Tag Archives: lamrim

LAMRIM: 365 Ngày Thiền Quán Đường Tu Giác Ngộ

Chủ Giảng: Lama Yeshe & Lama Zopa Rinpoche
Việt ngữ: Hồng Như [đang thực hiện]
Nguồn tiếng Anh: Lama Yeshe Wisdom Archive , 2022

Lamrim là thuốc chữa lành bệnh điên đảo của tâm

THÁNG 2, 2023: XONG TRỌN CUỐN
NGÀY 25/05/2023: NHUẬN VĂN ĐẾN NGÀY 25

Ghi chú bản tiếng Việt: 

Lamrim là Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ. Tu pháp này là để đi thẳng một đường đến với quả giác ngộ. Sách này hy vọng đủ duyên để mỗi ngày dịch một trang, post vào đây cho người hữu duyên theo đó mà tu thiền Lamrim mỗi ngày. Ở đây chỉ là bản nháp đang nhuận văn, nhưng vì thời gian không đợi ai nên vẫn post lên đây để ai muốn đều có thể bắt đầu từ bây giờ…

Mời quý vị mỗi ngày đọc và thiền quán một trang, kèm với một bài lướt quán trọn đường tu. Cứ thế sau 365 ngày là xong trọn một chu kỳ tu Lamrim, rồi đáo trở lại ngày 1…, cứ thế tiếp tục cho đến khi chứng đắc từng đề mục tu. Quan trọng là phải theo đúng thứ tự.

MỤC LỤC

Ngày 1–3— Dẫn Nhập
Ngày 4–63— Tâm Kính Thầy
Ngày 64–86— Thân Người Tuyệt Hảo
Ngày 87–113— Vô Thường Và Cái Chết
Ngày 114–134— Cõi Ác Đạo
Ngày 135–169— Quy Y
Ngày 170–208— Nghiệp
Ngày 209–238— Khổ Luân Hồi
Ngày 239–266— Đường Đi (cơ cấu) Của Luân Hồi
Ngày 267–282— 12 Duyên khởi
Ngày 283–339— Tâm Bồ Đề
Ngày 340–363— Tánh Không
Ngày 364–365— Kết

PHỤ LỤC
Nền Tảng Mọi Thiện Đức
Trực Quán Lamrim
Đề Cương Pháp Quán Lamrim

Sách Đọc Thêm

Lời giới thiệu [bản Anh ngữ]
Lời mở đầu của người hiệu đính [bản Anh ngữ]
Lời cảm ơn [bản Anh ngữ]


GIỚI THIỆU [bản Anh ngữ]

Quan trọng nhất là phải liên tục khai mở tâm mình theo trình tự đường tu giác ngộ. Dù đang ở Phi Châu, Tây Tạng, mặt trăng, Irak, hay bất cứ nơi nào, dù giàu sang hay nghèo hèn gì cũng chẳng làm sao cả, cứ hãy liên tục khai tâm theo pháp Lam-rim, đây mới là điều thật sự quan trọng
LAMA ZOPA RINPOCHE

Lamrim  365 Ngày là hành trình một năm tu theo Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ dành cho những ai muốn nếm thử cốt tủy chánh pháp Phật dạy đầy uy lực này.

§ Sách bắt nguồn từ lời khuyên của Lama Zopa Rinpoche tại Singapore vào tháng tư năm 2013, khuyến khích đệ tử Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà thiết lập thời khóa 1 năm thiền Lam-rim, bắt đầu bằng 2 tháng tu theo đề mục nương kính đạo sư.

§ Đề cương Lam-rim 365 Ngày là một quy trình đầy đủ, rõ ràng, và thực tế, thích hợp để tu học riêng lẻ hay tu học theo nhóm, giúp người tu thuộc đủ mọi trình độ có thể dễ dàng xây dựng và duy trì công phu tu thiền Lam-rim của mình một cách đều đặn.

§ Đầu mỗi trang là lời trích dẫn, vừa là lời dẫn nhập, vừa là câu tóm tắt đề mục thiền quán trong ngày. Tiếp theo là phần nội dung, trình bày tóm lược những điểm trọng yếu của đề mục đang tu căn cứ theo mục lục của sách Giải Thoát Trong Lòng Bàn Tay của Pabongka Rinpoche. Phần này, cùng với câu trích dẫn trước đó, đến từ bài giảng, đã xuất bản hay chưa xuất bản, của Lama Yeshe và của Lama Zopa Rinpoche, qua đó có thể nếm được phong cách và tầm vóc của hai bậc Thầy lỗi lạc này.

§ Ba cụm điểm chính dưới phần nội dung là dành để tóm lược ý chính của mỗi đoạn, tiện cho người tu ôn nhanh xem mình hiểu và nhớ đến đâu. Cuối trang là tiêu đề của pháp đang tu, in chữ nghiêng, theo sát đề cương của Giải Thoát Trong Lòng Bàn Tay. Tiêu đề này là cột mốc giúp định hướng, dẫn qua những đề mục khác nhau của Lam-rim, từ đầu chí cuối.

§ Nguồn trích dẫn được ghi trên trang web LYWA cho người muốn tìm hiểu sâu hơn.

§ Ngoài những đề mục thiền quán Lam-rim này, Lama Zopa Rinpoche còn khuyên mỗi ngày phải nên đọc thêm tối thiểu là trọn một bài Lam-rim lướt quán, vì vậy có bài Nền Tảng Mọi Thiện Đức trong phần phụ lục. Những bài Lam-rim lướt quán khác có thể được tìm thấy trong phần Lam-rim trên trang web của FPMT www.fpmt.org [bản dịch Việt ngữ, xin tìm trên trang web hongnhu.org].

§ Lama Zopa Rinpoche khuyên người hữu duyên hãy nên dồn thời gian và công sức để mỗi ngày tu thiền theo từng đề mục của Lam-rim, theo đúng thứ tự, cứ thế lặp đi lặp lại mãi cho đến khi có được chứng ngộ vững chắc.

§ Nguyện vọng rốt ráo của sách Lam-rim 365 Ngày này là để tạo nguồn cảm hứng, cũng là để hỗ trợ cho người tu, dù đang ở chặng đường nào trên đường tu, cũng có thể dễ dàng tu tập và chứng quả, nhờ đó tạo nhân an lạc cho chính mình và cho tất cả chúng sinh.

Pháp tu Lamrim bao gồm tất cả những gì cần có để đến tận với quả giác ngộ cứu cánh. Thầy có thể nói chắc rằng Pháp tu Lamrim này chính là cốt tủy của Phật pháp.
LAMA ZOPA RINPOCHE


Lamrim là thuốc chữa lành bệnh điên đảo của tâm

#NGÀY 1 — LAMRIM LÀ ĐẠI LỘ, LÀ ĐƯỜNG CAO TỐC TRỰC TIẾP DẪN ĐẾN QUẢ GIÁC NGỘ BỒ ĐỀ — LAMA ZOPA RINPOCHE

§ Mỗi người trong chúng ta đều có trách nhiệm giải thoát chúng sinh. Dựa vào sức của chính mình để đưa chúng sinh không chừa sót một ai thoát mọi khổ đau và nguyên nhân tạo khổ, đến với quả giác ngộ bồ đề. Muốn làm được việc này thì phải tự mình đạt quả giác ngộ trước đã. Phải có được trí toàn giác thấy biết khắp cả, có như vậy mới thấy được tâm của chúng sinh, biết được mọi đặc tính, căn cơ, nghiệp chướng, biết đâu là phương pháp thích hợp để dẫn dắt từng chúng sinh đi từ niềm an lạc này đến niềm an lạc khác, cho đến tận quả vô thượng bồ đề.

§ Muốn chính mình đạt quả bồ đề thì phải chứng đạo. Điều này không phải nhiên không mà có. Nói cách khác, cần hội đủ nhân duyên, chứng đắc từng bước một theo trình tự của đường tu giác ngộ, gọi là Lamrim. Muốn viên thành Phật đạo thì đây là cách duy nhất. Và chứng ngộ chỉ đến nếu tu đúng theo trình tự. Còn những người chỉ muốn tu những đề mục mình thích, tránh né những đề mục mình không thích, khiến mình thấy khó chịu, ví dụ như khổ ác đạo, vô thường, cái chết, hay là tính chất khổ đau của sinh tử luân hồi. Đề mục nào không ưa thì gạt đi không nghĩ đến, không thiền quán, không tu, chỉ chuyên tâm vào những đề mục mình ưa thích, làm như vậy sẽ không thật sự chứng đắc được bất cứ một quả nào.

§ Lấy ví dụ không quán khổ luân hồi thì sẽ không có được cảm giác mình đang bị lửa lớn bủa vây, hay đang ngụp lặn trong phẩn uế, hay đang thân trần rớt vào bụi gai, và như vậy là không thể khởi được cái tâm chán ngán muốn buông sinh tử. Không có cái tâm muốn buông sinh tử thì sẽ không khởi được tâm đại bi và tâm bồ đề, và như thế là không vào được với Đại thừa. Nói cách khác, mọi chứng quả đều cần được chứng đắc theo đúng trình tự của đường tu giác ngộ.

  • # Muốn độ chúng sinh thoát khổ thì phải tự mình giác ngộ trước đã
  • # Cần tu tất cả mọi đề mục trong pháp Lamrim, theo đúng trình tự
  • # Đây là cách duy nhất để chứng quả, viên thành Phật đạo

!Dẫn nhập (1)

Bài Lamrim lướt quán đọc hàng ngày:

đỌC TIẾP:

  • CHỌN THEO NGÀY
    • Nhấn số bên dưới để chọn ngày

TRỰC QUÁN LAMRIM –

Tác giả: LOSANG JINPA

TRÌNH TỰ ĐƯỜNG TU GIÁC NGỘ BAO GỒM MỌI NGHĨA TRỌNG YẾU

[A Direct Meditation on the Graduated Path Containing All the Important Meanings]

Điều kiện hành trì: Mọi người đều có thể đọc tụng.

