tịnh độ. /

༄༅། དེ་དག་ཀུན་ལ་བསྙེན་བཀུར་ཞིང་། །
ཆོས་ཀྱི་བདུད་རྩི་ཐོབ་པར་ཤོག །
རྫུ་འཕྲུལ་ཐོགས་པ་མེད་པ་ཡིས། །
མངོན་དགའི་ཞིང་དང་དཔལ་ལྡན་ཞིང་། །
DE DAK KUN LA NYEN KUR SHING
CHO KYI DU TSI TOP PAR SHOK
DZU TRUL TOK PA ME PA YI
NGON GAY SHING DANG PAL DEN SHING
May I attend them and receive the amrita of Dharma. With unimpeded miraculous powers, may I go to the realms of Joyous, Glorious,
Khi ấy, nguyện có con / thọ cam lồ chánh pháp. / Nguyện cho con du hành / bằng thần lực vô ngại, / đến các cõi tịnh độ: / cõi Đông Phương Điều Hỉ / cõi Tây Phương Rực Rỡ, /

ལས་རབ་རྫོགས་དང་སྟུག་པོ་བཀོད། །
སྔ་དྲོ་དེ་དག་རྣམས་སུ་འགྲོ། །
མི་བསྐྱོད་རིན་འབྱུང་དོན་ཡོད་གྲུབ། །
རྣམ་སྣང་ལ་སོགས་སངས་རྒྱས་ལ།
LE RAP DZOK DANG TUK PO KO
NGA TRO DE DAK NAM SU DRO
MI KYO RIN JUNG DON YO DRUP
NAM NANG LA SOK SANG GYE LA
Perfect Action, and Densely Arrayed. Going there in the morning, may I receive Empowerment, blessings and vows from Akshobhya, Ratnasambhava, Amoghasiddhi,
Cõi Bắc Phương Viên Hạnh / cõi Trung Phương Mật Nghiêm. / Buổi sáng thọ quán đảnh, / gia trì và mật thệ, / từ đức Phật Bất Động / từ đức Phật Bảo Sanh, / Phật Bất Không Thành Tựu, /

༄༅། དབང་དང་བྱིན་རླབས་སྡོམ་པ་ཞུ། །
མཆོད་པ་དུ་མས་མཆོད་བྱས་ནས། །
དགོང་མོ་བདེ་བ་ཅན་ཉིད་དུ། །
དཀའ་ཚེགས་མེད་པར་སླེབ་པར་ཤོག །
WANG DANG JIN LAP DOM PA SHU
CHO PA DU MAY CHO CHE NE
GONG MO DE WA CHEN NYI DU
KA TSEK ME PAR LEP PAR SHOK
Vairochana and other buddhas. Having presented many offerings, May I return without difficulty to Sukhavati in the evening.
Phật Tì Lô Xá Na, / cùng với chư Phật khác, / dâng phẩm vật phong phú, / cho đến buổi xế chiều / nguyện tự tại trở về / cõi Tây Phương Cực Lạc. /

པོ་ཊ་ལ་དང་ལྕང་ལོ་ཅན། །
རྔ་ཡབ་གླིང་དང་ཨོ་རྒྱན་ཡུལ། །
སྤྲུལ་སྐུའི་ཞིང་ཁམས་བྱེ་བ་བརྒྱར། །
སྤྱན་རས་གཟིགས་དང་སྒྲོལ་མ་དང་།
PO TA LA DANG CHANG LO CHEN
NGA YAP LING DANG OR GYEN YUL
TRUL KUY SHING KHAM CHE WA GYAR
CHEN RE SIK DANG DROL MA DANG
In Potala, Alakavati, Chamaradvipa and Uddiyana; In a billion nirmanakaya realms, may I meet a billion Avalokites, Taras,
Tại điện Pô-ta-la, / À-la-ka-va-tí, / Cha-ma-rát-vi-pa / và U-đi-ya-na, / mười vạn ức quốc độ, / trong khắp cõi báo thân, / nguyện con được diện kiến / vạn ức Quan Thế Âm, /
Ta-ra, Kim Cang Thủ, /

༄༅། ཕྱག་རྡོར་པད་འབྱུང་བྱེ་བ་བརྒྱ། །
མཇལ་ཞིང་མཆོད་པ་རྒྱ་མཚོས་མཆོད། །
དབང་དང་གདམས་ངག་ཟབ་མོ་ཞུ། །
མྱུར་དུ་རང་གནས་བདེ་ཆེན་ཞིང་། །
CHAK DOR PE JUNG CHE WA GYA
JAL SHING CHO PA GYA TSO CHO
WANG DANG DAM NGAK SAP MO SHU
NYUR DU RANG NE DE CHEN SHING
Vajrapanis and Padmakaras. May I present oceans of offerings to them And receive empowerments and profound instructions. May I quickly then return unimpeded
cùng đức Liên Hoa Sanh. / Cả biển rộng cúng phẩm / con nguyện dâng hiến hết, /  và thọ pháp quán đảnh, / thọ khai thị thâm sâu. / Mau chóng, không ngăn ngại, /

ཐོགས་པ་མེད་པར་ཕྱིན་པར་ཤོག །
ཤུལ་གྱི་ཉེ་དུ་གྲྭ་སློབ་སོགས། །
ལྷ་ཡི་མིག་གིས་གསལ་བར་མཐོང་། །
སྲུང་སྐྱོབ་བྱིན་གྱིས་རློབ་བྱེད་ཅིང་།
TOK PA ME PAR CHIN PAR SHOK
SHUL GYI NYE DU DRA LOP SOK
LHA YI MIK GI SAL WAR TONG
SUNG KYOP JIN GYI LOP CHE CHING
To my own residence in Sukhavati. May I see with the divine eye My surviving family, monks and disciples. May I protect and bless them
trở về lại trú xứ / cõi Cực Lạc Tây Phương. / Nguyện vận dụng thần nhãn / nhìn người thân ở lại, / tăng ni cùng đệ tử, / nguyện hộ trì tất cả. /

༄༅། འཆི་དུས་ཞིང་དེར་ཁྲིད་པར་ཤོག །
བསྐལ་བཟང་འདི་ཡི་བསྐལ་པའི་ཡུན། །
བདེ་བ་ཅན་གྱི་ཞག་གཅིག་སྟེ། །
བསྐལ་པ་གྲངས་མེད་འཆི་བ་མེད།
CHI DU SHING DER TRI PAR SHOK
KAL SANG DI YI KAL PAY YUN
DE WA CHEN GYI SHAK CHIK TE
KAL PA DRANG ME CHI WA ME
And lead them to that realm at death. The duration of this fortunate kalpa Is one day in Sukhavati. Throughout countless kalpas, there is no death.
đến khi họ mạng chung, / nguyện đưa về Cực Lạc. / Cả thời Hiền kiếp này / chỉ dài bằng một ngày / trong cõi Phật Cực Lạc. / Cả vô lượng đại kiếp / không hề có cái chết. /

རྟག་ཏུ་ཞིང་དེ་འཛིན་པར་ཤོག །
བྱམས་པ་ནས་བཟུང་མོས་པའི་བར། །
བསྐལ་བཟང་འདི་ཡི་སངས་རྒྱས་རྣམས། །
འཇིག་རྟེན་འདི་ན་ནམ་འབྱོན་ཚེ།
TAK TU SHING DE DZIN PAR SHOK
JAM PA NE SUNG MO PAY BAR
KAL SANG DI YI SANG GYE NAM
JIK TEN DI NA NAM JON TSE
May I always remain in that realm. From Maitreya up to Rochana, When all the buddhas of this fortunate kalpa come to this world,
Nguyện con luôn ở lại / trong cõi Cực Lạc này. / Kể từ đức Di Lạc / cho đến đức Lưu Chí / chư Phật thời Hiền kiếp / sẽ lần lượt xuất thế. / 

༄༅། རྫུ་འཕྲུལ་སྟོབས་ཀྱིས་འདིར་འོངས་ནས། །
སངས་རྒྱས་མཆོད་ཅིང་དམ་ཆོས་ཉན། །
སླར་ཡང་བདེ་ཆེན་ཞིང་ཁམས་སུ། །
ཐོགས་པ་མེད་པར་འགྲོ་བར་ཤོག །
DZU TRUL TOP KYI DIR ONG NE
SANG GYE CHO CHING DAM CHO NYEN
LAR YANG DE CHEN SHING KHAM SU
TOK PA ME PAR DRO WAR SHOK
May I come here with miraculous powers, present offerings to those buddhas, Listen to the genuine Dharma, and return unimpeded.
khi ấy, nguyện cho con / vận dụng thần lực mình / để cúng dường chư Phật, / và lắng nghe chánh pháp, / rồi trở về Cực Lạc / ung dung, không ngăn ngại. /

སངས་རྒྱས་བྱེ་བ་ཁྲག་ཁྲིག་བརྒྱ་སྟོང་ཕྲག །
བརྒྱད་ཅུ་རྩ་གཅིག་སངས་རྒྱས་ཞིང་ཀུན་གྱི། །
ཡོན་ཏན་བཀོད་པ་ཐམས་ཅད་གཅིག་བསྡོམས་པ། །
ཞིང་ཁམས་ཀུན་ལས་ཁྱད་འཕགས་བླ་ན་མེད།
SANG GYE CHE WA TRAK TRIK GYA TONG TRAK
GYE CHU TSA CHIK SANG GYE SHING KUN GYI
YON TEN KO PA TAM CHE CHIK DOM PA
SHING KHAM KUN LE KHYE PAK LA NA ME
To the realm of Sukhavati. All the features and attributes of the realms Of eighty-one septillion buddhas are combined in that realm that is superior to all others.
Y báo của hết thảy / tám mươi mốt tỷ tỷ / cõi tịnh độ của Phật / đều hiện đủ ở đây / thù thắng hơn hết thảy: /

༄༅། བདེ་བ་ཅན་གྱི་ཞིང་དེར་སྐྱེ་བར་ཤོག །
རིན་ཆེན་ས་གཞི་ཁོད་སྙོམས་ལག་མཐིལ་ལྟར། །
ཡངས་ཤིང་རྒྱ་ཆེ་གསལ་ཞིང་འོད་ཟེར་འབར། །
མནན་ན་ནེམ་ཞིང་བཏེག་ན་སྤར་བྱེད་པ། །
DE WA CHEN GYI SHING DER KYE WAR SHOK
RIN CHEN SA SHI KHO NYOM LAK TIL TAR
YANG SHING GYA CHE SAL SHING O SER BAR
NEN NA NEM SHING TEK NA PAR CHE PA
May I be born in the realm of Sukhavati. Its precious ground is as even as the palm of a hand. Vast and spacious, it blazes brightly and radiantly. It is soft and supple.
nguyện vãng sinh Cực Lạc. / Nền đất quí ở đây / phẳng mịn như lòng tay, bao la và bát ngát, /  hào quang chiếu rạng ngời, / dịu êm và nhu nhuyễn, /

བདེ་འཇམ་ཡངས་པའི་ཞིང་དེར་སྐྱེ་བར་ཤོག །
རིན་ཆེན་དུ་མ་ལས་གྲུབ་དཔག་བསམ་ཤིང་། །
ལོ་མ་དར་ཟབ་འབྲས་བུ་རིན་ཆེན་བརྒྱན། །
དེ་སྟེང་སྤྲུལ་པའི་བྱ་ཚོགས་སྐད་སྙན་སྒྲས།
DE JAM YANG PAY SHING DER KYE WAR SHOK
RIN CHEN DU MA LE DRUP PAK SAM SHING
LO MA DAR SAP DRE BU RIN CHEN GYEN
DE TENG TRUL PAY JA TSOK KE NYEN DRE
May I be born in that pleasant, gentle, spacious realm. The wish-fulfilling trees are composed of many jewels And are decorated by leaves of silk and precious fruit. In them are emanated birds whose sweet calls
vui, dịu, rộng thênh thang, / nguyện vãng sinh tịnh độ. / Cây như ý trĩu ngọc / lá bạc cùng trái quí. / Từ nơi ấy hiện ra / chim thánh thót ngọt ngào, /

༄༅། ཟབ་དང་རྒྱ་ཆེའི་ཆོས་ཀྱི་སྒྲ་རྣམས་སྒྲོགས། །
ངོ་མཚར་ཆེན་པོའི་ཞིང་དེར་སྐྱེ་བར་ཤོག །
སྤོས་ཆུའི་ཆུ་ཀླུང་ཡན་ལག་བརྒྱད་ལྡན་མང་། །
དེ་བཞིན་བདུད་རྩིའི་ཁྲུས་ཀྱི་རྫིང་བུ་རྣམས། །
SAP DANG GYA CHEY CHO KYI DAR NAM DROK
NGO TSAR CHEN POY SHING DER KYE WAR SHOK
PO CHUY CHU LUNG YEN LAK GYE DEN MANG
DE SHIN DU TSIY TRU KYI DZING BU NAM
Proclaim profound and vast Dharma. May I be born in that wondrous realm. There are many rivers of scented water with the eight attributes. There are also bathing pools of amrita,
thuyết giảng Pháp quảng thâm. / Nguyện sinh cõi mầu nhiệm, / nơi ấy, nước sông thơm / đủ tám đặc tính quí, / nơi ấy, bể cam lồ, /

རིན་ཆེན་སྣ་བདུན་ཐེམ་སྐས་ཕ་གུས་བསྐོར། །
མེ་ཏོག་པདྨ་དྲི་ཞིམ་འབྲས་བུར་ལྡན། །
པདྨའི་འོད་ཟེར་དཔག་ཏུ་མེད་པ་འཕྲོ། །
འོད་ཟེར་རྩེ་ལ་སྤྲུལ་པའི་སངས་རྒྱས་བརྒྱན།
RIN CHEN NA DUN TEM KE PA GU KOR
ME TOK PE MA DRI SHIM DRE BUR DEN
PE MAY O SER PAK TU ME PA TRO
O SER TSE LA TRUL PAY SANG GYE GYEN
Surrounded by steps and bricks of the seven jewels. Lotus flowers with sweet fragrance and fruit Emit countless rays of light. The ends of those light-rays are adorned by emanated buddhas.
nền lát bằng thất bảo. / Sen tỏa ngát mùi hương, / trái cây hào quang chiếu. / Trên mỗi nhánh hào quang / chư Phật trang nghiêm hiện. /

༄༅། ཡ་མཚན་ཆེན་པོའི་ཞིང་དེར་སྐྱེ་བར་ཤོག །
མི་ཁོམ་བརྒྱད་དང་ངན་སོང་སྒྲ་མི་གྲགས། །
ཉོན་མོངས་དུག་ལྔ་དུག་གསུམ་ནད་དང་གདོན། །
དགྲ་དང་དབུལ་ཕོངས་འཐབ་རྩོད་ལ་སོགས་པ། །
YAM TSEN CHEN POY SHING DER KYE WAR SHOK
MI KHOM GYE DANG NGEN SONG DRA MI DRAK
NYON MONG DUK NGA DUK SUM NE DANG DON
DRA DANG UL PONG TAP TSO LA SOK PA
May I be born in that amazing realm. Even the names of the eight unleisured states
And lower realms are unheard there, Kleshas, the five and three poisons, sickness, dons, enmity,
nguyện sinh cõi nhiệm mầu, / vắng tám bất tự tại, / không có ba nẻo dữ / cho dù là tên gọi / cũng chưa từng được nghe. / Phiền não, ba, năm độc / bệnh, tà chướng, kẻ thù, /

སྡུག་བསྔལ་ཐམས་ཅད་ཞིང་དེར་ཐོས་མ་མྱོང་། །
བདེ་བ་ཆེན་པོའི་ཞིང་དེར་སྐྱེ་བར་ཤོག །
བུད་མེད་མེད་ཅིང་མངལ་ནས་སྐྱེ་བ་མེད། །
ཀུན་ཀྱང་མེ་ཏོག་པདྨའི་སྦུབས་ནས་འཁྲུངས།
DUK NEL TAM CHE SHING DER TO MA NYONG
DE WA CHEN POY SHING DER KYE WAR SHOK
BU ME ME CHING NGAL NE KYE WA ME
KUN KYANG ME TOK PE MAY BUP NE TRUNG
Poverty, quarrelling and all other sufferings are unheard of in that realm. May I be born in that realm of great happiness. There is no sexuality there and no birth from a womb. All are born from within lotus flowers.
nghèo khổ và xung đột, / hết thảy mọi khổ nạn / cõi này chưa từng nghe. / Nguyện vãng sinh tịnh độ / nơi của đại hỉ lạc. / Nơi này không ái dục / không hề sinh từ thai, / hết thảy đều sinh ra / từ lòng sen dịu ngát. /

༄༅། ཐམས་ཅད་སྐུ་ལུས་ཁྱད་མེད་གསེར་གྱི་མདོག །
དབུ་ལ་གཙུག་ཏོར་ལ་སོགས་མཚན་དཔེས་བརྒྱན། །
མངོན་ཤེས་ལྔ་དང་སྤྱན་ལྔ་ཀུན་ལ་མངའ། །
ཡོན་ཏན་དཔག་མེད་ཞིང་དེར་སྐྱེ་བར་ཤོག །
TAM CHE KU LU KHYE ME SER GYI DOK
U LA TSOK TOR LA SOK TSEN PEY GYEN
NGON SHE NGA DANG CHEN NGA KUN LA NGA
YON TEN PAK ME SHING DER KYE WAR SHOK
Everyone’s bodies are alike and golden in colour. They are adorned by the marks and signs, such as the ushnisha on their heads. All have the five clairvoyances and the five eyes. May I be born in that realm of countless attributes.
Thân ai cũng như nhau / đều tỏa ngát ánh vàng, / đầy đủ tướng chánh phụ / như nhục kế trên đảnh. / Ai cũng đạt ngũ thông, / có đầy đủ ngũ nhãn. /  Nguyện vãng sinh cõi này / với vô lượng thiện tánh. /

རང་བྱུང་རིན་ཆེན་སྣ་ཚོགས་གཞལ་ཡས་ཁང་། །
ཅི་འདོད་ལོངས་སྤྱོད་ཡིད་ལ་དྲན་པས་འབྱུང་། །
རྩོལ་སྒྲུབ་མི་དགོས་དགོས་འདོད་ལྷུན་གྱིས་གྲུབ། །
ང་ཁྱོད་མེད་ཅིང་བདག་ཏུ་འཛིན་པ་མེད།
RANG JUNG RIN CHEN NA TSOK SHAL YE KHANG
CHI DO LONG CHO YI LA DREN PAY JUNG
TSO DRUP MI GO GO DO LHUN GYI DRUP
NGA KHYO ME CHING DAK TU DZIN PA ME
In self-arisen palaces of diverse jewels whatever is wanted arises upon recollection. No effort is necessary; everything one needs or wants is spontaneously present. There is no I, no you and no self-fixation.
Điện ngọc có tự nhiên, / bất kể tâm muốn gì / đều hiện ra như ý, / không cần phải dụng công, / muốn gì đều được nấy. / Không khái niệm ngã, tha, / cũng không cả ngã chấp. /

༄༅། གང་འདོད་མཆོད་སྤྲིན་ལག་པའི་མཐིལ་ནས་འབྱུང་། །
ཐམས་ཅད་བླ་མེད་ཐེག་ཆེན་ཆོས་ལ་སྤྱོད། །
བདེ་སྐྱིད་ཀུན་འབྱུང་ཞིང་དེར་སྐྱེ་བར་ཤོག །
དྲི་ཞིམ་རླུང་གིས་མེ་ཏོག་ཆར་ཆེན་འབེབས། །
GANG DO CHO TRIN LAK PAY TIL NE JUNG
TAM CHE LA ME TEK CHEN CHO LA CHO
DE KYI KUN JUNG SHING KER KYE WAR SHOK
DRI SHIM LUNG GI ME TOK CHAR CHEN BEP
Offering clouds of whatever one wishes arise from the palms of one’s hands. Everyone there practices the unsurpassable Mahayana Dharma. May I be born in that realm where every joy and comfort arises. A fragrant breeze sends down rains of flowers.
Tâm muốn cúng dường gì / đều từ nơi lòng tay / xuất ra cả biển mây / phẩm cúng dường phong phú. / Pháp đại thừa vô thượng / ai cũng luôn hành trì. / Nguyện sinh vào cõi này, / nơi mà mọi an vui / đều tự nhiên hiện khởi. / Gió thơm thổi dịu ngát / rải bát ngát mưa hoa. /

༄༅། ཤིང་དང་ཆུ་ཀླུང་པདྨོ་ཐམས་ཅད་ལས། །
ཡིད་དུ་འོང་བའི་གཟུགས་སྒྲ་དྲི་རོ་རེག །
ལོངས་སྤྱོད་མཆོད་པའི་སྤྲིན་ཕུང་རྟག་ཏུ་འབྱུང་། །
བུད་མེད་མེད་ཀྱང་སྤྲུལ་པའི་ལྷ་མོའི་ཚོགས། །
SHING DANG CHU LUNG PE MO TAM CHE LE
YI DU ONG WAY SUK DRA DRI RO REK
LONG CHO CHO PAY TRIN PUNG TAK TU JUNG
BU ME ME KYANG TRUL PAY LHA MOY TSOK
From all the trees, rivers and lotuses, clouds of sumptuous offerings constantly emerge,
Pleasing forms, sounds, scents, tastes and textures. Although there is no ordinary gender,
Từ cây cối, sông ngòi, / từ những đóa sen quí / phong phú hiện không ngớt / cả biển mây cúng phẩm / sắc, thanh, hương, vị, xúc. / Dù không có tánh phàm, /

མཆོད་པའི་ལྷ་མོ་དུ་མས་རྟག་ཏུ་མཆོད། །
འདུག་པར་འདོད་ཚེ་རིན་ཆེན་གཞལ་ཡས་ཁང་། །
ཉལ་བར་འདོད་ཚེ་རིན་ཆེན་ཁྲི་བཟང་སྟེང་། །
དར་ཟབ་དུ་མའི་མལ་སྟན་སྔས་དང་བཅས།
CHO PAY LHA MO DU MAY TAK TU CHO
DUK PAR DO TSE RIN CHEN SHAL YE KHANG
NYAL WAR DO TSE RIN CHEN TRI SANG TENG
DAR SAP DU MAY MAL TEN NGE DANG CHE
Emanated devas constantly present offerings. When one wishes to sit, there are precious palaces. When one wishes to lie down, there are mattresses and pillows of silk on fine, precious beds.
thiên nữ vẫn luôn hiện / trùng điệp dâng cúng phẩm. / Bao giờ muốn ngồi xuống / điện ngọc sẽ hiện ra. / Bao giờ muốn nằm nghỉ, / nệm gối êm sẽ hiện /  trên giường bằng ngọc quí. /

བྱ་དང་ལྗོན་ཤིང་ཆུ་ཀླུང་རོལ་མོ་སོགས། །
ཐོས་པར་འདོད་ན་སྙན་པའི་ཆོས་སྒྲ་སྒྲོགས། །
མི་འདོད་ཚེ་ན་རྣ་བར་སྒྲ་མི་གྲགས། །
བདུད་རྩིའི་རྫིང་བུ་ཆུ་ཀླུང་དེ་རྣམས་ཀྱང་།
JA DANG JON SHING CHU LUNG ROL MO SOK
TO PAR DO NA NYEN PAY CHO DRA DROK
MI DO TSE NA NA WAR DRA MI DRAK
DU TSIY DZING BU CHU LUNG DE NAM KYANG
When one wishes to hear them, birds, trees, rivers and music give forth the melodic sound of Dharma. When one does not wish to listen, they are unheard. The pools and rivers of amrita are
Bao giờ tai muốn nghe / thì chim, cây, sông, nhạc / hát diệu âm chánh pháp; / bao giờ không muốn nghe / thì yên lắng thanh tịnh. / Sông hồ đầy cam lồ, /

༄༅། དྲོ་གྲང་གང་འདོད་དེ་ལ་དེ་ལྷར་འབྱུང་། །
ཡིད་བཞིན་འགྲུབ་པའི་ཞིང་དེར་སྐྱེ་བར་ཤོག །
ཞིང་དེར་རྫོགས་པའི་སངས་རྒྱས་འོད་དཔག་མེད། །
བསྐལ་པ་གྲངས་མེད་མྱ་ངན་མི་འདའ་བཞུགས། །
DRO DANG GANG DO DE LA DE TAR JUNG
YI SHIN DRUP PAY SHING DER KYE WAR SHOK
SHING DER DZOK PAY SANG GYE O PAK ME
KAL PA DRANG ME NYA NGEN MI DA SHUK
Of whatever temperature is desired. May I be born in that realm where everything is as wished. In that realm, the perfect buddha Amitabha will remain, not passing into nirvana, for countless kalpas,
nhiệt độ tùy ý thích. / Nguyện vãng sinh cõi này / mọi sự đều như ý. / Trong cõi tịnh độ này / đức Phật A Di Đà / sẽ ở lại trụ thế / dài hàng vô lượng kiếp / mà không nhập niết bàn. /

དེ་སྲིད་དེ་ཡི་ཞབས་འབྲིང་བྱེད་པར་ཤོག །
ནམ་ཞིག་འོད་དཔག་མེད་དེ་ཞི་བར་གཤེགས། །
བསྐལ་པ་གངྒཱའི་ཀླུང་གི་བྱེ་མ་སྙེད། །
གཉིས་ཀྱི་བར་དུ་བསྟན་པ་གནས་པའི་ཚེ།
DE SI DE YI SHAP DRING CHE PAR SHOK
NAM SHIK O PAK ME DE SHI WAR SHEK
KAL PA GANG GAY LUNG GI CHE MA NYE
NYI KYI BAR DU TEN PA NE PAY TSE
May I attend him for all that time. After Amitabha passes into peace, His Dharma will remain for twice as many kalpas as the Ganges’ sand grains.
Nguyện trong suốt thời gian / con được phụng sự Phật. / Khi Phật nhập niết bàn, / Pháp vẫn còn tồn tại / thêm một thời gian dài / với số lượng đại kiếp / bằng hai cát sông Hằng. /

༄༅། རྒྱལ་ཚབ་སྤྱན་རས་གཟིགས་དང་མི་འབྲལ་ཞིང་། །
དེ་ཡི་ཡུན་ལ་དམ་ཆོས་འཛིན་པར་ཤོག །
སྲོད་ལ་དམ་ཆོས་ནུབ་པའི་ཐོ་རངས་ལ། །
སྤྱན་རས་གཟིགས་དེ་མངོན་པར་སངས་རྒྱས་ནས། །
GYAL TSAP CHEN RE SIK DANG MI DRAL SHING
DE YI YUN LA DAM CHO DZIN PAR SHOK
SO LA DAM CHO NUP PAY TO RANG LA
CHEN RE SIK DE NGON PAR SANG GYE NE
During that time, may I be inseparable from Avalokita, his regent and uphold the genuine Dharma. The Dharma will wane at sunset. At the following dawn, Avalokita will attain buddhahood,
Khi ấy, nguyện không lìa / bồ tát Quan Thế Âm, / là đấng thay thế Phật / để giữ gìn chánh pháp. / Rồi chánh pháp chiều tà / theo mặt trời bóng ngả. / Khi bình minh hiện ra, / bồ tát Quan Thế Âm / sẽ viên thành Phật quả. /

སངས་རྒྱས་འོད་ཟེར་ཀུན་ནས་འཕགས་པ་ཡི། །
དཔལ་བརྩེགས་རྒྱལ་པོ་ཞེས་བྱར་གྱུར་པའི་ཚེ། །
ཞལ་ལྟ་མཆོད་ཅིང་དམ་ཆོས་ཉན་པར་ཤོག །
སྐུ་ཚེ་བསྐལ་པ་བྱེ་བ་ཁྲག་ཁྲིག་ནི།
SANG GYE O SER KUN NE PAK PA YI
PAL TSEK GYAL PO SHE JAR GYUR PAY TSE
SHAL TA CHO CHING DAM CHO NYEN PAR SHOK
KU TSE KAL PA JE WA TRAK TRIK NI
Becoming the buddha called King of Massive Splendor Elevated Above All. From that time, May I serve him and listen to the Dharma. His life span will be
Thành Phật, danh hiệu “Phổ / Quang Công Đức Sơn Vương” / Khi ấy nguyện cho con / phụng sự và thọ pháp. / Thọ mạng ngài sẽ dài, /

༄༅། འབུམ་ཕྲག་དགུ་བཅུ་རྩ་དྲུག་བཞུགས་པའི་ཚེ། །
རྟག་ཏུ་ཞབས་འབྲིང་བསྙེན་བཀུར་བྱེད་པ་དང་། །
མི་བརྗེད་གཟུངས་ཀྱིས་དམ་ཆོས་འཛིན་པར་ཤོག །
མྱ་ངན་འདས་ནས་དེ་ཡི་བསྟན་པ་ནི། །
BUM TRAK GU CHU TSA DRUK SHUK PAY TSE
TAK TU SHAP DRING NYEN KUR CHE PA DANG
MI JE SUNG KYI DAM CHO DZIN PAR SHOK
NYA NGEN DE NE DE YI TEN PA NI
Ninety-six septillion kalpas. May I continually attend and serve him. And uphold the Dharma with perfect retention. After his nirvana, his Dharma will remain
chín sáu tỷ tỷ kiếp. / Nguyện suốt thời gian này / con luôn được phụng sự, / luôn giữ gìn chánh pháp, / tâm nhớ mãi không quên. / Khi Phật nhập niết bàn, / pháp của ngài ở lại /

བསྐལ་པ་དུང་ཕྱུར་དྲུག་དང་བྱེ་བ་ཕྲག །
འབུམ་ཕྲག་གསུམ་གནས་དེ་ཚེ་ཆོས་འཛིན་ཅིང་། །
མཐུ་ཆེན་ཐོབ་དང་རྟག་ཏུ་མི་འབྲལ་ཤོག །
དེ་ནས་མཐུ་ཆེན་ཐོབ་དེ་སངས་རྒྱས་ནས།
KAL PA DUNG CHUR DRUK DANG CHE WA TRAK
BUM TRAK SUM NE DE TSE CHO DZIN CHING
TU CHEN TOP DANG TAK TU MIN DRAL SHOK
DE NE TU CHEN TOP DE SANG GYE NE
For six hundred ten million, three hundred thousand kalpas. During that time, may I uphold the Dharma And be inseparable from Vajrapani. Then, Vajrapani will attain buddhahood,
thêm sáu trăm vạn ức, / ba trăm ngàn đại kiếp. / Trong suốt thời gian này, / nguyện con giữ chánh pháp / không bao giờ lìa xa / bồ tát Kim Cang Thủ. / Rồi khi ngài thành Phật, /

༄༅། དེ་བཞིན་གཤེགས་པ་རབ་ཏུ་བརྟན་པ་ནི། །
ཡོན་ཏན་ནོར་བུ་བརྩེགས་པའི་རྒྱལ་པོར་གྱུར། །
སྐུ་ཚེ་བསྟན་པ་སྤྱན་རས་གཟིགས་དང་མཉམ། །
སངས་རྒྱས་དེ་ཡི་རྟག་ཏུ་ཞབས་འབྲིང་བྱེད། །
DE SHIN SHEK PA RAP TU TEN PA NI
YON TEN NOR BU TSEK PAY GYAL POR GYUR
KU TSE TEN PA CHEN RE SIK DANG NYAM
SANG GYE DE YI TAK TU SHAP DRING CHE
Becoming the tathagata called King of Amassed Jewels and Stable Qualities. His lifespan and Dharma Will equal those of Avalokita. May I continually attend that buddha, present offerings to him,
thành đức Như Lai “Thiên / Trụ Công Đức Bảo Vương”, / chánh pháp và thọ mạng / bằng đức Quan Thế Âm. / Nguyện con luôn phụng sự / hiến cúng Như Lai này, /

མཆོད་པས་མཆོད་ཅིང་དམ་ཆོས་ཀུན་འཛིན་ཤོག །
དེ་ནས་བདག་གི་ཚེ་དེ་བརྗེས་མ་ཐག །
ཞིང་ཁམས་དེ་འམ་དག་པའི་ཞིང་གཞན་དུ། །
བླ་མེད་རྫོགས་པའི་སངས་རྒྱས་ཐོབ་པར་ཤོག
CHO PAY CHO CHING DAM CHO KUN DZIN SHOK
DE NE DAK GI TSE DE JE MA TAK
SHING KHAM DE AM DAK PAY SHING SHEN DU
LA ME DZOK PAY SANG GYE THOP PAR SHOK
And uphold all his genuine Dharma. Then, after that life, either in that realm Or in another pure realm, may I attain unsurpassable, perfect buddhahood.
và chấp trì chánh pháp. / Sau đời ấy, nguyện con / ở cõi tịnh độ này / hay tịnh độ nào khác, / nguyện đạt chánh đẳng giác / thành một đấng Phật đà. /