Lợi ích: Bài tụng Lam-rim ngắn gọn này bao gồm tinh túy của trọn vẹn đường tu giác ngộ, chuyên tâm đọc tụng sẽ gieo được thiện duyên thành tựu mọi chứng ngộ trên trọn đường tu, định hướng cho đời mình với chí nguyện vì chúng sinh cầu mau chóng đạt quả chánh đẳng giác bằng cách tu theo trình tự đường tu dành cho ba loại căn cơ, đặc biệt là Mật tông tối thượng du già.

 Là tinh túy của  / khắp mười phương Phật;  / là cội của khắp  / giáo truyền giáo chứng;  / là bậc trọng yếu  / trong hàng Thánh Tăng: / Ân sư nhiệm mầu  / con xin đảnh lễ.

Kính xin Ân sư  / từ bi gia hộ, / giúp cho tâm con  / chuyển thành chánh pháp, / giúp cho chánh pháp  / chuyển thành đường tu,  / giúp cho đường tu[1]   / lìa xa chướng ngại.

Chờ cho đến ngày  / con thành chánh quả,  / xin Thầy gia hộ  / cho con được như  / hai vị bồ tát  / đức Tài Đồng Tử / và đức Thường Đề[2] / tâm hạnh đều sáng : / theo gót Ân sư;  / thấy việc Thầy làm  / đều luôn thanh tịnh;  / thực hiện trọn vẹn  / lời dạy của Thầy. [Đây là cách nương thiện tri thức, gốc rễ của vô thượng bồ đề].

Xin Thầy gia hộ  / cho con thấy ra  / thân người này đây  / tự tại thuận tiện,  / thật là khó tìm,  / mà lại dễ mất;  / thấy nghiệp và quả  / thật quá thâm sâu;  / thấy khổ ác đạo  / thật không kham nổi;  / Xin Thầy gia hộ,  / cho đáy lòng con  / về nương Tam bảo / lánh mọi điều ác  / làm mọi điều lành / thuận theo chánh pháp. [Đó là trình tự đường tu sơ căn]

Cho dù nhờ vậy  / lên cõi trời, người,  / cũng vẫn triền miên  / chịu khổ sinh tử  / là vì chưa dứt  / phiền não vô minh.  / Xin Thầy gia hộ  / cho con khéo hiểu  / cảnh luân hồi này  / luân chuyển ra sao, / ngày đêm chuyên tâm  / tu Giới Định Tuệ, / là thiện phương tiện  / giải thoát luân hồi. [Đó là trình tự đường tu trung căn]

Cho dù nhờ vậy  / đạt quả giải thoát,  / thử hỏi sáu cõi  / ai không từng là  / cha mẹ của con?  / Xin Thầy gia hộ  / cho con có thể  / khởi tâm độ sinh  / không cầu vui nhỏ  / niết bàn riêng biệt,  / rồi nhờ bình-đẳng-hoán-chuyển-ngã-tha / mà phát được tâm  / bồ đề trân quí;  / Tu hạnh bồ tát  / sáu ba la mật… [Đó là trình tự đường tu thượng căn]

Theo đường tu hiển  / luyện tâm như vậy  / nên khổ luân hồi  / dù chịu bao lâu  / cũng không quản ngại. / Nhưng con xin Thầy  / gia hộ cho con  / nhìn chúng sinh mà  / xót không chịu nổi  / để dấn thân vào  / đường tu chóng vánh  / cỗ xe Kim cang.  / Khi ấy, xin Thầy  / gia hộ cho con  / giữ gìn giới hạnh  / cùng với mật thệ  / quí hơn mạng sống  / mau chóng thành tựu / địa vị hợp nhất  / Phật Kim Cang Trì, / ngay kiếp hiện tiền  / giữa thời mạt pháp. [Đó là trình tự đường tu mật thừa tối thượng căn]

[hết]

Ghi chú:

Tác giả bài pháp này là đức Dorje Chang Losang Jinpa Pal Zangpo, bậc Thánh giả cát tường. Lama Zopa Rinpoche chuyển Anh ngữ tại Tu Viện Kopan, Nepal, Jan 12-16, 2013. Merry Colony chép lại. Ven. Sarah Thresher, Merry Colony and Tom Truty cập nhật với lời giảng của Lama Zopa Rinpoche, 2014. Phần nói lợi ích là tóm tắt lời giảng của Lama Zopa Rinpoche tháng 10, 2010 tại Shedrup Ling, Mongolia. 

Hồng Như chuyển Việt ngữ 2006, dịch lại 2018.


[1] Bao gồm 84,000 pháp môn Phật dạy, trong đó có pháp tiểu thừa, đại thừa ba la mật thừa và đại thừa mật tông. Tất cả các giáo pháp này đúc kết thành pháp lam-rim, trình tự đường tu giác ngộ, chia thành trình tự đường tu sơ căn, trung căn và thượng căn. Ba đường tu này là trọn vẹn pháp lam-rim, và nằm trong Ba điểm tinh yếu của đường tu giác ngộ.

[2] Nd: Songnu Norsan và Taktungu, Alway Crying One.

Lama Tsongkhapa: LỜI NGUYỆN CUỐI LAMRIM ĐẠI LUẬN

-Tựa Đề Tạng Ngữ (Tibetan Title): ࿓༅༎་ལམ་རིམ་སྨོན་ལམ་བཞུགས་སོ༎
-Tác giả (author): Lama Tsongkhapa (Lama Tông Khách Ba)
(sơ tổ dòng Gelug)
-Việt ngữ (translator): Hồng Như, bản mới 2018
Nghe Tụng (chanting): Lab Kyabgon Rinpoche <Youtube>
༡༽ དེར་ནི་རིང་དུ་འབད་ལས་ཚོགས་གཉིས་ནི ། །
DER NI RING DU BÄ LÄ TSHOG NYI NI
From my two collections, vast as space, that I have amassed
Bấy lâu gắng tu / được nhị lương này
མཁའ་ལྟར་ཡངས་པ་གང་ཞིག་བསགས་པ་དེས ། །
KHA TAR YANG PA GANG ZHIG SAG PA DE
From working with effort at this practice for a great length of time,
Rộng như trời rộng, / xin vì những ai
བློ་མིག་མ་རིག་གིས་ལྡོངས་འགྲོ་བ་ཀུན ། །
LO MIG MA RIG GI DONG DRO WA KÜN
May I become the chief leading buddha for all those
mắt tuệ khuất lấp / bởi màn vô minh
རྣམ་འདྲེན་རྒྱལ་བའི་དབང་པོར་བདག་གྱུར་ཅིག །
NAM DREN GYÄL WÄI WANG POR DAG GYUR CHIG
Whose mind’s wisdom eye is blinded by ignorance.
con nguyện thành Phật / thượng thủ dẫn đường

༢༽ དེར་མ་སོན་པའི་ཚེ་རབས་ཀུན་ཏུ་ཡང་། །
DER MA SÖN PÄI TSHE RAB KÜN TU YANG
Even if I do not reach this state, may I be held
Khi chưa được vậy / nguyện mọi kiếp sau
འཇམ་པའི་དབྱངས་ཀྱིས་བརྩེ་བས་རྗེས་བཟུང་ནས ། །
JAM PÄI YANG KYI TSE WÄ JE ZUNG NÄ
In your loving compassion for all lives, Manjushri,
Được đức Mạn thù / thương yêu gìn giữ,
བསྟན་པའི་རིམ་པ་ཀུན་ཚང་ལམ་གྱི་མཆོག །
TÄN PÄI RIM PA KÜN TSHANG LAM GYI CHOG
May I find the best of complete graded paths of the teachings,
Trọn vẹn thắng pháp / trình tự đạo giác,
རྙེད་ནས་སྒྲུབ་པས་རྒྱལ་རྣམས་མཉེས་བྱེད་ཤོག །
NYE NÄ DRUB PÄ GYÄL NAM NYE JE SHOG
And may I please all the buddhas by my practice.
Nguyện gặp và tu / khiến Phật đẹp lòng

༣༽ རང་གིས་ཇི་བཞིན་རྟོགས་པའི་ལམ་གྱི་གནད ། །
RANG GI JI ZHIN TOG PÄI LAM GYI NÄ
Using skillful means drawn by the strong force of compassion,
Chứng đúng như thật, cốt lõi đường tu
ཤུགས་དྲག་བརྩེ་བས་དྲངས་པའི་ཐབས་མཁས་ཀྱིས ། །
SHUG DRAG TSE WÄ DRANG WÄI THAB KHÄ KYI
May I clear the darkness from the minds of all beings
Lấy lực đại từ / làm thiện phương tiện
འགྲོ་བའི་ཡིད་ཀྱི་མུན་པ་བསལ་བྱས་ནས ། །
DRO WÄI YI KYI MÜN PA SÄL JÄ NÄ
With the points of the path as I have discerned them:
Quét sạch bóng tối / trong tâm hữu tình
རྒྱལ་བའི་བསྟན་པ་ཡུན་རིང་འཛིན་གྱུར་ཅིག །
GYÄL WÄI TÄN PA YÜN RING DZIN GYUR CHIG
May I uphold Buddha’s teachings for a very long time.
Giữ cho Pháp Phật / tồn tại dài lâu.

༤༽ བསྟན་པ་རིན་ཆེན་མཆོག་གིས་མ་ཁྱབ་པའམ།
TÄN PA RIN CHEN CHOG GI MA KHYAB PAM
With my heart going out with great compassion
Thắng Pháp quí giá / phương nào chưa thịnh,
ཁྱབ་ཀྱང་ཉམས་པར་གྱུར་པའི་ཕྱོགས་དེར་ནི ། །
KHYAB KYANG NYAM PAR GYUR WÄI CHOG DER NI
In whatever direction the most precious teachings
Hay là đã thịnh / nhưng rồi đã suy
སྙིང་རྗེ་ཆེན་པོས་ཡིད་རབ་བསྐྱོད་པ་ཡིས ། །
NYING JE CHEN PÖ YI RAB KYÖ PA YI
Have not yet spread, or once spread have declined,
Nguyện lấy đại bi / chấn động lòng người
ཕན་བདེའི་གཏེར་དེ་གསལ་བར་བྱེད་པར་ཤོག །
PHÄN DEI TER DE SÄL WAR JE PAR SHOG
May I reveal this treasure of happiness and aid.
Khai mở rạng ngời / kho tàng phúc lạc

༥༽སྲས་བཅས་རྒྱལ་བའི་རྨད་བྱུང་འཕྲིན་ལས་ལས༎
SÄ CHÄ GYÄL WÄI MÄ JUNG THRIN LÄ LÄ
May the minds of those who wish for liberation be granted bounteous peace
Nương hạnh nhiệm mầu / của Phật, Bồ tát
ལེགས་གྲུབ་བྱང་ཆུབ་ལམ་གྱི་རིམ་པས་ཀྱང་། །
LEG DRUB JANG CHUB LAM GYI RIM PÄ KYANG
And the buddhas’ deeds be nourished for a long time
Cùng với trình tự / đường tu giác ngộ
ཐར་འདོད་རྣམས་ཀྱི་ཡིད་ལ་དཔལ་སྟེར་ཞིང་། །
THAR DÖ NAM KYI YI LA PÄL TER ZHING
By even this graded path to enlightenment completed
Nguyện làm rực rỡ / tâm người cầu thoát,
རྒྱལ་བའི་མཛད་པ་རིང་དུ་སྐྱོང་གྱུར་ཅིག །
GYÄL WÄI DZÄ PA RING DU KYONG GYUR CHIG
Due to the wondrous virtuous conduct of the buddhas and their sons.
Huân dưỡng lâu dài / thiện hạnh Thế tôn.

༦༽ ལམ་བཟང་བསྒྲུབ་པའི་མཐུན་རྐྱེན་སྒྲུབ་བྱེད་ཅིང་༎
LAM ZANG DRUB PÄI THÜN KYEN DRUB JE CHING
May all human and non-human beings who eliminate adversity
Nguyện làm thuận duyên / cho pháp lành này
གལ་རྐྱེན་སེལ་བྱེད་མི་དང་མི་མིན་ཀུན ། །
GÄL KYEN SEL JE MI DANG MI MIN KÜN
And create conducive conditions for practicing the excellent paths
Nghịch duyên quét hết, / cho khắp mọi loài / nhân và phi nhân
ཚེ་རབས་ཀུན་ཏུ་རྒྱལ་བས་བསྔགས་པ་ཡི ། །
TSHE RAB KÜN TU GYÄL WÄ NGAG PA YI
Never be parted in any of their lives
Mọi đời kiếp sau / không bao giờ lìa
རྣམ་དག་ལམ་དང་འབྲལ་བར་མ་གྱུར་ཅིག །
NAM DAG LAM DANG DRÄL WAR MA GYUR CHIG
From the purest path praised by the buddhas.
Đường tu trong sáng / mà Phật tán dương.

༧༽གང་ཚེ་ཐེག་པ་མཆོག་ལ་ཆོས་སྤྱོད་བཅུའི༎
GANG TSHE THEG PA CHOG LA CHÖ CHÖ CHÜI
Whenever someone makes effort to act
Nguyện cho bao giờ / ở nơi thắng thừa
ཚུལ་བཞིན་བསྒྲུབ་ལ་བརྩོན་པ་དེ་ཡི་ཚེ ། །
TSHÜL ZHIN DRUB LA TSÖN PA DE YI TSHE
In accordance with the ten-fold Mahayana virtuous practices
Thuận theo thập thiện / hành trì tinh tấn,
མཐུ་ལྡན་རྣམས་ཀྱིས་རྟག་ཏུ་གྲོགས་བྱེད་ཅིང་། །
THU DÄN NAM KYI TAG TU DROG JE CHING
May he always be assisted by the mighty ones,
Sẽ luôn được chư / Đại lực nâng đỡ,
ཀྲ་ཤིས་རྒྱ་མཚོས་ཕྱོགས་ཀུན་ཁྱབ་གྱུར་ཅིག །
TRA SHI GYA TSÖ CHOG KÜN KHYAB GYUR CHIG
And may oceans of prosperity spread everywhere.
Biển rộng cát tường / tràn khắp mọi nơi.

ཅེས་པ་འདི་ནི་རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པས་མཛད་པའོ། །
Bài pháp này do đức Tsong Khapa trước tác

Lama Tsongkhapa: BA ĐIỂM TINH YẾU CỦA ĐƯỜNG TU

– English Title: Three Principal Aspects of the Path, English translation by Lama Zopa Rinpoche
Tác Giả (Author):
Lama Tông Khách Ba (sơ tổ dòng Gelug) –
Việt ngữ: Hồng Như – bản dịch lại 2017, nhuận văn 2021

Bản Việt ngữ mới nhuận văn: 2021

Tiếng Việt:

[TÁN DƯƠNG ĐẢNH LỄ]

Con xin kính lễ / các đấng Tôn Sư.

[HỨA VIẾT LUẬN]

[1] Giáo pháp Phật dạy / trọn nghĩa tinh yếu;
Con đường Phật và / Bồ tát tán dương;
Lối ngỏ mở ra / cho kẻ thiện duyên / khát khao giải thoát
Là những điều mà / Thầy sẽ hết lòng / giải thích ở đây.

[KHUYẾN NGHE]

[2] Ai người không cầu / lạc thú thế gian
Gắng tận dụng cảnh / ung dung sung mãn
Noi theo con đường / khiến Phật hoan hỉ,
Bậc thiện duyên này, / xin hãy lắng nghe / với tâm trong sáng.

[VÌ SAO CẦN KHỞI TÂM BUÔNG SINH TỬ]

[3] Tâm quyết cầu thoát / nếu chưa thật có
Thì biển luân hồi / tìm cầu thiện báo, / chẳng cách nào ngưng.
Lại luyến sinh tử, / nên kẻ có thân / luôn bị buộc ràng,
Vậy ngay từ đầu / phải sớm tìm cầu / tâm buông sinh tử.

[LÀM SAO PHÁT TÂM BUÔNG SINH TỬ]

[4] Ung dung sung mãn / là điều khó gặp, /
mạng sống thì lại / ngắn ngủi không bền:
Ý nghĩ này đây / tập cho quen thuộc, /
tâm rồi sẽ thôi / đắm chuyện đời này.
Phải luôn nhớ rằng / nghiệp quả không sai; /
toàn bộ luân hồi / không ngoài khổ não:
Hãy cứ như vậy / thường xuyên nhớ nghĩ, /
tâm sẽ không còn / đắm chuyện đời sau.

[THẾ NÀO MỚI ĐÚNG LÀ KHỞI TÂM BUÔNG SINH TỬ]

[5] Cứ thế, đối với / phồn vinh thế tục,
Đã tuyệt không còn / khởi niệm luyến tham,
Ngày cũng như đêm / đều mong giải thoát:
Tâm buông sinh tử / bấy giờ khởi sinh.

[VÌ SAO CẦN PHÁT TÂM BỒ ĐỀ]

[6] Nhưng dù có được / tâm buông sinh tử
Mà không phối hợp / với tâm bồ đề
Cũng chẳng thể nào / thành nhân đại lạc / của chánh đẳng giác.
Bởi vậy kẻ trí / phát tâm bồ đề.

[LÀM SAO PHÁT TÂM BỒ ĐỀ]

[7] Bị bốn sông lớn / cuồn cuộn cuống phăng,
Nghiệp cũ buộc ràng / khó lòng tháo gỡ,
Vướng kẹt trùng trùng / lưới sắt chấp ngã,
Khuất ngạt đêm dày / bóng tối vô minh,

[8] Sinh tử, tử sinh, / triền miên bất tận
Chịu ba loại khổ, bức bách không cùng.
Hiền mẫu của tôi / sống như thế đó:
Nhớ nghĩ như vậy, / để mà phát tâm / vô thượng bồ đề.

[THẾ NÀO MỚI ĐÚNG LÀ PHÁT TÂM BỒ ĐỀ]

[bổ sung] Tóm lại giống như / mẹ thấy con yêu / rơi vào hố lửa
Dù chỉ một giây / cũng đằng đẳng dài / hàng vô lượng kiếp
Nghĩ đến tất cả / hiền mẫu đa sinh / khổ đau vô tận
Tâm không chịu nổi / dù chỉ một giây,
Tự nhiên thiết tha / vì chúng sinh mà / cầu vô thượng giác,
Khi ấy là lúc / đã phát được tâm / vô thượng bồ đề.

[VÌ SAO CẦN CHỨNG NHƯ THẬT TRI KIẾN]

[9] Nhưng thiếu trí tuệ / chứng chân thực tại
Thì dù có đã / phát tâm buông xả, / và tâm bồ đề.
Cũng chẳng thể nào / chặt gốc sinh tử.
Vậy phải tìm cách / chứng lý duyên sinh.

[TRỎ RA NHƯ THẬT TRI KIẾN]

[10] Ai người thấy pháp / luân hồi, niết bàn,
Đều thuận nhân quả / không hề sai chạy,
Và mọi đối cảnh / của tâm chấp bám / toàn bộ rã tan,
Thì đó là người / bước vào con đường / khiến Phật hoan hỉ.

[NHƯ THẬT TRI KIẾN QUÁN SÁT CHƯA THÀNH]

[11] Hiểu được tướng hiện—duyên sinh không sai
Hiểu được tánh không—vắng mọi khẳng định
Hai sự hiểu này / hễ còn riêng lẻ
Là còn chưa chứng / ý thật của Phật.

[NHƯ THẬT TRI KIẾN QUÁN SÁT ĐÃ THÀNH]

[12] Bao giờ đồng loạt / không còn xen kẻ,
Chính lúc chứng biết / duyên sinh không sai
Là lúc rã tan / đối cảnh vọng chấp
Khi ấy chánh-kiến-quán-sát vẹn toàn.