༄༅། རྫོགས་སངས་རྒྱས་ནས་ཚེ་དཔག་མེད་པ་ལྟར། །
མཚན་ཐོས་ཙམ་གྱིས་འགྲོ་ཀུན་སྨིན་ཅིང་གྲོལ། །
སྤྲུལ་པ་གྲངས་མེད་འགྲོ་བ་འདྲེན་པ་སོགས། །
འབད་མེད་ལྷུན་གྲུབ་འགྲོ་དོན་དཔག་མེད་ཤོག །
DZOK SANG GYE NE TSE PAK ME PA TAR
TSEN TO TSAM GYI DRO KUN MIN CHING DROL
TRUL PA DRANG ME DRO WA DREN PA SOK
BE ME LHUN DRUP DRO DON PAK ME SHOK
After my buddhahood, like Amitayus, may I ripen and liberate all the beings who even just hear my name. May I guide beings through countless emanations and benefit beings effortlessly, spontaneously and immeasurably.
Thành Phật rồi, nguyện xin, / như đức Vô Lượng Thọ, / hết thảy chúng hữu tình / chỉ cần thoáng qua tai / nghe được danh hiệu con, / là chín mùi, giải thoát. / Nguyện thị hiện phong phú, / dẫn dắt khắp chúng sinh / vô dụng công, nhiệm vận, / và không thể đo lường. /

དེ་བཞིན་གཤེགས་པའི་ཚེ་དང་བསོད་ནམས་དང་། །
ཡོན་ཏན་ཡེ་ཤེས་གཟི་བརྗིད་ཚད་མེད་པ། །
ཆོས་སྐུ་སྣང་བ་མཐའ་ཡས་འོད་དཔག་མེད། །
ཚེ་དང་ཡེ་ཤེས་དཔག་མེད་བཅོམ་ལྡན་འདས།
DE SHIN SHEK PAY TSE DANG SO NAM DANG
YON TEN YE SHE SI JI TSE ME PA
CHO KU NANG WA TA YE O PAK ME
TSE DANG YE SHE PAK ME CHOM DEN DE
Tathagata of immeasurable lifespan, merit, qualities, pristine wisdom and majesty;
Dharmakaya Amitabha; Bhagavan of immeasurable life and wisdom:
Như lai với thọ mạng, / công đức cùng thiện tánh, / trí giác và uy nghi / hết thảy đều vô lượng; / Pháp thân A Di Đà; / Vô Lượng Thọ Thế Tôn / Vô Lượng Trí Thế Tôn: /

༄༅། གང་ཞིག་ཁྱེད་ཀྱི་མཚན་ནི་སུས་འཛིན་པ། །
སྔོན་གྱི་ལས་ཀྱི་རྣམ་སྨིན་མ་གཏོགས་པ། །
མེ་ཆུ་དུག་མཚོན་གནོད་སྦྱིན་སྲིན་པོ་སོགས། །
འཇིགས་པ་ཀུན་ལས་སྐྱོབ་པར་ཐུབ་པས་གསུངས། །
GANG SHIK KHYE KYI TSEN NI SU DZIN PA
NGON GYI LE KYI NAM MIN MA TOK PA
ME CHU DUK TSON NO JIN SIN PO SOK
JIK PA KUN LE KYOP PAR TUP PAY SUNG
It was said by Shakyamuni that anyone who recollects your name will be protected from
Fire,water, poison, weapons, yakshas, rakshas and all danger, unless it is the ripening of previous karma.
Phật Thích Ca dạy rằng / ai niệm hồng danh ngài / đều tránh được hiểm họa / lửa, nước, độc, vũ khí / la sát và dạ xoa / cùng mọi hiểm họa khác, / trừ phi nhằm trường hợp / nghiệp cũ đã chín mùi. /

བདག་ནི་ཁྱེད་ཀྱི་མཚན་འཛིན་ཕྱག་འཚལ་བས། །
འཇིཌ་དང་སྡུག་བསྔལ་ཀུན་ལས་བསྐྱབ་མཛད་གསོལ། །
བཀྲ་ཤིས་ཕུན་སུམ་ཚོགས་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས། །
སངས་རྒྱས་སྐུ་གསུམ་བརྙེས་པའི་བྱིན་རླབས་དང་།
DAK NI KHYE KYI TSEN DZIN CHAK TSAL WAY
JIK DANG DUK NGEL KUN LE KYAB DZE SOL
TA SHI PUN SUM TSOK PAR JIN GYI LOP
SANG GYE KU SUM NYE PAY JIN LAP DANG
I recollect your name and prostrate to you. I pray that you protect me from all danger and suffering. Grant the blessing of perfect auspiciousness. Through the blessing of the buddha’s attainment of the trikaya,
Con xin niệm hồng danh / và đê đầu đảnh lễ. / Xin Phật giữ gìn cho / thoát hung hiểm, đau khổ. / Xin ban cho chúng con / lực gia trì cát tường. / Xin nương lực gia trì / của các đấng Thế Tôn, / thành tựu Tam Thân Phật, /

༄༅། ཆོས་ཉིད་མི་འགྱུར་བདེན་པའི་བྱིན་རླབས་དང་། །
དགེ་འདུན་མི་ཕྱེད་འདུན་པའི་བྱིན་རླབས་ཀྱིས། །
ཇི་ལྟར་སྨོན་ལམ་བཏབ་བཞིན་འགྲུབ་པར་ཤོག །
CHO NYI MIN GYUR DEN PAY JIN LAP DANG
GEN DUN MI CHE DUN PAY JIN LAP KYI
JI TAR MON LAM TAP SHIN DRUP PAR SHOK
The blessing of the unchanging truth of dharmata, and the blessing of the Sangha’s unwavering harmony, May my aspirations be fulfilled as intended.
của pháp tánh bất biến / của tâm ý tăng bảo / không bao giờ lay chuyển, / nguyện lời nguyện nơi đây / được viên thành như ý. /

དཀོན་མཆོག་གསུམ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།
KON CHOG SUM LA CHAK SAL LO
I prostrate to the Three Jewels.
Đệ tử đảnh lễ Tam Bảo

།ཏདྱཐཱ། པཉྕནྡྲི་ཡ་ཨཱ་ཝ་བོ་དྷཱ་ན་ཡེ་སྭཱ་ཧཱ།
TA YA THA PEN TSA DRI YA A WA BO DHA NA YE SO HA
TA-ĐI-A THA PEN DZA DRI-YA A-WA BÔ ĐA NAI YÊ SÔ HA

སྨོན་ལམ་འགྲུབ་པའི་གཟུངས་སོ།
The dharani for the fulfilment of aspirations
Đà La Ni Viên Thành Nguyện Ước

དཀོན་མཆོག་གསུམ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
KON CHOG SUM LA CHAK TSAL LO
I prostrate to the Three Jewels.
Đệ tử đảnh lễ Tam Bảo

ན་མོ་མཉྫུ་ཤྲཱི་ཡེ། ན་མོ་སུ་ཤྲཱི་ཡེ། ན་མོ༔ཨུཏྟ་མ་ཤྲཱི་ཡེ་སྭཱ་ཧཱ།
NAMO MANJUSHIRIYE / NAMO SUSHIRIYE / NAMO UTTAMA SHRIYE SOHA
NAM MÔ MAN SU SHRI YÊ. NAM MÔ SU SHRI YÊ. NAM MÔ UTAMA SHRI YÊ SÔ HA

ཞེས་བརྗོད་ནས་ཕྱག་གསུམ་འཚལ་ན་འབུམ་ཐེར་དུ་འགྱུར་བར་གསུངས། དེ་ནས་རབ་བརྒྱ་ཕྲག འབྲིང་ཅི་ནུས། ཐ་མ་ཡང་ཕྱག་བདུན་ཡན་འཚལ། རབ་འདི་མ་ཆག་པ། འབྲིང་ལོ་ཟླ་ཙམ་མ་ཆག་པ། ཐ་མ་ནམ་ཁོམ་སྐབས་སུ་ཁ་ནུབ་ཏུ་གྱུ་ནས་བདེ་བ་ཅན་གྱི་ཞིང་ཁམས་ཡིད་ལ་དྲན་ཅིང་འོད་དཔག་མེད་ལ་ཐལ་མོ་སྦྱར་ཏེ་དད་པ་རྩེ་གཅིག་གིས་བཏོན་ན། ཚེ་འདིར་ཚེའི་བར་ཆད་སེལ། ཕྱི་མ་བདེ་བ་ཅན་དུ་སྐྱེ་བར་ཐེ་ཚེམ་མེད་དོ། །འོད་མདོ་ཞིང་བཀོད་མདོ་དང་། པདྨ་དཀར་པོ་འཆི་མེད་རྔ་སྒྲ་སོགས་ཀྱི་དགོངས་པ་ཡིན། ཞེས་དགེ་སློང་རཱ་ག་ཨསྱས་སྦྱར་བས་འགྲོ་བ་སེམས་ཅན་མང་པོ་བདེ་བ་ཅན་དུ་སྐྱེ་བའི་རྒྱུར་གྱུར་ཅིག ། །།

If after saying that you do three prostrations, it is said that they will be equivalent to a hundred thousand. Therefore do, if possible, one hundred prostrations, or as many as you can, or at least seven. If possible, recite this aspiration every day; if not, once every month or every year. At least, when you are at leisure, face the west and recollect the realm of Sukhavati. Join your palms and pray to Amitabha with one-pointed faith. If you do so, obstacles in this life will be dispelled. There is no doubt that you will be reborn in Sukhavati after this life. This is the intention of the Amitabha Sutra, the Sutra on Sukhavati, the Pundarika Sutra and the Drumbeat of Immortality. It was composed by the Bhikshu Ragasya. May it be a cause of many beings’ birth in Sukhavati!

Đọc rồi lạy 3 lần, làm như vậy sẽ bằng 100 ngàn lần. Vậy, nếu được, hãy lạy 100 lạy, hay càng nhiều càng tốt, tối thiểu 7 lần. Nếu có thể, hãy đọc lời nguyện này mỗi ngày. Bằng không hãy đọc mỗi tháng hay mỗi năm. Chí ít, lúc có thời gian hãy đối mặt với hướng Tây mà nhớ về cõi Tây Phương Cực Lạc, khởi tín tâm chuyên nhất, chắp tay thỉnh cầu đức A Di Đà. Làm được như vậy, chướng ngại đời này sẽ tan biến, hết đời sẽ vãng sinh Cực Lạc, nhất định không sai. Đây là ý thật của Kinh A Di Đà, Kinh Cực Lạc, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa và Kinh Tiếng Trống Bất Tử. Bài pháp này do Tỷ kheo Ragasya soạn tác. Nguyện làm nhân tố cho thật nhiều hữu tình vãng sinh Cực Lạc !


 

 




Dza Patrul Rinpoche: KHO TÀNG TÂM CỦA ĐẤNG GIÁC NGỘ

Tác Luận: Dza Patrul Rinpoche
CHÁNH VĂN: Công Phu Kiến, Tu và Hạnh
Còn có tên là: Bài Pháp Đầu, Giữa, Cuối Đều Thiện
Việt dịch: Hồng Như, bản hiệu đính tháng 09/2015.


Dza_Patrul_Rinpoche

1. Hồng âm một giọt
rơi vào tai ai,
pháp âm rót đầy
hàng vô lượng kiếp:
Tam Bảo nhiệm mầu,
nguyện ánh hồng danh
chở nguồn hạnh phúc
đến cho khắp cả.

2. Quả hồng mùa thu,
trong xanh, ngoài chín,
Tôi đây vỏ ngoài
thấy giống người tu,
nhưng tâm và pháp
bên trong chưa hòa
nên pháp thuyết ra
thật không có mấy.

3. Nhưng vì bạn hiền,
hết mực cầu xin,
không thể thoái thác,
nên xin nói ra
ít lời bộc trực,
không hợp thói thường
của thời mạt pháp,
tặng không dối gạt,
xin hãy khéo nghe.

4. Bậc Chân Hiền Thánh,
trên cả loài trời,
đắc chân thật địa
nhờ tu chân đạo,
chân thật hiển bày
chân đạo vô thượng
cho khắp chúng sinh,
bằng không sao gọi là
Chân Hiền Thánh?

5. Tiếc thay cho người
sống thời mạt pháp,
trực tâm héo tàn,
chỉ còn dối láo,
ý nghĩ vặn vọ,
lời nói quanh co,
khôn khéo lừa người,
ai tin cho được?

6. Than ôi! buồn thay
chúng sinh mạt pháp!
Than ôi! chẳng biết
tin vào nơi ai!
Như lạc giữa chốn
quỉ ăn thịt người,
Hãy suy nghĩ kỹ,
để tự cho mình
một ân huệ lớn.

7. Trước đây tâm mới
lang thang một mình,
bị gió nghiệp cuốn,
sanh vào hiện tại.
Rồi chẳng mấy chốc,
lại như sợi tóc
tuốt khỏi tảng bơ,
một mình lang thang,
bỏ lại tất cả.

8. Tự mình muốn tốt
ấy việc đương nhiên,
Vậy tự với mình,
đâu thể không thật:
không tự vì mình
đạt tinh túy pháp,
chẳng phải đã tự
hại đời mình sao?

9. Chúng sinh mạt pháp,
tâm hạnh xấu ác,
chẳng ai giúp ta,
chỉ toàn dối gạt;
muốn giúp cho người
cũng khó lắm thay!
tốt hơn bỏ hết
trò tất bậc này.

10. Phục dịch kẻ trên,
họ chẳng vừa ý;
chăm lo người dưới,
họ chẳng toại lòng;
giúp đỡ cho người,
người nào giúp mình.
Hãy suy nghĩ kỹ
để hạ quyết tâm.

11. Đời nay đa văn
chẳng lợi chánh pháp,
chỉ thêm tranh biện;
đời nay chứng ngộ
chẳng lợi chúng sinh,
chỉ thêm phê phán;
đời nay địa vị
chẳng giúp trị nước,
chỉ gieo nổi loạn.
Nghĩ chuyện đời nay,
tâm lại càng thêm
xót xa chán ngán.

12. Dù có giải thích
họ cũng không hiểu
và cũng chẳng tin;
dù mang tâm ý
chân thật vì người
họ vẫn thấy ngược.
Đời nay, kẻ méo
nhìn vào việc thẳng
chỉ thấy cong queo.
Chẳng thể giúp ai,
đừng nhiều kỳ vọng.

13. “Vạn pháp như huyễn,”
Phật dạy điều này.
Nhưng đến đời nay
lại càng hư huyễn
hơn bao giờ hết.
Ảo ảnh tạo ra
bởi nhà ảo thuật
ranh ma quỉ quái,
hãy nên thận trọng
với cảnh hư vọng
thời mạt pháp này.

14. “Ngôn từ chẳng qua
chỉ là tiếng vang,”
Phật dạy điều này.
nhưng đến đời nay
lại thành tiếng vang
của những tiếng vang.
Tiếng vang nói gì,
ý nghĩa chẳng hề
phù hợp với âm.
Thôi đừng bận tâm
âm vang quỉ quái.

15. Những kẻ con gặp,
nào phải là người,
toàn là kẻ bịp;
những lời con nghe,
nào phải chân thật,
toàn là dối láo.
Đời nay thật sự
chẳng có một ai
có thể tin vào.
Chi bằng một mình
ung dung tự tại.

16. Nếu việc con làm
thuận với chánh pháp,
họ sẽ chống con;
nếu lời con nói
thuận với sự thật,
họ sẽ hận con;
nếu tâm ý con
trong sáng hiền lành,
họ vẫn bươi lỗi.
Chính lúc này đây
con phải dấu kín
đường đi của mình.

17. Ẩn thân trên núi
hoang vu một mình;
ẩn khẩu bằng cách
quả giao, kiệm ngôn;
ẩn tâm bằng cách
lỗi mình luôn nhớ:
như vậy đúng nghĩa
du già ẩn tu.

18. Chán ngán là vì
chẳng thể tin ai;
buồn vì mọi sự
chỉ là vô nghĩa;
quyết tâm là vì
không đủ thời gian
đạt điều mình muốn:
ba điều nhớ đủ,
sẽ gặp sự lành.

19. Đâu có thời gian
để hưởng hạnh phúc,
chóng qua thế thôi;
đã không muốn khổ
thì dùng chánh pháp
để mà diệt khổ.
Dù vui hay khổ,
con ơi hãy biết
đó là nghiệp lực.
Từ nay về sau,
đối với mọi người,
đừng mong, đừng nghi.

20. Vì nhiều mong đợi
ở nơi người khác,
nên cứ phải cười;
vì nhiều nhu cầu
cho chính bản thân,
nên cứ phải lo;
toan tính trước sau,
trong tâm chứa đầy
mong đợi, e ngại:
Từ nay về sau,
bất kể thế nào,
hãy đừng như thế.

21. Dù chết hôm nay,
nào có gì buồn?
sinh tử luân hồi
vốn là như vậy.
Dù sống trăm năm,
nào có gì vui?
Tuổi trẻ từ lâu
đã không còn nữa.
Nay dù sống chết,
thử hỏi đời này
có gì hệ trọng?
Tu cho đời sau,
mới là trọng yếu.

22. Lạy Quan Thế Âm,
suối nguồn đại bi,
bổn sư từ hòa,
là chốn chở che
duy nhất của con.
Lục tự minh chú,
chân ngôn của Ngài,
chính là diệu pháp.
Từ nay về sau
con chỉ còn biết
trông mong nơi Ngài.

23. Hiểu được bao nhiêu,
chỉ toàn lý thuyết,
nào có ích chi!
làm được bao nhiêu,
đời này xài hết,
nào có ích chi!
nghĩ ngợi bao nhiêu,
chỉ toàn hư vọng,
nào có ích chi!
Nay đã đến lúc
ta phải làm điều
lợi ích thật sự:
trì Lục tự chú.

24. Chỗ nương duy nhất
không hề hư ngụy
chính là Tam Bảo.
Tinh túy duy nhất
ở nơi Tam Bảo,
là Quan Thế Âm.
Với niềm tin tưởng
không hề lay chuyển
nơi trí tuệ ngài:
chắc chắn, quyết tâm,
trì Lục tự chú.

25. Nền tảng Đại thừa
là tâm bồ đề,
là đường duy nhất
mà khắp chư Phật
đã từng đi qua.
Đừng bao giờ xa
đường tu cao quí
của tâm bồ đề,
hãy vì chúng sinh,
trì Lục Tự chú.

26. Trôi lăn luân hồi
kể từ vô thủy
cho đến ngày nay,
mọi việc đã làm
toàn là sai quấy,
càng khiến trầm luân.
Từ tận đáy lòng
phát lộ sám hối
lầm lỗi, đọa rơi
bằng bốn sám lực,
trì lục tự chú.

27. Vì chấp cái tôi,
nên chấp mọi thứ
– đây là nguyên nhân
trầm luân sinh tử.
Vậy hãy cúng dường
cho bậc giác giả
nơi cõi niết bàn;
và hãy bố thí
cho kẻ khốn cùng
ở trong sinh tử;
cho ra tất cả
– thân, của, công đức –
hồi hướng chúng sinh:
tham chấp ném xa,
trì Lục tự chú.

28. Ân sư tôn quí
là chân tánh Phật.
trong mười phương Phật,
ân sư là Phật
từ hòa bậc nhất.
Thấy rõ ân sư
cùng Quan Thế Âm
bất khả phân chia,
thiết tha hướng tâm,
trì Lục tự chú.

29. Giúp thanh tịnh chướng,
khai mở pháp hành,
thành tựu tứ thân,
Bốn pháp quán đảnh,
tinh túy chính là
Thầy Quan Thế Âm.
Chứng Thầy là Tâm
thì bốn quán đảnh
đều được viên thành:
Trong cõi tự thọ
quán đảnh vốn có,
trì Lục tự chú.

30. Luân hồi chỉ là
cái thấy của ta.
Nhận ra tất cả
đều là bổn tôn,
thì việc lợi tha
đều đã viên thành.
Chứng được tánh tịnh
của khắp vạn pháp,
là đồng loạt truyền
bốn pháp quán đảnh
cho khắp chúng sinh:
nạo vét cùng tận
đáy sâu sinh tử,
trì lục tự chú.

31. Tâm không thể gánh
tất cả pháp quán;
quán một Như lai,
là quán đủ cả.
Mọi cảnh hiện ra,
đều là sắc tướng
của đấng Đại Bi:
trong cảnh Phật thân,
sắc hiện vẫn không,
trì Lục tự chú.

32. Tụng niệm, nghi quỹ,
hay là bùa chú,
đều quá phức tạp;
Lục tự chính là
chân âm diệu pháp,
bao hàm tất cả.
Vạn âm đều là
diệu khẩu nhiệm mầu
của đức Quan Âm:
biết âm là chú,
thanh hiện vẫn không,
trì Lục tự chú.

33. Nhị chướng và niệm giảm
thì kinh nghiệm và chứng ngộ tăng.
Nắm được sự thấy
là thắng hết thảy
tà chướng, kẻ thù.
Ban cho thành tựu
thế gian xuất thế
ngay trong đời này,
là Quan Thế Âm:
để bốn pháp hành
tự nhiên thành tựu,
trì Lục tự chú.

34. Vạn pháp khởi sinh,
dùng làm cúng phẩm
dâng khách giải thoát;
mang hết sắc hiện,
dùng làm đất sét
nắn tượng sắc-không;
mang hết tất cả
lễ lạy bất nhị,
dâng đấng Chân Tâm:
khéo tu việc đạo,
trì Lục tự chú.

35. Giặc thù là sân,
hãy chiến thắng bằng
vũ khí đại từ.
Gia đình là khắp
chúng sinh sáu cõi,
hãy bảo vệ bằng
phương tiện đại bi.
Trên ruộng tín tâm,
gặt hái hoa mầu
kinh nghiệm chứng ngộ:
khéo lo việc đời,
trì Lục tự chú.

36. Xác già chấp có,
thiêu bằng vô chấp;
cúng thất bằng tu
tinh túy chánh pháp;
khói cúng thay bằng
hồi hướng đời sau:
vì người quá cố
mà làm việc thiện,
trì Lục tự chú.

37. Tín tâm là con,
đặt nơi gưỡng cửa
của pháp hành trì;
tâm buông sinh tử,
là đứa con trai,
cho gánh việc nhà;
tâm đại từ bi,
là đứa con gái,
gã rể ba cõi:
với người còn sống,
trách nhiệm chu toàn,
trì Lục tự chú.

38. Sắc hiện là vọng,
chưa từng thật có.
Luân hồi – niết bàn,
đều chỉ là niệm,
không là gì khác.
Niệm vừa chớm khởi,
tự giải thoát ngay,
là đủ tất cả
chứng địa, chứng đạo.
Dụng tinh túy pháp
để giải thoát niệm,
trì Lục tự chú.

39. Tự tâm này đây,
giác-không bất nhị,
đó là Pháp thân.
Để cho mọi sự
tự nhiên đơn thuần,
như vậy tánh sáng
sẽ tự hiện ra.
Đừng làm gì cả
mới làm xong hết
những việc cần làm:
trụ trong cảnh giới
giác–không trần trụi,
trì Lục tự chú.

40. Lấy tịnh chặt đứt
đà tăng động niệm;
từ trong loạn động
thấy được tánh tịnh;
tịnh, động bất nhị,
giữ tâm bình thường:
trong cảnh nhất tâm,
trì Lục tự chú.

41. Quán chiếu tục đế,
trực nhận chân đế;
từ trong chân đế,
thấy được tục đế
hiện như thế nào;
nhị đế bất phân,
siêu việt khái niệm,
là cảnh đơn thuần:
ở trong tri kiến
thoát mọi động niệm,
trì Lục tự chú.

42. Từ sắc, đoạn lìa
chấp bám của tâm;
từ tâm, đập tan
sắc hiện hư vọng;
sắc, tâm bất nhị
rộng mở vô biên:
trong cảnh nhất vị,
trì Lục tự chú.

43. Trong chân tánh tâm,
giác-không đơn thuần,
vạn pháp tự tại;
niệm khởi chính là
hoạt dụng của giác,
sẽ tự thanh tịnh;
tâm, giác bất nhị
trong cảnh nhất tánh:
trụ trong cảnh giới
pháp thân vô thiền,
trì Lục tự chú.

44. Biết mọi sắc hiện
đều là bổn tôn,
là then chốt của
giai đoạn khởi hiện;
chấp cảnh đẹp-xấu
tan vào chân tánh;
vô chấp, tướng hiện
tự nhiên của tâm
là thân bổn tôn:
cõi thấy tự thoát,
trì Lục tự chú.

45. Biết thanh là chú,
là then chốt của
pháp tu trì chú;
chấp thanh hay-dở
tan vào chân tánh;
vô chấp, tiếng của
luân hồi niết bàn
là tiếng lục tự.
cõi nghe tự thoát,
trì Lục tự chú.

46. Biết hương vô sinh,
là then chốt của
giai đoạn viên thành;
chấp hương thơm-thúi
tan vào chân tánh;
vô chấp, mùi hương
là hương giới luật
của đấng bổn tôn:
cõi hương tự thoát,
trì Lục tự chú.

47. Biết vị nếm là
phẩm cúng thiêng liêng/
là then chốt của
giai đoạn viên thành;
chấp vị ngon-dở
tan vào chân tánh;
vô chấp, thực phẩm
đều là cúng phẩm
dâng đấng bổn tôn.
cõi vị tự thoát,
trì Lục tự chú.

48. Biết xúc đồng đẳng,
là then chốt của
địa vị nhất vị;
đói, no, lạnh, nóng,
tan vào chân tánh;
vô chấp, xúc cảm
đều là thiện hạnh
của đấng bổn tôn:
cõi xúc tự thoát,
trì Lục tự chú.

49. Biết pháp là không,
then chốt của kiến;
lòng tin chân-vọng
tan vào chân tánh;
vô chấp, vạn pháp
luân hồi niết bàn
là cảnh Pháp thân:
cõi ý tự thoát,
trì Lục tự chú.

50. Đừng theo đối tượng
của lòng sân hận,
hãy nhìn tâm giận;
sân hận vừa chớm
đã tự tan biến,
là cảnh sáng-không;
Sáng-không chính là
đại-viên-cảnh-trí.
Sân tự giải thoát:
trong cảnh giới này,
trì Lục tự chú.

51. Đừng bám đối tượng
của lòng kiêu căng,
hãy nhìn trí chấp;
tự tôn vừa chớm
đã tự tan biến,
là cảnh vốn-không;
Bản-lai-không, là
bình-đẳng-tánh-trí.
Ngã mạn tự thoát:
trong cảnh giới này,
trì Lục tự chú.

52. Đừng luyến đối tượng
của lòng ham muốn,
hãy nhìn lòng tham;
tham luyến vừa chớm
đã tự tan biến
là cảnh lạc-không;
lạc-không chính là
diệu-quán-sát-trí.
Tham tự giải thoát:
trong cảnh giới này,
trì Lục tự chú.

53. Đừng theo đối tượng
của lòng ganh ghen,
xét tâm tầm tư;
ganh ghen vừa chớm
đã tự tan biến,
là cảnh trí-không;
trí-không chính là
thành-sở-tác-trí.
Ganh ghen tự thoát:
trong cảnh giới này,
trì Lục tự chú.

54. Đừng ham khái niệm
do vô minh tạo,
hãy nhìn tự tánh
của vô minh này;
vọng niệm vừa chớm
đã tự tan biến,
là cảnh giác-không;
giác-không là pháp-giới-thể-tánh-trí.
Vô minh tự thoát:
trong cảnh giới này,
trì Lục tự chú.

55. Sắc uẩn vô sinh,
bản lai là không,
tựa như hư không;
cốt tủy tinh túy
của giác-không này,
là Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
Vua Của Trời Rộng:
trong cảnh chứng không,
trì Lục tự chú.

56. Thọ uẩn là dây
buộc tâm vào cảnh;
khi biết thọ này
bình đẳng bất nhị,
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
Chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
Bất Không Thòng Lọng:
trụ trong cảnh giới
thâm chứng nhất vị,
trì Lục tự chú.

57. Tưởng uẩn nắm mãi,
cho rằng thật có,
đó là vọng tâm;
còn nắm chúng sinh
bằng tâm đại bi
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
Vét Đáy Sinh Tử:
trụ trong cảnh giới
đại bi vô lượng,
trì Lục tự chú.

58. Hành uẩn vọng động
tạo tác sinh tử,
thì trôi luân hồi;
còn chứng luân hồi
niết bàn bình đẳng,
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là đấng Đại Bi
Chuyển Hoá Chúng Sinh:
trụ cảnh đồng vị,
làm việc lợi tha,
trì Lục tự chú.

59. Thức uẩn biểu hiện
của tâm phàm phu,
chức năng có tám;
chứng biết tâm này
vốn là Pháp thân,
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
Biển Rộng Thế Tôn:
trú trong cảnh giới
tự tâm là Phật,
trì Lục tự chú.

60. Chấp thân thật có,
là nhân sinh ra
nô lệ buộc ràng;
nếu thấy thân này
chính là bổn tôn,
tuy hiện vẫn không,
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
đức Liên Hoa Thủ:
trụ trong cảnh giới
thân tướng bổn tôn,
tuy hiện vẫn không,
trì Lục tự chú.

61. Động niệm phân biệt
nơi cõi ngữ thanh,
là nhân sinh vọng;
chứng khẩu là chú,
tuy vang vẫn không,
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
Tiếng Gầm Sư Tử:
trụ trong cảnh giới
biết khẩu là chú,
trì Lục tự chú.

62. Chấp ý thật có,
vọng này là nhân
sinh ra luân hồi;
thả ý an trụ
trong tánh tự nhiên
thoát mọi niệm khởi,
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
Tháo Nơi Chân Tâm:
trụ trong cảnh giới
tâm là Pháp thân,
trì Lục tự chú.

63. Vạn pháp vốn là
cảnh giới Pháp thân
bản lai thanh tịnh;
diện kiến Pháp thân,
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
Đấng Ngự Cõi Thế:
trụ trong cảnh giới
thanh tịnh vô lượng,
trì Lục tự chú.

64. Đức Quan Thế Âm:
một đấng bổn tôn
gồm đủ chư Phật;
Lục tự minh chú:
một câu minh chú
gồm đủ mọi chú;
và bồ đề tâm:
một pháp gồm đủ
hai bước hiện, thành:
trụ cảnh chứng một
giải thoát tất cả,
trì Lục tự chú.

65. Làm để làm gì?
Việc nào cũng gieo
toàn nhân sinh tử;
xem việc đã làm
vô nghĩa biết bao!
Nay thà ngưng hết,
đừng làm gì cả,
thả hết chuyện làm,
trì Lục tự chú.

66. Nói để làm chi?
Toàn chuyện tào lao;
Xem đã khiến tâm
tán loạn cỡ nào!
Nay thà lặng thinh
trong cõi tịch lặng,
ngưng hẳn tiếng lời,
trì Lục tự chú.

67. Tấc bậc làm gì?
tới lui thêm mệt;
nhìn xem chánh pháp
lạc xa cỡ nào!
Nay thà một chỗ,
để tâm thư giãn,
ổn định an nhiên,
trì Lục tự chú.

68. Ăn để làm gì?
chỉ toàn thành phẩn;
xem bụng bây giờ
ăn chẳng biết no!
Nay thà sống bằng
lương thực chánh định,
dứt bỏ chuyện ăn,
trì Lục tự chú.

69. Suy nghĩ làm gì?
càng thêm hư vọng;
xem lại mục tiêu
đạt có là bao!
Nay chuyện đời này
thà chẳng nghĩ xa,
buông mọi lo toan,
trì Lục tự chú.

70. Sở hữu làm gì?
chỉ càng thêm vướng;
nhìn xem sớm ngày
phải bỏ mà đi!
Nay thà đoạn dứt
tham lam tài sản,
ngưng gom của cải,
trì Lục tự chú.

71. Ngủ để làm gì?
càng thêm trì trệ;
nhìn xem đời sống
trôi trong dật dờ!
Nay thà bắt đầu
hết lòng nỗ lực,
ngày cũng như đêm,
đá bỏ tán tâm,
trì Lục tự chú.

72. Không rảnh!
không rảnh để mà ngủ nghỉ!
Thình lình chết đến
biết phải làm sao?
Nay thà tức khắc
diệu pháp khởi tu,
gấp lên, mau lên,
trì Lục tự chú.

73. Nói gì đến chuyện
năm, tháng, hay ngày,
nhìn việc trước mắt
thay đổi liền tay,
cái chết thêm gần,
mỗi phút, mỗi giây:
phải ngay bây giờ,
trì Lục tự chú.

74. Mạng sống cạn dần
như mặt trời lặn;
cái chết đến như
bóng đổ chiều tà;
còn lại chút gì,
vội bóng chiều tan:
Không còn thời gian!
trì Lục tự chú.

75. Dù lục tự chú
có là diệu Pháp,
tán tâm nói nhìn,
tụng cũng như không!
lại ham đếm số,
càng mất trọng điểm:
hãy chuyên quán tâm,
trì Lục tự chú.

76. Nếu biết thường xuyên
liên tục xét tâm,
thì mọi việc làm
đều thành diệu pháp.
Trong vạn lời dạy,
cốt tủy là đây:
Qui về làm một,
trì Lục tự chú.

77. Phần đầu, sầu thảm
chuỗi lời than vãn
thời mạt pháp này,
là lời trách móc
ta dành cho ta.
Xót xa muộn phiền,
sâu thẳm lòng ta,
nay tặng cho con,
nếu cùng cảm nhận.

78. Bằng không, nếu con
đã tự tin nơi
kiến, tu của mình,
đầy ý tưởng hay
đạo đời dung hợp;
hành xử khéo léo
vừa lòng mọi người:
nếu là như vậy,
cho ta xin lỗi.