[ĐIỂM THÙ THẮNG CỦA TRI KIẾN TRUNG QUÁN CỤ DUYÊN]

[13] Hơn nữa, vì hiện / mà tan chấp có;
Vì tánh không mà / tan hết chấp không.
Biết rõ thế nào / từ nơi tánh không / hiện ra nhân quả,
Khi ấy không còn / vướng chấp biên kiến.

[ĐẠT NIỀM XÁC QUYẾT RỒI, KHUYÊN TIẾP TỤC TU]

[14] Bao giờ ba điểm / tinh yếu Phật đạo
Con tự chứng biết / đúng như sự thật
Khi ấy, con ơi / tìm nơi thanh tịnh, / tu cho tinh tấn
Mục tiêu cứu cánh / hãy chóng viên thành.

hết

Xem bản Tạng – Anh – Việt ở trang sau

http://www.hongnhu.org/ba-diem-tinh-yeu/2/(opens in a new tab)

Lama Tsongkhapa: NỀN TẢNG MỌI THIỆN ĐỨC

 – English Title: The Foundation of All Good Qualities
– Tibetan:  ཡོན་ཏན་གཞིར་གགྱུར་མ།
Tác Giả (Author):
Lama Tông Khách Ba (sơ tổ dòng Gelug)
Việt ngữ: Hồng Như – bản dịch 2011.
Continue reading

Đức Đalai Lama giảng: THẮP SÁNG ĐƯỜNG GIÁC NGỘ

BẢN DỊCH LẠI tháng 01 năm 2022
XIN HOAN HỈ DÙNG RIÊNG, ĐỪNG IN SÁCH

Tựa đề tiếng Anh: Illuminating the Path
Đức Đalai Lama XIV giảng về trình tự đường tu giác ngộ [Lamrim] qua hai bài pháp Ngọn Đèn Soi Đường Giác Ngộ của Thánh Atisa và Lamrim Tiểu Luận: Chứng Đạo Ca của Tổ Tông Khách Ba, USA, 2000, Thupten Jinpa thông dịch Anh ngữ, Rebecca Mcclen Novick biên tập hiệu đính Hồng Như chuyển Việt ngữ (2005, dịch lại 2021)

MỌI NGƯỜI ĐỀU CÓ THỂ ĐỌC VÀ TU THEO, KHÔNG CẦN QUÁN ĐẢNH

MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN | 2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG

Mục Lục

> LỜI MỞ ĐẦU - TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU	
> 1. TỔNG QUAN	
>> 1.1.  Ý NGHĨA PHẬT PHÁP	
>> 1.2. KIẾN THỨC VÀ KINH NGHIỆM	
>> 1.3. NỀN TẢNG CHUYỂN HÓA TÂM	
>> 1.4. TRUY TÌM CHÂN TÁNH THỰC TẠI	
>> 1.5 HỎI ĐÁP	
> 2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM	
>> 2.1. ĐỨC ATISA VÀ NGỌN ĐÈN SOI ĐƯỜNG GIÁC NGỘ	
>>> 2.1.1- Ý Nghĩa Tựa Đề	
>>> 2.1.2- Ðối Tượng Tán Dương	
>>> 2.1.3- Nhị Đế	
>>> 2.1.4- Tứ diệu đế	
>>> 2.1.5- Tam Bảo: Phật Pháp Tăng	
>> 2.2. LAMA TÔNG KHÁCH BA VÀ CHỨNG ĐẠO CA: Xuất Xứ Giáo Pháp Lam-rim	
>>> 2.2.1. Tán Dương Tác Giả Phi Phàm	
>>> 2.2.2. Tán Dương Giáo Pháp Vĩ Đại	
>> 2.3. HỎI ĐÁP	
> 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ	
>> 3.1. PHẨM TÁNH BẬC ĐẠO SƯ	
>> 3.2. CÁCH NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ	
>> 3.3. PHẨM HẠNH CỦA ĐẠO SƯ	
>> 3.4. PHẨM HẠNH CỦA ĐỆ TỬ	
>> 3.5. XÂY DỰNG NỀN TẢNG NƯƠNG THẦY VỮNG CHẮC	
>> 3.6. HỎI ĐÁP	
> 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU	
>> 4.1. CĂN CƠ NGƯỜI CẦU PHÁP	
>> 4.2. KHỞI TÍN TÂM NƠI NGHIỆP	
>> 4.3. BA MỨC ĐỘ QUY Y	
>> 4.4. GIÁ TRỊ VÀ TÁNH CHẤT TẠM BỢ CỦA KIẾP NGƯỜI	
>> 4.5. TU THIỀN LÀ HÀNG PHỤC TÂM MÌNH	
>> 4.6. CHẾT VÀ TÁI SINH	
>> 4.7. MƯỜI HAI DUYÊN KHỞI	
> 5. QUY Y, NGHIỆP, VÀ GIỚI	
>> 5.1. QUY Y	
>> 5.2. QUÁN NHÂN QUẢ	
>> 5.3. TỊNH NGHIỆP VÀ BỐN SÁM LỰC	
>> 5.4. HỎI ĐÁP	
> 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI	
>> 6.1. PHÁT TÂM BUÔNG SINH TỬ	
>> 6.2. HIỂU RÕ THỰC CHẤT CẢNH LUÂN HỒI	
>> 6.3. HỎI ĐÁP	
> 7. TÂM BỒ ÐỀ	
>> 7.1. HUÂN DƯỠNG TÂM BỒ ĐỀ	
>> 7.2. GIÁ TRỊ TÂM BỒ ĐỀ	
> 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ	
>> 8.1. DẪN NHẬP	
>> 8.2. BẢY HẠNH PHỔ HIỀN	
>>> 8.2.1. Ðảnh lễ Phật đà	
>>> 8.2.2. Cúng dường chư Phật	
>>> 8.2.3. Sám hối nghiệp chướng	
>>> 8.2.4. Tùy hỉ công đức	
>>> 8.2.5. Thỉnh Phật chuyển pháp luân	
>>> 8.2.6. Thỉnh Phật trụ thế	
>>> 8.2.7. Hồi hướng công đức	
>> 8.3. NGHI THỨC PHÁT TÂM NGUYỆN BỒ ĐỀ	
> 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT	
>> 9.1. THỌ GIỚI BỒ TÁT	
>> 9.2. NĂM HẠNH BA LA MẬT: Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Định.	
>>> 9.2.1. Hạnh Thí	
>>> 9.2.2. Hạnh Giới	
>>> 9.2.3. Hạnh Nhẫn	
>>> 9.2.4. Hạnh Tấn	
>>> 9.2.5. Hạnh Định	
> 10. HẠNH TUỆ	
>> 10.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA TUỆ BA LA MẬT	
>> 10.2. BẢN CHẤT CỦA TUỆ GIÁC	
>> 10.3. TÁNH KHÔNG QUA CÁC TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO	
>> 10.4. LÝ DUYÊN KHỞI	
>> 10.5. THIẾT LẬP TÁNH KHÔNG QUA LUẬN LÝ	
>> 10.6. THIỀN QUÁN TÁNH KHÔNG	
>> 10.7. TRỰC CHỨNG TÁNH KHÔNG	
>> 10.8. CHỈ QUÁN HỢP NHẤT	
>> 10.9. KIM CANG THỪA	
>> 10.10. HỎI ĐÁP	
> 11. HỒI HƯỚNG	


MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN | 2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI TÂM TU THEO PHẬT PHÁP | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG


> LỜI MỞ ĐẦU – TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU

Kính chào các anh chị. Tôi rất vui mừng được cùng ngồi với các anh chị ở đây hôm nay. Tôi tin rằng con người nói chung ai cũng như ai, tâm thức, cảm xúc, tướng dạng đều tương tự như nhau. Lẽ dĩ nhiên vẫn có những điểm khác biệt nho nhỏ, ví dụ như màu da, nét mặt, nhưng nói chung ai cũng có hai mắt, hai tai, một mũi. Vì vậy tôi luôn cảm thấy vui mừng khi được gặp gỡ trao đổi với quý vị. Như vậy, tôi có cơ hội học hỏi nhiều điều mới, nhất là khi gặp được những câu hỏi về vấn đề tôi không ngờ đến. Thính giả thường có nhiều quan điểm tư duy mới mẻ, nhờ vậy tôi luôn được dịp suy nghĩ phân tích. Rất hữu ích.

Tuy nhiên, xin cho tôi nói rõ một điều, gần như là lời cảnh cáo: quý vị không nên chờ đợi quá nhiều nơi tôi. Không làm gì có phép lạ. Tôi rất nghi ngờ những cái gọi là phép lạ. Người đến nghe pháp không nên nghĩ rằng Đalai Lama có phép thần thông, ví dụ như phép chữa bịnh. Chính tôi cũng không mấy tin nơi những người tự xưng mình có phép chữa bịnh. Trước đây ở Anh quốc, tôi có lần đề cập đến vấn đề này, nói rằng nếu có ai có phép thần thông chữa bịnh, tôi cũng muốn nhờ người ấy chữa dùm tôi chứng ngứa da. Gãi ngứa tuy cũng thú, nhưng một vị cao tăng Ấn độ tên Long-thọ có nói như vầy: “gãi ngứa dù sướng đến đâu cũng không bằng đừng bị ngứa.” Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa gặp được người giúp tôi chữa dứt chứng ngứa da. Nếu quý vị đến đây chỉ vì tò mò thì được. Tôi rất hân hạnh được tiếp chuyện cùng quý vị. Và tôi cũng muốn gửi lời cám ơn đến tất cả những ai đã góp phần tổ chức buổi gặp gỡ này.