79. Phần hai, xác định
về kiến và tu.
Kinh nghiệm chứng ngộ
ta đều không có,
chỉ nói ra điều
hiểu nhờ giáo pháp
truyền thừa trân quí
Phụ-Tử Toàn Giác.

80. Phần ba, thúc dục
bỏ hết mà tu,
dù con có thể
không thấy điểm này,
cũng tự tuôn ra.
Nhưng không mâu thuẫn
lời Phật, bồ tát,
Thật biết ơn con
nếu gắng thực hành.

81. Bài pháp này đây,
đầu, giữa và cuối,
cả ba đều lành,
– đáp lời thỉnh cầu
người bạn lâu năm
chẳng thể từ chối,
được viết ra trong
Bạch Thạch Thắng Động
của bậc thành tựu
bởi tên rách rưới,
Apu Hralpo,
năm độc cháy bừng.

82. Từ nãy đến giờ,
toàn lời lãi nhãi,
nhưng vậy đã sao?
Nội dung xứng đáng,
ý không sai lầm,
vậy công đức này,
ta dành cho con
cùng với những ai
trong khắp ba cõi,
nguyện mọi nguyện ước
khởi từ chánh pháp
đều thành sự thật!

HẾT PHÂN CHÁNH VĂN




Gedun Rinpoche: NHƯ NGỌN LỬA LỚN

 Tác Giả: Đại Sư Drakpu – Gendun Rinpoche
Việt ngữ: hồng như – bản dịch 2015.

Tâm đại thừa của bồ tát là ước nguyện khi tu có được bao nhiêu quả đều dành hết cho chúng sinh. Tu có tiến bộ được hay không là tùy ở mức độ rộng hẹp của ước nguyện này. Nếu ước nguyện của bồ tát thật sự khởi sinh trong tâm, pháp hành
của chúng ta  sẽ trở nên vô cùng rộng lớn, đạt kết quả lớn lao.

Bao giờ thật sự có được tâm vì chúng sinh, thật lòng muốn như vậy, tự nhiên chính tâm nguyện này sẽ trở thành cội rễ của niềm vui. Chúng ta sẽ luôn hoan hỉ, tràn đầy niềm hứng khởi và hăng hái muốn tu. Công phu hành trì không còn là chữ nghĩa đầu môi, mà thật sự mang ý nghĩa sâu xa, xuất phát từ niềm vui này.

Niềm vui đang nói đây là niềm vui gì ?

Là điều cho chúng ta thấy rằng đời sống này thật ra không vô vọng, cũng không tuyệt vọng. Đã đủ thiện duyên để gặp Phật Pháp, lại được quy y, thấy được tiềm năng của chính mình, đời sống của chúng ta nhờ đó trở nên tràn đầy ý nghĩa. Chúng ta tự nói với mình rằng, “tôi đã hiểu ý nghĩa của đời sống này, từ nay sẽ luôn dốc sức nỗ lực mang hạnh phúc về cho chúng sinh.” Niềm vui sẽ dấy lên sâu xa, cùng với nguồn nghị lực và khả năng vô biên, quyết tu cho đến khi đạt quả.

Chúng ta liên tục phát tâm như vậy, không để dây vướng vào những ý nghĩ tiêu cực như là “mình có đủ sức tu hay không?” “mình tu có sẽ được quả gì hay không?” Không còn hoài nghi về chính mình, việc tu trở thành việc tự nhiên, là thành tựu tự nhiên của niềm hoan hỉ trong tim.

Càng cảm thấy vui, chúng ta càng hiểu vui được là nhờ chánh pháp. Càng hiểu được như vậy, niềm vui lại càng lớn thêm, cho đến khi trở nên không còn giới hạn. Chúng ta bị niềm vui xâm chiếm, càng lúc càng rạng ngời tỏa sáng với nguồn ánh sáng nội tại quét tan mê chướng, quét tan mọi thói quen bấn loạn, mọi ác nghiệp đã gieo. Công phu hành trì trở nên dễ dàng, tự nhiên và tự khởi. Chúng ta không cần ép mình, cũng không cần cố gắng, công phu tu tập sẽ phát triển một cách tự nhiên không dụng công, nhờ vào sức mạnh của niềm vui này, như trận lửa lớn, càng lúc càng lan rộng, không thể kiềm chế, thiêu rụi mọi ác nghiệp, mọi phiền não khổ đau. Không còn chỗ để mà buồn phiền, giải đãi, hoài nghi, hay tự vấn, ngược lại chỉ còn lòng tự tín và tín tâm, càng lúc càng tăng. Nguồn ánh sáng nội tại này phá tan mọi thói quen bất thiện, mọi khuynh hướng tiêu cực và mọi hoài nghi. Việc muốn tu trở thành điều hiển nhiên, vô cùng tự nhiên.

Tại sao khi tu, chúng ta luôn cảm thấy nặng nề, thân thể trì trệ, đầu râm rang nhức, không làm sao có thể tu? Tại sao chúng ta luôn có cảm giác tu là thứ gì quá khó, không thể làm nổi?

Là vì tâm của chúng ta đầy cả tham, sân và si, luôn kéo chúng ta rơi về lại với chính mình. Chúng ta bị cầm tù. Chúng ta luôn căng thẳng, không ngừng chất vấn về bản thân và về khả năng tu của chính mình. Chúng ta tự cho rằng mình sẽ không làm sao có thể có được tâm hướng đạo sư chân chính, chỉ vì chúng ta không ngừng tự nói với mình rằng, “tôi phải là người tốt,” “tôi phải làm được,” bận tâm cho cái tôi đến mức dù một câu chú cũng không tài nào đọc nổi. Chúng ta bị tê liệt vì hình tượng của chính mình, và vì nỗi bận tâm muốn chứng minh mình là ai.

Thái độ bám dính vào cái tôi này chính là cội nguồn của mọi khó khăn, mọi vấn đề. Chúng ta bị xâu xé giữa hai cực mâu thuẫn, kẹt cứng trong nỗi bận tâm muốn sống cho tốt, muốn làm người tốt, đến nỗi chính điều này lại ngăn cản không cho chúng ta tự sửa mình. Buông bỏ thứ muốn này đi thì khó khăn mất hết, chúng ta sẽ tiến tới một cách tự nhiên.

Trong đời sống hàng ngày, khi cần thực hiện mục tiêu mà chúng ta tin tưởng và khao khát thì việc gì cũng làm được, thừa sức vượt qua mọi khó khăn không hề thoái chí. Nhưng khi bước vào đường tu thì chúng ta lại cảm thấy quá khó. Chúng ta giận dữ. Chúng ta bực bội, không vừa lòng. Là vì sao? Vì chúng ta chưa thật sự muốn tu. Vì chúng ta chưa có được tâm nguyện thật sự hướng về quả giác ngộ.

Nếu chúng ta có thể hăng hái tu giống như hăng hái làm việc đời thì quả giác ngộ đã không ngoài tầm tay.




Langri Thangpa: TÁM THI KỆ CHUYỂN TÂM

 – [Eight Verses for Training the Mind] –
Tác Giả (Author): Geshe Langri Thangpa (thế kỷ thứ 12) –
Ngôn ngữ (language): Việt – English –
Việt ngữ: hồng như – bản dịch 2006

Tám Thi Kệ Chuyển Tâm

1.
Với quyết tâm thành tựu
Lợi lạc lớn lao nhất
Nhờ tất cả chúng sinh,
Tôi nguyện luôn giữ gìn
Chúng sinh trong đáy tim,
Vì chúng sinh quí hơn
Cả bảo châu như ý.

2.
Khi gặp gỡ tiếp xúc

Với bất kỳ một ai,
Nguyện tôi luôn thấy mình
Là kẻ thấp kém nhất,
Từ đáy lòng chân thật
Luôn tôn kính mọi người
Như kính bậc tối cao.

3.
Nguyện trong từng hành động

Tôi luôn tự xét mình,
Phiền não vừa dấy lên,
Ðe dọa mình và người,
Nguyện tức thì nhận diện,
Và tức thì dẹp tan.

4.
Khi gặp người hiểm ác

Vì bị tâm phiền não
Và ác nghiệp tác động,
Nguyện tôi quí người ấy
Như vừa tìm ra được
Kho tàng trân quí nhất.

5.
Khi gặp người vì lòng

Ganh ghen và đố kỵ
Miệt thị phỉ báng tôi,
Nguyện tôi nhận phần thua,
Nhường đi mọi phần thắng.

6.
Khi gặp người mà tôi

Giúp đỡ, đặt kỳ vọng,
Lại vong ân bội nghĩa
Gây tổn hại cho tôi,
Nguyện tôi xem người ấy
Là một đấng tôn sư.

7.
Tóm lại tôi xin nguyện

Trực tiếp và gián tiếp
Trao tặng mọi lợi lạc
Cho tất cả chúng sinh
Ðều là mẹ của tôi
Từ vô lượng kiếp trước.
Nguyện âm thầm gánh chịu
Mọi ác nghiệp khổ não
Thay thế cho chúng sinh

8.
Nguyện những điều nói trên

Không bị vướng ô nhiễm
Bởi tám ngọn gió chướng.
Nguyện tôi thấy mọi sự
Hiện ra trong cõi đời
Ðều chỉ như huyễn mộng
Cho tâm thôi chấp bám
Thoát ràng buộc luân hồi.


<< Đọc Tiếng Anh (Read the English Version) >>

Eight Verses for Training the Mind

1.  With the determination to accomplish
The highest welfare of all sentient beings,
Who excel even the wish-fulfilling jewel,
May I at all times hold them dear.

2.  Whenever I associate with others
May I think of myself as the lowest of all.
And from the depth of my heart
Hold the others as supreme.

3.  In all actions may I search into my mind,
And as soon as delusions arise
That endanger myself and others,
May I firmly face and avert them.

4.  When I see beings of wicked nature,
Oppressed by violent misdeeds and afflictions,
May I hold them dear
As if I had found a rare and precious treasure.

5. When others out of envy treat me badly
With slander, abuse and the like,
May I suffer the loss and
Offer the victory to them.

6. When the one whom I have helped
And benelitted with great hope
Hurts me badly, may I behold him
As my supreme guru.

7. In short, may I directly and indirectly offer
Benefit and happiness to all my mothers.
May 1 secretly take upon myself the harmful actions
And suffering of my mothers.

8. May all this remain undefiled by the stains of
Keeping in view the eight worldly principles.
May I, by perceiving all phenomena as illusory,
Unattached, be delivered from the bondage of samsara.


<< Đọc Tiếng Việt (Read the Vietnamese Version) >>





Karmapa III: LỜI NGUYỆN ĐẠI THỦ ẤN LIỄU NGHĨA

Tác giả (author): the 3rd Karmapa Rangjung Dorje (1284–1339),

017_Vajradhara
Phật Kim Cang Trì



Tiếng Việt

LỜI NGUYỆN ĐẠI THỦ ẤN LIỄU NGHĨA
Đức Rangjung Dorje (Karmapa III) soạn tác

Hồng Như chuyển Việt ngữ – Bản dịch lại từ Tạng ngữ – 09 tháng 01, 2022, xin dùng bản này thay cho các bản dịch trước đây.

Điều kiện hành trì: Mọi người đều có thể đọc, nhưng cần nương bậc đạo sư đủ khả năng khai thị để hành trì.

ན་མོ་གུ་རུ། །
Nam mô Thượng Sư

§I. KHAI TỤNG

#1.
བླ་མ་རྣམས་དང་ཡི་དམ་དཀྱིལ་འཁོར་ལྷ། །
Thượng sư; bổn tôn khắp mạn đà la;
ཕྱོགས་བཅུ་དུས་གསུམ་རྒྱལ་བ་སྲས་དང་བཅས། །
Mười phương ba thời Phật đà bồ tát,
བདག་ལ་བརྩེར་དགོངས་བདག་གི་སྨོན་ལམ་རྣམས། །
Xin thương chúng con, lắng nghe nguyện này,
ཇི་བཞིན་འགྲུབ་པའི་མཐུན་འགྱུར་བྱིན་རླབས་མཛོད། །
Và hộ trì cho nguyện thành sự thật.

§II. PHẦN CHÍNH
§II.A. LỜI NGUYỆN TỔNG QUÁT

#2.
བདག་དང་མཐའ་ཡས་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་ཀྱི། །
Con cùng hết thảy chúng sinh vô biên,
བསམ་སྦྱོར་རྣམ་དག་གངས་རི་ལས་སྐྱེས་པའི། །
Tâm, hạnh sạch trong như đỉnh núi tuyết,
འཁོར་གསུམ་རྙོག་མེད་དགེ་ཚོགས་ཆུ་རྒྱུན་རྣམས། །
Tam luân không nhiễm, công đức suối tràn,
རྒྱལ་བ་སྐུ་བཞིའི་རྒྱ་མཚོར་འཇུག་གྱུར་ཅིག
Nguyện nhập biển rộng tứ thân Thế tôn.

§II.B. LỜI NGUYỆN CHI TIẾT HƯỚNG BỒ ĐỀ
§II.B.1. NGUYỆN ĐỦ THẮNG DUYÊN
§II.B.1.a. NGUYỆN ĐỦ THẮNG DUYÊN: LỜI NGUYỆN TỔNG QUÁT

#3.
ཇི་སྲིད་དེ་མ་ཐོབ་པ་དེ་སྲིད་དུ། །
Trước khi thực hiện được nguyện ước ấy,
སྐྱེ་དང་སྐྱེ་བ་ཚེ་རབས་ཀུན་ཏུ་ཡང་། །
Nguyện mọi đời kiếp tái sinh về sau,
སྡིག་དང་སྡུག་བསྔལ་སྒྲ་ཡང་མི་གྲག་ཅིང་། །
Đến chữ “ác”, “khổ” cũng không nghe thấy,
བདེ་དགེ་རྒྱ་མཚོའི་དཔལ་ལ་སྤྱོད་པར་ཤོག
Hưởng trọn biển rộng công đức an vui.

§II.B.1.b. NGUYỆN ĐỦ THẮNG DUYÊN: LỜI NGUYỆN ĐẶC THÙ

#4.
དལ་འབྱོར་མཆོག་ཐོབ་དད་བརྩོན་ཤེས་རབ་ལྡན། །
Đạt thân hạ mãn, đủ tín cần tuệ,
བཤེས་གཉེན་བཟང་བསྟེན་གདམས་པའི་བཅུད་ཐོབ་ནས། །
Nương thiện tri thức, thọ pháp khai thị,
ཚུལ་བཞིན་སྒྲུབ་བར་ཆད་མ་མཆིས་པར། །
Nguyện tu đúng cách, chướng ngại đều không,
ཚེ་རབ་ཀུན་ཏུ་དམ་ཆོས་སྤྱོད་པར་ཤོག
Đời đời kiếp kiếp vui cùng diệu pháp.

§II.B.2. NGUYỆN ĐẠT TUỆ GIÁC TOÀN HẢO CHỨNG ĐẠO

#5.
ལུང་རིག་ཐོས་པས་མི་ཤེས་སྒྲིབ་ལས་གྲོལ། །
Nghe giáo và lý, thoát chướng vô tri; [văn tuệ]
མན་ངག་བསམ་པས་ཐེ་ཚོམ་མུན་ནག་བཅོམ། །
Nghe rồi tư duy, phá đêm nghi hoặc; [tư tuệ]
སྒོམ་བྱུང་འོད་ཀྱིས་གནས་ལུགས་ཇི་བཞིན་གསལ། །
Ánh sáng tu tập soi tỏ tánh như : [tu tuệ]
ཤེས་རབ་གསུམ་གྱི་སྣང་བ་རྒྱས་པར་ཤོག
Nguyện tam tuệ quang đều luôn tăng trưởng.

§II.B.3. NGUYỆN ĐƯỜNG TU KHÔNG LẦM LẠC

#6.
རྟག་ཆད་མཐའ་བྲལ་བདེན་གཉིས་གཞི་ཡི་དོན། །
Nhị đế là nền, siêu việt thường, đoạn;
སྒྲོ་སྐུར་མཐའ་བྲལ་ཚོགས་གཉིས་ལམ་མཆོག་གིས། །
Nhị lương là đạo, siêu việt lấy, bỏ;
སྲིད་ཞིའི་མཐའ་བྲལ་དོན་གཉིས་འབྲས་ཐོབ་པའི། །
Nhị lợi là quả, siêu việt tất cả luân hồi, niết bàn:
གོལ་འཆུག་མེད་པའི་ཆོས་དང་འཕྲད་པར་ཤོག
Nguyện con gặp được Pháp không lầm lạc.

§II.B.4. NGUYỆN PHÁP TU KHÔNG LẦM LẠC
§II.B.4.a. NGUYỆN PHÁP TU KHÔNG LẦM LẠC: LỜI NGUYỆN TỔNG QUÁT

#7.
སྦྱང་གཞི་སེམས་ཉིད་གསལ་སྟོང་ཟུང་འཇུག་ལ། །
Nền tảng cần tịnh chính là tự tâm, sáng-không hợp nhất;
སྦྱོང་བྱེད་ཕྱག་ཆེན་རྡོ་རྗེའི་རྣལ་འབྱོར་ཆོས།
Điều khiến cho tịnh là đại thủ ấn du già kim cang;
སྦྱང་བྱ་གློ་བུར་འཁྲུལ་པའི་དྲི་མ་རྣམས། །
Làm cho tịnh đi hết thảy cấu nhiễm vọng tâm sinh diệt,
སྦྱང་འབྲས་དྲི་བྲལ་ཆོས་སྐུ་མངོན་གྱུར་ཤོག
Nguyện nhờ như vậy hiển lộ quả tịnh: ly cấu pháp thân.

§II.B.4.b. NGUYỆN CHO PHÁP TU KHÔNG LẦM LẠC : LỜI NGUYỆN RIÊNG CHO KIẾN, TU, HẠNH (NGẮN)

#8.
གཞི་ལ་སྒྲོ་འདོགས་ཆོད་པ་ལྟ་བའི་གདེངས། །
Diệt vọng về thể là tự tại kiến;
དེ་ལ་མ་ཡིངས་སྐྱོང་བ་སྒོམ་པའི་གནད། །
Giữ kiến không quên là lõi pháp tu;
སྒོམ་དོན་ཀུན་ལ་རྩལ་སྦྱོང་སྤྱོད་པའི་མཆོག།
Tu gì làm nấy là thù thắng hạnh:
ལྟ་སྒོམ་སྤྱོད་པའི་གདེང་དང་ལྡན་པར་ཤོག
Nguyện kiến-tu-hạnh tự tại an nhiên.

§II.B.4.b.i. KIẾN
§II.B.4.b.i.a. NGUYỆN KIẾN ĐẠI THỦ ẤN (NGẮN)

#9.
ཆོས་རྣམས་ཐམས་ཅད་སེམས་ཀྱི་རྣམ་འཕྲུལ་ཏེ། །
Vạn pháp đều từ nơi tâm hiện ra.
སེམས་ནི་སེམས་མེད་སེམས་ཀྱི་ངོ་བོས་སྟོང་། །
Tâm vốn không tâm, thật tánh vốn không.
སྟོང་ཞིང་མ་འགག་ཅིར་ཡང་སྣང་པ་སྟེ། །
Không nên không diệt, hiện đủ sắc tướng.
ལེགས་པར་རྟགས་ན་གཞི་རྩ་ཆོད་པར་ཤོག
Nguyện khéo quán chiếu, đoạn hết mê lầm về thể của tâm.

§II.B.4.b.i.b GIẢNG RỘNG VỀ KIẾN
§II.B.4.b.i.b.1 NGUYỆN CHỨNG VẠN PHÁP LÀ TÂM

#10.
ཡོད་མ་མྱོང་བའི་རང་སྣང་ཡུལ་དུ་འཁྲུལ། །
Tự tướng vốn không, lại lầm là cảnh;
མ་རིག་དབང་གིས་རང་རིག་བདག་ཏུ་འཁྲུལ། །
Vô minh xui khiến, nhìn vào minh giác lại thấy là tôi;
གཉིས་འཛིན་དབང་གིས་སྲིད་པའི་ཀློང་དུ་འཁྱམས། །
Chấp nhị chi phối, trôi lăn luân hồi:
མ་རིག་འཁྲུལ་པའི་རྩད་དར་ཆོད་པར་ཤོག
Nguyện đoạn vô minh, gốc của mê vọng.

§II.B.4.b.i.b.2 NGUYỆN SIÊU VIỆT THƯỜNG ĐOẠN

#11.
ཡོད་པ་མ་ཡིན་རྒྱལ་བས་ཀྱང་མ་གཟིགས། །
Chẳng phải là có, vì chính Phật cũng chưa từng thấy qua;
མེད་པ་མ་ཡིན་འཁོར་འདས་ཀུན་གྱི་གཞི། །
Chẳng phải là không, vì là nền tảng sinh tử, niết bàn;
འགལ་དུ་མ་ཡིན་ཟུང་འཇུག་དབུ་མའི་ལམ། །
Chẳng phải mâu thuẫn, hợp nhất trung đạo:
མཐའ་བྲལ་སེམས་ཀྱི་ཆོས་ཉིད་རྟོགས་པར་ཤོག
Nguyện chứng được tâm siêu việt cực đoan.

§II.B.4.b.i.b.3 NGUYỆN SIÊU VIỆT CÓ-KHÔNG

#12.
འདི་ཡིན་ཞེས་པ་གང་གིས་མཚོན་པ་མེད། །
Lấy gì khẳng định rằng “chính là nó;”
འདི་མིན་ཞེས་བྱ་གང་གིས་བཀག་པ་མེད། །
Lấy gì phủ định rằng “không phải nó;”
བློ་ལས་འདས་པའི་ཆོས་ཉིད་འདུས་མ་བྱས། །
Chân tánh vạn pháp, siêu việt khái niệm, không phải hữu vi:
ཡང་དག་དོན་གྱི་མཐའ་ནི་ངེས་པར་ཤོག
Nguyện biết xác quyết thắng nghĩa cứu cánh.

§II.B.4.b.i.b.4 NGUYỆN CHỨNG TÁNH KHÔNG DUYÊN KHỞI BẤT NHỊ

#13.
འདི་ཉིད་མ་རྟོགས་འཁོར་བའི་རྒྱ་མཚོར་འཁོར། །
Vì chưa chứng nên trầm luân biển khổ,
འདི་ཉིད་རྟོགས་ན་སངས་རྒྱས་གཞན་ན་མེད། །
Nếu đã chứng rồi, Phật chẳng đâu khác.
ཐམས་ཅད་འདི་ཡིན་འདི་མིན་གང་ཡང་མེད། །
Vạn pháp không gì là “thị” hay “phi,”
ཆོས་ཉིད་ཀུན་གཞིའི་མཚང་ནི་རིག་པར་ཤོག
Nguyện con chứng được pháp tánh kín mật, bản thể vạn pháp.

§II.B.4.b.i.b.5 NGUYỆN ĐOẠN TRỪ NGHI HOẶC VỀ BẢN THỂ

#14.
སྣང་ཡང་སེམས་ལ་སྟོང་ཡང་སེམས་ཡིན་ཏེ། །
Cảnh hiện là tâm; không cũng là tâm;
རྟོགས་ཀྱང་སེམས་ལ་འཁྲུལ་ཡང་རང་གི་སེམས། །
Chứng ngộ là tâm; mê cũng là tâm;
སྐྱེས་ཀྱང་སེམས་ལ་འགགས་ཀྱང་སེམས་ཡིན་པས། །
Sinh cũng là tâm; diệt cũng là tâm:
སྒྲོ་འདོགས་ཐམས་ཅད་སེམས་ལ་ཆོད་པར་ཤོག
Mê lầm về tâm, nguyện đoạn trừ cả.

§II.B.4.b.ii. TU
§II.B.4.b.ii.a. LỜI NGUYỆN TỔNG QUÁT CHO PHÁP THIỀN ĐẠI THỦ ẤN

#15.
བློས་བྱས་རྩོལ་བའི་སྒོམ་གྱིས་མ་སླད་ཅིང་། །
Không nhiễm vì niệm thao tác pháp thiền;
ཐ་མལ་འདུ་འཛིའི་རླུང་གིས་མ་བསྐྱོད་པར། །
Không loạn vì khí động việc thế gian;
མ་བཅོས་གཉུག་མ་རང་བབ་འཇོག་ཤེས་པའི། །
Biết tự an trú trong tánh tự nhiên không cần dụng công
སེམས་དོན་ཉམས་ལེན་མཁས་ཤིང་སྐྱོང་བར་ཤོག
Nguyện nghĩa của tâm, khéo tu và giữ.

§II.B.4.b.ii.b. LỜI NGUYỆN CHI TIẾT CHO PHÁP THIỀN ĐẠI THỦ ẤN
§II.B.4.b.ii.b.1 NGUYỆN ĐẠT TỊNH CHỈ

#16.
ཕྲ་རག་རྟོགས་པའི་རྦ་རླབས་རང་སར་ཞི། །
Cho bao sóng niệm thô tế tự lặn;
གཡོ་མེད་སེམས་ཀྱི་ཆུ་བོ་ངང་གིས་གནས། །
Cho dòng sông tâm yên lắng tự nhiên;
བྱིང་རྨུགས་རྙོག་པའི་དྲི་མ་དང་བྲལ་བའི། །
Thoát li cấu nhiễm hôn trầm trạo cử:
ཞི་གནས་རྒྱ་མཚོ་མི་གཡོ་བརྟན་པར་ཤོག
Nguyện biển tịnh chỉ bất động vững vàng.

§II.B.4.b.ii.b.2 NGUYỆN ĐẠT TUỆ QUÁN

#17.
བལྟར་མེད་སེམས་ལ་ཡང་ཡང་བལྟས་པའི་ཚེ། །
Nhìn đi nhìn lại tâm không thể thấy
མཐོང་མེད་དོན་ནི་ཇི་བཞིན་ལྷག་གེར་མཐོང་། །
Điều không thể thấy hiển hiện rõ ràng đúng như sự thật;
ཡིན་མིན་དོན་ལ་ཐེ་ཚོམ་ཆོད་མ་ཉིད། །
Nghi hoặc có-không, đoạn lìa hết thảy:
འཁྲུལ་མེད་རང་ངོ་རང་གིས་ཤེས་པར་ཤོག
Nguyện thoát mê vọng, chứng diện mục mình

§II.B.4.b.ii.b.3 NGUYỆN NHÌN RA CHÂN TÁNH

#18.
ཡུལ་ལ་བལྟས་པས་ཡུལ་མེད་སེམས་སུ་མཐོང་། །
Nhìn vào nơi cảnh, thấy tâm không cảnh
སེམས་ལ་བལྟས་པས་སེམས་མེད་ངོ་བོས་སྟོང་། །
Nhìn vào nơi tâm, thấy tánh không tâm
གཉིས་ལ་བལྟས་པས་གཉིས་འཛིན་རང་སར་གྲོལ། །
Nhìn vào cả hai, nhị chấp tự thoát:
འོད་གསལ་སེམས་ཀྱི་གནས་ལུགས་རྟོགས་པར་ཤོག
Chứng tánh tự nhiên bản giác diệu minh.

§II.B.4.b.ii.b.4 NGUYỆN ĐẮC NGHĨA VIÊN THÔNG

#19.
ཡིད་བྱེད་བྲལ་བ་འདི་ནི་ཕྱག་རྒྱ་ཆེ། །
Thoát ly động niệm là đại thủ ấn;
མཐའ་དང་བྲལ་བ་དབུ་མ་ཆེན་པོ་ཡིན། །
Lìa mọi cực đoan là đại trung đạo;
འདི་ནི་ཀུན་འདུས་རྫོགས་ཆེན་ཞེས་ཀྱང་བྱ། །
Đủ cả, nên gọi là đại viên mãn:
གཅིག་ཤེས་ཀུན་དོན་རྟོགས་པའི་གདེང་ཐོབ་ཤོག
Nguyện con đoan chắc: một trí chứng đắc, vạn nghĩa tỏ tường.

§II.B.4.b.ii.b.5 NGUYỆN VÀO CẢNH GIỚI THIỀN TOÀN HẢO

#20.
ཞེན་པ་མེད་པའི་བདེ་ཆེན་རྒྱུན་ཆད་མེད། །
Đại lạc vô trước một dòng không dứt;
མཚན་འཛིན་མེད་པའི་འོད་གསལ་སྒྲིབ་གཡོགས་བྲལ། །
Diệu minh vô chấp lìa mọi chướng che;
བློ་ལས་འདས་པའི་མི་རྟོག་ལྷུན་གྱིས་གྲུབ། །
Siêu việt niệm tưởng, vô niệm tự thành:
རྩོལ་མེད་ཉམས་མྱོང་རྒྱུན་ཆད་མེད་པར་ཤོག
Cảnh vô dụng công, nguyện không gián đoạn.

§II.B.4.b.ii.b.6 NGUYỆN THẬT CHỨNG

#21.
བཟང་ཞེན་ཉམས་ཀྱི་འཛིན་པ་//རང་སར་གྲོལ། །
Tâm chấp cảnh thiện giải thoát tự nhiên;
ངན་རྟོག་འཁྲུལ་པ་// རང་བཞིན་དབྱིངས་སུ་དག
Nghịch tâm vọng cảnh, tan vào tự tánh;
ཐ་མལ་ཤེས་པ་སྤང་བླང་བྲལ་ཐོབ་མེད། །
Tâm vốn bình thường, chẳng hề lấy bỏ, không có chứng đắc:
སྤྲོས་བྲལ་ཆོས་ཉིད་བདེན་པ་རྟོགས་པར་ཤོག
Nguyện chứng sự thật chân tánh vạn pháp lìa mọi hý luận.

§II.B.4.b.iii. HẠNH
§II.B.4.b.iii.a. NGUYỆN KHỞI ĐẠI BI

#22.
འགྲོ་བའི་རང་བཞིན་རྟག་ཏུ་སངས་རྒྱས་ཀྱང་། །
Chúng sinh tự tánh luôn là Phật tánh,
མ་རྟོགས་དབང་གིས་མཐའ་མེད་འཁོར་བར་འཁྱམས། །
Bởi vì không biết mà phải trầm luân sinh tử vô biên,
སྡུག་བསྔལ་མུ་མཐའ་མེད་པའི་སེམས་ཅན་ལ། །
Khổ đau bức bách, cùng cực triền miên:
བཟོད་མེད་སྙིང་རྗེ་རྒྱུད་ལ་སྐྱེ་བར་ཤོག
Nguyện tâm đại-bi-khôn-kham dũng phát.

§II.B.4.b.iii.b. NGUYỆN BI TRÍ BẤT NHỊ

#23.
བཟོད་མེད་སྙིང་རྗེའི་རྩལ་ཡང་མ་འགགས་པ་པའི། །
Đại-bi-khôn-kham, thị hiện bất tận,
བརྩེ་དུས་ངོ་བོ་སྟོང་དོན་རྗེན་པར་ཤར།
Từ lòng thương này trần trụi phơi bày ý nghĩa tánh không.
ཟུང་འཇུག་གོལ་ས་བྲལ་བའི་ལམ་མཆོག་འདི། །
Thắng đạo hợp nhất, thoát lối mê lầm:
འབྲལ་མེད་ཉིན་མཚན་ཀུན་ཏུ་བསྒོམ་པར་ཤོག
Ngày cũng như đêm nguyện luôn tu tập.

§II.B.5. NGUYỆN VIÊN THÀNH ĐẠO QUẢ

#24.
སྒོམ་སྟོབས་ལས་བྱུང་སྤྱན་དང་མངོན་ཤེས་དང་། །
Nhờ đắc thiền nên sinh nhãn, thần thông;
སེམས་ཅན་སྨིན་བྱས་སངས་རྒྱས་ཞིང་རབ་སྦྱངས། །
Thành thục chúng sinh; thanh tịnh cõi Phật;
སངས་རྒྱས་ཆོས་རྣམས་འགྲུབ་པའི་སྨོན་ལམ་རྫོགས། །
Viên thành đại nguyện làm việc Phật làm,
རྫོགས་མིན་སྦྱངས་གསུམ་མཐར་ཕྱིན་སངས་རྒྱས་ཤོག
Rốt ráo cả ba—viên, tịnh, và thục—nguyện thành Phật quả.

#25.
ཕྱོགས་བཅུའི་རྒྱལ་བ་སྲས་བཅས་ཐུགས་རྗེ་དང་། །
Nương lực từ bi của Phật bồ tát ở khắp mười phương;
རྣམས་དཀར་དགེ་བ་ཇི་སྙེད་ཡོད་པའི་མཐུས།
Và nương năng lực thiện nghiệp công đức
དེ་ལྟར་བདག་དང་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་ཀྱི། །
Nguyện con cùng với hết thảy chúng sinh
སྨོན་ལམ་རྣམ་དག་ཇི་བཞིན་འགྲུབ་གྱུར་ཅིག
Có bao nguyện lành đều thành sự thật.

ངེས་དོན་ཕྱག་རྒྱ་ཆེན་པོའི་སྨོན་ལམ་ཞེས་བྱ་བ་རྗེ་རང་བྱུང་རྡོ་རྗེས་མཛད་པའོ། །
Đại Thủ Ấn Liễu Nghĩa Nguyện Tụng, do Pháp Vương Karmapa Rangjung Dorje trước tác.