Ðiều cơ bản là mọi người ai ai cũng đều muốn sống một cuộc sống thành công hạnh phúc. Ðây không những là mục đích sống mà còn là quyền tự nhiên của con người. Vấn đề đáng nói, là đạt hạnh phúc bằng cách nào đây? Sống trong thế giới hiện đại với nền công nghệ và cơ sở vật chất phát triển vượt bực và luôn sẵn có, chúng ta tự nhiên cho rằng vật chất là yếu tố duy nhất có thể đáp ứng được mọi nhu cầu của mình, là phương tiện tối hậu để toàn thành chí hướng. Chúng ta đặt quá nhiều kỳ vọng vào thế giới vật chất, tin tưởng quá nhiều nơi ấy. Khuynh hướng duy vật này mang lại đầy ảo vọng, hoàn toàn không có cơ sở vững chắc. Kết quả là chúng ta bỏ bê mọi giá trị nội tại, không nhìn nhỏi gì đến cảnh giới nội tâm của chính mình.

Vì chúng ta lấy vật chất làm ý nghĩa của đời sống nên càng lúc càng rời xa giá trị cơ bản của con người. Ðương nhiên tiến bộ vật chất thật sự cần thiết và hữu ích, nhưng chỉ dựa vào phương tiện ngoại tại thì không thể nào giải quyết được mọi vấn đề. Nhưng nếu phối hợp tiến bộ vật chất với tiến bộ tâm linh thì hạnh phúc mong cầu không còn vượt ngoài tầm với. Vì vậy, song song với tiến bộ vật chất, con người cũng cần phải quan tâm đến giá trị tinh thần.

Chữ “giá trị tinh thần” nói ở đây không nhất thiết phải liên quan đến tôn giáo. Giá trị tinh thần có hai loại, hoặc là tin nơi tôn giáo, hoặc không tin nơi tôn giáo. Không tin nơi tôn giáo vẫn có thể sống một đời sống đầy ý nghĩa, nhưng nếu không biết tới giá trị tinh thần cơ bản của con người thì chắc chắn không thể đạt hạnh phúc. Ðã làm người thì không thể quay lưng với vấn đề này.

Vậy thế nào là giá trị tinh thần cơ bản của con người? Giá trị tinh thần có hai mức độ. Mức độ thứ nhất là biết quan tâm đến kẻ khác, chia sẻ dùm bọc lẫn nhau, thấy tất cả đều là anh chị em trong cùng một gia đình nhân loại, luôn tôn trọng, tha thứ lẫn nhau, biết sống có kỷ luật. Ngay như loài vật cũng có thể có được những đức tính này. Tuy vậy, ở mức độ thứ hai, loài người đặc biệt có trí thông minh, hiểu được hậu quả lâu dài của việc mình làm, vì vậy có thể tự tăng cường tánh tốt, hạn chế tánh xấu. Nhìn trên khía cạnh này, khả năng của loài người tinh tế hơn loài vật rất nhiều.

Dù là người hay súc vật, ai ai cũng mang cùng một nguyện vọng là muốn được hạnh phúc. Ðây là nguyện vọng chung của tất cả mọi loài hữu tình. Nhưng con người và súc vật khác nhau ở trí thông minh. Không phải chỉ con người mới biết mong cầu thỏa mãn giác quan; xét trên lãnh vực này, người và súc vật chẳng khác nhau bao nhiêu. Tuy vậy, con người vẫn khác súc vật ở chỗ biết vận dụng trí thông minh thể thực hiện nguyện vọng tự nhiên của mình. Con người có khả năng nhìn vào thái độ và hành động của mình mà đoán được hậu quả trước mắt cũng như hậu quả lâu dài. Ðây mới chính là đặc điểm của loài người. Biết tận dụng khả năng đặc biệt này mới thật sự xứng đáng làm người.

Ngoài ra còn một điểm quan trọng khác: khổ đau và hạnh phúc có hai loại, khổ đau hạnh phúc thể xác, liên quan đến giác quan, và khổ đau hạnh phúc tinh thần. Nếu quý vị chịu khó nhìn lại sự việc xảy ra hàng ngày, sẽ thấy tinh thần quan trọng hơn thể xác. Khi vui vẻ ổn định, chúng ta dễ dàng chịu đựng những bức rức đớn đau thể xác. Khi tâm trí xáo trộn bất an, dù hoàn cảnh bên ngoài có tốt đẹp thuận tiện đến đâu chăng nữa, nhiều bạn, nhiều tiền, nhiều danh vọng… chúng ta vẫn không thấy hạnh phúc. Vậy kinh nghiệm giác quan dù mãnh liệt đến đâu vẫn không thể lấn át kinh nghiệm tâm thức. Chính lãnh vực tâm thức này là nơi mà trí thông minh của con người đặc biệt có tầm vóc ảnh hưởng lớn rộng.

Trí thông minh con người tự nó không tốt không xấu. Ðây chỉ là một dụng cụ, dùng trong mục tiêu xây dựng hay phá hoại đều được. Ví dụ có rất nhiều loại khổ đau sinh ra từ khả năng dự phóng về tương lai, mang lại hoài nghi, hy vọng, thất vọng, sợ hãi. Súc vật không có vấn đề này. Súc vật miễn có miếng ăn nơi ở là hài lòng yên ổn. Con người dù dư miếng ăn, nhiều bạn tốt, vẫn vất vả với biết bao nhiêu kỳ vọng chi li phức tạp, không thể an định. Trí thông minh con người trong trường hợp này là nguyên do tạo lo lắng phiền não. Không thể dùng phương tiện vật chất để hóa giải loại khổ đau phát sinh từ trí tưởng tượng quá độ này. Vì vậy mà nói trí thông minh con người tạo ảnh hưởng rất lớn, có khi tích cực, có khi lại rất tiêu cực. Muốn vận dụng trí thông minh theo chiều hướng tốt đẹp, phải có một thái độ tinh thần tương xứng. Muốn đời sống hạnh phúc – ngày hạnh phúc, đêm cũng hạnh phúc – quan trọng nhất là phải phối hợp trí thông minh với những giá trị tinh thần cơ bản. Nếu trong ngày tâm trí chúng ta an lạc ổn định thì giấc ngủ về đêm cũng sẽ đầy an lạc. Nếu trong ngày tràn đầy sợ hãi bất an, những xáo trộn này sẽ nối tiếp vào giấc ngủ. Muốn một ngày hai mươi bốn tiếng luôn được hạnh phúc, chúng ta phải biết chọn cho mình một thái độ tinh thần thích đáng.

Thay vì từng phút từng giây trong ngày đều nghĩ đến tiền tài vật chất, chúng ta nên dành thời gian để nhìn lại thế giới nội tâm. Có rất nhiều câu hỏi đáng được đặt ra, như “tôi là ai?” “đâu là cái tôi của tôi?” Thông thường chúng ta vẫn thấy cái tôi đương nhiên phải có, cảm thấy bên trong mình có một cái gì đó chắc thật, biệt lập, làm chủ thân tâm này, làm chủ tiền tài sở hữu kia. Rất nên xét lại xem cái tôi quí giá đầy quyền lực ấy thật sự đang ở đâu. Cũng cần xét lại xem “tâm là gì? tâm ở đâu?” vì năng lực phá hoại lớn nhất vốn phát xuất từ tâm phiền não. Phiền não nổi lên là chúng ta lập tức biến thành nô lệ của phiền não, tựa kẻ điên khùng. Vì vậy mỗi khi phiền não phát sinh, phải nên nhìn lại xem “phiền não này từ đâu mà có?”

Giá trị cơ bản của con người là biết quan tâm chia sẻ với nhau. Muốn phát huy giá trị này chỉ có một chìa khóa duy nhất, đó là tình thương yêu gần gũi dành cho nhau. Đức tính này ai cũng sẵn có khi nhập thai mẹ. Nhiều nhà nghiên cứu y học hiện đại nói rằng thai nhi có khả năng nhận biết giọng nói của mẹ. Ðiều này cho thấy trẻ từ trong thai đã có được cảm giác gần gũi thương yêu mẹ. Khi chào đời, trẻ sơ sinh tự nhiên biết tìm sữa mẹ. Người mẹ cũng cảm thấy dạt dào thương yêu con, nhờ vậy dòng sữa tuôn trào. Nếu giữa mẹ và con có một bên thiếu đi tình thương yêu gần gũi, đứa bé sẽ không thể sống sót. Chúng ta ai cũng bắt đầu đời sống như vậy, sẽ không thể sống còn nếu thiếu tình thương yêu. Ngoài ra, y học cũng thường nói đến mối tương quan chặt chẽ giữa tinh thần và sức khỏe. Ví dụ trạng thái sợ hãi hay nóng giận đều gây hại cho sức khỏe. Ngoài ra, nếu phiền não tác động quá mạnh, nhiều bộ phận trong não sẽ bị tắt nghẽn, trí thông minh không thể hoạt động bình thường. Kinh nghiệm hàng ngày cho thấy phiền não có thể khiến căng thẳng khó chịu, gây chứng rối loạn đường ruột hay chứng mất ngủ, khiến nhiều người phải dùng thuốc ngủ, thuốc an thần, hay tệ hơn, đưa đến tình trạng nghiệp ngập.

Hơn nữa, lúc đang phiền não, cơ thể thường bị xáo trộn, dễ gây chứng huyết áp cao cùng nhiều chứng bịnh khác. Có một y học gia trong một buổi thuyết trình đã đưa ra kết quả nghiên cứu như sau: những người hay dùng chữ “tôi” và “của tôi” thường nhiều hy vọng bị chứng đứng tim hơn người khác. Vậy nếu quý vị muốn bị đứng tim, cách hay nhất là niệm mấy chữ đó liên tục như niệm chú: “tôi, tôi, tôi, tôi, tôi, tôi.”

Nếu tự cho mình là cao quí tuyệt vời, tự nhiên tầm nhìn sẽ hạn hẹp, bất cứ vấn đề nhỏ nhoi nào cũng biến thành to lớn khó chấp nhận. Ngược lại, nếu mở rộng tâm trí, nhìn vấn đề từ một tầm nhìn lớn rộng, vấn đề sẽ trở nên bé nhỏ vô nghĩa. Thay vì lo lắng cho riêng mình, tốt hơn nên chuyển thái độ vị kỷ thành thái độ vị tha cho tâm trí thoáng rộng, được như vậy mọi vấn đề riêng tư cá nhân sẽ trở thành việc nhỏ, dễ giải quyết.