Lama Tsongkhapa: LAMRIM TINH YẾU LUẬN: Chứng Đạo Ca

– English Title: Song of Experience
– Tác Giả (Author):
Lama Tông Khách Ba (sơ tổ dòng Gelug)
– Việt ngữ: Hồng Như
      1: Bản mới, nhuận văn 2021 (dịch từ Tạng ngữ)
      2: Bản mới 2019: Tạng Anh Việt (dịch từ Tạng ngữ)
      3: Bản cũ 2004 (dịch từ Anh ngữ)

      BẢN MỚI, DỊCH TỪ TẠNG NGỮ (2019, nhuận văn 2021)

      Tiếng Việt

      Tibetan title: Lam rim nyams mgur
      Tựa đề tiếng Việt: LAMRIM CHỨNG ĐẠO CA
      : Tinh Yếu Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ

      1. Thân sinh ra từ / muôn vạn thiện lành;
      Lời nói toàn thành / nguyện ước chúng sinh;
      Ý thấy khắp cả / đúng như sự thật:
      Trước bậc đứng đầu / dòng họ Thích ca / con xin đảnh lễ.

      2. Là trưởng tử của / bậc Thầy vô song,
      Đảm đương việc làm / của khắp chư Phật,
      Du hí thị hiện / hằng sa cõi giới:
      Di Lạc, Văn Thù / con xin kính lễ.

      3. Dù nghĩa Phật mẫu / thậm thâm khó lường,
      Vẫn giảng đúng như / ý thật của Phật:
      Long thọ, Vô trước, / ba cõi danh lừng,
      Đê đầu dưới chân / con xin kính lễ.

      4. Là người tiếp giữ / mọi điểm tinh yếu / kho tàng khai thị / đầy đủ không sai
      Của hai đường tu / tri kiến thâm sâu, / thiện hạnh quảng đại,
      Được truyền xuống từ / nhị đại tổ sư.
      Đức Atisa (Di-pam-ka-ra), con xin kính lễ.

      5. Ân sư là mắt / cho chúng con nhìn / muôn trùng kinh điển;
      Là lòng sông cạn / đưa kẻ thiện duyên / sang bờ giải thoát;
      Từ bi vận dụng / mọi thiện phương tiện, / soi tỏ lối đường:
      Khắp đấng Ân sư / con xin kính lễ.

      6. Là ngọc trang nghiêm / trên đỉnh bậc trí / cõi Diêm phù đề;
      Tràng phang danh xưng / lẫy lừng khắp chúng;
      Pháp chân truyền từ / Long thọ, Vô trước:
      Là Trình Tự Đường / Dẫn Đến Giác Ngộ.

      7. Vì bởi pháp này / làm tròn nguyện ước / chín loại chúng sinh
      Nên đây chính là / vua của vua pháp,
      Là lòng biển rộng / rạng ngời khéo giảng,
      Nơi ngàn dòng suối / luận văn đổ về.
      Giúp người tu hiểu / trăm vạn pháp môn / vốn không mâu thuẫn;
      Giúp trọn pháp Phật / tỏa rạng thành lời / trực chỉ khai thị / trong trí người tu;
      Giúp cho dễ dàng / hiểu được ý Phật;
      Giúp giữ người tu / thoát khỏi hố thẳm / của đại ác hạnh.
      Vì vậy nhiều bậc / thiện duyên Ấn-Tạng
      Dốc tâm nương vào / diệu pháp này đây.
      Trình tự đường tu / ba căn cơ này,
      Kẻ trí không ai / không bị cuốn hút.

      8. Pháp này thu nhiếp / trọn lời Phật dạy,
      Nên giảng hay nghe / dù chỉ một lần,
      Đều như giảng, nghe / toàn bộ diệu Pháp,
      Lợi ích nhất định / sẽ như sóng cả, / vì vậy hãy nên / chuyên chú tư duy.

      9. Rồi sẽ thấy ra / gốc rễ duyên lành
      Cho mọi thiện lành / đời này kiếp sau
      Nằm ở nỗ lực / mang tâm và hạnh / nương dựa đúng cách
      Nơi đấng đạo sư, / là người chỉ cho / đường tu giác ngộ.
      Thấy điều này rồi / cho dù mất mạng / cũng không từ bỏ,
      Phải gắng làm cho / đạo sư hoan hỉ / bằng cách tu theo / lời của đạo sư.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      10. Thân người ung dung / quí giá còn hơn / bảo châu như ý
      Đến chỉ một lần / cực kỳ khó gặp,
      Lại dễ mất như / tia chớp giữa trời.
      Thấy rõ kiếp người / chóng vánh như vậy,
      Chuyện đời khác gì / trấu lép loạn bay.
      Nên ngày lẫn đêm / phải luôn tận dụng / tinh túy thân này.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      11. Chết rồi chắc gì / không rơi ác đạo,
      Giúp thoát sợ này / chỉ có Tam Bảo.
      Vậy tâm qui y / phải giữ cho chắc,
      Đừng bao giờ để / phá hạnh qui y.
      Muốn được như vậy / phải khéo nghĩ về / nghiệp quả thiện ác,
      Để biết chọn việc / nên bỏ, nên làm.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      12. Thân người đủ mọi / phẩm tướng cần thiết / để theo thắng đạo,
      Nếu như thiếu đi / thì đường giác ngộ / không thể bứt phá.
      Vậy phải gắng sao / cho có đủ cả.
      Vì bởi ba cửa / nhuốm đầy cấu nhiễm / ác nghiệp, rơi đọa,
      Khẩn thiết nhất là / tẩy tịnh nghiệp chướng,
      Nên bốn sám lực / phải thường trân quí / áp dụng siêng năng.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      13. Tai hại khổ đế / không nỗ lực quán
      Thì tâm cầu thoát / không thật phát sinh.
      Nguyên nhân của khổ / luân chuyển thế nào, / nếu không quán chiếu
      Thì gốc luân hồi / không biết cách chặt.
      Cần nhất phải biết / chán khổ sinh tử, / khởi tâm cầu thoát,
      Và biết điều gì / trói buộc mình trong / sinh tử luân hồi.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      14. Phát tâm bồ đề / là cốt lõi của / đường tu Đại thừa;
      Nền tảng, chỗ dựa / của khắp muôn trùng / sóng cả thiện hạnh;
      Tựa như thuốc tiên / hóa sắc thành vàng, / biến tất cả thành / hai kho phước trí;
      Là cả kho tàng / công đức đồ sộ, / chứa hết vô lượng / thiện đức bồ đề.
      Vì biết điều này / nên chư bồ tát / uy dũng tự tại
      Gìn giữ tâm ấy / sâu thẳm bên trong / cốt tủy pháp hành.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      15. Thí là ngọc quý / toàn thành ước nguyện / cho khắp chúng sanh;
      Vũ khí thượng thặng / chặt phăng nút thắt / của lòng keo bẩn;
      Là hạnh bồ tát / sinh nguồn dũng cảm / không hề chán mệt;
      Và là nền tảng / khiến cho danh lành / truyền khắp mười phương.
      Vì biết điều này / nên người có trí / xả hết thân mạng / tài sản công đức,
      Chỉ để nương theo / con đường lành này.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      16. Giới là nước trong / giặt sạch tất cả / vết nhơ ác nghiệp;
      Là ánh trăng thanh / xoa dịu nỗi đau / rát bỏng phiền não;
      Đứng giữa phàm phu, / thân thể rạng ngời / như núi Tu di,
      Không cần thị uy / nhiếp phục khắp cả.
      Vì biết điều này / nên chư giác giả,
      Giữ giới đã thọ / quí như đôi mắt.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      17. Nhẫn là trang sức / quí giá nhất cho / người có quyền năng;
      Là sức chịu đựng / tuyệt bậc dành cho / bức bách phiền não;
      Là kim sí điểu / bay vút giữa trời, / làm khắc tinh của / rắn thù sân hận;
      Là lớp giáp bào / kiên cố ngăn chận / vũ khí ác ngữ.
      Biết vậy cho nên / giáp bào kham nhẫn,
      Bằng đủ mọi cách / phải tập làm quen.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      18. Khoát lớp giáp bào / tinh tấn bất thoái
      Thì học và chứng / tăng trưởng nhanh như / trăng đến độ rằm,
      Làm gì cũng đều / tràn đầy ý nghĩa,
      Và đều mang đến / kết quả mong cầu.
      Vì biết như vậy / nên chư bồ tát
      Cuộn sóng tinh tấn / quét sạch hết thảy / mọi kiểu biếng lười.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      19. Định là đại vương / ngự trị tâm thức.
      Để yên, bất động / như núi Tu Di
      Mở ra, thu nhiếp / toàn bộ thiện pháp,
      Cho hỉ lạc nhờ / nhu nhuyễn thân tâm.
      Vì biết vậy nên / hành giả tự tại
      Luôn nương pháp định / diệt thù tán tâm.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      20. Tuệ là đôi mắt / thâm chứng tánh Như;
      Là con đường bứng / sạch gốc luân hồi;
      Là kho tánh đức / kinh luận tán thán;
      Và nổi danh là / ngọn đèn vô thượng / xua bóng vô minh.
      Vì biết như vậy / nên người có trí / tìm cầu giải thoát
      Nỗ lực đủ cách / tu theo đường này.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      21. Nếu chỉ dựa vào / mỗi định-nhất-tâm / thì không thấy được
      Khả năng chặt đứt / gốc rễ luân hồi.
      Nếu chỉ có tuệ / thiếu đi tịnh chỉ
      Thì dù quán chiếu / truy tìm đến đâu / vẫn không thể nào / dứt được phiền não.
      Vì vậy kẻ trí / lấy tuệ thâm nhập / vào chân thực tại
      Cưỡi trên lưng ngựa / tịnh chỉ diệu trạm;
      Dùng vũ khí bén / luận lý Trung đạo / không vướng biên kiến
      Phá tan hết thảy / khái niệm phân biệt / chấp thường chấp đoạn.
      Dùng tuệ rộng lớn / quán chiếu chính xác
      Để làm khai mở / trí chứng tánh Như.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      22. Nhờ thiền nhất tâm / mà đạt tam muội,
      Chẳng gì đáng nói. / Dùng quán sát trí
      Truy xét tầm tư, / mà vẫn yên lắng,
      Bất động vững vàng / nơi chân thực tại,
      Thấy rồi nỗ lực / hợp nhất chỉ quán,
      Đây mới chính thật / là điều nhiệm mầu.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      23. Khi vào trong định, Không – như không gian;
      Khi xuất trở ra, Không – như huyễn cảnh;
      Tán dương những ai / nhờ tu như vậy / hợp nhất phương tiện / cùng với trí tuệ
      Nhờ đó siêu việt / các hạnh bồ tát.
      Để chứng điều này / nên bậc thiện duyên
      Không đành lòng với / đường tu riêng lẻ.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      24. Như thế chính là / đường tu phổ thông, / thiết yếu cho hai / thắng đạo đại thừa.
      là cỗ xe nhân / và cỗ xe quả.
      Tu rồi hãy tìm / nương sự che chở / của bậc thuyền trưởng / trí tuệ tài ba
      Để mà bước vào / biển cả mật pháp.
      Rồi nhờ dựa vào / lời giảng toàn hảo
      Sẽ không phí uổng / thân người có đây.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      25. Vì để huân tập / tâm của chính mình,
      Cũng để làm lợi / cho hàng thiện duyên,
      Thầy đã giải thích / bằng lời dễ hiểu
      Trọn vẹn đường tu / khiến Phật đẹp lòng.
      Nương công đức này / nguyện cho chúng sinh
      Không bao giờ lìa / chánh đạo tối thượng.
      Thầy là hành giả / đã nguyện như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy nguyện theo.

      Trình tự đường tu giác ngộ được trình bày ngắn gọn theo dạng dễ nhớ khó quên, do tỷ kheo đa văn, người đã buông xả, tên Lobsang Drakpa [Lama Tsongkhapa] viết nơi núi lớn lan nhã tại Geden Nampar Gyalwai Ling.

      Bản tiếng Việt: Hồng như Thupten Munsel, 2019: Bản mới dịch lại từ Tạng ngữ, tham khảo với ba bản dịch, Alex Berzin, Thupten Jinpa và Ven. Joan Nicell.



      1: Bản mới, nhuận văn 2021 (dịch từ Tạng ngữ)
      2: Bản mới 2019: Tạng Anh Việt (dịch từ Tạng ngữ)
      3: Bản cũ 2004 (dịch từ Anh ngữ)

      TẠNG – ANH – VIỆT (2019)

      [Bản tiếng Anh của Thupten Jinpa]

      ༄། །བྱང་ཆུབ་ལམ་གྱི་རིམ་པའི་ཉམས་ལེན་བསྡུས་དོན་གྱི་ཚིགས་སུ་བཅད་པ་བཞུགས་སོ།།
      Tibetan title: Lam rim nyams mgur
      English title: SONGS OF SPIRITUAL EXPERIENCE: Condensed Points of the Stages of the Path
      Tựa đề tiếng Việt: LAMRIM CHỨNG ĐẠO CA: Tinh Yếu Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ

      ༄༅། །ཕུན་ཚོགས་དགེ་ལེགས་བྱེ་བས་བསྐྲུན་པའི་སྐུ། །
      Your body is created from a billion perfect factors of goodness;
      1. Thân sinh ra từ / muôn vạn thiện lành;

      མཐའ་ཡས་འགྲོ་བའི་རེ་བ་བསྐོང་བའི་གསུང༌། །
      Your speech satisfies the yearnings of countless sentient beings;
      Lời nói toàn thành / nguyện ước chúng sinh;
      མ་ལུས་ཤེས་བྱ་ཇི་བཞིན་གཟིགས་པའི་ཐུགས། །
      Your mind perceives all objects of knowledge exactly as they are –
      Ý thấy khắp cả / đúng như sự thật:
      ཤཱཀྱའི་གཙོ་བོ་དེ་ལ་མགོས་ཕྱག་འཚལ། །
      I bow my head to you O chief of the Shakya clan.
      Trước bậc đứng đầu / dòng họ Thích ca / con xin đảnh lễ.

      ཟླ་མེད་སྟོན་པ་དེ་ཡི་སྲས་ཀྱི་མཆོག །
      You’re the most excellent sons of such peerless teacher;
      2. Là trưởng tử của / bậc Thầy vô song,
      རྒྱལ་བའི་མཛད་པ་ཀུན་གྱི་ཁུར་བསྣམས་ནས། །
      You carry the burden of the enlightened activities of all conquerors,
      Đảm đương việc làm / của khắp chư Phật,
      གྲངས་མེད་ཞིང་དུ་སྤྲུལ་པས་རྣམ་རོལ་བ། །
      And in countless realms you engage in ecstatic display of emanations –
      Du hí thị hiện / hằng sa cõi giới:
      མི་ཕམ་འཇམ་པའི་དབྱངས་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
      I pay homage to you O Maitreya and Manjushri.
      Di Lạc, Văn Thù / con xin kính lễ.

      ཤིན་ཏུ་དཔག་པར་དཀའ་བ་རྒྱལ་བའི་ཡུམ། །
      So difficult to fathom is the mother of all conquerors,
      3. Dù nghĩa Phật mẫu / thậm thâm khó lường,
      ཇི་བཞིན་དགོངས་པ་འགྲེལ་མཛད་འཛམ་གླིང་རྒྱན། །
      You who unravel its contents as it is are the jewels of the world;
      Vẫn giảng đúng như / ý thật của Phật:
      ཀླུ་སྒྲུབ་ཐོགས་མེད་ཅེས་ནི་ས་གསུམ་ན། །
      You’re hailed with great fame in all three spheres of the world –
      Long thọ, Vô trước, / ba cõi danh lừng,
      ཡོངས་སུ་གྲགས་པའི་ཞབས་ལ་བདག་ཕྱག་འཚལ། །
      I pay homage to you O Nagarjuna and Asanga.
      Đê đầu dưới chân / con xin kính lễ.

      ཤིང་རྟ་ཆེན་པོ་གཉིས་ལས་ལེགས་བརྒྱུད་པའི། །
      Stemming from these two great charioteers with excellence
      4. Hai đại tổ sư / khéo truyền hai đường
      ཟབ་མོའི་ལྟ་བ་རྒྱ་ཆེན་སྤྱོད་བའི་ལམ། །
      Are the two paths of the profound view and the vast conduct;
      Tri kiến thâm sâu, thiện hạnh quảng đại,
      མ་ནོར་ཡོངས་སུ་རྫོགས་པའི་གནད་བསྡུས་པའི། །
      You’re the custodian of the treasury of instructions encompassing all essential points
      Kho tàng khai thị không mê lầm này,
      གདམས་པའི་མཛོད་འཛིན་མར་མེ་མཛད་ལ་འདུད། །
      Of these paths without error, I pay homage to you O Dipamkara.
      Người tiếp giữ trọn / mọi điểm tinh yếu: / Đức Atisa (Dipamkara), con xin kính lễ.

      རབ་འབྱམས་གསུང་རབ་ཀུན་ལ་ལྟ་བའི་མིག །
      You are the eyes to see all the myriad collections of scriptures;
      5. Ân sư là mắt / cho chúng con nhìn / muôn trùng kinh điển;
      སྐལ་བཟང་ཐར་བར་བགྲོད་པའི་འཇུག་ངོགས་མཆོག །
      To the fortunate ones traveling to freedom you illuminate the excellent path,
      Là lòng sông cạn / đưa kẻ thiện duyên / sang bờ giải thoát;
      བརྩེ་བས་སྤྱོད་པའི་ཐབས་མཁས་མཛད་པ་ཡིས། །
      You do this through skillful deeds stirred forth by compassion.
      Từ bi vận dụng / mọi thiện phương tiện, / soi tỏ lối đường:
      གསལ་མཛད་བཤེས་གཉེན་རྣམས་ལ་གུས་ཕྱག་འཚལ།
      I pay respectful homage to you O all my spiritual mentors.
      Kính khắp Ân sư / con xin đảnh lễ.

      ༈ །འཛམ་གླིང་མཁས་པ་ཡོངས་ཀྱི་གཙུག་གི་རྒྱན། །
      You’re the crowning jewels among all the learned ones of this world;
      6. Là ngọc trang nghiêm / trên đỉnh bậc trí / cõi Diêm phù đề;
      སྙན་པའི་བ་དན་འགྲོ་ལ་ལྷང་ངེ་བ། །
      Your banners of fame flutter vibrantly amongst the sentient beings;
      Tràng phang danh xưng / lẫy lừng khắp chúng;
      ཀླུ་སྒྲུབ་ཐོགས་མེད་གཉིས་ལས་རིམ་བཞིན་དུ། །
      O Nagarjuna and Asanga from you flow in an excellent steady stream
      Pháp chân truyền từ / Long thọ, Vô trước:
      ལེགས་བརྒྱུད་བྱང་ཆུབ་ལམ་གྱི་རིམ་པ་ནི། །
      This [instruction on the] stages of the path to enlightenment.
      Là Trình Tự Đường / Dẫn Đến Giác Ngộ.

      སྐྱེ་རྒུའི་འདོད་དོན་མ་ལུས་སྐོང་བས་ན། །
      Since it fulfills all the wishes of beings without exception,
      7. Vì bởi pháp này / làm tròn nguyện ước / chín loại chúng sinh
      གདམས་པ་རིན་ཆེན་དབང་གི་རྒྱལ་བོ་སྟེ། །
      It is the king of kings among all quintessential instructions;
      Nên đây chính là / vua của vua pháp,
      གཞུང་བཟང་སྟོང་གི་ཆུ་བོ་འདུས་པའི་ཕྱིར། །
      Since it gathers into it thousands of excellent rivers of treatises,
      Là lòng biển rộng / rạng ngời khéo giảng,
      དཔལ་ལྡན་ལེགས་པར་བཤད་པའི་རྒྱ་མཚོའང་ཡིན། །
      It’s as well the ocean of most glorious well-uttered insights.
      Nơi ngàn dòng suối / luận văn đổ về.

      བསྟན་པ་ཐམས་ཅད་འགལ་མེད་རྟོགས་པ་དང༌། །
      It helps to recognize all teachings to be free of contradictions;
      Giúp người tu hiểu / trăm vạn pháp môn / vốn không mâu thuẫn;
      གསུང་རབ་མ་ལུས་གདམས་པར་འཆར་བ་དང༌། །
      It helps the dawning of all scriptures as pith instructions;
      Giúp trọn pháp Phật / tỏa rạng thành lời / trực chỉ khai thị / trong trí người tu;
      རྒྱལ་བའི་དགོངས་པ་བདེ་བླག་རྙེད་པ་དང༌། །
      It helps to find easily the enlightened intention of the conquerors;
      Giúp cho dễ dàng / hiểu được ý Phật;
      ཉེས་སྤྱོད་ཆེན་པོའི་གཡང་ས་ལས་ཀྱང་བསྲུང༌། །
      It helps also to guard against the abyss of grave negative deeds.
      Giúp giữ người tu / thoát khỏi hố thẳm / của đại ác hạnh.

      དེ་ཕྱིར་རྒྱ་བོད་མཁས་པའི་སྐྱེ་བོ་ནི། །
      Therefore this most excellent instruction that is sought after
      Vì vậy nhiều bậc / thiện duyên Ấn-Tạng
      སྐལ་ལྡན་དུ་མས་བསྟེན་པའི་གདམས་པ་མཆོག །
      By numerous fortunate ones like the learned ones of India and Tibet,
      Dốc tâm nương vào / diệu pháp này đây.
      སྐྱེས་བུ་གསུམ་གྱི་ལམ་གྱི་རིམ་པ་ཡིས། །
      This [instruction of the] stages of the path of persons of three capacities,
      Trình tự đường tu / ba căn cơ này,
      ཡིད་རབ་མི་ དཔྱད་ལྡན་སུ་ཞིག་ཡོད།
      What intelligent person is there whose mind is not captured by it?
      Kẻ trí không ai / không bị cuốn hút.

      ༈ །གསུང་རབ་ཀུན་གྱི་སྙིང་པོ་བསྡུ་བསྡུ་བ། །
      This concise instruction distilling the essence of all scriptures,
      8. Pháp này thu nhiếp / trọn lời Phật dạy,
      ཚུལ་འདི་ཐུན་རེ་སྟོན་དང་ཉན་པས་ཀྱང༌། །
      Even through reciting it or listening to it only once,
      Nên giảng hay nghe / dù chỉ một lần,
      དམ་ཆོས་འཆད་དང་ཐོས་པའི་ཕན་ཡོན་ཚོགས། །
      The benefits of teaching the dharma, listening to it, and so on,
      Đều như giảng, nghe / toàn bộ diệu Pháp,
      རླབས་ཆེན་སྡུད་པར་ངེས་པས་དེ་དོན་བསམ །
      Since such waves of merit are bound to be gathered contemplate its meaning.
      Lợi ích nhất định / sẽ như sóng cả, / vì vậy hãy nên / chuyên chú tư duy.

      ༈ །དེ་ནས་འདི་ཕྱིའི་ལེགས་ཚོགས་ཇི་སྙེད་པའི། །
      Then, the root of creating well the auspicious conditions
      9. Rồi sẽ thấy ra / gốc rễ duyên lành
      རྟེན་འབྲེལ་ལེགས་པར་འགྲིགས་པའི་རྩ་བ་ནི། །
      For all the excellences of this and future lives
      Cho mọi thiện lành / đời này kiếp sau
      ལམ་སྟོན་བཤེས་གཉེན་དམ་པ་འབད་པ་ཡིས། །
      Is to rely properly with effort both in thought and action
      Nằm ở nỗ lực / mang tâm và hạnh / nương dựa đúng cách
      བསམ་དང་སྦྱོར་བས་ཚུལ་བཞིན་བསྟེན་པར་པ་རུ། །
      Upon the sublime spiritual mentor who reveals the path.
      Nơi đấng đạo sư, / là người chỉ cho / đường tu giác ngộ.

      མཐོང་ནས་སྲོག་གི་ཕྱིར་ཡང་མི་གཏོང་བར། །
      Seeing this we should never forsake him even at the cost of life
      Thấy điều này rồi / cho dù mất mạng / cũng không từ bỏ,
      བཀའ་བཞིན་སྒྲུབ་པའི་མཆོད་པས་མཉེས་པར་བྱེད། །
      And please him with the offering of implementing his words.
      Phải gắng làm cho / đạo sư hoan hỉ / bằng cách tu theo / lời của đạo sư.
      རྣལ་འབྱོར་ངས་ཀྱང་ཉམས་ལེན་དེ་ལྟར་བགྱིས། །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      ཐར་འདོད་ཁྱོད་ཀྱང་དེ་བཞིན་བསྐྱང་འཚལ་ལོ།
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ །དལ་བའི་རྟེན་འདི་ཡིད་བཞིན་ནོར་ལས་ལྷག །
      This life of leisure is even more precious than a wish-granting jewel;
      10. Thân người ung dung / quí giá còn hơn / bảo châu như ý
      འདི་འདྲ་རྙེད་པ་ད་རེས་ཙམ་ཞིག་ཡིན། །
      That I have found such an existence is only this once;
      Đến chỉ một lần / cực kỳ khó gặp,
      རྙེད་དཀའ་འཇིག་སླ་ནམ་མཁའི་གློག་དང་འདྲ། །
      So hard to find yet like a flash of lightning it is easy to vanish;
      Lại dễ mất như / tia chớp giữa trời.
      ཚུལ་འདི་བསམས་ནས་འཇིག་རྟེན་བྱ་བ་ཀུན། །
      Contemplating this situation it’s vital to realize that all mundane pursuits
      Thấy rõ kiếp người / chóng vánh như vậy,

      སྦུན་པ་འཕྱར་བ་བཞིན་དུ་རྟོགས་གྱུར་ནས། །
      Are like the empty grain husks floating in the winds
      Chuyện đời khác gì / trấu lép loạn bay.
      ཉིན་མཚན་ཀུན་ཏུ་སྙིང་བོ་ལེན་པ་དགོས། །
      And that we must extract the essence of human existence.
      Nên ngày lẫn đêm / phải luôn tận dụng / tinh túy thân này.
      རྣལ་འབྱོར་ངས་ཀྱང༌
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      ཐར་འདོད་ཁྱེད་ཀྱང༌། །ཚིག་རྐང་འདི་གཉིས་ཕྱིན་ཆད་ཀུན་ལའང་འགྲེ།
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ ཤི་ནས་ངན་འགྲོར་མི་སྐྱེའི་གདིང་མེད་ཅིང༌། །
      There is no certainty that after death we may not be born in the lower realms;
      11. Chết rồi chắc gì / không rơi ác đạo,
      དེ་ཡི་འཇིགས་སྐྱོབ་དཀོན་མཆོག་གསུམ་དུ་ངེས། །
      The protection from such terror lies in the Three Jewels alone;
      Giúp thoát sợ này / chỉ có Tam Bảo.
      དེ་ཕྱིར་སྐྱབས་འགྲོ་ཤིན་ཏུ་བརྟན་པ་དང༌། །
      So we must make firm the practice of going for refuge
      Vậy tâm qui y / phải giữ cho chắc,
      དེ་ཡི་བསླབ་བྱ་ཉམས་པ་མེད་པར་བྱ། །
      And ensure that its precepts are never undermined.
      Đừng bao giờ để / phá hạnh qui y.

      དེ་ཡང་དཀར་ནག་ལས་འབྲས་ལེགས་བསམ་ནས། །
      This in turn depends on contemplating well the white and black karma
      Muốn được như vậy / phải khéo nghĩ về / nghiệp quả thiện ác,
      བླང་དོར་ཚུལ་བཞིན་སྒྲུབ་ལ་རག་ལས་སོ། །
      And their effects, and on perfect observance of the ethical norms.
      Để biết chọn việc / nên bỏ, nên làm.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ལམ་མཆོག་སྒྲུབ་ལ་མཚན་ཉིད་ཚང་བའི་རྟེན། །
      Until we’ve obtained the most qualified form to pursue the excellent path
      12. Thân người đủ mọi / phẩm tướng cần thiết / để theo thắng đạo,
      མ་རྙེད་བར་དུ་ས་ཕྱོད་མི་འོང་བས། ། [དུས་ཚོད་མི་འོང་བས་??]
      We will fail to make great strides in our journey,
      Nếu như thiếu đi / thì đường giác ngộ / không thể bứt phá.
      དེ་ཡི་མ་ཚང་མེད་པའི་རྒྱུད་ལ་བསླབ། །
      So we must strive in all the conditions without exception of such a form;
      Vậy phải gắng sao / cho có đủ cả.
      སྒོ་གསུམ་སྡིག་ལྟུང་དྲི་མ་མས་སྦགས་པ་འདི། །
      Thus these three doors of ours so sullied with evil karma and downfalls,
      Vì bởi ba cửa / nhuốm đầy cấu nhiễm / ác nghiệp, rơi đọa,

      ལྷག་པར་ལས་སྒྲིབ་སྦྱོང་བ་གནད་ཆེ་བས། །
      Since it is especially essential to purify their karmic defilements,
      Khẩn thiết nhất là / tẩy tịnh nghiệp chướng,
      རྒྱུན་དུ་སྟོབས་བཞི་ཚང་བ་བརྟེན་པ་གཅེས། །
      We must ensure to cherish the constant application all four powers.
      Nên bốn sám lực / phải thường trân quí / áp dụng siêng năng.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ ༈ །
      I, a yogi, have practiced in this manner; You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      སྡུག་བདེན་ཉེས་དམིགས་བསམ་ལ་མ་འབད་ན། །
      If we do not strive in contemplating the defects of the truth of suffering,
      13. Tai hại khổ đế / không nỗ lực quán
      ཐར་པ་དོན་གཉེར་ཇི་བཞིན་མི་སྐྱེ་ཞིང༌། །
      The genuine aspiration for liberation does not arise in us;
      Thì tâm cầu thoát / không thật phát sinh.
      ཀུན་འབྱུང་འཁོར་བའི་འཇུག་རིམ་མ་བསམ་ན། །
      If we do not contemplate the causal process of the origin of suffering,
      Nguyên nhân của khổ / luân chuyển thế nào, / nếu không quán chiếu
      འཁོར་བའི་རྩ་བ་གཅོད་ཚུལ་མི་ཤེས་པས། །
      We will fail to understand how to cut the root of cyclic existence.
      Thì gốc luân hồi / không biết cách chặt.