Sống một đời sống vị tha thì người đầu tiên hưởng lợi thật ra vẫn là chính mình. Nhiều người tưởng rằng tâm từ bi chỉ mang lợi đến cho người nhận, tưởng đây là nếp sống lý tưởng dành cho những ai chỉ biết sống vì người khác, không thích hợp với người chưa hoàn toàn quên mình, vì mọi lợi lạc đều đổ hết về phía người nhận. Nghĩ như vậy là lầm. Lợi lạc trước tiên vẫn đổ về phía người tu tâm từ bi.

Vì khi tu tâm từ bi, tâm trí của chúng ta sẽ mở ra rộng lớn, sẽ luôn cảm thấy an vui thoải mái trước loài người và niềm vui của kẻ khác, vì vậy khi gặp gỡ tiếp xúc với bất kỳ một ai, ta cũng sẽ thấy như vừa gặp lại anh em, dễ dàng vui vẻ nói chuyện. Ngược lại nếu chỉ biết đến mình, tấm lòng khép chặt, gặp gỡ tiếp xúc với người đồng loại thật là một việc làm vất vả khó khăn.

Khởi tâm tu hạnh từ bi sẽ tức thì có được sức mạnh bình an nội tại. Ðương nhiên người khác cũng sẽ gián tiếp được lợi, nhưng hưởng được nhiều lợi lạc nhất vẫn chính là bản thân người tu. Vì vậy, nếu chúng ta thật sự quan tâm đến tương lai và hạnh phúc của chính mình thì phải sống sao cho tâm từ bi trở thành trọng tâm của đời sống tinh thần. Tôi thường vẫn nói đùa rằng nếu quý vị thật sự ích kỷ, hãy ích kỷ cho thật thông minh, đừng ích kỷ kiểu rồ dại.

Thực tế là như vậy. quý vị cứ hãy suy nghĩ cho kỹ rồi mang ra thí nghiệm thử xem sao. Rồi sẽ có lúc quý vị hiểu rõ hơn những gì tôi đang nói ở đây.

Bây giờ đã là năm 2000. Tôi năm nay đã sáu mươi bốn tuổi [năm 2000], thêm vài ngày nữa là đầy sáu mươi lăm. Cuộc đời tôi không mấy lúc được bình an. Những khó khăn trong cuộc đời của tôi, có lẽ quý vị đã từng nghe nói. Năm mười lăm tuổi, tôi mất tự do. Năm hai mươi bốn tuổi, tôi mất xứ sở. Ðến nay đã bốn mươi mốt năm sống đời lưu vong, tin nào từ đất mẹ gửi ra cũng đều là tin buồn. Tuy vậy, tâm trạng tôi vẫn ổn định. Tin buồn đến rồi đi, không vướng lại trong tâm. Rốt lại, quân bình nội tại vẫn không bị ảnh hưởng.

Ðược như vậy không phải nhờ thành tựu gì đặc biệt. Tôi thường đùa với các bạn người Hoa về chữ “hoạt Phật,” có nghĩa là “Phật sống.” Chữ này tự nó rất nguy hiểm, hoàn toàn sai. Tiếng Tây tạng gọi “lama” [lạt-ma], tiếng Phạn gọi “guru,” hoàn toàn không mang ý nghĩa “Phật sống,” chẳng hiểu làm sao từ hai chữ này mà lại gọi thành “Phật sống.” Nói cho cùng, gọi sao cũng được, là Phật sống, là vua trời, hay ác quỉ, cũng không sao. Sự thật tôi chỉ là một con người, một người xuất gia đơn giản vậy thôi. Giữa quý vị và tôi không có gì khác cả. Nhìn vào kinh nghiệm bản thân, tôi thấy nếu chịu khó quan tâm đến thế giới của tâm thức, đời sống sẽ an lạc hơn, hạnh phúc hơn. Xã hội vật chất tân tiến mang đến cho quý vị nhiều điều hay, và sẽ còn phong phú mỹ mãn hơn nhiều nếu, thêm vào đó, quý vị biết quan tâm đến đời sống tinh thần.

Trên thế giới có nhiều nơi đến cả nhu cầu vật chất tối thiểu cũng khó mà có được. Ngày nào cũng đều phải tranh đấu cật lực cho sự sống còn, bao nhiêu tâm trí sức lực dồn hết vào đó, không còn chỗ cho lo âu khủng khoảng tâm lý trồi lên. Ngược lại, những quốc gia giàu mạnh phía Bắc đạt trình độ phát triển vật chất cao, con người sống thoải mái hơn nhiều. Nhưng cũng vì vậy mà con người ở đây có nhiều cơ hội chú ý đến những vấn đề thuộc phạm vi của cảm xúc và tinh thần hơn.

Tâm thuần thì yên. Tâm yên thì xây dựng được gia đình bình yên và nhân loại bình yên. Đây chính là nền tảng của nền hòa bình nhân loại. Với sức mạnh nội tại, chúng ta có thể đối đầu với những vấn đề thuộc phạm vi gia đình, xã hội, hay của toàn thế giới một cách thực tế hơn. Bất bạo động không đồng nghĩa với thụ động. Phải biết đối thoại trong tinh thần hòa giải để giải quyết vấn đề. Ðây mới chính là ý nghĩa của tinh thần bất bạo động, và là suối nguồn hòa bình cho nhân loại.

Thái độ này cũng rất hữu ích khi đối diện với vấn đề môi sinh. Chúng ta luôn nghe nói về những việc như là bảo vệ môi sinh, hòa bình nhân loại, tinh thần bất bạo động, v.v.  nhưng những mục tiêu này không thể đạt đến bằng chính sách quốc gia hay giải pháp Liên hiệp quốc, mà phải dựa vào sự chuyển hóa của cá nhân từng người. Chỉ khi nào xây dựng được một xã hội hòa bình, giải quyết vấn đề bằng cách đối thoại, thì mới có thể thật sự nói đến chuyện giải trừ vũ khí – bắt đầu từ phạm vi từng quốc gia, rồi đến từng khu vực quốc tế, rồi cuối cùng là toàn cầu. Những điều này sẽ khó lòng thực hiện nếu cá nhân từng người không cố gắng chuyển hóa tâm thức của chính mình.

Hỏi. Người Mỹ có thể làm gì để chống tình trạng bạo lực đang quá phổ biến trong xã hội Mỹ?

Đáp. Tôi nghĩ tôi vừa mới trả lời xong câu hỏi này, không có câu trả lời nào khác. Tự chuyển hóa tâm thức là việc chính cần phải làm. Chuyển hóa bằng cách nào? Làm sao đưa việc này vào gia đình và trường học? Ở đây, giải pháp nằm ở phạm vi giáo dục. Không thể nhờ cầu nguyện hay thiền quán mà phải dựa vào một hệ thống giáo dục hữu hiệu. Cơ sở giáo dục trên mọi tầng lớp, mọi trình độ, đều phải giữ vai trò chính yếu trong việc cổ động phát huy giá trị tinh thần nhân loại, dưới dạng đạo đức phi tôn giáo. Tôi không phải là nhà giáo dục, nhưng con người thật sự cần bàn luận nghiêm túc hơn về việc cải tiến và mở rộng cho chương trình giáo dục được đầy đủ hơn. Báo chí phim ảnh cũng có khả năng đóng góp quan trọng trong việc đề cao giá trị con người. Ngoài ra, tôi không rõ còn việc gì khác có thể làm được.

Hỏi. Sống trong xã hội tiêu thụ này, làm sao có thể chế ngự được những ham muốn ràng buộc vật chất ?

Đáp. Nói về công phu thiểu dục tri túc [ít muốn biết đủ], xét trên một khía cạnh nào đó có thể nói rằng sống trong xã hội vật chất lại dễ tu hơn. Ở xã hội thiếu kém, con người không có cơ hội nhìn ra giới hạn của vật chất, ngược lại sống trong xã hội vật chất dư thừa con người có thể hiểu được một cách dễ dàng rằng vật chất thật ra không đủ khả năng mang lại hạnh phúc cho con người. Vì vậy tôi nghĩ  sống trong xã hội sung túc lại dễ tu hơn. Ðương nhiên việc này hãy còn tùy vào cách suy nghĩ riêng của từng người.

Ngoài ra, nói rằng nền văn hóa Tây phương là nền văn hóa tiêu thụ, nói như vậy có khi chỉ là do tưởng tượng. Người ta dựng đứng sự khác biệt giữa hai nền văn hóa Ðông – Tây, rồi người Tây phương quý vị lại cứ tin vào đó. quý vị cho rằng đời sống của mình bị giá trị vật chất chi phối, gán hình ảnh này lên nền văn hóa của chính mình, biến thành định kiến.

Trong số những người bạn Tây phương của tôi, có nhiều người chuyên tâm nỗ lực tu hành theo Phật pháp. Họ đạt nhiều kinh nghiệm thâm sâu, kiên trì chỉ quán, và luôn sống đúng theo kinh nghiệm có được qua thiền định. Những người như vậy Ðông Tây đều có. tính chất cơ bản con người ở đâu cũng đều giống như nhau.

Hỏi. Gần đây có nhiều người Mỹ sống nhờ thuốc an thần. Có người vì vấn đề sức khỏe trầm trọng, có người chỉ vì muốn giải quyết vấn đề cho mau chóng. Xin ngài cho biết ý kiến về việc này.

Đáp. Nói về những loại thuốc như thuốc an thần, đương nhiên phải xét từng hoàn cảnh khác nhau. Có trường hợp khủng hoảng vì thiếu quân bình vật lý hay sinh lý trong cơ thể. Gặp trường hợp này, thuốc an thần có thể giúp ích cho người bịnh, đây là phương pháp trị liệu có hiệu quả. Tuy vậy cũng có nhiều trường hợp khủng hoảng không vì nguyên nhân sinh lý mà vì tâm lý. Nếu là như vậy, áp dụng phương pháp thiền quán, luyện tâm, sẽ hữu hiệu hơn là dùng thuốc an thần.

Riêng những người dùng thuốc an thần chỉ để tìm cảm giác thoải mái, tìm lối thoát dễ dàng, rõ ràng đây là trường hợp lạm dụng thuốc. Lấy thuốc làm lối thoát, sẽ  chẳng thoát được bao lâu. Thuốc còn trong cơ thể thì còn thấy thoải mái, đến khi thuốc tan hết lại rơi về trạng thái trước đây. Áp dụng phương pháp luyện tâm hữu hiệu hơn nhiều. Trạng thái an lạc đến từ thiền định luôn kéo dài lâu hơn, khi qua rồi vẫn có thể nhớ lại được, vẫn còn tạo tác dụng.

Hỏi. Nếu người xứ Mỹ muốn tu theo Phật giáo nhưng lại không muốn sống theo nền văn hóa Tây tạng, ngài thấy làm như vậy có được không?

Đáp. Đương nhiên là được. Ví dụ như Tứ Diệu Ðế, chẳng có gì là của riêng nền văn hóa Tây tạng cả. Phật giáo không phân biệt Tây tạng hay Ấn độ, Ðông phương hay Tây phương.

Hỏi. Khi chết, cư sĩ tại gia làm cách nào để trú trong an lạc, thoát mọi xao xuyến sợ hãi?

Đáp. Như lúc nãy tôi có nói, nếu ban ngày tâm trí an định thì khi ngủ giấc mơ cũng sẽ an định. Từ đó suy ra, nếu trong đời sống hàng ngày tâm trí an định thân thiện, thì khi chết cũng sẽ được như vậy. Ðây là cách tốt nhất để chuẩn bị một cái chết bình an. Nếu lúc sống chỉ biết lo âu hận thù, đầy tâm lý ác hiểm, khi chết sẽ khó mà thấy được sự bình an.

Là một tỷ kheo tu theo Phật giáo, tôi tin có đời sau. Nhất là Phật giáo mật tông có rất nhiều pháp tu đặc biệt dành để chuẩn bị cho cái chết. Điều quan trọng là phải tập luyện sao cho thật quen thuộc thuần thục, để khi chết có thể thực sự mang ra thực hành. Vì vậy trong công phu hàng ngày tôi nhiều lần thiền về quá trình chết và tái sinh của chính mình. Làm vậy tuy nói là để chuẩn bị cho lúc chết, nhưng tôi vẫn không thể biết chắc khi thật sự đối diện với cái chết tôi sẽ như thế nào. Nhiều lúc tôi cảm thấy khi cái chết đến tôi sẽ rất nôn nao, không biết mình đã đủ khả năng thực hành những gì đã học hay chưa.

Hỏi. […] Xin hỏi có cách nào khác để kiểm soát khoảng cách ngày càng tăng giữa giàu và nghèo?

Đáp. Ðây là câu hỏi rất quan trọng. Ai cũng thấy thế giới ngày nay có một khoảng cách rất lớn giữa những quốc gia giàu mạnh và những quốc gia chậm phát triển. Rồi giữa những người sống chung trong cùng một quốc gia, khoảng cách giữa giàu và nghèo cũng rất lớn. Ở Mỹ, ví dụ vậy, con số những nhà tỷ phú càng lúc càng tăng, trong khi người nghèo lại càng thêm nghèo. Hôm nọ tôi có gặp một người bạn cũ, kể tôi nghe công việc cô ấy làm ở thành phố Washington. Cô ấy theo công việc thường phải viếng thăm nhiều gia đình, có những nơi hoàn cảnh sống tồi tàn quá mức tưởng tượng,  không thể là nơi chốn dành người ta ở. Cô ấy kể lại mà nước mắt chảy quanh, tôi nghe cũng rất xúc động.

Sự cách biệt quá lớn giữa giàu và nghèo không những trái đạo đức, mà còn rất bất tiện. Chúng ta cần suy nghĩ nhiều hơn về vấn đề này. Tôi nghe nói ngày nay có nhiều đại gia tộc sẵn sàng san sẻ một phần gia sản của họ. Năm ngoái, vài người bạn ở Chicago cho biết có vài gia đình giàu có biết can đảm san sẻ. Ðây là điều rất tốt. Thái độ từ bi như vậy càng phát triển thì hố ngăn giữa giàu và nghèo sẽ càng giảm thiểu.

Tuy vậy, nếu xét trên lãnh vực quốc tế, tôi nghĩ các quốc gia nghèo phải đóng vai chủ động, đặc biệt là trên phương diện giáo dục. Gần đây khi đi qua các nước vùng Nam Phi và các nước khác ở Châu Phi, tôi nhận thấy có sự cách ngăn quá lớn giữa giới trí thức và quần chúng. Người nghèo phần lớn không có chút tự tin nào cả. Phải dựa vào giáo dục để thay đổi thái độ mặc cảm của người nghèo. Trong trường hợp này, người giàu  có thể giúp kẻ nghèo bằng cách chu cấp phương tiện và dụng cụ giáo dục đào tạo.

Vấn đề này tự nhiên dẫn đến vấn đề nhân số. Hiện nay trái đất có trên sáu tỉ người. Ðây là vấn đề cực kỳ nghiêm trọng. Nếu chúng ta nâng cao mức sống của người nghèo ở xứ nghèo lên cho bằng với mức sống của người giàu ở các nước phía Bắc Mỹ, chắc chắn tài nguyên của trái đất sẽ không đủ cung cấp cho tất cả mọi người. Những vấn đề như vậy đến từ sự thiếu ý thức, vì con người không biết dùng trí thông minh của mình cho đúng cách. Tất cả mọi quốc gia, đặc biệt là những quốc gia nghèo, thường có khuynh hướng nhìn vào tương lai ngắn hạn thay vì quan tâm đến chuyện về lâu về dài. Tuy nhiên, nhờ giáo dục, có thể là vẫn có giải pháp.

Hỏi. Thưa đức Đalai Lama, đã có rất nhiều cuộc chiến tranh nhân danh tôn giáo, ngài có thể giải thích vì sao Tây tạng lại không chọn một giải pháp dứt khoát hơn để dành lại tự do?

Đáp. Thứ nhất, tôi tin rằng bản chất con người vốn tốt và lành, vì vậy phương pháp bạo động đi ngược với tính chất cơ bản của con người. Thứ hai, nhìn vào lịch sử của nhân loại sẽ thấy vũ trang quân lực rất khó mang lại hòa bình lâu dài. Hơn nữa, ngày nay mọi quốc gia trên thế giới đều liên hệ chặt chẽ với nhau, ranh giới càng lúc càng mỏng đi. Nói về kinh tế thì ranh giới giữa các quốc gia nói chung là không có. Thêm vào đó, tiến bộ truyền thông và phát triển du lịch đã khiến cho thế giới này biến thành một cộng đồng nhân loại duy nhất. Vì vậy ngày nay khái niệm về độc lập không còn nhiều ý nghĩa.

Ví dụ trường hợp của Kosovo. Sự can thiệp quân lực của Mỹ được xem như một loại giải phóng nhân quyền, dựa vào vũ lực. Có thể là động cơ đầy thiện chí, mục tiêu cũng chính đáng, nhưng vì dùng phương tiện bạo động nên thù hận thay vì lắng xuống lại tăng thêm. Ngay từ đầu tôi đã rất ngần ngại trước giải pháp bạo động. Nói chung bạo động là giải pháp quá thời, không thích hợp với hoàn cảnh  của thế giới hiện nay.

Trong trường hợp Tây tạng, dù muốn dù không chúng tôi vẫn phải sống cạnh các anh chị em Trung quốc. Tây tạng tiếp xúc với Trung quốc từ hơn hai ngàn năm nay. Mối giao thiệp này có khi vui, có khi không mấy vui, nhưng dù sao chăng nữa, Tây tạng và Trung quốc vẫn luôn là hai nước láng giềng. Vì vậy muốn giữ lại tình hữu nghị hòa bình giữa hai nước, điều quan trọng hàng đầu là phải để ý khi tranh đấu cho tự do, nhất thiết không dùng tới giải pháp bạo động.

Ngoài ra, để giải quyết vấn đề mâu thuẫn giữa Tây tạng và Trung quốc, điều tối quan trọng là phải được sự ủng hộ của người dân Trung quốc. Sự ủng hộ này càng lúc càng tăng, đây là điều rất đáng mừng. Nếu bây giờ Tây tạng dùng phương pháp bạo động, gây đổ máu cho người dân Trung quốc, thì tầng lớp trí thức Trung Hoa dù có công nhận công cuộc tranh đấu dành tự do của người Tây tạng là đúng, dù thấy được nỗi khổ của người Tây tạng trong thời gian gọi là “giải phóng hòa bình,” họ  vẫn sẽ không thể ủng hộ, vì đồng bào của họ đang khổ vì bị người Tây tạng thảm sát. Vì vậy, dùng phương pháp bất bạo động trong quá trình tranh đấu cho tự do là điều tối quan trọng.

Hỏi. Làm sao có thể vừa sống trong thế giới bận rộn này, vừa có thể phát huy đời sống tinh thần? Có câu thần chú ngắn gọn đơn giản nào có thể đọc khi thức dậy buổi sáng và trong ngày nhiếp tâm theo đó để giữ bình an?

Đáp. Ðiều này có thể làm được nhờ huấn luyện tâm thức. Bắt đầu bằng cách thức dậy thật sớm. Thomas Merton, một vị tu sĩ dòng tu Luyện tâm [Trappist], thức dậy lúc 2:30 sáng, đi ngủ lúc 7:30. Thời khóa biểu của tôi trễ hơn một tiếng, tôi thức dậy lúc 3:30 sáng, và đi ngủ lúc 8:30. Phật tử tại gia phải cố gắng hy sinh sinh hoạt giải trí buổi tối, đi ngủ cho sớm. Nếu thật sự thích giải trí buổi tối, có thể tự cho phép mình mỗi tháng thức khuya một lần.