      སྲིད་ལས་ངེས་འབྱུང་སྐྱོ་ཤས་བརྟེན་པ་དང༌། །
      So it’s vital to seek true renunciation of disenchantment with existence
      Cần nhất phải biết / chán khổ sinh tử, / khởi tâm cầu thoát,
      འཁོར་བར་གང་གིས་བཅིངས་པ་ཤེས་པ་གཅེས། །
      And to recognize which factors chain us in the cycle of existence.
      Và biết điều gì / trói buộc mình trong / sinh tử luân hồi.
      རྣལ་འབྱོར། །ཐར་འདོད།
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ སེམས་བསྐྱེད་ཐེག་མཆོག་ལམ་གྱི་གཞུང་ཤིང་སྟེ། །
      Generating the mind is the central axle of the supreme vehicle path;
      14. Phát tâm bồ đề / là cốt lõi của / đường tu Đại thừa.
      རླབས་ཆེན་སྤྱོད་པ་རྣམས་ཀྱི་གཞི་དང་རྟེན། །
      It’s the foundation and the support of all expansive deeds;
      Nền tảng, chỗ dựa / của khắp muôn trùng / sóng cả thiện hạnh
      ཚོགས་གཉིས་ཀུན་ལ་གསེར་འགྱུར་རྩི་ལྟ་བུ། ། །
      To all instances of two accumulations it is like the elixir of gold;
      Tựa như thuốc tiên / hóa sắc thành vàng, / biến tất cả thành / hai kho phước trí
      རབ་འབྱམས་དགེ་ཚོགས་སྡུད་པའི་བསོད་ནམས་གཏེར། །
      It’s the treasury of merits containing myriad collections of virtues;
      Là cả kho tàng / công đức đồ sộ, / chứa hết vô lượng / thiện đức bồ đề.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་རྒྱལ་སྲས་དབང་བོ་རྣམས། །
      Recognizing these truths the heroic bodhisattvas
      Vì biết điều này / nên chư bồ tát / uy dũng tự tại
      རིན་ཆེན་སེམས་མཆོག་ཐུགས་དམ་མཐིལ་དུ་འཛིན། །
      Uphold the precious supreme mind as the heart of their practice.
      Gìn giữ tâm ấy / sâu thẳm bên trong / cốt tủy pháp hành.
      རྣལ་འབྱོར། །ཐར་འདོད། །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      སྦྱིན་པ་འགྲོ་བའི་རེ་སྐོང་ཡིད་བཞིན་ནོར། །
      Giving is the wish-granting jewel that satisfies the wishes of all beings;
      15. Thí là ngọc quý / toàn thành ước nguyện / cho khắp chúng sanh;
      སེར་སྣའི་མདུད་པ་གཅོད་པའི་མཚོན་ཆ་མཆོག །།
      It’s the best weapon to cut the constricting knots of miserliness;
      Vũ khí thượng thặng / chặt phăng nút thắt / của lòng keo bẩn;
      མ་ཞུམ་སྙིང་སྟོབས་བསྐྱེད་པའི་རྒྱལ་སྲས་སྤྱོད།
      It’s an undaunted deed of the bodhisattva giving birth to courage;
      Là hạnh bồ tát / sinh nguồn dũng cảm / không hề chán mệt;
      སྙན་པའི་གྲགས་པ་ཕྱོགས་བཅུར་སྒྲོགས་པའི་གཞི། །
      It’s the basis to proclaim one’s fame throughout all ten directions;
      Và là nền tảng / khiến cho danh lành / truyền khắp mười phương.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་ལུས་དང་ལོངས་སྤྱོད་དགེ། །
      Knowing this the learned ones seek the excellent path
      Vì biết điều này / nên người có trí / xả hết thân mạng / tài sản công đức,
      ཡོངས་སུ་གཏོང་བའི་ལམ་བཟང་མཁས་པས་བསྟེན། །
      Of giving away entirely their body, wealth and virtues.
      chỉ để nương theo / con đường lành này.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ཚུལ་ཁྲིམས་ཉེས་སྤྱོད་དྲི་མ་འཁྱུད་པའི་ཆུ། །
      Morality is the water that washes off the stains of ill deeds;
      16. Giới là nước trong / giặt sạch tất cả / vết nhơ ác nghiệp;
      ཉོན་མོངས་ཚ་གདུང་སེལ་བའི་ཟླ་བའི་འོད། །
      It’s the cooling moonlight dispelling the burning agony of afflictions;
      Là ánh trăng thanh / xoa dịu nỗi đau / rát bỏng phiền não;
      སྐྱེས་དགུའི་དབུས་ན་ལྷུན་པོ་ལྟ་བུར་བརྗིད། །
      In the midst of people it is most majestic like the Mt Meru;
      Đứng giữa phàm phu, / thân thể rạng ngời / như núi Tu di,
      སྟོབས་ཀྱིས་བསྡིགས་པ་མེད་པར་འགྲོ་ཀུན་འདུད། །
      It draws together all beings without any display of force;
      Không cần thị uy / nhiếp phục khắp cả.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་ཡང་དག་བླངས་པའི་ཁྲིམས། །
      Knowing this the sublime ones guard as if they would their eyes,
      Vì biết điều này / nên chư giác giả,
      དམ་པ་རྣམས་ཀྱིས་མིག་བཞིན་བསྲུང་བར་མཛོད། །
      The perfect disciplines which they have chosen to adopt.
      Giữ giới đã thọ / quí như đôi mắt.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      བཟོད་པ་སྟོབས་ལྡན་རྣམས་ལ་རྒྱན་གྱི་མཆོག །
      Forbearance is the supreme ornament for those who have power;
      17. Nhẫn là trang sức / quý giá nhất cho / người có quyền năng;
      ཉོན་མོངས་གདུང་བའི་དཀའ་ཐུབ་ཀུན་གྱི་ཕུལ། །
      It’s the greatest fortitude against the agonies of afflictions;
      Là sức chịu đựng / tuyệt bậc dành cho / bức bách phiền não;
      ཞེ་སྡང་ལག་འགྲོའི་དགྲ་ལ་ནམ་མཁའ་ལྡིང༌། །
      Against its enemy the snake of hate it is a garuda cruising in the sky;
      Là kim sí điểu / bay vút giữa trời, / làm khắc tinh của / rắn thù sân hận;
      ཚིག་རྩུབ་མཚོན་ལ་སྲ་བའི་གོ་ཆ་ཡིན། །
      Against the weapon of harsh words it’s the strongest armor;
      Là lớp giáp bào / kiên cố ngăn chận / vũ khí ác ngữ.

      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་བཟོད་མཆོག་གོ་ཆ་ལ། །
      Knowing this we should habituate ourselves with
      Biết vậy cho nên / giáp bào kham nhẫn,
      རྣམ་པ་སྣ་ཚོགས་ཚུལ་གྱིས་བསྒོམས་པར་མཛད། །
      The armor of excellent forbearance by all possible means.
      Bằng đủ mọi cách / phải tập làm quen.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practice in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      མི་ལྡོག་བརྟན་པའི་བརྩོན་འགྲུས་གོ་བགོས་ན། །
      If the armor of unflinching perseverance is worn,
      18. Khoát lớp giáp bào / tinh tấn bất thoái
      ལུང་རྟོགས་ཡོན་ཏན་ཡར་ངོའི་ཟླ་བཞིན་འཕེལ། །
      Knowledge of scripture and realization increases like waxing moon;
      Thì học và chứng / tăng trưởng nhanh như / trăng đến độ rằm,
      སྤྱོད་ལམ་ཐམས་ཅད་དོན་དང་ལྡན་པར་འགྱུར། །
      All conducts become fused with good purpose;
      Việc làm nào cũng / tràn đầy ý nghĩa,
      གང་བརྩམས་ལས་ཀྱི་མཐའ་རྣམས་ཡིད་བཞིན་འགྲུབ། །
      And whatever initiatives we may begin succeeds as hoped for;
      Và đều mang đến / kết quả mong cầu.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་ལེ་ལོ་ཀུན་སེལ་བའི། །
      Knowing this the bodhisattvas apply great waves of effort,
      Vì biết như vậy / nên chư bồ tát
      རླབས་ཆེན་བརྩོན་འགྲུས་རྒྱལ་སྲས་རྣམས་ཀྱིས་བརྩམས། །
      Which help to dispel all forms of laziness.
      Cuộn sóng tinh tấn / quét sạch hết thảy / mọi kiểu biếng lười.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      བསམ་གཏན་སེམས་ལ་དབང་སྒྱུར་རྒྱལ་བོ་སྟེ། །
      Concentration is the king that reigns over the mind;
      19. Định là đại vương / ngự trị tâm thức.
      བཞག་ན་གཡོ་མེད་རི་ཡི་དབང་བོ་བཞིན། །
      When left it is as unwavering as the king of mountains;
      Để yên, bất động / như núi Tu Di
      བཏང་ན་དགེ་བའི་དམིགས་པ་ཀུན་ལ་འཇུག །
      When set forth it engages with all objects of virtue;
      Mở ra, thu nhiếp / toàn bộ thiện pháp,
      ལུས་སེམས་ལས་སུ་རུང་བའི་བདེ་ཆེན་འདྲེན། །
      It induces the great bliss of a serviceable body and mind;
      Cho hỉ lạc nhờ / nhu nhuyễn thân tâm.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་རྣལ་འབྱོར་དབང་བོ་རྣམས། །
      Knowing this the great accomplished yogis
      Vì biết vậy nên / hành giả tự tại,
      རྣམ་གཡེང་དགྲ་འཇོམས་ཏིང་འཛིན་རྒྱུན་ཏུ་བསྟེན། །
      Constantly apply meditations destroying the enemy of distraction.
      Luôn nương pháp định / diệt thù tán tâm.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ཤེས་རབ་ཟབ་མོའི་དེ་ཉིད་བལྟ་བའི་མིག །
      Wisdom is the eye that sees the profound suchness;
      20. Tuệ là đôi mắt / thâm chứng tánh Như;
      སྲིད་པའི་རྩ་བ་དྲུང་ནས་འབྱིན་པའི་ལམ། །
      It’s the path eradicating cyclic existence from its very root;
      Là con đường bứng / sạch gốc luân hồi;
      གསུང་རབ་ཀུན་ལས་བསྔགས་པའི་ཡོན་ཏན་གཏེར། །
      It’s a treasury of higher qualities that are praised in all scriptures;
      Là kho tánh đức / kinh luận tán thán;
      གཏི་མུག་མུན་སེལ་སྒྲོན་མེའི་མཆོག་ཏུ་གྲགས། །
      It’s known as the supreme lamp dispelling the darkness of delusion;
      Và nổi danh là / ngọn đèn vô thượng / xua bóng vô minh.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་ཐར་འདོད་མཁས་པ་ཡིས། །
      Knowing this the learned ones who aspire for liberation
      Vì biết như vậy / nên người có trí / tìm cầu giải thoát
      ལམ་དེ་འབད་པ་དུ་མས་བསྐྱེད་པར་མཛད། །
      Endeavor with multiple efforts to cultivate this path.
      Nỗ lực đủ cách / tu theo đường này.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo

      རྩེ་གཅིག་བསམ་གཏན་ཙམ་ལས་འཁོར་བ་ཡི། །
      In a mere one-pointed concentration I fail to see
      Nếu chỉ dựa vào / mỗi định-nhất-tâm / thì không thấy được
      རྩ་བ་གཅོད་པའི་ནུས་པ་མ་མཐོང་ཞིང༌། །
      The potency to cut the root of cyclic existence;
      Khả năng chặt đứt / gốc rễ luân hồi.
      ཞི་གནས་ལམ་དང་བྲལ་བའི་ཤེས་རབ་ཀྱིས། །
      Yet with wisdom devoid of the path of tranquil abiding,
      Nếu chỉ có tuệ / thiếu đi tịnh chỉ
      ཇི་ཙམ་དཔྱད་ཀྱང་ཉོན་མོངས་མི་ལྡོག་པས། །
      No matter how much one may probe, the afflictions will not be overcome.
      Thì dù quán chiếu / truy tìm đến đâu / cũng không thể nào / dứt được phiền não.
      ཡིན་ལུགས་ཕུག་ཐག་ཆོད་པའི་ཤེས་རབ་དེ། །
      So this wisdom decisively penetrating the true mode of being,
      Vì vậy kẻ trí / lấy tuệ thâm nhập / vào chân thực tại
      གཡོ་མེད་ཞི་གནས་རྟ་ལ་བསྐྱོན་ནས་ནི། །
      The learned ones saddle it astride the horse of unwavering calm abiding;
      Cưỡi trên lưng ngựa / tịnh chỉ diệu trạm;
      མཐའ་བྲལ་དབུ་མའི་རིག་པའི་མཚོན་རྣོན་གྱིས། །
      And with the sharp weapon of reasoning of the Middle Way free of extremes,
      Dùng vũ khí bén / luận lý Trung đạo / không vướng biên kiến
      མཐར་འཛིན་དམིགས་གཏད་ཐམས་ཅད་འཇིག་བྱེད་པའི། །
      They dismantle all locus of objectification of the mind grasping at extremes;
      Phá tan hết thảy / khái niệm phân biệt / chấp thường chấp đoạn.
      ཚུལ་བཞིན་དཔྱོད་པའི་ཡངས་པའི་ཤེས་རབ་ཀྱིས། །
      With such expansive wisdom that probes with precision,
      Dùng tuệ rộng lớn / quán chiếu chính xác
      དེ་ཉིད་རྟོགས་པའི་བློ་གྲོས་རྒྱས་པར་མཛད། །
      The learned ones enhance the wisdom realizing the suchness.
      Để làm khai mở / trí chứng tánh Như.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      རྩེ་གཅིག་བསྒོམས་པས་ཏིང་འཛིན་འགྲུབ་པ་ནི། །
      What need is there say that through one-pointed cultivation
      22. Nhờ thiền nhất tâm / mà đạt tam muội,
      སྨོས་པར་ཅི་འཚལ་ཚུལ་བཞིན་དཔྱོད་པ་ཡི། །
      Absorption is realized? Through discriminative awareness
      Chẳng gì đáng nói. / Dùng quán sát trí
      སོ་སོར་རྟོག་པ་ཡིས་ཀྱང་ཡིན་ལུགས་ལ། །
      Probing with precision as well one can abide unwavering
      Truy xét tầm tư, / mà vẫn yên lắng,
      གཡོ་མེད་ཤིན་ཏུ་བརྟན་པར་གནས་པ་ཡི། །
      And utterly stable upon the true mode of being.
      Bất động vững vàng / nơi chân thực tại,
      ཏིང་འཛིན་བསྐྱེད་པར་མཐོང་ནས་ཞི་ལྷག་གཉིས། །
      Wondrous are those who see this
      Thấy rồi nỗ lực / hợp nhất chỉ quán,
      ཟུང་འབྲེལ་སྒྲུབ་ལ་བརྩོན་རྣམས་ཡ་མཚན་ནོ། །
      And strive for the union of abiding and insight.
      Đây mới chính thật / là điều nhiệm mầu.
      རྣལ་འབྱོར། །ཐར་འདོད། །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      མཉམ་བཞག་ནམ་མཁའ་ལྟ་བུའི་སྟོང་ཉིད་དང༌། །
      The space-like emptiness of meditative equipoise,
      23. Khi vào trong định, Không – như không gian;
      རྗེས་ཐོབ་སྒྱུ་མ་ལྟ་བུའི་སྟོང་བ་གཉིས། །
      And the illusion-like emptiness of the subsequent realizations,
      Khi xuất trở ra, Không – như huyễn cảnh;
      བསྒོམས་ནས་ཐབས་ཤེས་ཟུང་དུ་འབྲེལ་བ་ཡིས། །
      Praised are those who cultivate them and bind together
      Tán dương những ai / nhờ tu như vậy / hợp nhất phương tiện / cùng với trí tuệ
      རྒྱལ་སྲས་སྤྱོད་པའི་ཕ་རོལ་འགྲོ་བ་བསྔགས། །
      The method and wisdom and travel beyond the bodhisattva deeds.
      Và rồi siêu việt / các hạnh bồ tát.
      དེ་ལྟར་རྟོགས་ནས་ཕྱོགས་རེའི་ལམ་གྱིས་ནི། །
      It’s the way of the fortunate ones
      Để chứng điều này / nên bậc thiện duyên
      ཚིམ་པ་མེད་པ་སྐལ་བཟང་རྣམས་ཀྱི་ལུགས། །
      To realize this and not to be content with partial paths;
      Không đành lòng với / đường tu riêng lẻ.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴
      I, a yogi, have practiced in this manner; You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ །དེ་ལྟར་རྒྱུ་དང་འབྲས་བུའི་ཐེག་ཆེན་གྱི། །
      Thus having cultivated as they are the common paths
      24. Như thế chính là / đường tu phổ thông, / thiết yếu cho hai / thắng đạo đại thừa.
      ལམ་མཆོག་གཉིས་ཀར་དགོས་པའི་ཐུན་མོང་ལམ། །
      Essential for the two supreme paths of causal and resultant great vehicles,
      là cỗ xe nhân / và cỗ xe quả.
      ཇི་བཞིན་དཔྱད་ནས་མཁས་པའི་དེད་དཔོན་གྱི། །
      I have entered the great ocean of tantras
      Tu rồi hãy tìm / nương sự che chở / của bậc thuyền trưởng / trí tuệ tài ba
      མགོན་ལ་བརྟེན་ནས་རྒྱུད་སྡེ་རྒྱ་མཚོ་ཆེར། །
      By relying upon the leadership of the learned navigators;
      Để mà bước vào / biển cả mật pháp.
      ཞུགས་ནས་ཡོངས་རྫོགས་མན་ངག་བརྟེན་པ་དེས། །
      And through application of the quintessential instructions,
      Rồi nhờ dựa vào / lời giảng toàn hảo
      དལ་འབྱོར་ཐོབ་པ་དོན་དང་ལྡན་པར་བྱས། །
      I have made meaningful human existence that I have obtained.
      Sẽ không phí uổng / thân người có đây.
      རྣལ་འབྱོར༴ ། ཐར་འདོད༴
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ ། རང་གི་ཡིད་ལ་གོམས་པར་བྱ་ཕྱིར་དང༌། །
      In order to make familiar to my own mind,
      25. Vì để huân tập / tâm của chính mình,
      སྐལ་བཟང་གཞན་ལའང་ཕན་པར་བྱ་བའི་ཕྱིར། །
      And to help benefit fortunate others as well,
      Cũng để làm lợi / cho hàng thiện duyên,
      རྒྱལ་བ་དགྱེས་པའི་ཡོངས་སུ་རྫོགས་པའི་ལམ། །
      I’ve explained here in words easy to understand
      Thầy đã giải thích / bằng lời dễ hiểu
      གོ་སླའི་ངག་གིས་བཤད་པའི་དགེ་བ་དེས། །
      In its entirety the path that pleases the conquerors.
      Trọn vẹn đường tu / khiến Phật đẹp lòng.

      འགྲོ་བ་ཀུན་ཀྱང་རྣམ་དག་ལམ་བཟང་དང༌། །
      “Through this virtue may all beings be never divorced
      25.Nương công đức này / nguyện cho chúng sinh
      འབྲལ་མེད་གྱུར་ཅིག་ཅེས་ནི་སྨོན་ལམ་འདེབས། །
      From the perfectly pure excellent path” thus I pray;
      Không bao giờ lìa / chánh đạo tối thượng.
      རྣལ་འབྱོར་ངས་ཀྱང་སྨོན་ལམ་དེ་ལྟར་བཏབ། །
      I, a yogi, have made aspirations in this manner;
      Thầy là hành giả / đã nguyện như vậy.
      ཐར་འདོད་ཁྱེད་ཀྱང་དེ་བཞིན་འདེབས་འཚལ་ལོ།
      You, who aspire for liberation, too should pray likewise.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy nguyện theo.

      ཞེས་བྱང་ཆུབ་ལམ་གྱི་རིམ་པའི་ཉམས་ལེན་གྱི་རྣམ་བཞག་མདོར་བསྡུས་ཏེ་བརྗོད་པ་རང་བྱས་པ་འདི་ནི་མང་དུ་ཐོས་པའི་དགེ་སློང་སྤོང་བ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པའི་དཔལ་གྱིས འབྲོག་རི་བོ་དགེ་ལྡན་རྣམ་པར་རྒྱལ་བའི་གླིང་དུ་སྦྱར་བའོ། །
      This brief presentation of the practices of the stages of the path to enlightenment written in the format of a memorandum was composed by the well-read monk, the renunciate Lobsang Drakpa at the great mountain retreat of Geden Nampar Gyalwai Ling.
      Pháp môn trình tự đường tu giác ngộ trình bày ngắn gọn theo thể tóm lược, do tỷ kheo đa văn, người đã buông xả, tên Lobsang Drakpa viết tại núi lớn lan nhã tại Geden Nampar Gyalwai Ling
      © English translation. Geshé Thupten Jinpa, 2004; revised 2007.
      Bản tiếng Việt dịch từ  Tạng ngữ, Hồng Như Thupten Munsel, 2019.




      BẢN DỊCH CŨ 2004 

      (1) Con xin chí thành
      đảnh lễ đức Phật,
      là người đứng đầu
      dòng họ Thích Ca.
      Thân Phật nhiệm màu
      phát sinh ra từ
      vô vàn thiện hạnh
      cùng với vô vàn
      thành tựu viên mãn.
      Ngữ Phật nhiệm màu
      hoàn thành ước nguyện
      vô lượng chúng sinh.
      Ý Phật nhiệm màu
      thấy hết khắp cả
      đúng như sự thật.

      (2) Con xin đảnh lễ
      Bồ tát Di lạc,
      Bồ tát Văn thù,
      là bậc trưởng tử
      của đấng Đạo Sư,
      không đâu sánh bằng.
      Hai vị là người
      giữ gìn thiện hạnh
      của mười phương Phật;
      thị hiện sắc thân
      hằng sa cõi giới.

      (3) Con xin đảnh lễ
      dưới chân hai ngài
      Long thọ, Vô Trước,
      quí như châu ngọc
      trang hoàng cõi Nam.
      Danh hiệu hai ngài
      vang lừng ba cõi,
      là người thuyết giảng
      ý nghĩa “Phật mẫu”,
      giáo pháp thâm sâu
      khó tin nhận nhất
      hoàn toàn thuận theo
      ý thật của Phật.

      (4) Con đảnh lễ thầy
      Đi-pam-ka-ra,
      [đức A-ti-sha]
      là người tiếp giữ
      kho tàng chánh pháp,
      giữ gìn ngọn đèn
      soi đường giác ngộ.
      Bao nhiêu tinh túy
      đường tu quảng, thâm,
      truyền lại từ hai
      bậc đại tổ sư
      đều được giữ gìn
      chính xác nguyên vẹn
      trong giáo pháp này.

      (5) Con xin kính cẩn
      đảnh lễ đạo sư.
      Đạo sư là mắt
      giúp chúng con nhìn
      vào biển kinh điển
      bao la vô tận;
      là lòng sông cạn
      nâng đỡ gót chân
      cho kẻ thiện duyên
      vượt sang bờ giác.
      Thầy mở lòng từ
      vô lượng vô biên,
      vận dụng muôn vàn
      phương tiện thiện xảo
      giúp cho mọi sự
      rõ ràng trong sáng.

      (6) Con đường tuần tự
      dẫn đến giác ngộ
      được các bậc thầy
      nối gót hai tổ
      Long Thọ, Vô Trước
      khéo léo giữ gìn.
      trong số chư Tăng
      nơi vùng đất Nam
      các thầy là hạt
      ngọc châu vương đỉnh.
      tràng phang các thầy
      cao trội hơn cả.
      Tu theo con đường
      tuần tự giác ngộ
      sẽ có khả năng
      hoàn thành ước nguyện
      chín loại chúng sinh.
      Vì vậy pháp này
      là đấng Pháp vương,
      là lòng biển rộng
      cho ngàn dòng suối
      luận văn đổ về.

      (7) Pháp này vi diệu
      – giúp cho người tu
      hiểu được dễ dàng
      trăm vạn pháp môn
      vốn không mâu thuẫn;
      – giúp cho toàn bộ
      biển rộng kinh điển
      đồng loạt tỏa rạng
      trong trí người tu
      như lời giáo hóa
      dành riêng cho mình;
      – giúp cho dễ dàng
      hiểu được ý Phật;
      – hộ trì người tu
      thoát khỏi hố thẳm
      sai lầm tai hại.
      Vì bốn lợi ích
      lớn lao như vậy
      nên các hành giả
      Ấn độ, Tây tạng
      ai người có trí
      cũng đều hoan hỉ
      với diệu pháp này;
      là pháp chỉ rõ
      con đường tuần tự
      dẫn đến giác ngộ
      tùy theo căn cơ;
      là pháp cao tuyệt
      mà kẻ thiện duyên
      luôn luôn dốc tâm
      tinh tấn tu hành.

      (8) Diệu pháp này do
      ngài A-ti-sa
      thu gọn tinh túy
      của lời Phật dạy
      mà soạn thành luận.
      Vì vậy dù chỉ
      đọc nghe một lần
      cũng sẽ có được
      vô vàn công đức,
      như là tu tập
      toàn bộ chánh pháp.
      Huống chi gắng công
      chuyên cần học hỏi,
      giảng giải phong phú
      cho người cùng nghe,
      chắc chắn công đức
      sẽ như sóng cả.
      Vì vậy các con
      hãy gắng chú tâm
      (Tu học pháp này
      Cho thật đúng đắn.)

      (9) (Sau khi phát tâm
      Qui y Tam Bảo)
      Các con phải thấy
      gốc rễ điều lành
      của kiếp hiện tiền
      và mọi kiếp sau
      đều nằm ở tâm
      nương dựa đúng cách
      nơi đấng đạo sư,
      trong từng ý tưởng
      trong từng hành động.
      Đạo sư là người
      đưa các con vào
      đường tu giác ngộ,
      vì vậy các con
      phải gắng làm cho
      Đạo sư hoan hỉ
      bằng cách chăm chỉ
      tinh tấn tu hành
      theo đúng như lời
      của đạo sư dạy;
      dù mất mạng sống
      cũng không từ bỏ
      lời dạy của thầy,
      lấy sự tu hành
      dâng thành cúng phẩm.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (10) Kiếp người này có
      tám sự tự tại,
      quí giá còn hơn
      bảo châu như ý,
      đến chỉ một lần,
      cực kỳ khó gặp,
      nhưng lại dễ mất,
      tựa như tia chớp
      thoắt trên trời không.
      Nhìn rõ kiếp người
      chóng vánh như vậy
      thấy chuyện thế tục
      khác gì trấu lép.
      Các con hãy gắng
      vắt lấy tinh túy
      của kiếp sống này,
      trong từng phút giây,
      ngày cũng như đêm
      đừng để phí uổng.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (11) Khi vào cõi chết
      Khi vào cõi chết
      không thể biết chắc
      mình sẽ không rơi
      vào cõi ác đạo.
      Chỉ có Tam Bảo
      là đủ khả năng
      che chở cho con
      thoát cơn sợ hãi.
      Vì vậy phải gắng
      giữ tâm qui y
      cho thật vững chắc,
      đừng để sơ sót
      phá hạnh qui y.
      Muốn được như vậy
      phải hiểu nghiệp quả
      sống thuận chánh pháp
      làm mọi thiện hạnh
      lánh mọi ác pháp.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (12) Thân người đầy đủ
      tám sự tự tại
      nếu như thiếu đi
      thì không thể có
      bước nhảy vượt bực
      trên con đường tu
      thành tựu giác ngộ.
      Do đó phải nên
      lánh ác làm lành
      để khỏi tái sinh
      vào cảnh khiếm khuyết;
      cũng nên siêng năng
      tẩy sạch ác nghiệp
      phá phạm giới hạnh
      đang vấy bẩn ba
      cửa thân miệng ý;
      và nhất là để
      tẩy loại nghiệp chướng
      khiến ta không thể
      tái sinh làm người.
      Các con hãy gắng
      siêng năng áp dụng
      bốn lực sám hối
      thanh tịnh chướng nghiệp.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (13) Nếu không cố gắng
      quán chiếu về khổ
      sẽ không thể nào
      tinh tấn nhất tâm
      hướng về giải thoát.
      Không biết đâu là
      nguyên nhân của khổ,
      không biết điều gì
      ràng buộc mình trong
      cảnh sống luân hồi
      thì không thể thấy
      đâu là phương tiện
      bứng sạch gốc rễ
      của vòng tái sinh
      triền miên lẩn quẩn.
      Các con nên biết
      chán cảnh sinh tử
      từ bỏ luân hồi;
      phải biết quán sát
      điều gì trói chặt
      mình trong sinh tử.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (14) Cốt tủy đại thừa
      là sao cho tâm
      vô thượng bồ đề
      luôn luôn tăng trưởng.
      Đây là căn bản
      cũng là nền tảng
      của khắp mười phương
      hành trạng giác ngộ
      trùng trùng vời vợi
      như sóng đại dương
      [của chư Phật đà].
      Tựa như thuốc tiên
      hóa sắc thành vàng
      tâm bồ đề cũng
      có được khả năng
      khiến mọi hành động
      biến thành hai bồ
      tư lương phước trí,
      tích lũy kho tàng
      công đức đồ sộ
      đến từ vô lượng
      tánh đức bồ đề.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (15) Thí ba la mật
      là ngọc Như Ý
      có được khả năng
      hoàn thành ước nguyện
      của mọi chúng sinh;
      là loại vũ khí
      hữu hiệu bậc nhất
      chặt phăng nút thắt
      của lòng keo bẩn.
      Thái độ vì người
      sẽ làm tăng nguồn
      can đảm, tự tín.
      Người có hạnh Thí
      mười phương thế giới
      sẽ đều tán dương.
      Vì biết điều này
      nên người có trí
      dốc tâm tinh tấn
      tu hành hạnh Thí,
      cho đi toàn vẹn
      thân thể, của cải,
      cho cả hai bồ
      tư lương công đức.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (16) Giới là nước trong
      giặt sạch tất cả
      vết nhơ ác nghiệp.
      Giới là trăng thanh
      xoa dịu tất cả
      vết bỏng nhiễm tâm.
      Ai người tu Giới
      thân thể rạng ngời
      như núi Tu Di
      chiếu soi khắp cả
      chín loại chúng sinh.
      Năng lực của Giới
      sẽ giúp các con
      thuần phục tất cả
      không cần thị uy.
      Chúng sinh cứng cõi
      sẽ đều qui thuận.
      Vì biết điều này
      nên các bậc Thánh
      giữ gìn giới hạnh
      quí như đôi mắt.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (17) Nhẫn là trang sức
      đẹp nhất cho người
      có nhiều quyền năng.
      Nhẫn là pháp tu
      khổ hạnh tốt nhất
      cho người thường bị
      vọng tâm tác hại;
      là cánh chim ưng
      bay vút trời cao,
      khắc tinh của rắn
      sân hận giận dữ;
      là áo giáp dày
      ngăn chận tất cả
      vũ khí thóa mạ.
      Vì biết điều này
      nên người có trí
      tu tập đủ cách
      thích ứng tâm mình
      với lớp áo giáp
      Hạnh Nhẫn tối thượng.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (18) Khoát được giáp bào
      của hạnh Tinh Tấn
      khi ấy sức học,
      tu hành, chứng ngộ
      sẽ tăng trưởng nhanh
      như vầng trăng non
      đang đến độ rằm,
      hành động nào cũng
      tràn đầy ý nghĩa
      hướng về giải thoát
      và đều mang lại
      kết quả mong cầu.
      Vì biết điều này,
      nên chư bồ tát
      cuộn sóng tinh tấn
      quét sạch hết thảy
      giải đãi biếng lười.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (19) Định là đại vương
      ngự trị tâm thức.
      Khi thâu tâm lại,
      tâm sẽ an trụ
      như núi Tu Di,
      vững không lay động.
      Khi mở tâm ra
      tâm sẽ thâu nhiếp
      toàn bộ thiện pháp.
      Định khiến thân tâm
      nhu nhuyễn bén nhạy
      hỉ lạc khinh an.
      Vì biết điều này
      nên các hành giả
      ai người khéo tu
      cũng đều dốc sức
      miên mật thiền chỉ
      cố gắng hàng phục
      kẻ thù tán tâm.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (20) Tuệ là đôi mắt
      thâm chứng tánh Không
      và là con đường
      bứng sạch toàn bộ
      gốc rễ luân hồi.
      Tuệ là tất cả
      kho tàng nhiệm màu
      mà bao kinh luận
      vẫn hằng tán dương.
      Là đèn tối thượng
      phá tan bóng tối
      cố chấp hẹp hòi.
      Vì biết điều này
      nên người có trí
      mong cầu giải thoát
      đều dốc tâm sức
      nỗ lực bước theo
      con đường tu Tuệ.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (21) Có Định thiếu Tuệ
      chẳng đủ khả năng
      chặt đứt gốc rễ
      ràng buộc luân hồi.
      Có Tuệ thiếu Định
      thì dù quán sát
      miên mật đến đâu
      cũng không thể nào
      tách lìa vọng cảnh.
      Vì vậy các bậc
      Đạo sư luôn lấy
      mắt Tuệ thâm nhập
      vào chân thực tại
      mà trụ vững vàng
      trên lưng ngựa Định,
      rồi dùng vũ khí
      cực kỳ bén nhọn
      của luận Trung Đạo,
      thoát mọi cực đoan,
      phá hủy nền tảng
      chấp thường chấp đoạn
      chấp bám cực đoan,
      nhờ vậy Không-Tuệ
      dần dần khai mở.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (22) Nhờ quen tu định
      đến khi đạt chỉ
      bấy giờ tu quán.
      Tâm càng quán chiếu
      lại càng an định
      vững vàng thấy rõ
      chân tánh thực tại.
      Vì biết điều này
      ai người tinh tấn
      phối hợp chỉ-quán
      đều thấy nhiệm mầu,
      huống gì các con!
      hãy nên mong cầu!
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (23) (Đến khi chỉ quán
      phối hợp được rồi)
      hãy nên quán chiếu
      hai loại tánh Không:
      không – tựa không gian,
      thu nhiếp tất cả
      khi nhập vào định;
      không – tựa huyễn cảnh,
      hiện ra như mộng
      khi từ trong định
      mà bước trở ra.
      Nhờ tu như vậy
      phương tiện, trí tuệ
      thuần nhất bất nhị
      nên được tán dương
      là người viên toàn
      các hạnh bồ tát.
      Vì ngộ điều này
      mà bậc thiện duyên
      không bao giờ nhận
      đường tu phân chia.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (24) – Chán khổ sinh tử,
      – phát tâm bồ đề,
      – trực chứng tánh không,
      là ba yếu tố
      căn bản cần thiết
      để bước lên hai
      cỗ xe Đại Thừa:
      là xe tu nhân
      và xe tu quả.
      Vậy khi các con
      phát huy đúng đắn
      ba điểm này rồi
      phải nên nương dựa
      vào đấng đạo sư
      đầy đủ phẩm hạnh.
      Xin thầy hộ niệm
      đưa các con vào
      (cỗ xe tu quả)
      vượt qua biển rộng
      bốn bộ Mật tông.
      Ai biết tôn kính
      noi theo lời dạy
      của đấng đạo sư
      sẽ không phí uổng
      kiếp người hiếm hoi
      đầy tự tại này.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (25) Vì để thuần dưỡng
      tâm của chính mình
      và để lợi ích
      cho kẻ thiện duyên
      (đã gặp được đấng
      Đạo sư chân chính
      và đủ khả năng
      tu tập đúng theo
      những gì thầy dạy)
      nên Thầy dùng lời
      rõ ràng dễ hiểu
      nói lại trọn vẹn
      đường tu giác ngộ
      mà mười phương Phật
      vẫn hằng hoan hỉ.
      Nguyện công đức này
      giúp cho chúng sinh,
      không bao giờ xa
      đường tu trong sáng
      chắc thật, nhiệm mầu.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      [Hết]

      Đến đây chấm dứt bài Tiểu Luận về Đường Tu Tuần Tự Giác Ngộ, soạn theo thể dạng cực ngắn, dễ nhớ khó quên. Luận giải do tỷ kheo Losang Dragpa [Lama Tông Khách Ba] soạn thảo – là hành giả đã thọ trì nhiều chánh pháp – viết tại Tu viện Ganden Nampar Gyelwa’i, trên ngọn núi Riwoch, Tây tạng.

      Nguyên bản Anh ngữ : The Short Lamrim or Lines of Experience or Songs of Spiritual Experiences. trích trong Illuminating the Path to Enlightenment, do đức Đalai Lama thuyết giảng, Thubten Dhargye Ling Archive, Long Beach, California ấn hành.




      Dza Patrul Rinpoche: CHÓI RẠNG ÁNH MẶT TRỜI (Cẩm Nang Hành Trì Nhập Bồ Đề Hạnh Luận)

       – A commentary on Shantideva’s Bodhisattva Way Of Life, by Patrul Rinpoche
      ༄༅། །བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་སྤྱོད་པ་ལ་འཇུག་པའི་སྒོམ་རིམ་རབ་གསལ་ཉི་མ་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ། ། –
      Tác Luận: Đức DZA PATRUL RINPOCHE
      Việt ngữ
      : Hồng Như, bản tháng 9/2013
      Hạ Tải PDF:  <<Chói Rạng Ánh Mặt Trời – Sách PDF  >>
      Điều kiện hành trì: Pháp phổ thông, mọi người đều có thể đọc và hành trì.

      Cẩm nang hành trì: Thọ Bồ Tát Giới – Tu Bồ Tát Hạnh theo Nhập Bồ Đề Hạnh Luận của ngài Tịch Thiên (Shantideva) –


      SƯỜN BÀI

      • A1. NGƯỜI TU                                           [=CHƯƠNG 1]
      • A2. TÂM NGƯỜI TU
        • B1. Bồ Đề Tâm Nguyện
        • B2. Bồ Đề Tâm Hành
        • B3. Thọ Bồ Tát Giới
          • C1. Chuẩn bị Thọ Giới
            • D1. Mở Tâm Hoan Hỉ
            • D2. Bảy Hạnh Phổ Hiền
              • E1. Cúng Dường           [=CHƯƠNG 2]
              • E2. Qui Y, Đảnh Lễ
              • E3. Sám hối
              • E4. Tùy hỉ                       [=CHƯƠNG 3]
              • E5-7. Thỉnh chuyển pháp luân, Thỉnh Phật trụ thế, Hồi hướng công đức
            • D3. Chuyển Tâm
          • C2. Thọ Giới Bồ Tát
          • C3. Hoàn Tất Thọ Giới
      • A3. NỘI DUNG PHÁP TU  Làm thế nào tu theo pháp hành của bồ tát
      • Dẫn nhập.
        • B1. Hạnh Thí                                    [=CHƯƠNG 4 & 5]
        • B2. Hạnh Giới
          • C1. Phương tiện giữ giới
          • C2. Vận dụng phương tiện giữ giới
            • D1. Giới Hạnh Bồ Đề Tâm Nguyện
              • E1. Điều cần tránh
              • E2.Điều cần giữ
            • D2. Giới Hạnh Bồ Đề Tâm Hành
              • E1. Điều cần tránh
              • E2.Điều cần giữ
        • B3. Hạnh Nhẫn                               [=CHƯƠNG 6]
        • Cơ hội tu hạnh nhẫn
          • C1. Ba lý do nên tiếp nhận khổ đau [an thọ khổ nhẫn]
          • C2. Ba lý do không nên bận tâm cho việc bị hại [nại oán hại nhẫn]
          • C3. Ba pháp quán thậm thâm [đế sát pháp nhẫn]
        • B4. Hạnh Tấn                                   [=CHƯƠNG 7]
          • C1. Diệt Yếu Tố Nghịch
          • C2. Nuôi Yếu Tố Thuận
        • B5. Hạnh Định                                  [=CHƯƠNG 8]
          • C1. Xả bỏ yếu tố nghịch
            • D1. Xả bỏ bận tâm thế tục
            • D2. Xả bỏ tán tâm
              • C2. Nhiếp tâm nơi đề mục
            • D1. Quán bình đẳng ngã tha
            • D2. Quán hoán chuyển ngã tha
        • B6. Hạnh Tuệ                                     [=CHƯƠNG 9]
          • C1. Nhận diện
          • C2. Áp dụng vào tánh không
            • D1. Nhân vô ngã
            • D2. Pháp vô ngã
              • E1. Thân niệm xứ
              • E2. Thọ niệm xứ.
              • E3. Tâm niệm xứ.
              • E4 Pháp niệm xứ.
      • A4. KẾT QUẢ PHÁP TU                           [=CHƯƠNG 10]

      BẢN VIỆT NGỮ

      I.1. Đệ tử đảnh lễ / Thiện Thệ, Pháp Thân,
      chư vị Trưởng tử / cùng người xứng đáng.
      Nay tôi kính xin / thuận theo lời Phật,
      tóm lược lối vào / giới hạnh bồ tát. [NBĐHL – I. 1]

      Ở đây có bốn tiêu đề

      • A1. Người tu
      • A2. Tâm người tu
      • A3. Nội dung pháp tu
      • A4. Kết quả pháp tu

      A1. NGƯỜI TU

      Thứ nhất, hành giả bước theo pháp hành này phải là một người hội đủ mọi tự tại và thuận duyên, phải có chánh tín và tâm từ bi.

      A2. TÂM NGƯỜI TU

      Thứ hai, tâm bồ đề có hai: bồ đề tâm nguyện và bồ đề tâm hành.

      B1. Bồ Đề Tâm Nguyện

      Về bồ đề tâm nguyện, kinh sách dạy rằng:

      Phát tâm bồ đề là / Vì lợi ích chúng sinh / Nguyện đạt chánh đẳng giác.
      [Hiện Quán Trang Nghiêm, chương 1, đoạn 18]

      Nói cách khác, đây là tâm nguyện vì lợi ích của chúng sinh mà cầu quả vị Phật.

      B2. Bồ Đề Tâm Hành

      Bồ đề tâm hành là lập chí bước theo pháp hành của bồ tát.

      B3. Thọ Bồ Tát Giới

      Để mang tâm bồ đề về khởi phát trong tâm, người tu cần thọ giới từ một đấng chân sư. Trong trường hợp này, cần theo đúng nghi thức thọ giới bồ tát, hoặc của Duy Thức tông, hoặc của Trung Quán tông. Ở đây hướng dẫn phương pháp tự thọ giới.

      Có ba phần: chuẩn bị; chánh lễ; hoàn tất.

      C1. Chuẩn bị Thọ Giới

      Có ba bước: mở tâm hoan hỉ; dâng bảy hạnh phổ hiền; chuyển tâm

      D1. Mở Tâm Hoan Hỉ

      Khởi tâm mừng vui vì hiểu lợi ích của tâm bồ đề được giải thích trong chánh văn chương

      D2. Bảy Hạnh Phổ Hiền

      Dâng bảy hạnh Phổ hiền để tích lũy công đức. Hãy nghĩ rằng mình và chúng sinh đang thật sự ở trước mặt phước điền với hết thảy chư Thế Tôn cùng chư bồ tát. Hướng tâm về vô vàn thiện đức nhiệm mầu của chư thánh chúng để dâng bảy hạnh Phổ hiền.

      E1. Cúng Dường

      Bày biện hoa, hương, đèn, nước sạch, thực phẩm, càng nhiều càng tốt. Rồi để hiện trong tâm hết thảy núi châu ngọc, rừng gỗ quí, cảnh thiên nhiên thanh tịnh đẹp rạng ngời của toàn cõi thế gian. Đây là phẩm vật cúng dường thuộc loại “không sở hữu”. Hãy cúng dường cả hai loại, phẩm vật sở hữu và không sở hữu, với các câu kệ sau đây:

      Với các câu kệ tiếp theo, mang thân khẩu ý về phụng sự:

      Với các câu kệ tiếp theo, tán dương đảnh lễ:

      Với đầy đủ tám phẩm cúng dường[1]. Để câu tụng xuất phát từ tận đáy tim sâu thẳm, cúng dường bằng trọn tấm lòng thiết tha chân thành.

      Cảnh giới thanh tịnh, là vì cúng phẩm này dâng lên Tam Bảo đang thật sự hiện diện. Chất liệu thanh tịnh, là vì phẩm cúng dường không bị việc bất chính hay ý tham lẫn làm cho ô nhiễm. Động cơ cũng thanh tịnh, là vì không mong hồi báo, không cầu công đức.

      E2. Qui Y, Đảnh Lễ

      Hướng về ruộng phước phi phàm này, là tam bảo tối thượng của cỗ xe đại thừa phi thường, khởi bằng cái tâm phi phàm vì lợi ích của hết thảy chúng sinh, phát nguyện từ nay cho mãi đến khi thành tựu quả vô thượng bồ đề, sẽ quay về nương dựa nơi Tam Bảo, và đọc ba lần câu kệ số 26:

      E3. Sám hối

      Với câu này, hướng về ruộng phước tối thượng để phát lộ sám hối, thỉnh chư vị rộng lượng đoái thương. Nghĩ rằng:

      • Hối hận cho ác nghiệp đã gieo, tựa như lỡ uống thuốc độc;
      • Tam bảo là nền tảng, là điểm dựa, tựa như thần y chữa lành mọi bệnh dữ do thuốc độc gây nên;
      • Chánh pháp là biện pháp hóa giải, tựa như thuốc giải độc;
      • Kiên quyết không tái phạm, tựa như nước cam lồ giúp thân thể phục hồi thể lực.

      Khởi bốn ý niệm trên, đọc như sau:

      Phát huy năng lực hối cải:

      Phát huy năng lực nền tảng

      Phát huy năng lực hóa giải

      E4. Tùy hỉ

      Khởi tâm chân thành mừng vui trước tất cả thiện căn công đức, cùng quả mà công đức này mang đến, đọc tụng như sau:

      E5-7. Thỉnh chuyển pháp luân, Thỉnh Phật trụ thế, Hồi hướng công đức

      Để hành trì hạnh thứ năm là thỉnh chuyển pháp luân,  hạnh thứ sáu là thỉnh Phật trụ thế, và hạnh thứ bảy là hồi hướng công đức, hãy đọc các câu kệ sau đây, để ý nghĩa lời kệ xuất phát từ tận đáy lòng:

      D3. Chuyển Tâm

      Nói về phần chuyển tâm, khởi từ câu kệ 11, hãy luyện tâm mình bằng cách dâng hiến trọn vẹn thân mạng, tài sản và công đức của cả ba thời quá khứ hiện tại và vị lai, phụng sự cho lợi ích của chúng sinh, không chút ngần ngại. Khởi tâm nguyện sâu xa rằng nhờ đó mà chúng sinh hữu tình ở khắp mọi nơi đều sẽ đạt tất cả mọi an vui thắng diệu, từ niềm vui trước mắt cho đến tận quả đại lạc cứu cánh.

      C2. Thọ Giới Bồ Tát

      Thứ hai, để khởi đầu phần thọ giới, cần thỉnh mời chư Phật đà Bồ tát đoái tưởng:

      Kính thỉnh hết thảy / mười phương Phật đà,
      Hết thảy Bồ tát / trên mười thánh địa,
      Hết thảy đạo sư / chấp giữ kim cang,
      Kính xin chư vị / thương tưởng cho con

      Rồi thọ giới bồ đề tâm nguyện và bồ đề tâm hành cùng một lúc, bằng cách đọc ba lần hai câu tụng dưới đây:

      C3. Hoàn Tất Thọ Giới

      Khởi tâm mừng vui, đọc từ câu 26 đến 33. Rồi mời người khác cùng vui và đọc câu kệ 34

      Sau đó, có thể đọc tụng bài nguyện sau đây:

      Bồ đề tâm trân quý
      Nơi nào chưa có, nguyện sẽ phát sinh
      Nơi nào đã sinh, nguyện không thoái chuyển
      Vĩnh viễn tăng trưởng / không bao giờ ngừng

      Ngang đây hoàn tất phần phát khởi tâm bồ đề trong tâm người tu.


      A3. NỘI DUNG PHÁP TU
      Làm thế nào tu theo pháp hành của bồ tát

      Dẫn nhập

      Hết thảy mọi pháp hành của bồ tát đều bao gồm trong sáu hạnh ba la mật [còn gọi là lục độ].

      Tinh túy sáu hạnh này có thể tóm lược như sau:

      1. Thí, bao gồm bốn đặc tính
      2. Giới, bao gồm bốn đặc tính
      3. Nhẫn, bao gồm bốn đặc tính
      4. Tấn, bao gồm bốn đặc tính
      5. Định, bao gồm bốn đặc tính
      6. Tuệ, bao gồm bốn đặc tính.

      Bốn đặc tính là gì? Kinh sách dạy bốn đặc tính là:

      1. phá tan mọi chướng ngại;
      2. đi chung với trí tuệ siêu việt khái niệm;
      3. toàn thành mọi nguyện ước;
      4. thành thục chúng sinh ba loại căn cơ.

      Chướng ngại có sáu, tương ứng với sáu hạnh ba la mật:

      • tham lẫn;
      • giới bất nghiêm;
      • sân hận;
      • lười biếng;
      • tán tâm;
      • ác tuệ.

      Toàn thành nguyện ước chúng sinh, là vì:

      • hạnh thí: cho ra mọi sở hữu;
      • hạnh giới: thành nơi chốn cho người phát khởi tín tâm;
      • hạnh nhẫn: tự tại trước nghịch cảnh;
      • hạnh tấn: làm được việc cần làm;
      • hạnh định: đạt thần thông, khiến chúng sinh tăng trưởng tín tâm
      • hạnh tuệ: biết điều cần làm, cần bỏ.

      Nhờ đó mang lại mọi điều chúng sinh nguyện mong, giúp tâm chúng sinh chín mùi một cách trực tiếp hay gián tiếp bằng cách đưa chúng sinh đạt quả giác ngộ, quả A la hán, Bích Chi Phật, hay quả vị Phật.

      Dưới đây hướng dẫn phương pháp đưa sáu hạnh ba la mật vào pháp chuyển tâm.

      B1. Hạnh Thí

      Một là hạnh thí, tu bằng cách nhớ đến hậu quả tai hại của lòng tham lẫn, của thói quen tham luyến thân thể, tài sản, công đức trong cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, đồng thời nhớ đến lợi ích của hạnh thí, lý do vì sao nên cho ra v.v…

      B2. Hạnh Giới

      Thứ hai là hạnh giới, lời khai thị nói rõ về hai việc: phương tiện giữ giới và vận dụng phương tiện này để giữ giới.

      C1. Phương tiện giữ giới

      Phương tiện giữ giới có ba:

      1. bất phóng dật là tâm cẩn trọng, tỉ mỉ quán xét điều cần lấy, cần bỏ (Skt.apramāda; Tib.བག་ཡོད་ bayö);
      2. chánh niệm là tâm ghi nhớ chính xác, không quên điều cần lấy, bỏ. (Skt.smṛti; Tib.དྲན་པ་ drenpa)
      3. chánh tri là tâm tỉnh giác, tự kiểm soát tình trạng của thân khẩu và ý (Skt.saṃprajanya; Tib.ཤེས་བཞིན་, she zhin)

      C2. Vận dụng phương tiện giữ giới

      Trước hết, vận dụng chánh niệm để luôn nhớ không quên điều cần lấy, cần bỏ.

      Tiếp theo, vận dụng chánh tri để tự kiểm soát thân khẩu và ý của chính mình, vừa chớm muốn lánh điều thiện, ham điều bất thiện, là có thể nhận biết được ngay.

      Lúc ấy, vận dụng tâm bất phóng dật để nhớ lại lợi ích của việc thiện mà làm ngay, hoặc nhớ lại hậu quả tai hại của việc bất thiện mà ngừng ngay.

      Niềm tự tín nơi nhân quả là nền tảng của mọi pháp hành, vì vậy cần nương lời của Như lai để khởi tâm thâm tín nhân quả. Từ tận đáy lòng, giữ tâm xác quyết sâu xa vể cảnh khổ sinh tử, biết rõ làm ác thì gặp ác, một khi sa cõi ác đạo rồi, khổ đau bức bách triền miên, đừng nói chi toàn thành lợi ích cho chúng sinh, ngay cả chính mình cũng không tự gánh nổi!

      D1. Giới Hạnh Bồ Đề Tâm Nguyện

      E1. Điều cần tránh

      Giới hạnh có nhiều loại, nhưng có ba nguyên tắc đặc biệt cần tránh vì đi ngược với bồ đề tâm nguyện:

      1. từ bỏ chúng sinh
      2. thoái chuyển thành tâm nhị thừa (thanh văn duyên giác)
      3. phạm bốn pháp bất tịnh

      Bốn pháp bất tịnh được nói rõ trong câu kệ sau đây:

      Lừa bậc đáng tôn kính / hối hận không đúng chỗ /
      Phỉ báng bậc thánh nhân / Lừa đảo chúng hữu tình /
      là bốn pháp bất tịnh / phải nỗ lực từ bỏ. /
      Nếu làm điều ngược lại / thì gọi là tịnh pháp.

      E2.Điều cần giữ

      Yếu tố thuận

      1. hướng quả vô thượng bồ đề cùng với nhân của quả này;
      2. vui cùng thiện hạnh của người khác, từ tận đáy lòng cảm thấy rất biết ơn khi chúng sinh làm việc lành;
      3. hồi hướng mọi thiện căn công đức về cho chúng sinh thành tựu Phật quả.

      Ba pháp quán đại thừa này cần được mang về giữ ở trong tim.

      D2. Giới Hạnh Bồ Đề Tâm Hành

      E1. Điều cần tránh

      Trong số những yếu tố nghịch với bồ đề tâm hành, nói chung cần phải từ bỏ tâm tác hại chúng sinh cùng tất cả mọi điểm tựa của tâm này. Đặc biệt đối với các trọng giới như xâm phạm sở hữu của Tam Bảo, phỉ báng bồ tát, từ bỏ chánh pháp, đều cần được giữ gìn thận trọng như giữ mạng sống của chính mình.

      E2.Điều cần giữ

      Nói về yếu tố thuận, đừng bao giờ chê việc thiện nhỏ mà không làm, và phải luôn xét kỹ xem mình có đang tu với ba nguyên tắc hay không.

       

      B3. Hạnh Nhẫn

      Cơ hội tu hạnh nhẫn

      Có nhiều trường hợp cần phải nhẫn, bắt đầu với bốn cảnh sau đây:

      • Bị người khinh khi
      • Bị người chửi mắng
      • Bị người dèm pha
      • Hay bị gây đau đớn

      Và, tương tự như vậy, khi bốn cảnh nói trên xảy ra cho sư phụ, bằng hữu hay người thân [cộng lại thành tám cảnh]

      Thêm vào bốn cảnh tiếp theo đây, xảy ra cho kẻ thù hay những kẻ đối đầu với ta:

      • Khi họ được an vui hạnh phúc
      • Khi họ được danh vọng, lợi lạc
      • Khi họ được tôn vinh
      • Khi họ người đời ngợi khen

      Thêm vào đó, có lúc cảnh trái ngược với mười hai cảnh nghịch ý này, nghĩa là mười hai cảnh thuận ý, bị ngăn trở, vậy tổng cộng có hai mươi bốn cơ hội để tu hạnh nhẫn.

      Bất kể thế nào, đừng bao giờ để tâm thoái chí nản lòng vì cảnh hiện trước mắt hay vì khổ đau phải gánh chịu, thay vào đó, hãy tiếp nhận khổ đau, đừng nổi giận với người gây hại, đừng bận tâm đến việc bị hại, giữ tâm vững vàng an định nơi tánh không thâm sâu của thực tại.

      Vậy, mỗi trường hợp nhân lên ba lần, thành 72 loại nhẫn cần tu.

      C1. Ba lý do nên tiếp nhận khổ đau [an thọ khổ nhẫn]

      • Nhờ khổ mà sạch được ác nghiệp. Vậy hãy nên tiếp nhận khổ đau, biết đây là cây chổi quét đi mọi lỗi lầm.
      • Nhờ khổ mà biết chán khổ sinh tử luân hồi, khởi tâm từ bi với chúng sinh, hướng thiện hạnh, tránh ác hạnh. Vậy hãy nên tiếp nhận khổ đau, biết đây sẽ là điều thúc đẩy mình đến với thiện đức.
      • Nhờ khổ mà quét tâm kiêu ngạo, dẹp nọc ganh ghen, thắng sức mạnh của tham chấp, đưa đến quả thành tựu. Vậy hãy nên tiếp nhận khổ đau, biết đây chính là phẩm trang nghiêm cõi tâm.

      C2. Ba lý do không nên bận tâm cho việc bị hại  /
      [nại oán hại nhẫn]

      • Vì lòng từ bi đối với người hại mình: thử nghĩ xem, chúng sinh mê muội bị phiền não khống chế, đối với chính bản thân họ còn tác hại, huống chi người khác.
      • Vì biết lỗi ở nơi mình: người ta hại mình bây giờ chỉ là do nghiệp của mình trong quá khứ và thái độ của mình trong hiện tại.
      • Vì biết rằng nhờ kẻ thù gây hại nên ta mới có cơ hội tích lũy công đức tu nhẫn, vốn là nền tảng của hết thảy mọi thiện hạnh bồ tát. Vậy kẻ thù chính là bạn lành, thật sự mang lợi ích lớn lao đến cho ta.

      C3. Ba pháp quán thậm thâm [đế sát pháp nhẫn]

      Hạnh nhẫn có thể huân dưỡng bằng cách quán niệm với lòng xác quyết về giáo pháp thậm thâm qua ba cách sau đây:

      • Quán về chân đế, là chân tánh không, siêu việt mọi khái niệm: tu hạnh nhẫn bằng cách quán chiếu việc bị hại và người gây hại, cả hai đều không thật có.
      • Quán về tục đế, cảnh hiện huyễn ảo của duyên sinh: tu hạnh nhẫn bằng cách chứng biết người gây hại và việc bị hại, không bên nào có một cách độc lập.
      • Quán về sự hợp nhất bất khả phân của chân tánh của tâm: tu hạnh nhẫn bằng cách nhận diện cơn sân hận này bản lai thanh tịnh, hoàn toàn không có nền tảng hay nguồn gốc.

      B4. Hạnh Tấn

      Ở đây có hai phần: diệt yếu tố nghịch với hạnh tấn, là ba loại giải đãi; và nuôi sáu lực, là yếu tố thuận với hạnh tấn.

      C1. Diệt Yếu Tố Nghịch

      1. nhờ móc câu vô thường thúc hối mà diệt được sự giải đãi thích ngồi không;
      2. nhờ vui cùng diệu Pháp mà diệt được sự giải đãi thích việc bất thiện;
      3. nhờ nâng đỡ lòng tự tin của chính mình mà diệt được sự giải đãi thoái chí nản lòng.

      C2. Nuôi Yếu Tố Thuận

      1. Phần chuẩn bị, ứng với năng lực chí nguyện: đây là chí nguyện tu theo Phật pháp, do thấy được lợi ích của việc thiện và hậu quả tai hại của việc bất thiện.
      2. Phần chính, ứng với năng lực tự tín: đây là nguồn nghị lực phát sinh từ sức mạnh của trái tim, bảo đảm một khi việc thiện đã bắt đầu là sẽ hoàn tất. Lực tự tín này có ba phương diện:
      3. Tự tín trong hành động: Như mặt trời ló dạng trên mặt đất, đừng để chướng ngại quấy nhiễu, cũng đừng để nghịch cảnh xô đẩy. Như mặt trời chuyển động một mình: tự mình chiến thắng sức mạnh của Ma Vương, đừng cậy nhờ ai khác, cứ thế, thành tựu quả vô thượng bồ đề. Cuối cùng, như mặt trời tỏa ánh sáng chan hòa trên toàn cõi thế, nhờ vận dụng trí, bi và nguyện của bồ tát mà tự mình, chính mình, đủ khả năng giữ gìn sự sống cho toàn thể chúng sinh. Nói cách khác, hãy hăng hái nỗ lực mang lợi ích về cho chúng sinh ở khắp mọi nơi, cùng tận không gian.
      4. Tự tín trong khả năng: Hãy ý thức mình thuộc dòng giống thượng căn, phát chí nguyện mãnh liệt không để bất kỳ một phá giới phạm giới nào, dù là nặng hay nhẹ, làm nhơ dòng giống Phật.
      5. Tự tín trước phiền não: Hãy xem nhẹ phiền não, đừng để bất cứ nghịch cảnh nào khiến phải bận tâm.
      6. Năng lực niềm vui: Luôn tu thiện pháp với trọn niềm hăng say vui thú, nhưng không mong cầu bất cứ quả lành nào, cứ hễ làm được việc lành là tâm đều rộn rã mừng vui.
      7. Năng lực chừng mực: Bao giờ thân nhọc tâm mệt, quét sạch mọi che chướng bằng cách buông nghỉ một thời gian, để rồi mau chóng tiếp tục làm việc thiện với trọn niềm hăng say.
      8. Năng lực chuyên cần: Tận diệt những gì cần diệt bỏ, tận tụy áp dụng chánh niệm và chánh tri để phá nhiễm tâm.
      9. Năng lực tự chủ: Tự luyện mình trong mọi giới luật, nhớ lời dạy về tâm bất phóng dật để tự giữ gìn ba cửa thân khẩu và ý của chính mình.

      B5. Hạnh Định

      Có hai phần: xả bỏ yếu tố nghịch với hạnh định, và nhiếp tâm vào đề mục thiền chỉ.

      C1. Xả bỏ yếu tố nghịch

      Phần đầu, xả bỏ yếu tố nghịch, có hai tiêu đề: xả bỏ bận tâm thế tục, và xả bỏ tán tâm.

      D1. Xả bỏ bận tâm thế tục

      Nói về các mối bận tâm thế tục, tâm sẽ không thể đạt định nếu còn luyến cha mẹ, thân nhân, bằng hữu, thị giả. Vậy cần xả bỏ thói quen lo toan và bận rộn, một mình ở chốn cách ly vắng vẻ thích hợp với pháp tu thiền.

      Để tâm tham lợi, tham danh, tham lời khen, tham vinh dự, tham nhu cầu vặt vãnh, đeo đuổi theo lòng tham chỉ tạo chướng ngại cho đường tu chân chính, vậy phải đoạn lìa mọi khuynh hướng mong cầu và âu lo tương tự [thiểu dục], luyện tâm biết vui với những gì mình có [hỉ túc].

      D2. Xả bỏ tán tâm

      Cho dù ở nơi cách ly, không khởi tâm mong cầu vật chất hay những thứ tương tự, nhưng nếu còn vướng ái dục thì vẫn không thể đạt định, tâm sẽ không có khả năng an trụ trong tịnh chỉ. Muốn đạt các tầng thiền tịnh chỉ, bắt buộc phải dứt bỏ ái dục, điều này rất quan trọng, vì vậy cần tuyệt hết tâm niệm mê luyến người khác phái, bằng cách quán về nhân, vốn không dễ kiếm; về tánh, vốn bất tịnh, và về quả, đưa đến nhiều hậu quả tai hại v.v…

      Hơn nữa, cần ý thức tám mối bận tâm thế tục [bát phong] và mọi ý nghĩ hướng về đời sống hiện tiền đều là kẻ thù chân chính. Vì vậy cần chiêm nghiệm về hậu quả của dục niệm, giữ nội tâm trang nghiêm, chân thành nỗ lực xả bỏ tất cả, bất kể dục niệm có trùng điệp đến mức nào.

      C2. Nhiếp tâm nơi đề mục

      Nói về nội dung của pháp tu định, tuy có nhiều phương pháp, nhưng ở đây chủ yếu là để huân dưỡng tâm bồ đề. Pháp tu này có hai mặt: quán bình đẳng ngã tha, và quán hoán chuyển ngã tha.

      D1. Quán bình đẳng ngã tha

      Cần thấy rằng nếu chỉ biết quan tâm cho bản thân mà bỏ mặc người khác, thái độ này thật trái lẽ. Là vì ta cùng người khác đều giống như nhau, đều mong cầu hạnh phúc, không muốn khổ đau. Vì vậy mà phải quán về sự bình đẳng giữa mình và người khác.

      Như kinh sách nói

      Niệm bình đẳng ngã tha
      cần tinh tấn huân dưỡng
      ngay từ đầu pháp hành.
      Vì ta và hữu tình
      đối với vui và khổ
      đều bình đẳng như nhau,
      cần gánh vác hữu tình
      như gánh vác bản thân.

      Vậy thì ở bước đầu hãy tu pháp quán tâm bồ đề bình đẳng ngã tha. Quán như sau:

      Chúng sinh hữu tình nhiều như không gian vô tận, tuy vậy không một chúng sinh nào không từng là cha, là mẹ, hay là bạn của ta. Đức Long Thọ dạy rằng:

      Mỗi người mẹ của ta
      trong các đời quá khứ
      nếu nhỏ bằng hạt mầm,
      số lượng nhiều vô tận,
      mặt đất toàn cõi thế
      cũng không sao chứa nổi.

      Dựa vào kinh sách và lý lẽ, ta có thể xác định rằng hết thảy chúng sinh đều đã từng rất thân thiết với mình.

      Mỗi khi vui, từ tận đáy lòng hãy khởi tâm nguyện: “nguyện khắp cả chúng sinh có được hạnh phúc, cùng nhân duyên tạo hạnh phúc.” Tương tự như vậy, mỗi khi khổ, từ tận xương tủy hãy khởi ước nguyện: “nguyện tôi cùng hết thảy chúng sinh thoát được khổ đau cùng nhân duyên gây khổ!”

      Ở giai đoạn này, có khi chướng ngại sẽ đến, người tu có thể sẽ khởi tâm nhị thừa, nghĩ rằng: “tôi sẽ diệt khổ đau của chính mình, tôi chẳng mong đợi gì nơi ai, cũng chẳng cần phí công cố gắng diệt khổ cho người.” Thế nhưng Nhập Bồ Đề Hành Luận có nói:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 97]

      Nói vậy cần gì lánh khổ tương lai,
      vốn chẳng phạm đến tôi trong hiện tại?

      Cần gì phải nỗ lực tích lũy tìm cầu sức khỏe, thực phẩm, y phục v.v… cho tương lai. Cái tôi này đây mỗi sát na đều đã không còn, sát na sau đã thành “kẻ khác”. Chỉ vì vô minh nghĩ rằng tôi trong tương lai cũng chính là tôi trong hiện tại, nhưng đó chỉ là vọng tưởng. Đúng như Nhập Bồ Đề Hành Luận có nói:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 98]

      Ý nghĩ: “Nhưng tôi là người chịu khổ!”
      thật ra chỉ là ý nghĩ sai lầm,
      là vì khi chết là một người khác,
      mà khi tái sinh lại là người khác.

      Lấy ví dụ, người mê muội nghĩ rằng: “Đây là dòng nước năm ngoái tôi làm rơi chiếc áo”, hay là “đây là con sông hôm qua tôi đi qua”. Nhưng nước cuốn trôi chiếc áo năm ngoái đâu phải là nước bây giờ, và sông của ngày hôm qua cũng đã khác. Tương tự như vậy, tâm của quá khứ đâu phải là tôi và tâm của tương lai cũng đâu phải là tôi, đều khác nhau cả.

      Ở đây ta có thể nghĩ rằng: “mặc dù tâm trong tương lai không phải là “tôi” trong hiện tại, nhưng đều cùng là một dòng tâm thức, vậy tôi phải lo cho an nguy của chính mình!” Đã nghĩ như vậy thì lại càng phải lo cho an nguy của người khác, là vì mặc dù chúng sinh hữu tình không phải là cá nhân tôi, nhưng đều là loài hữu tình trong cùng một cõi thế.

      Nếu nghĩ rằng: “Việc ai nấy lo, tuyết đầu ai nấy phủi chứ làm sao có thể giúp hết mọi người,” vậy hãy thử chiêm nghiệm câu này trong Nhập Bồ Đề Hành Luận:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 99]

      Vậy thì chân đau, tay đâu cần giúp?

      Như đã nói, chân đạp gai, việc gì tay phải tốn công lo nhổ? Tương tự như vậy, tay giúp khi mắt bị vướng bụi, cha mẹ nâng đỡ cho con, tay đút cơm cho miệng. Để lo cho mình, vốn phải làm hết những việc như vậy.

      Tóm lại, nếu việc ai nấy lo không cần quan tâm đến kẻ khác, làm như vậy nhất định việc gì cũng khó lòng làm xong. Biết điều này rồi, hãy hết lòng phụng sự lợi ích chúng sinh.

      D2. Quán hoán chuyển ngã tha

      Thứ hai, quán tâm bồ đề hoán chuyển ngã tha.
      Nhập Bồ Đề Hành Luận nói như sau:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 131]

      Không đổi vui mình / để lấy khổ người
      thì vô thượng giác / sẽ không thể đạt,
      trôi trong sinh tử / không chút niềm vui.

      Như sách nói, cần mang hạnh phúc của mình tặng cho chúng sinh, và nhận khổ chúng sinh về phần mình. Chi tiết quán tưởng, sách nói như sau:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 140]

      Lấy cảnh của người,
      thấp, bằng hay cao,
      đổi thành của tôi.
      Và đổi cảnh tôi
      thành của người khác.
      Dẹp hết tán tâm
      để mà quán chiếu:
      khởi tâm ganh tị
      cạnh tranh, kiêu căng

      Câu này có nghĩa như sau:

      Ở pháp quán đầu tiên, “người khác” là một người thấp kém hơn tôi, đối với người này, địa vị tôi cao quí hơn nhiều. Nhìn từ mắt nhìn của người địa vị thấp kém để cảm nhận lòng ganh ghen đối với tôi là kẻ địa vị cao sang. Sau khi quán như vậy, tự nhiên sẽ cảm nhận được điều sau đây:

      “Tôi cao, người ta thấp, chỉ mới tưởng tượng lòng ganh ghen của người khác thôi đã khiến tâm tôi khốn khổ thế này! Vậy có lý nào lại tự mình khởi tâm ganh ghen người khác để làm gì?” Cứ thế, lòng ganh ghen sẽ tan biến.

      Tương tự như vậy, quán về lòng cạnh tranh đối với người cùng địa vị với mình. Trong pháp quán này, tôi đổi vị trí cùng người ngang hàng với mình, nhìn từ quan điểm của người này để thấy tôi là kình địch. Tôi lấy vị trí của người kia, nung nấu cạnh tranh trên mọi phương diện. Khi ngưng pháp quán này, trong lòng sẽ cảm thấy như sau:

      “Nếu tôi là địch thủ, chỉ mới tưởng tượng thái độ cạnh tranh mờ ám của người khác thôi đã khiến tâm tôi kiệt quệ thế này, vậy còn tự mình khởi tâm cạnh tranh gây hại cho người khác để làm gì!” Làm như vậy sẽ tự nhiên chế ngự được tâm cạnh tranh của chính mình.

      Rồi lại theo cùng một phương pháp, quán về lòng kiêu mạn, ở đây tôi là người thấp kém, người khác là kẻ trên. Đặt mình vào chỗ của người khác ở trên, trong lòng phát sinh lòng kiêu căng khinh mạn đối với kẻ dưới, dựa vào gia thế học vấn v.v… Khi ngưng pháp quán này, trong lòng sẽ thấy rằng, “Chỉ mới tưởng tượng lòng khinh mạn của người khác mà đã khốn khổ thế này, vậy làm sao có thể tự mình khởi tâm khinh mạn người khác?” Làm như vậy sẽ tự nhiên hàng phục được thói kiêu căng.

      Có thể quán theo chi tiết hướng dẫn trong Nhập Bồ Đề Hành Luận.

      Nếu không thể tu các pháp quán này, muốn một pháp tu ngắn gọn hơn thì có thể chọn câu kệ trong Bảo Hành Vương Chánh Luận:

      Nguyện việc ác người / trổ quả nơi tôi;
      nguyện việc thiện tôi / trổ quả nơi người.
      Hễ còn chúng sinh / chưa được giải thoát,
      cho dù có đã / đạt vô thượng giác
      tôi cũng nguyện xin / vì một hữu tình /  mà vào sinh tử.

      Công đức lời này / nếu như có thân
      thì bao thế giới / số lượng nhiều như / số cát sông Hằng
      cũng không làm sao / có thể chứa hết.
      Điều này thuận theo / lời của Phật dạy,
      và cũng thuận theo / lý lẽ hiển nhiên.

      Nhập Bồ Đề Hành Luận nói rằng:
      [NBĐHL – chương X, câu 56]

      Nguyện cho khổ nạn / của khắp chúng sinh / trổ quả nơi tôi.
      Nương vào năng lực / chúng Tăng bồ tát
      nguyện khắp chúng sinh / hưởng được đầy nguồn
      an vui thắng diệu.

      Nên quán niệm ý nghĩa của những câu kệ này, đọc lớn tiếng nếu muốn. Quán bình đẳng và hoán chuyển ngã tha như vậy tương tự với pháp tu do Sakya Pandita soạn tác. Tuy có một vài khác biệt nhỏ nơi hầu hết các luận giải, nhưng khi tu cứ hãy tùy ý chọn cách nào thích hợp nhất với tâm của chính mình.

      B6. Hạnh Tuệ

      Tuệ trước tiên được nhận diện, sau đó được áp dụng vào đề mục vô ngã.

      C1. Nhận diện

      Trước tiên, tuệ là trí chứng biết vạn pháp giai không trong thời tọa thiền, và chứng biết vạn pháp như huyễn trong thời xuất thiền.

      C2. Áp dụng vào tánh không

      Sau đó, vận dụng trí tuệ này để quán vô ngã. Ở đây có hai pháp quán: quán nhân vô ngã và quán pháp vô ngã.

      D1. Nhân vô ngã

      Trước tiên, nhìn lại phàm phu ngu muội lấy kẻ gieo nghiệp và chịu quả mà gọi là ngã, là tôi, một cá nhân, một con người, một sinh thể. Vậy cũng nên tự hỏi cái được gọi là “tôi” đó là ứng vào với thân, với khẩu, với ý, hay là ứng với điều gì khác? Là vô tình hay hữu tình? Là vô thường hay thường còn? v.v…

      Quán như vậy, rồi sẽ thấy mặc dù không có “ngã” nhưng ta vẫn chấp ngã, không có “tha” nhưng ta vẫn chấp tha, chỉ vì đã để cho vọng tâm thao túng. Sự vật, thật ra, tự nó vốn không có cái gì để có thể gọi là “tôi” hay là “người khác”.

      D2. Pháp vô ngã

      Thứ hai, quán pháp vô ngã bao gồm bốn pháp thiền gọi là Tứ niệm xứ

      E1. Thân niệm xứ

      Tất cả mọi sự hiện ra và tồn tại trong toàn cõi luân hồi và niết bàn này, đều đơn thuần do tâm mà hiện, hoàn toàn không có một khả năng hiện hữu nào ngoài những gì do tâm gán đặt. Tâm này cũng tùy thuộc vào thân, vì vậy mà cần quán về thân bằng cách nêu những thắc mắc như sau:

      • Cái được gọi là “thân” này đây, vốn là đồng nhất hay dị biệt với tổng thể các thành phần cấu tạo?
      • Thân này sinh từ đâu?
      • Thân này trú ở đâu?
      • Thân này diệt về đâu?

      Cuối cùng, để tâm an trụ trong chánh định tánh không của thân.

      Bao giờ thân khởi ái dục, hãy quán về tánh bất tịnh và như huyễn của thân mình và thân người, nhờ đó dẹp được lòng ham muốn nhục dục.

      E2. Thọ niệm xứ

      Cảm giác khoái lạc hay đớn đau là cội rễ sinh ra tâm bất thiện như ái và thủ, vậy cần xét thử xem cảm giác này là đồng nhất hay là dị biệt với tâm… Quán về tánh chất không thật có của hai loại cảm giác này, cùng mọi cảm giác khác [ví dụ cảm giác dửng dưng], để biết rốt lại mọi cảm thọ đều chỉ là khổ đau, hoàn toàn không có chút thực thể nào cả.

      E3. Tâm niệm xứ

      Thử xét lại cái tâm sinh ra “sáu thức” và quán chiếu xem dòng tâm thức với muôn vàn biến hiện – thời điểm đi trước, thời điểm theo sau, thiện, bất thiện v.v… – là một thứ hay nhiều thứ. Xét xem nhiều trạng thái tâm thức hiện ra như vậy – thích và không thích, tín và bất tín, thuận và nghịch với chánh pháp, vui và buồn, tham và sân, v.v… – là cùng một tâm hay không cùng một tâm. Nếu nói rằng cùng một tâm, vậy thử xét xem vì sao cùng một tâm lại sinh ra nhiều trạng thái khác nhau như vậy, vui buồn, tham sân v.v… Nếu nói rằng những trạng thái tâm thức này tùy duyên sinh ra, vậy thử xét xem nếu không bị duyên chi phối, không tiếp với đối cảnh, thì tâm này thực chất ra sao? có hiện hữu hay không hiện hữu? Thường còn hay vô thường? Hãy dùng lý trí liên tục quán xét như vậy để có được niềm xác quyết rằng tâm này vốn vô sinh.

      E4 Pháp niệm xứ

      Chứng biết một cách xác quyết rằng những gì không phải là thân, thọ hay là tâm – nghĩa là tất cả những gì thuộc phạm vi của tưởng, hành và thức – đều tùy thuộc nhân duyên mà có, vì vậy hoàn toàn không tự tánh. Chúng đều đơn thuần là tánh không, siêu việt mọi phạm trù đối đãi phân biệt.

      a4. KẾT QUẢ PHÁP TU

      Chứng biết tướng hiện của tục đế chỉ đơn thuần là huyễn ảo, như trò ảo thuật, như một giấc mơ, từ đó thuần luyện công hạnh quảng đại, tận diệt bảy loại tham chấp. Chứng biết cảnh giới của chân đế dù chỉ một vi trần cũng không hề có tự tánh, từ đó mà đưa pháp hành về nơi tim, không chấp bám vào bất cứ điều gì.
      [NBĐHL, Chương X, câu 58]

      Nguyện cho chánh pháp,
      là thuốc duy nhất
      chữa lành bệnh khổ,
      là gốc rễ của
      mọi nguồn an vui,
      luôn được muôn loài
      hỗ trợ tôn kính,
      tồn tại dài lâu.

      Đây là lời của Ragged Abu – Nguyện mọi sự cát tường.

      Hồng như chuyển Việt ngữ – 18/07/2013

      ——————–

      Ghi Chú Phần Việt Ngữ:

      [1] Tám phẩm cúng dường: 1. phẩm sở hữu, 2. phẩm không sở hữu, 3. thân mạng, 4. tắm Phật, 5. cúng phẩm làm tươi đẹp giác quan, 6. cúng phẩm qua nguyện lực, 7. cúng phẩm vô thượng, 8. nnhạc, tán dương

      CHÁNH VĂN TẠNG NGỮ

      ༄༅། །བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་སྤྱོད་པ་ལ་འཇུག་པའི་སྒོམ་རིམ་རབ་གསལ་ཉི་མ་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ། །

      ༄༅། །བདེར་གཤེགས་ཆོས་ཀྱི་སྐུ་མངའ་སྲས་བཅས་དང༌། ཕྱག་འོས་ཀུན་ལའང་གུས་པས་ཕྱག་འཚལ་ཏེ། །བདེ་གཤེགས་སྲས་ཀྱི་སྡོམ་ལ་འཇུག་པ་ནི། །ལུང་བཞིན་མདོར་བསྡུས་ནས་ནི་བརྗོད་པར་བྱ། དེ་ལ་བཞི། གང་འཇུག་པ་པོ་རྟེན་གྱི་གང་ཟག གང་གིས་འཇུག་པའི་བསམ་པ། ཚུལ་ཇི་ལྟར་འཇུག་པའི་སྦྱོར་བ། དེ་ལྟར་ཞུགས་པའི་འབྲས་བུའོ།། དང་པོ་རྟེན་གྱི་གང་ཟག་ནི་དལ་འབྱོར་ཐོབ་ཅིང་དད་དང་སྙིང་རྗེ་ལྡན་པའོ།། གཉིས་པ་བསམ་པ་སེམས་བསྐྱེད་པ་འདི་ལ་སྨོན་འཇུག་གཉིས། དང་པོ་ནི། སེམས་བསྐྱེད་པ་ནི་གཞན་དོན་ཕྱིར། ཡང་དག་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་འདོད། ཅེས་གསུངས་པས་གཞན་དོན་དུ་སངས་རྒྱས་ཐོག་འདོད་ཀྱི་བསམ་པ། གཉིས་པ་འཇུག་པ་ནི། རྒྱལ་བའི་སྲས་ཀྱི་བསླབ་བྱ་ལ་སློབ་པར་དམ་བཅའ་བ། དེ་ལྟ་བུའི་སེམས་བསྐྱེད་དེ་རང་རྒྱུད་ལ་བཟུང་བར་བྱ་བ་ལ་བླ་མ་ལས་ལེན་ན་དབུ་སེམས་གང་རུང་གི་ཆོ་ག་ལྟར་བྱ། འདིར་སྡོམ་པ་རང་ཉིད་ཀྱིས་བླང་བའི་ཚུལ་ལ་སྦྱོར་དངོས་རྗེས་གསུམ། དང་པོ་སྦྱོར་བ་ལ་གསུམ། ཕན་ཡོན་གྱི་བྲོད་པ་བསྐྱེད་པ་སྤྱོད་འཇུག་ལེའུ་དང་པོ་ལྟར་བྱ། ཚོགས་བསགས་པ་ཡན་ལག་བདུན་པ་བྱ་བའི་དང་པོ་ཚོགས་ཞིང་རྒྱལ་བ་སྲས་བཅས་མངོན་སུམ་དུ་བཞུགས་པའི་སྤྱན་སྔར་རང་གཞན་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་ལྷན་ཅིག་ཏུ་རྒྱལ་བ་སྲས་བཅས་ཀྱི་ཡོན་ཏན་རྗེས་སུ་དྲན་པ་དང་བཅས་ཡན་ལག་བདུན་པ་འབུལ་བར་བསམ་ལ། དང་པོ་མཆོད་པའི་ཡན་ལག མེ་ཏོག་བདུག་སྤོས་མར་མེ་ཆུ་གཙང་གི་ཡོན་ཆབ་བཟའ་བཏུང་སྣ་ཚོགས་པའི་ཞལ་ཟས་ལ་སོགས་ཅི་འབྱོར་བའི་མཆོད་པ་དངོས་སུ་བཤམས། རིན་པོ་ཆེའི་རི་བོ་ཡིད་དུ་འོང་བའི་ནགས་ཚལ། དབེན་ཞིང་ཉམས་དགའ་བའི་ས་ཕྱོགས་སོགས་ཕྱོགས་བཅུའི་འཇིག་རྟེན་ན་ཡོད་པ་རྣམས་བློས་བླང་ནས་འབུལ་བ་བདག་པོས་ཡོངས་སུ་མ་བཟུང་བའི་མཆོད་པ་གཉིས་པོ་རིན་ཆེན་སེམས་དེ་སོགས་ཀྱིས་འབུལ། རྒྱལ་དང་དེ་སྲས་སོགས་ཀྱིས་རང་གི་སྒོ་གསུམ་བྲན་དུ་འབུལ་བའི་མཆོད་པ། ཁྲུས་ཀྱི་ཁང་བ་སོགས་ཀྱིས་ཡིད་ཀྱི་སྤྲུལ་པའི་མཆོད་པ། དེ་ལས་གཞན་ཡང་སོགས་ཀྱིས་སྨོན་ལམ་སྟོབས་ཀྱི་མཆོད་པ། ཇི་ལྟར་འཇམ་དབྱངས་སོགས་ཀྱིས་བླ་ན་མེད་པའི་མཆོད་པ། ཡོན་ཏན་རྒྱ་མཚོ་སོགས་ཀྱིས་བསྟོད་པ་དབྱངས་ཀྱི་མཆོད་པ། དུས་གསུམ་བཞུགས་སོགས་ཀྱིས་གུས་པ་ཕྱག་གི་མཆོད་པ་དང་བརྒྱད་པོ་ཚིག་རྗེས་དོན་དྲན་སྙིང་ཐག་པ་ནས་བྱ། དེ་དག་ཀྱང་ཞིང་དག་པ་དཀོན་མཆོད་གསུམ་གྱི་སྤྱན་སྔར། དངོས་པོ་དག་པ་སྡིག་པ་དང་མ་འདྲེས་ཤིང་སེར་སྣས་མ་བཅིང་བ། བསམ་པ་དག་པ་ལན་དང་རྣམ་སྨིན་ལ་རེ་བ་མེད་པའི་སེམས་ཀྱིས་འབུལ་བའོ།། གཉིས་པ་སྐྱབས་སུ་འགྲོ་བ། ཡུལ་ཁྱད་པར་ཅན་ཐེག་ཆེན་ཐུན་མོང་མ་ཡིན་པའི་དཀོན་མཆོག་གསུམ་ལ། བསམ་པ་ཁྱད་པར་ཅན་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་ཀྱི་དོན་དུ། དུས་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་མ་ཐོབ་བར་དུ་སྐྱབས་སུ་འགྲོ་སྙམ་པས་བྱང་ཆུབ་སྙིང་པོ་སོགས་ལན་གསུམ་བྱ། གསུམ་པ་སྡག་པ་བཤགས་པ་ཕྱོགས་རྣམས་སོགས་ཀྱིས་བཤགས་ཡུལ་ལ་མཁྱེན་པར་གསོལ་ཏེ། སྔར་བྱས་ཀྱི་སྡིག་པ་ལ་ཁོང་དུ་དུག་སོང་བ་ལྟ་བུ། རྟེན་དཀོན་མཆོག་གསུམ་ལ་དུག་ནད་གསོ་བའི་སྨན་པ་ལྟ་བུ། གཉེན་པོ་དམ་པའི་ཆོས་ལ་སྨན་ལྟ་བུ། ཕྱིན་ཆད་མི་བྱེད་པའི་སྡོམ་སེམས་ལ་ལུས་ཟུང་གསོ་བའི་བཅུད་ལེན་བདུད་རྩི་ལྟ་བུའི་འདུ་ཤེས་དང་བཞི་བསྐྱེད་ནས། ཐོག་མ་མེད་ལྡན་སོགས་ཀྱིས་སུན་འབྱིན་པའི་སྟོབས། དེ་བས་རྒྱལ་བ་སོགས་རྟེན་གྱི་སྟོབས། ཐ་མལ་ནད་ཀྱིས་སོགས་ཀྱིས་གཉེན་པོ་ཀུན་སྤྱོད་ཀྱི་སྟོབས། འདི་ནི་བཟང་པོ་ཞེས་རྐང་པ་གཉིས་ཀྱིས་སྡོམ་པའི་སྟོབས་རྣམས་སྙིང་ཐག་པ་ནས་བྱའོ།། བཞི་པ་རྗེས་སུ་ཡི་རང་བ་འཇིག་རྟེན་དང་འཇིག་རྟེན་ལས་འདས་པའི་དགེ་རྩ་འབྲས་བུ་དང་བཅས་པ་ཀུན་ལ་སྙིང་ཐག་པ་ནས་དགའ་ཞིང་རྗེས་སུ་ཡི་རང་བ་དང་བཅས། སེམས་ཅན་ཀུན་གྱི་སོགས། ལྔ་པ་ཆོས་ཀྱི་འཁོར་ལོ་བསྐོར་བར་བསྐུལ་བ་དང༌། དྲུག་པ་མྱ་ངན་ལས་མི་འདའ་བར་གསོལ་བ་འདེབས་པ། བདུན་པ་བསྔོ་བ་རྣམས་ཕྱོགས་རྣམས་སོགས་ཀྱིས་ཚིག་དོན་དྲན་པར་བྱ། དེ་ནས་བློ་སྦྱགས་པ་ལུས་དང་དེ་བཞིན་སོགས་ཀྱིས་རང་གི་ལུས་ལོངས་སྦྱོད་དུས་གསུམ་བསགས་པའི་དགེ་བ་དང་བཅས་པ་སེམས་ཅན་གྱི་དོན་བསྒྲུབ་པའི་ཕྱིར་དུ་ཕངས་པ་མེད་པར་བསྔོས་ཏེ་གནས་སྐབས་དང་མཐར་ཐུག་ཀུན་ཏུ་འགྲོ་བའི་ཉེར་འཚོ་བླ་ན་མེད་པའི་རྒྱུ་སྙིང་ཐག་པ་ནས་སྨོན་པ་ལ་བློ་སྦྱངས། གཉིས་པ་དངོས་གཞི་དགོངས་གསོལ་སྔོན་དུ་འགྲོ་བས་ཇི་ལྟར་སྔོན་གྱི་སོགས་ལན་གསུམ་གྱིས་སྨོན་འཇུག་སྟབས་གཅིག་ཏུ་བླང༌། གསུམ་པ་མཇུག་ལ། དེང་དུས་བདག་སོགས་ཀྱིས་རང་དགའ་བ་བསྒོམ། བདག་གིས་དེ་རིང་སོགས་ཀྱིས་གཞན་དགའ་བ་སྒོམ་དུ་གཞུགས། དེ་དག་གི་རྗེས་སུ་བྱང་ཆུབ་སེམས་མཆོག་སོགས་ཀྱིས་སྨོན་ལམ་ཀྱང་བྱའོ།། དེས་བསམ་པ་བྱང་ཆུབ་ཀྱི་སེམས་རང་རྒྱུད་ལ་བཟུང་བ་དེ་སོང༌། གསུམ་པ་ཚུལ་ཇི་ལྟར་འཇུག་པའི་སྦྱོར་བ་ལ་ཉམས་ལེན་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་དྲུག་ཏུ་འདུ་བས་ནེ་དག་གི་ངོ་བོ་རིམ་པ་བཞིན། ཁྱད་ཆོས་བཞི་དང་ལྡན་པའི་གཏོང་སེམས། སྤོངས་སེམས། མི་འཁྲུག་པའི་སེམས། སྤྲོ་བའི་སེམས། མི་གཡེང་བའི་སེམས། ཆོས་རབ་ཏུ་རྣམ་པར་འབྱེད་པ་རྣམས་ཡིན། ཁྱད་ཆོས་བཞི་ནི། སྦྱིན་པ་མི་མཐུན་ཕྱོགས་ཉམས་དང༌། རྣམ་པར་མི་རྟོག་ཡེ་ཤེས་ལྡན། འདོད་པ་ཐམས་ཅད་ཡོངས་རྫོགས་བྱེད། སེམས་ཅན་ཡོངས་སྨིན་བྱེད་རྣམ་གསུམ། ཞེས་གསུངས། མི་མཐུན་པའི་ཕྱོགས་ནི་རིམ་པ་བཞིན་སེར་སྣ། ཚུལ་འཆལ། ཁོང་ཁྲོ། ལེ་ལོ། རྣམ་གཡེང༌། ཤེས་འཆལ་དྲུག སེམས་ཅན་གྱི་འདོད་པ་ཡོངས་སུ་རྫོགས་ཚུལ་ནི། སྦྱིན་པས་ལོངས་སྤྱོད་སོགས་སྦྱིན། ཚུལ་ཁྲིམས་ཀྱིས་ཡིད་དྭངས་པར་བྱེད། བཟོད་པས་གནོད་པ་དྭང་དུ་ལེན། བརྩོན་འགྲུས་ཀྱིས་དགོས་པའི་གྲོགས་བྱེད། བསམ་གཏན་གྱིས་རྫུ་འཕྲུལ་དང་མངོན་ཤེས་ཀྱིས་འདུན་པར་བྱེད། ཤེས་རབ་ཀྱིས་བླང་དོར་གྱི་གནས་སྟོན་པར་བྱེད། དེ་དག་གིས་འདོན་པ་ཡོངས་སུ་རྫོགས་པར་བྱས་ཏེ་དངོས་སམ་བརྒྱུད་ནས་ཉན་ཐོས་རང་རྒྱལ་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་གསུམ་གང་རུང་ལ་འགོད་པ་སེམས་ཅན་ཡོངས་སྨིན་བྱེད་པ་ཡིན། དེ་ལྟ་བུའི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་དེ་དག་ཀྱང་སེམས་སྦྱོང་བའི་སྤྱོད་པ་ལ་འདུ་བའི་ཚུལ། དང་པོ་སྦྱིན་པ་ནི་རང་གི་ལུས་ལོངས་སྤྱོད་དུས་གསུམ་གྱི་དགེ་བའི་རྩ་བ་དང་བཅས་པ་ཐམས་ཅད་མ་བཏང་བའི་ཉེས་གམིགས། བཏང་བའི་ཕན་ཡོན། གཏོང་དགོས་པའི་རྒྱུ་མཚན་སོགས་ལ་བསམ་ནས་སྙིང་ཐག་པ་ནས་གཏོང་སེམས་སྦྱོང་བ་དེ་ཡིན། གཉིས་པ་ཚུལ་ཁྲིམས་ལ་སྲུང་བྱེད་ཐབས་དང། དེས་ཇི་ལྟར་བསྲུང་ཚུལ་གཉིས། དང་པོ་སྲུང་བྱེད་ཀྱི་ཐབས་ལ་འཇུག་ལྡོག་གི་གནས་ལ་གཟོབ་པའི་བག་ཡོད། བླང་དོར་མི་བརྗེད་པའི་དྲན་པ། སྒོ་གསུམ་གྱི་གནས་སྐབས་ལ་བརྟགས་པའི་ཤེས་བཞིན་དང་གསུམ། གཉིས་པ་དེས་ཇི་ལྟར་སྲུང་ཚུལ། དང་པོ་དྲན་པས་བླང་དོར་མི་བརྗེད་པར་བྱས་ཏེ་ཤེས་བཞིན་གྱིས་རང་གི་ལུས་ངག་ཡིད་དསུམ་གྱི་གནས་སྐབས་ལ་བརྟག་ནས་བསྒྲུབ་བྱ་དགེ་བའི་ཕྱོགས་དང་དུ་མི་ལེན་པ་དང༌། སྤང་བྱ་མི་དགེ་བ་ལ་འཇུག་འདོད་ཀྱི་བསམ་པ་སྐྱེས་ངོ་ཤེས་པར་བྱ། དེའི་ཚེ་བག་ཡོད་ཀྱིས་དགེ་བའི་ཕན་ཡོན་དྲན་ནས་དྭང་དུ་བླང་ཞིང༌། ཉེས་སྤྱོད་མི་དགེ་བའི་ཕྱོགས་ཀྱི་ཉེས་དམིགས་དྲན་ནས་སྤང་བར་བྱ་བ་ལ་བསླབ། དེ་དག་གི་རྒྱུ་ཡང་ལས་འབྲས་ལ་ཡིད་ཆེས་པ་ཡིན་པས་རྒྱལ་བའི་བཀའ་འཁྲུལ་བ་མེད་པའི་རྗེས་སུ་འབྲང་སྟེ་ཡིད་ཆེས་བསྐྱེད། དེ་ནས་མི་དགེ་བ་བྱས་ན་ངན་སོང་དུ་འགྲོ་ངེས། ངན་སོང་དུ་སྐྱེས་ན་སྡུག་བསྔལ་འདི་ལྟ་བུ་ཡོད་པས། གཞན་དོན་ལྟ་ཅི་རང་དོན་ཡང་མི་འགྲུབ་སྙམ་དུ་འཁོར་བའི་སྡུག་བསྔལ་དྲན་པ་འདི་སྙིང་ནས་རྒྱུད་ལ་སྐྱེ་ངེས་བྱ། བསྲུང་བྱ་རྣམ་གྲངས་མང་ཡང་སྨོན་སེམས་ཀྱི་མི་མཐུན་ཕྱོགས་སེམས་ཅན་བློས་བཏང་བ། ཉན་རང་གི་སར་སེམས་བསྐྱེད་པ། ནག་པོའི་ཆོས་བཞི་སྤང་བ་གསུམ་གཙོ་བོར་སྲུང༌། ནག་པོའི་ཆོས་བཞི་ནི། མཆོད་འོས་བསླུ་དང་འགྱོད་མེད་འགྱོད་པ་བསྐྱེད། དམ་པར་སྐུར་འདེབས་འགྲོ་ལ་གཡོ་སྒྱུས་སྤྱོད། ནག་པོའི་ཆོས་བཞི་སྤངས་ཤིང་ལྡོག་པ་ནི། དཀར་པོའི་ཆོས་བཞི་ཡིན་པས་ཀུན་ཏུ་སྤྱད། ཅེས་གསུངས། མཐུན་ཕྱོགས་འབྲས་བུ་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་དང༌། དེའི་རྒྱུ་བྱང་ཆུབ་ཀྱི་སྦྱོད་པ་ལ་སྙིང་ཐག་པ་ནས་མོས་པ། གཞན་གྱི་དགེ་བ་གང་བྱེད་ཀུན་ལ་སྙིང་ནས་སྤྲོ་བས་ཡི་རང༌། དེ་དག་གི་དགེ་རྩ་གཞན་དོན་རྫོགས་བྱང་དུ་བསྔོ་བ་སྟེ། ཐེག་ཆེན་གྱི་བསྒོམ་ལམ་གསུམ་པོ་འདི་ཁོ་ན་ཉམས་སུ་བླངས། འཇུག་སྡོམ་གྱི་མི་མཐུན་ཕྱོགས་སྤྱིར་གཞན་གནོད་གཞིར་བཅས་སྤོངས་པ་དང༌། ཁྱད་པར་ཉེས་དམིགས་ཆེ་ཤོས། དཀོན་མཆོག་གི་དཀོར་ཕྲོག་པ། བྱང་སེམས་ལ་སྐུར་བ་འདེབས་པ། ཆོས་སྤོང་གི་ལས་བྱེད་པ་སོགས་སྲོག་དང་བསྡོས་ཏེ་བསྲུང༌། མཐུན་ཕྱོགས་དགེ་རྩ་ཕྲ་མོ་ཚུན་ཆད་ཁྱད་དུ་མི་གསོད་པར་དམ་པ་གསུམ་གྱིས་ཟིན་པར་ཉམས་སུ་བླང་བར་བྱའོ།། གསུམ་པ་བཟོད་པའི་ཕ་རོལ་ཕྱིན་པ་ལ། བཟོད་པའི་ཡུལ་བདག་ལ་བརྙས་པ་བྱེད་པ་དང༌། ཚིག་རྩུབ་སྨྲ་བ། ལྐོག་ཏུ་མི་སྙན་སྨྲ་བ། སྡུག་བསྔལ་བྱེད་པ་དང་བཞི། བདག་གི་བླ་མ་དང་མཛའ་བཤེས་སོགས་ལ་དེ་ལྟར་བཞི་བྱེད་པ་དང༌། བདག་གི་དགྲ་དང་མི་མཐུན་པའི་ཕྱོགས་ལ་བདེ་བ་བྱེད་པ། རྙེད་བཀུར་བྱེད་པ། བསྟོད་པ། སྙན་པར་སྨྲ་བ་བཞི་སྟེ་མི་འདོན་པ་བཅུ་གཉིས། དེ་དག་ལས་ལྡོག་པ་འདོད་པ་བཅུ་གཉིས་ཀྱི་གེགས་བྱེད་པ་སྟེ་བཟོད་པའི་ཡུལ་ཉི་ཤུ་རྩ་བཞིའོ།། དེ་དག་རེ་རེ་བཞིན་ཡང་རྒྱུ་མཚན་དང་རྒྱུ་དེ་དག་ལས་བྱུང་བའི་སྡུག་བསྔལ་གྱིས་མི་སྐྱོ་བ་སྡུག་བསྔལ་དྭང་ལེན། བྱེད་པ་པོ་གང་ཟག་ལ་མི་ཁྲོ་བ་གནོད་བྱེད་ལ་ཅི་མི་སྙམ་པ་སྟོང་ཉིད་ཟབ་མོའི་དོན་ལ་བློ་འཇོག་པ་དང་གསུམ་གསུམ་གྱིས་བཟོད་པར་བྱེད་པའི་ནང་ཚན་བཟོད་པའི་རྣམ་གྲངས་བདུན་ཅུ་རྩ་གཉིས་ལ་གོམ་པར་བྱེད་པའོ།། དེ་ཡང་རྒྱུ་མཚན་གསུམ་གྱིས་སྡུག་བསྔལ་དྭང་དུ་ལེན་ཏེ། སྡུག་བསྔལ་ལ་བརྟེན་ནས་བདག་གི་སྡིག་པ་འཛད་པས་སྡུག་བསྔལ་སྡིག་པའི་ཕྱག་མར་ཤེས་ནས་དྭང་དུ་བླང༌། སྡུག་བསྔལ་ལ་བརྟེན་ནས་འཁོར་བ་ལ་ངེས་འབྱུང་སེམས་ཅན་ལ་སྙིང་རྗེ། དགེ་སྡིག་ལ་བླང་དོར་སོགས་སྐྱེ་བས་སྡུག་བསྔལ་དགེ་བའི་བསྐུལ་མར་ཤེས་ནས་དྭང་དུ་བླང༌། སྡུག་བསྔལ་གྱིས་ང་རྒྱལ་གྱི་མགོ་གནོན། དངོས་གྲུབ་ཀྱི་སྣ་འདྲེན་པས་སྡུག་བསྔལ་སེམས་ཀྱི་རྒྱན་དུ་ཤེས་ནས་དྭང་དུ་བླང༌། རྒྱུ་མཚན་གསུམ་གྱིས་གནོད་བྱེད་ལ་ཅི་མི་སྙམ་པའི་བཟོད་པ་སྒོམ་སྟེ། སེམས་ཅན་རྨོངས་པ་ཉོན་མོངས་ཀྱིས་དབང་དུ་གྱུར་ནས་རང་ལའང་གནོད་པ་བྱེད་ན་གཞན་ལ་ལྟ་ཅི་སྨོས་སྙམ་དུ་གནོད་བྱེད་སྙིང་རྗེའི་ཡུལ་དུ་བལྟས་ནས་བཟོད་པར་བྱ། དེའང་རང་གི་སྔོན་བྱས་ཀྱི་ལས་དང་འཕྲལ་གྱི་སྤྱོད་ལམ་མི་བཟོད་པས་བདག་ལ་གནོད་བྱེད་རྣམས་བྱུང་བ་ཡིན་སྙམ་དུ་ལེ་ལེན་ཐམས་ཅད་རང་ལ་བདའ་ཞིང་བཟོད་པ་སྒོམ། དགྲ་ལ་བརྟེན་ནས་བདག་གི་བཟོད་པའི་ཚོགས་རྫོགས་ཤིང་བྱང་ཆུབ་སྤྱོད་པའི་གྲོགས་སུ་འགྱུར་བས་ཕན་འདོགས་པའི་བཤེས་སུ་བསམ་ནས་བཟོད་པར་བྱའོ།། རྒྱུ་མཚན་གསུམ་གྱིས་ཆོས་ཟབ་མོ་ལ་ངེས་པར་བསམ་ནས་བཟོད་པ་སྒོམ་སྟེ། དོན་དམ་སྟོང་ཉིད་སྤྲོས་བྲལ་ལ་བསམ་ན་གནོད་བྱ་གནོད་བྱེད་རང་བཞིན་མེད་པ་ལ་བསམ་ནས་བཟོད་པ་སྒོམ། ཀུན་རྫོབ་རྟེན་འབྲེལ་སྒྱུ་མ་ལ་བསམ་ན་ཐམས་ཅད་རྐྱེན་གྱིས་བསྐུལ་བས་གནོད་བྱེད་དང་སྡུག་བསྔལ་རང་དབང་མེད་པ་ལ་བསམ་ནས་བཟོད་པ་སྒོམ། ཟུང་འཇུག་རང་གི་སེམས་ཉིད་ལ་བསམ་ན་ཁོང་ཁྲོ་གཞི་མེད་རྩ་བྲལ་དུ་དག་པ་ལ་བསམ་ནས་བཟོད་པ་སྒོམ་པར་བྱའོ།། བཞི་པ་བརྩོན་འགྲུས་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ལ། མི་མཐུན་ཕྱོགས་ལེ་ལོ་གསུམ་སྤང་བ། མཐུན་ཕྱོགས་སྟོབས་དྲུག་བསྐྱེད་པ་གཉིས་ལས། དང་པོ་ནི་མི་རྟག་པའི་ལྕགས་ཀྱི་བསྐུལ་ཏེ་སྦྱོར་བ་མེད་པའི་ལེ་ལོ་སྤང༌། དམ་པའི་ཆོས་ཀྱི་དགའ་བ་ལ་བསམ་ནས་བྱ་བ་ངན་ཞེན་གྱི་ལེ་ལོ་སྤང༌། རང་གི་སེམས་གཟེངས་བསྟོད་དེ་སྒྱིད་ལུག་གི་ལེ་ལོ་སྤང་ངོ༌།། གཉིས་པ་སྟོབས་དྲུག་ནི། དགེ་བའི་ཕན་ཡོན་དང་སྡིག་པའི་ཉེས་དམིགས་ལ་བསམ་ནས་ཆོས་ལ་མོས་པ་བསྐྱེད་པ་སྦྱོར་བ་མོས་པའི་དཔུང༌། སྙིང་སྟོབས་ཀྱི་དམ་བཅའ་བརྟན་པོས་བརྩམ་པའི་དགེ་རྩ་མཐར་དབྱུང་བ་དངོས་གཞི་བརྟན་པའི་དཔུང༌། འདི་ལ་གསུམ། འཇིག་རྟེན་ན་ཉི་མ་ཤར་བ་ལ་དཔེ་བྱས་ཏེ། བར་ཆད་གཞན་དབང་དུ་མི་གཏོང་བར་རྐྱེན་གྱིས་བརྫི་བ་མེད་པ་དང༌། ཉི་མ་གཅིག་པུར་རྒྱུ་བ་ལ་དཔེར་བྱས་ཏེ་བདག་ཉིད་གཅིག་པུ་གཞན་ལ་མི་སྟོས་པར་བདུད་སྡེ་ཕམ་པར་བྱས་ནས་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་བསྒྲུབ་པ་དང༌། ཉི་མ་ཀུན་ལ་སྣང་བ་ལྟར་བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་ཡེ་ཤེས་སྙིང་རྗེ་སྨོན་པ་གསུམ་གྱིས་རང་ཉིད་འགྲོ་བའི་ཉེར་འཚོར་བྱིན་གྱིས་བརླབས་ཏེ་མཁའ་མཉམ་གྱི་འགྲོ་དོན་དྭང་དུ་བླང་བ་དང་གསུམ་ལས་ཀྱི་ང་རྒྱལ། བདག་ཉིད་མཆོག་ཏུ་བལྟས་ཏེ་ལྟུང་བ་ཕྲ་རགས་ཀྱིས་མ་གོས་པར་བྱ་བ་ནུས་པའི་ང་རྒྱལ། ཉོན་མོངས་རྣམས་དམན་པར་བལྟས་ཏེ་མི་མཐུན་ཕྱོགས་ཁྱད་དུ་གསོད་པ་ཉོན་མོངས་པའི་ང་རྒྱལ་དང་གསུམ་མོ།། རང་གི་ལེགས་བྱས་དགེ་རྩ་སྒྲུབ་པ་ལ་མཆོག་ཏུ་དགའ་བར་བསམ་ནས་རྣམ་སྨིན་ལ་རེ་བ་མེད་པར་སྤྲོ་བ་དྭང་དུ་བླང་བ་ཁྱད་པར་དགའ་བའི་དཔུང༌། རང་ཉིད་སྟོབས་ཉམས་པ་དང་ཧ་ཅང་སྐྱོ་བར་གྱུར་པ་ན་སླར་བྱའི་དོན་དུ་རེ་ཞིག་དོར་བགེགས་སེལ་དོར་བའི་དཔུང༌། དྲན་པ་དང་ཤེས་བཞིན་གྱི་སྒོ་ནས་ཉོན་མོངས་འཇོམས་པའི་བྱ་བ་ལྷུར་བླང་ནས་སྤང་བྱ་འཇོམས་པ་ལྷུར་ལེན་གྱི་སྟོབས། རང་གི་སྒོ་གསུམ་ལ་དབང་བསྒྱུར་ཏེ་བག་ཡོད་ཀྱི་གཏམ་དྲན་པས་བསླབ་བྱ་ཀུན་ལ་རང་དབང་གིས་སློབ་པ་དབང་བསྒྱུར་གྱི་སྟོབས་དང་སྟོབས་དྲུག་གོ། ལྔ་པ་བསམ་གཏན་གྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ལ་བསམ་གཏན་གྱི་མི་མཐུན་ཕྱོགས་སྤངས་པ་དང༌། ཞི་གནས་ཀྱི་དམིགས་པ་ཡིད་ལ་བྱ་བ་གཉིས། དང་པོ་མི་མཐུན་ཕྱོགས་སྤང་བ་ལ་གཉིས། འཇིག་རྟེན་སྤང་བ་དང༌། རྣམ་རྟོག་དོར་བ་གཉིས། དང་པོ་འཇིག་རྟེན་སྤང་བ་ནི། རང་གི་ཕ་མ། གཉེན་བཤེས། འཁོར་གཡོག་ལ་སོགས་ནང་སེམས་ཅན་གྱི་ཚོགས་ལ་ཆགས་ནས་དེ་དག་གི དབང་དུ་གྱུར་ན་རང་གི་སེམས་རྩེ་གཅིག་ཏུ་མཉམ་པར་འཇོག་པར་མི་འགྱུར་བས་དེ་དག་དང་འབྲེལ་འདྲིས་འདུ་འཛི་ཐམས་ཅད་སྤངས་ཏེ་དགོན་པ་དབེན་པ་ལ་སོགས་པར་རང་ཉིད་གཅིག་པུར་གནས། དེར་ཡང་རྙེད་པ་དང་བཀུར་སྟི། བསྟོད་པ་དང་སྙན་གྲགས། འཕྲལ་དགོས་ཀྱི་ཡོ་བྱད་སོགས་ལ་ཆགས་ནས་དེ་དག་དོན་དུ་གཉེར་ན། ཡང་དག་པའི་ལམ་ལ་བར་དུ་གཅོད་པས་ཐམས་ཅད་ལ་རེ་དྭོགས་བཅད་དེ་གང་བྱུང་དེས་ཆོག་ལ་བསླབ། གཉིས་པ་རྣམ་རྟོག་དོར་བ་ནི། ལུས་དབེན་པར་གནས་ཤིང་ཧ་ཅང་ཡོ་བྱད་སོགས་དོན་དུ་མི་གཉེར་ཡང་སེམས་འདོད་པའི་དབང་དུ་གྱུར་ན་བསམ་གཏན་རྣལ་མ་རྒྱུད་ལ་མི་སྐྱེ་ཞིང་སེམས་མཉམ་པར་འཇོག་མི་ནུས་པས་དེ་དག་སྤང་དགོས། ཁྱད་པར་གོང་མའི་ཏིང་ངེ་འཛིན་ཁྱད་པར་ཅན་ཐོབ་པ་ལ་འདོད་པའི་འདོད་ཆགས་ལ་བློ་ལོག་པ་འདི་གལ་ཆེ་བས་རྒྱུ་བསྒྲུབ་པར་དཀའ་བ། ངོ་བོ་མི་གཙང་བ་ཡིན་པ། འབྲས་བུ་གནོད་པ་མང་བ་ལ་སོགས་ལ་བསམ་ནས་ཡུལ་བུད་མེད་ཀྱི་སྲེད་པ་ལས་བློ་ལོག་ངེས་བྱ། གཞན་ཡང་ཆོས་བརྒྱད་ཚེ་འདི་སྒྲུབ་པའི་རྣམ་རྟོག་ཐམས་ཅད་དགྲ་ལྟར་བལྟས་ཏེ་ཞེ་འདོད་ངན་པའི་རྟོག་ངན་ཇི་ཙམ་སྐྱེས་ཀྱང་དེ་དག་གི་ཉེས་དམིགས་ཡུན་རིང་དུ་བསམ་ནས་རང་ལ་རང་གི་ཁྲེལ་བཏབ་སྟེ་སྙིང་ཐག་པ་ནས་སྤང་བར་བྱའོ།། གཉིས་པ་དངོས་གཞི་བསམ་གཏན་བསྒོམ་པ་ལ། སྒོམ་ཚུལ་མང་ཡང་འདིར་བྱང་ཆུབ་ཀྱི་སེམས་བསྒོམ་པ་ལ་གཉིས། བདག་གཞན་མཉམ་པ་བསྒོམ་པ་དང༌། བདག་གཞན་བརྗེ་བ་བསྒོམ་པ་གཉིས། དང་པོ་ནི། བདག་དང་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་བདེ་བ་འདོད་མཉམ་དུ་གཅིག་སྡུག་བསྔལ་མི་འདོད་མཉམ་པ་ལ་བདག་གཅིག་པུ་བསྲུང་ཞིང་གཞན་མི་བསྲུང་བ་ནི་རིགས་པ་མ་ཡིན་པས་བདག་གཞན་མཉམ་པར་སྒོམ་དགོས་ཏེ། བདག་དང་གཞན་དུ་མཉམ་པ་ནི། དང་པོ་ཉིད་དུ་འབད་དེ་བསྒོམ། བདེ་དང་སྡུག་བསྔལ་མཉམ་པས་ནི། ཐམས་ཅད་བདག་བཞིན་བསྲུང་བར་བྱ། ཞེས་གསུངས་པ་ལྟར་ཐོག་མར་བདག་བཞན་མཉམ་པའི་བྱང་ཆུབ་སེམས་བསྒོམ་མོ།། དེའི་ཚུལ་འདི་ལྟར་དགོས་ཏེ། ནམ་མཁའི་མཐའ་དང་མཉམ་པའི་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་བདག་གི་ཕ་མ་གཉེན་ཚོར་མ་གྱུར་པ་གང་ཡང་མེད་དེ། སློབ་དཔོན་ཀླུ་སྒྲུབ་ཀྱིས། མ་ཡི་གྲངས་མཐའ་རྒྱ་ཤུགས་ཚིག་གུ་ཙམ། །རིལ་བུར་དྲིལ་ཀྱང་ས་ཡིས་ལང་མ་ཡིན། །ཞེས་གསུངས་པ་ལ་སོགས་པའི་ལུང་དང་རིགས་པས་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་རང་གི་ཉེ་དུར་ཐག་བཅད་ལ། དེ་ནས་བཟུང་བདག་ལ་བདེ་བ་སྐྱེས་པ་ན་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་བདག་གི་བདེ་བ་དང་བདེ་བའི་རྒྱུ་འདི་ལྟ་བུ་དང་ལྡན་པར་གྱུར་ཅིག་ཅེས་ཞེ་ཐག་པ་ནས་བསྒོམ། ཡང་བདག་ལ་སྡུག་བསྔལ་ཞིག་སྐྱེས་པ་ན། བདག་དང་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་སྡུག་བསྔལ་དང་སྡག་བསྔལ་གྱི་རྒྱུ་འདི་ལྟ་བུ་དང་བྲལ་བར་གྱུར་ཅིག་སྙམ་དུ་སྙིང་གི་ཁོང་རུས་པའི་གཏིང་ནས་བསྒོམ། དེའི་ཚེ་བསམ་པ་ལ་གེགས་འདི་ལྟ་བུ་སྐྱེ་སྲིད་དེ། བདག་གི་སྡུག་བསྔལ་སེལ་བ་གཞན་ལ་མི་རེ། གཞན་གྱི་སྡུག་བསྔལ་བསལ་བ་བདག་གིས་མི་འགྲུབ་སྙམ་པ་ཉན་ཐོས་ཀྱི་བློ་སྐྱེ་ན། སྤྱོད་འཇུག་ལས། མ་འོངས་པ་ཡི་སྡུག་བསྔལ་ཡང༌། །གནོད་མི་བྱེད་ན་ཇི་ལྟར་བསྲུང༌། །ཞེས་གསུངས་པ་ལྟར་རང་ཉིད་ཀྱིས་ནངས་པར་ཕན་ཆད་ཀྱི་ནད་མེད་པ་དང་ཟས་གོས་ལ་སོགས་ཐོབ་པའི་འབད་པ་ཇི་སྟེ་བྱེད། བདག་སྐད་ཅིག་གིས་འགགས་ནས་དེ་ཕན་ཆད་གཞན་དུ་འགྱུར་བའི་ཕྱིར་རོ།། དེ་ལ་འདི་སྙམ་དུ་མ་རིག་པའི་བག་ཆགས་ཀྱིས་ནངས་པར་ཕན་ཆད་ཀྱང་བདག་ཡིན་ནོ་སྙམ་ན་འཁྲུལ་ཏེ། སྤྱོད་འཇུག་ལས། བདག་གིས་དེ་ནི་མྱོང་སྙམ་པའི། །རྣམ་པར་རྟོག་པ་ལོག་པ་སྟེ། །འདི་ལྟར་སྐྱེ་བའང་གཞན་ཉིད་ལ། འཆི་བ་ཡང་ནི་གཞན་ཞིག་ཡིན། །ཞེས་གསུངས་པ་ལྟར་རོ།། དཔེར་ན་བླུན་པོ་དག་འབབ་ཆུ་འདིས་ན་ནིང་ངའི་གོས་ཁྱེར་རོ་སྙམ་པ་དང་ནངས་པར་ཆུ་འདི་བརྒལ་ལོ་སྙམ་དུ་སེམས་མོད་ཀྱང༌། ན་ནིང་གོས་ཁྱེར་བའི་ཆུ་དེ་ཡང་གཞན་ཡིན་ལ། ནངས་པར་བརྒལ་བའི་ཆུ་དེ་ཡང་གཞན་ཡིན་ནོ།། དེ་བཞིན་དུ་འདས་པའི་སེམས་ཀྱང་བདག་མ་ཡིན་ལ། མ་འོངས་པའི་སེམས་ཀྱང་བདག་མ་ཡིན་པར་གཞན་ཡི་ནོ།། དེ་ལ་འདི་སྙམ་དུ་མ་འོངས་པའི་སེམས་ད་ལྟར་གྱི་བདག་མ་ཡིན་ཡང་བདག་གི་སེམས་ཀྱི་རྒྱུན་ཡིན་ནོ་སྙམ་པའི་སེམས་ཀྱིས་རང་དོན་སྒྲུབ་བོ་ཞེ་ན། སེམས་ཅན་གཞན་བདག་མ་ཡིན་ཡང་བདག་གི་སེམས་ཅན་ཡིན་ནོ་སྙམ་པའི་འདུ་ཤེས་ཀྱི་གཞན་གྱི་དོན་ལ་འཇུག་པར་བྱའོ།། གལ་ཏེ་མགོ་གང་གི་ཁ་བ་སྤུག་སྙམས་པའི་ཚུལ་གྱིས་རང་རང་གི་དོན་ལ་འབད་ཀྱིས། ཕན་ཚུན་གཅིག་གི་དོན་གཅིག་གིས་བསྒྲུབ་མི་ནུས་སོ་སྙམ་ན། སྤྱོད་འཇུག་ལས། རྐང་པའི་སྡུག་བསྔལ་ལག་པས་མིན། ཞེས་གསུངས་པ་ཡང་རྐང་པ་ལ་ཚེར་མ་ཟུག་པ་ཡང་ལག་པས་ཅི་སྟེ་འདོན། དེ་བཞིན་དུ་མིག་ཏུ་རྡུལ་སོང་བ་ལག་པས་དང༌། བུ་ཚའི་དོན་ཕ་མ་དང༌། ཁར་ཟས་འཛུད་པ་ལག་པ་ལ་སོགས་པ་ཡང་རང་རང་གི་དོན་བྱེད་དགོས་པར་འགྱུར་ཏེ་ཧ་ཅང་ཐལ་ལོ།། མདོར་ན་ཕན་ཚུན་གཅིག་གིས་གཅིག་གི་དོན་མ་བྱས་པར་རང་རང་གི་དོན་བསྒྲུབ་དགོས་ན་འགྲུབ་པ་ཤིན་ཏུ་དཀའོ།། དེས་ན་དེ་ལྟར་ཤེས་པར་བྱས་ལ་སེམས་ཅན་གྱི་དོན་ལ་འཇུག་པར་བྱའོ།། གཉིས་པ་བདག་གཞན་བརྗེ་བ་བྱང་ཆུབ་ཀྱི་སེམས་བསྒོམ་པ་ཡང༌། སྤྱོད་འཇུག་ལས། བདག་བདེ་གཞན་གྱི་སྡུག་བསྔལ་དག །ཡང་དག་བརྗེ་བར་མ་བྱས་ན། །སངས་རྒྱས་ཉིད་དུ་མི་འགྲུབ་ཅིང༌། །འཁོར་བ་ན་ཡང་བདེ་བ་མེད། །ཅེས་གསུངས་པ་ལྟར་བདག་གི་བདེ་བ་སེམས་ཅན་ལ་སྦྱིན། སེམས་ཅན་གྱི་སྡུག་བསྔལ་བདག་གིས་བླང་ངོ༌།། དེའི་དམིགས་པ་ཡང༌། དམན་སོགས་བདག་ཏུ་བྱས་པ་དང༌། གཞན་ཉིད་དུ་ནི་བདག་བྱས་ནས། རྣམ་རྟོག་མེད་པའི་སེམས་ཀྱིས་སུ། ཕྲག་དོག་འགྲན་སེམས་ང་རྒྱལ་བསྒོམ། །ཞེས་གསུངས་པའི་དོན་ནི། རང་ལས་དམའ་བའི་གནས་སུ་དགྲ་བཞག དགྲ་འམ་གཞན་མཐོན་པོའི་གནས་སུ་རང་བཞག་ལ་རང་མཐོ་བ་དེ་ལ་དགྲ་དམའ་བ་དེས་ཕྲག་དོག་སྒོམ་དུ་གཞུག བསྒོམ་དེ་ཚར་བ་ན་འདི་ལྟ་བུའི་བསྒོམ་པའི་བསམ་པ་འབྱུང་སྟེ། རང་མཐོན་པོར་བསྒོམ་གཞན་དམའ་བར་བསྒོམ་པ་དེས་རང་ལ་ཕྲག་དོག་བྱས་པར་བསྒོམ་པ་ལ་ཡང་འདི་ལྟ་བུའི་སྡུག་བསྔལ་འབྱུང་ན་གཞན་ལ་ཕྲག་དོག་བྱེད་པ་ག་ལ་འཐད་ཅེས་ཕྲག་དོག་རང་ཞི་བར་འགྱུར་རོ།། དེ་བཞིན་དུ་བདག་དང་མཉམ་པ་ལ་བལྟས་ནས་འགྲན་སེམས་སྒོམ་པ་ཡང་བདག་དང་མཉམ་པའི་དགྲའི་གནས་སུ་རང་ཉིད་བཞག རང་གི་གནས་སུ་དགྲ་དེ་བཞག་ལ་དགྲ་དེས་ཕྱོགས་མཐའ་དག་གི་སྒོ་ནས་བདག་ལ་འགྲན་པར་བསྒོམ་མོ།། བསྒོམ་དེ་གྲོལ་ན་འདི་ལྟ་བུ་བསམ་པ་འབྱུང་སྟེ། རང་དགྲར་བསྒོམ་ནས་གཞན་གྱིས་གནོད་པ་དང་འགྲན་སེམས་བྱས་པར་བསྒོམ་པ་ལ་ཡང་འདི་ལྟ་བུའི་སྡུག་བསྔལ་འབྱུང་ན། གཞན་ལ་གནོད་པ་དང་འགྲན་སེམས་བྱར་ག་ལ་རུང་སྙམ་ནས་འགྲན་སེམས་རང་ཞིར་འགྱུར་རོ།། ཡང་དེ་བཞིན་ང་རྒྱལ་བསྒོམ་པ་ཡང་རང་བས་དམའ་བའི་གནས་སུ་བདག་ཉིད་བཞག རང་གི་གནས་སུ་རང་བས་དམའ་བ་དེ་བཞག་ལ་གཞན་མཐོ་བ་དེས་རང་དམའ་བ་དེ་ལ་རིགས་དང་ཡོན་ཏན་ལ་སོགས་པའི་སྒོ་ནས་ང་རྒྱལ་བྱེད་དུ་གཞུགས། བསྒོམ་དེ་ཚར་བ་ན་བདག་ལ་གཞན་གྱིས་ང་རྒྱལ་བསྒོམ་པ་ན་འདི་ལྟ་བུའི་སྡུག་བསྔལ་འབྱུང་ན་དེའི་ཕྱིར་བདག་གིས་གཞན་ལ་ང་རྒྱལ་བྱར་ག་ལ་རུང་སྙམ་དུ་ང་རྒྱལ་ངོ་བོ་ཉིད་ཀྱིས་ཞི་བར་འགྱུར་རོ།། འདི་དག་གི་དོན་ཞིབ་ཏུ་སྤྱོད་འཇུག་ནས་ཇི་ལྟར་འབྱུང་བ་བཞིན་ཉམས་སུ་བླང་བར་བྱའོ།། དེ་ཙམ་བསྒོམ་པར་མི་ནུས་པས་བསྡུས་ཏེ་བསྒོམ་པར་འདོད་ན། རིན་ཆེན་ཕྲེང་བ་ལས། བདག་ལ་དེ་དག་སྡིག་སྨིན་ཞིང༌། །བདག་བདེ་མ་ལུས་དེར་སྨིན་ཤོག །ཇི་སྲིད་སེམས་ཅན་འགའ་ཞིག་ཀྱང༌། །གང་དུ་མ་གྲོལ་དེ་སྲིད་དུ། །དེ་ཕྱིར་བླ་ན་མེད་པ་ཡི། །བྱང་ཆུབ་ཐོབ་ཀྱང་གནས་གྱུར་ཅིག །དེ་སྐད་བརྗོད་པའི་བསོད་ནམས་འདི། །གལ་ཏེ་དེ་ནི་གཟུགས་ཅན་འགྱུར། །གངྒའི་བྱེ་མ་སྙེད་ཀྱིས་ནི། །འཇིག་རྟེན་ཁམས་སུ་ཤོང་མི་འགྱུར། །འདི་ནི་བཅོམ་ལྡན་འདས་ཀྱིས་གསུངས། །གཏན་ཚིག་ཀྱང་ནི་འདི་ལ་སྣང༌། །ཞེས་བྱ་བ་དང༌། སྤྱོད་འཇུག་ལས། །འགྲོ་བའི་སྡུག་བསྔལ་གང་ཅི་ཡང་རུང༌། །དེ་ཀུན་བདག་ལ་སྨིན་གྱུར་ཅིག །བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་དགེ་བ་ཡིས། །འགྲོ་བ་བདེ་ལ་སྤྱོད་པར་ཤོག །ཅེས་བྱ་བའི་དོན་སྒོམ་ཞིང་ངག་ཏུའང་བརྗོད་པར་བྱའོ།། དེ་ལྟར་བདག་གཞན་མཉམ་བརྗེ་སྒོམ་ཚུལ་ནི། འཇམ་དབྱངས་ས་པ་གྱི་གསུང་ལས་བྱུང་བ་ལྟར་བཀོད་པ་ཡིན་ལ། འགྲེལ་པ་རྣམས་ལས་འདི་དང་སྒོམ་ཚུལ་མི་འདྲ་ཙམ་སྣང་ཡང་རང་གི་བློ་གང་བདེ་ལྟར་བསྒོམ་པར་བྱའོ།།

      དྲུག་པ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ལ། ཤེས་རབ་ཀྱི་ངོ་བོ་ངོས་བཟུང་བ་དེ་ཡུལ་བདག་མེད་ལ་འཇུག་པའོ།། དང་པོ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ངོ་བོ་ནི། མཉམ་བཞག་གི་དུས་སུ་ཆོས་ཐམས་ཅད་སྟོང་ཉིད་དུ་ཤེས་པ་དང༌། རྗེས་ཐོབ་ཏུ་སྒྱུ་མ་དང་རྨི་ལམ་ལྟར་བདེན་མེད་དུ་ཤེས་པ་ཉིད་ཤེས་རབ་ཀྱི་ངོ་བོ་ཡིན་ནོ།།

      གཉིས་པ་དེ་ཡུལ་བདག་མེད་ལ་འཇུག་པ་ནི། གང་ཟག་གི་བདག་མེད་དང༌། ཆོས་ཀྱི་བདག་མེད་བསྒོམ་པའོ།། དང་པོ་ནི་རྨོངས་པ་རྣམས་ལས་བསོག་པ་པོ་དང་འབྲས་བུ་མྱོང་བ་པོ་བདག་གམ་གང་ཟག་གམ་སྐྱེས་བུའམ་སེམས་ཅན་ལ་སོགས་པར་གདགས་པའི་གཞི་དེ་ཀ་ལུས་ངག་ཡིད་གསུམ་དང་གཅིག་པ་ཡིན་ནམ། ཐ་དད་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། བེམ་པོ་ཞིག་ཡིན་ནམ། ཤེས་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། རྟག་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། མི་རྟག་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ་སྙམ་པ་ལ་སོགས་རིགས་པ་དུ་མས་བརྟགས་ཤིང་དཔྱད་པ་བློ་འཁྲུལ་པའི་དབང་གིས་བདག་མེད་ལ་བདག་དང༌། གཞན་མེད་ལ་གཞན་དུ་བཟུང་བ་མ་གཏོགས་དོན་རང་ངོས་ནས་གྲུབ་པའི་བདག་གམ་སེམས་ཅན་ཅུང་ཟད་ཀྱང་མེད་པར་ཐག་བཅད་དོ།། གཉིས་པ་ཆོས་ཀྱི་བདག་མེད་སྒོམ་པ་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་བཞི་ལས། དང་པོ་ལུས་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་ནི། འདི་ལྟར་སྣང་སྲིད་འཁོར་འདས་ཀྱིས་བསྡུས་པའི་ཆོས་ཐམས་ཅད་ཀྱང་རང་གི་སེམས་ལ་སྣང་ཞིང་སེམས་ཀྱིས་བཏགས་པ་མ་གཏོགས་ཅུང་ཟད་ཀྱང་མེད་ལ། སེམས་དེ་ཉིད་ཀྱང་ལུས་ལ་བརྟེན། ལུས་ཀྱི་དབང་དུ་གྱུར་པ་ཡིན་པས་ན་ལུས་བརྟགས་པར་བྱ་སྟེ། ལུས་ཞེས་བྱ་བ་དེ་ཡན་ལག་ཚོགས་པ་འདི་དག་དང་གཅིག་གམ་ཐ་དད་དམ་ལུས་དེ་དང་པོ་གང་ནས་བྱང་བ་ཡིན། བར་དུ་ད་ལྟ་གར་གནས། མཐར་གར་འགྲོ་སོགས་བརྟགས་ལ་ལུས་རང་བཞིན་མེད་པའི་དོན་ལ་མཉམ་པར་བཞག ཡང་ལུས་ལ་ཞེན་པ་སྐྱེས་ན་རང་གཞན་གྱི་ལུས་མི་གཙང་བ་སྒྱུ་མ་ལྟ་བུ་སོགས་སུ་བསྒོམ་ལ་ལུས་ཀྱི་ཞེན་པ་སྤང་ངོ༌།། གཉིས་པ་ཚོར་བ་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་ནི། ཚོར་བ་བདེ་སྡུག་འདི་དག་ནི་སྲེད་ལེན་སོགས་ཉོན་མོངས་པ་ཐམས་ཅད་ཀྱི་རྩ་བ་ཡིན་པས་སེམས་དང་གཅིག་གམ་ཐ་དད་ལ་སོགས་པ་ལ་བརྟགས་ལ། ཚོར་བ་རང་བཞིན་མེད་པའི་དོན་སྒོམ་ཞིང་གཞན་ཚོར་བ་ཐམས་ཅད་སྡུག་བསྔལ་དང་སྙིང་པོ་མེད་པ་ལ་སོགས་པར་སྒོམ་པར་བྱའོ།། གསུམ་པ་སེམས་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་ནི། ཚོགས་དྲུག་གིས་བསྡུས་པའི་སེམས་རྣམ་པར་ཤེས་པའི་རིགས་རྒྱུན་འདི་ཉིད་སྔ་ཕྱི་དང་བཟང་ངན་ལ་སོགས་པ་དུ་མར་སྣང་བ་འདི་རྣམས་གཅིག་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། ཐ་དད་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། དགའ་དང་མི་དགའ། དད་དང་མ་དད། ཆོས་དང་ཆོས་མིན། དགའ་སྡུག་ཆགས་སྡང་ལ་སོགས་པར་སྣང་བའི་སེམས་འདི་དག་གཅིག་ཡིན་ནམ། ཐ་དད་པ་ཞིག་ཡིན་ལ་སོགས་པར་བརྟགས། གཅིག་ཡིན་ན་སེམས་གཅིག་ལ་དགའ་སྡུག་དང་ཆགས་སྡང་ལ་སོགས་དུ་མར་སྣང་བའི་རྒྱུ་ཅི་ཡིན་བརྟགས། དེ་དག་གནས་སྐབས་རྐྱེན་གྱི་དབང་གིས་བྱུང་བ་ཡིན་སྙམ་ན། རྐྱེན་ཅུང་ཟན་ཀྱིས་ཀྱང་མ་བསྒྱུར་ཞིང་ཡུལ་གང་དང་མ་འཕྲད་པའི་སེམས་རང་གི་ངོ་བོ་ཇི་ལྟ་བུ་ཞིག དེ་ཡོད་པ་ཞིག་གམ། མེད་པ་ཞིག་གམ། རྟག་པ་ཞིག་གམ། མི་རྟག་པ་ཞིག་སྙམ་པ་ལ་སོགས་པ་དུ་མས་ཡང་དང་ཡང་དུ་བརྟགས་ལ་སེམས་གཞི་མེད་རྩ་བྲལ་དུ་གཏན་ལ་ཕབ་བོ།། བཞི་པ་ཆོས་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་ནི། དེ་ལྟར་ལུས་ཚོར་སེམས་གསུམ་ལས་གཞན་པའི་འདུ་ཤེས་དང་འདུ་བྱེད་འདུས་མ་བྱས་གསུམ་གྱིས་བསྡུས་པའི་ཆོས་ཐམས་ཅད་ཀྱང་རྒྱུ་རྐྱེན་རྟེན་འབྲེལ་ལས་སྐྱེས་པའི་ཕྱིར་ན་རང་བཞིན་བདེན་པར་མ་གྲུབ་པའི་སྟོང་ཉིད་སྤྲོས་པའི་མཐའ་ཐམས་ཅད་དང་བྲལ་བར་གཏན་ལ་ཕབ་ནས་ཀུན་རྫོབ་སྒྱུ་མ་རྨི་ལམ་ལྟ་བུའི་རོལ་པས་ཆགས་བདུན་སྤང་བའི་སྤྱོད་པ་རྒྱ་མཚོ་ལ་བསླབ་ཅིང༌། དོན་དམ་པར་ཆོས་ཐམས་ཅད་རང་བཞིན་གྱིས་གྲུབ་པ་རྡུལ་ཙམ་ཡང་མེད་པར་ཤེས་པས་གང་ལ་ཡང་ཞེན་པ་མེད་པར་ཉམས་སུ་བླང་ངོ༌།། འགྲོ་བའི་སྡུག་བསྔལ་སྨན་གཅིག་པུ། །བདེ་བ་ཐམས་ཅད་འབྱུང་བའི་གནས། །བསྟན་པ་རྙེད་དང་བཀུར་སྟི་དང༌། །བཅས་ཏེ་ཡུན་རིང་གནས་གྱུར་ཅིག ཅེས་པ་འདིའང་ཨ་བུ་ཧྲལ་པོས་སྨྲས་སོ།། དགེའོ།། བཀྲ་ཤིས།། །།