Ngủ sớm buổi tối, rồi buổi sáng thức dậy cho thật sớm, thử quán sát đời sống của mình và chính mình, như tôi có đã nói qua. Quán sát, phân tích. Phải nên như vậy. Tôi không biết có cách tu nào đơn giản hơn. Hơn nữa, tôi rất nghi ngờ khi có người cho rằng chỉ cần nhắm mắt lại là vấn đề sẽ tức khắc tự giải quyết. Vấn đề chỉ có thể được giải quyết nhờ thuần dưỡng một thái độ tâm thức thích đáng. Việc như vậy đòi hỏi rất nhiều thời gian và công khó.

Hỏi. Ngài bỏ rất nhiều thì giờ lo cho người khác. Nếu ngài có thời gian dành cho chính mình, ngài sẽ làm gì?

Đáp. Tôi sẽ ngủ một giấc thật dài. Hôm trước tôi từ Ấn độ bay qua Nữu ước. Ðường bay rất dài, tôi mệt lã. Tôi vào giường lúc 5giờ 30 tối và thức dậy vào lúc 4 giờ 30 sáng hôm sau, ngủ suốt 11 tiếng đồng hồ. Nếu tôi có thì giờ dành riêng cho mình, tôi sẽ ngủ một mạch 10 tiếng. Ngoài ra, đương nhiên trong cuộc sống hàng ngày, thiền định cũng là một phương pháp rất hữu hiệu để nghỉ ngơi. Khi ngồi thiền, người tu quán tâm và quán ngã. Nếu quán đúng cách, sẽ cảm thấy rất thoải mái. Nhưng nếu làm không đúng cách, sẽ cảm thấy mệt hơn.

Hỏi. Ðâu là hành động duy nhất mỗi người trong chúng ta đều có thể làm theo trong tinh thần gánh vác trách nhiệm toàn cầu?

Đáp. Ðiều mà cá nhân mỗi người có thể làm, là quan tâm đến vấn đề môi sinh trong đời sống hàng ngày. Bản thân tôi không bao giờ xả nước trong bồn để tắm, chỉ tắm vòi sen. Tắm bồn tốn rất nhiều nước, trong khi đó có nhiều nơi trên thế giới không đủ nước để uống. Ðiện cũng rất quan trọng. Tôi luôn tắt đèn khi ra khỏi phòng. Những việc như vậy trở thành chuyện tự nhiên trong đời sống hàng ngày, tôi chỉ làm theo phản xạ, không cần phải suy nghĩ. Đó là những đóng góp nhỏ của tôi cho môi trường sống.


| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN 2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬ | 11.  HỒI HƯỚNG |


> CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

Có khi tôi cảm thấy ngần ngại khi giảng pháp cho người Tây phương, vì tôi cho rằng đi theo truyền thống tôn giáo của mình dù sao vẫn tốt và an toàn hơn. Tuy vậy, trong số hàng triệu người sống tại các nước Tây phương, tự nhiên sẽ có một số ít thấy Phật giáo thích hợp với họ. Như Tây tạng cũng có một số người không theo Phật giáo mà theo Hồi giáo. Nếu chọn Phật giáo làm tôn giáo của mình, quý vị vẫn nên giữ ý thức về giá trị của những tôn giáo lớn khác trong nhân loại. Dù không thích hợp với mình cũng vẫn thích hợp với người khác, vẫn mang lợi lạc đến cho hàng triệu người trong quá khứ và còn sẽ tiếp tục mang lợi lạc cho loài người trong tương lai. Vì vậy phải luôn giữ lòng tôn trọng.

Giáo pháp được giảng ở đây đến từ hai bài pháp: Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ của vị thánh tăng Ấn độ tên là đức Atisa (Atisha Dipamkara Shrijnana), và Chứng Đạo Ca của Lama Tông Khách Ba (Lama Tông Khách Ba).

Phật Thích Ca Mâu Ni từ bi thiện xảo, giảng Phật pháp qua 84 ngàn giáo pháp khác nhau, phù hợp với căn tính của đủ loại chúng sinh. Thánh tăng đức Atisa mang tinh túy của tất cả 84 ngàn giáo pháp này gom vào trong giáo pháp Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ, nói về trình tự của đường tu dẫn đến giác ngộ.

Dựa trên giáo pháp này của đức Atisa, Lama Tông Khách Ba soạn ba bộ luận, bộ dài nhất là Lam-rim Ðại luận, bộ dài trung bình là Lam-rim Trung Luận. Ngắn nhất là bộ luận sẽ được giảng ở đây: Lam-rim Tiểu Luận, còn có tên là Chứng Đạo Ca.

Mặc dù tôi là người thuyết giảng hai bài pháp này, nhưng quý vị không bắt buộc phải xem tôi là đạo sư. Quý vị có thể chỉ giản dị mang trái tim ra nghe lời tôi nói, xem tôi như một người bạn đạo, một thiện tri thức. Ngoài ra, không bao giờ nên nhắm mắt tin hết tất cả những gì tôi nói, chỉ nên dựa vào đó để chiêm nghiệm suy nghĩ, rồi nhờ chiêm nghiệm suy nghĩ mà thâm nhập được sâu hơn ý nghĩa của Phật Pháp.

Mỗi khi bắt đầu giảng, học, hay nghe Phật pháp, quan trọng nhất là phải giữ tâm nguyện động cơ cho thật trong sáng, nên bây giờ chúng ta sẽ điều chỉnh lại tâm nguyện động cơ của mình bằng cách quy y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) và phát tâm bồ đề qua ba lần tụng niệm câu kệ sau đây:

Nơi Phật, nơi Pháp / và Tăng tôn quý
Cho đến bồ đề / xin về quy y
Nhờ công đức tu / sáu hạnh toàn hảo
Nguyện vì chúng sinh / quyết thành Phật đạo.

Ngoài ra, truyền thống Tây tạng cũng thường bắt đầu buổi giảng pháp bằng câu tán dương đức Phật, tương tự như trong Trung Quán Luận của ngài Long Thọ. Cuối bộ luận này có câu kệ:

“Con xin đảnh lễ / đức Phật từ bi
Người đã khai mở / con đường diệt khổ.”

Ðức Phật nói về con đường diệt khổ như sau: Khổ đau mà chúng ta muốn tránh đến từ cái nhìn ngay từ cơ bản đã sai lệch về thế giới này, vì vậy muốn diệt khổ thì phải thấy biết chính xác về bản chất của thực tại. Nên đức Long-thọ tán dương đức Phật là người đã khai đường chỉ lối cho chúng ta biết cách trau dồi cái nhìn chính xác về bản chất của thực tại.

>> 1.1.  Ý NGHĨA PHẬT PHÁP

Ý nghĩa của Phật Pháp là gì? Cũng như mọi truyền thống tâm linh khác, Phật Pháp là dụng cụ luyện tâm, thứ được dùng để giải quyết những vấn đề tinh thần mà mọi người cũng đều phải đi qua. Tâm lý bất thiện sẽ dẫn đến trạng thái bất an, như là buồn phiền, sợ hãi, hoài nghi, bức xúc v.v. Rồi vì những trạng thái phiền não này thúc đẩy mà gây điều bất thiện, rồi vì làm điều bất thiện mà gánh về thêm lắm nỗi phiền não khổ đau. Tu theo Phật Pháp là để giải quyết những vấn đề như vậy, dù là vấn đề dài hạn hay nhất thời. Nói cách khác, Phật Pháp che chở chúng ta thoát cảnh khổ đau không cầu.

Phật Pháp có nghĩa là làm cho tâm an định và thuần thục. Vì vậy khi nói đến việc chuyển tâm và phát huy những tánh đức nội tại thì cách duy nhất để thực hiện điều này là dùng ngay chính cái tâm của mình, không thể dùng bất cứ thứ gì khác.

Cần thấy ra rằng phần lớn những điều mình không mong cầu, ví dụ như việc bất như ý, khổ não, đớn đau… đều được đúc kết từ cái nhìn hư vọng về thực tại, và những ý nghĩ cảm xúc mang tánh chất phá hoại. Tâm lý tiêu cực mang lại đủ loại khổ đau trong hiện tại và cả tương lai lâu dài về sau.

Bên dưới tất cả là vô minh căn bản, là nhận thức ngay từ cơ bản đã sai về thực tại. Phật giáo gọi vô minh này là “chấp ngã,” hay là “chấp có tự tánh.” Đã là như vậy, muốn phá vỡ loại tâm tiêu cực này cùng mọi khổ não từ đó phát sinh thì phải nhận diện được tính chất hư vọng của chúng và phải thuần dưỡng loại tâm đối nghịch, là tuệ giác thấu suốt chân tánh của thực tại. Trau dồi tuệ giác này, lấy đó làm thuốc hóa giải, từ từ sẽ có khả năng xua tan khổ đau cùng mọi việc bất như ý xảy ra trong đời.

Muốn được như vậy, trước tiên phải có khả năng nhận diện phân biệt rõ ràng hai khía cạnh tích cực và tiêu cực khác nhau của tâm. Một khi hiểu rõ khía cạnh tiêu cực và khả năng phá hoại của tâm, tự nhiên sẽ cảm thấy muốn xa lánh khía cạnh này. Tương tự như vậy, hiểu rõ khía cạnh tích cực và khả năng lợi ích của tâm, tự nhiên sẽ muốn phát huy khả năng ấy. Không sức mạnh nào ở bên ngoài có thể khiến ta chuyển tâm, việc này chỉ có thể xảy ra nhờ ý thức rõ ràng về lợi ích sẽ đạt được nên tự nguyện chấp nhận và hăng hái hành trì.

Thời gian tuôn chảy không ngừng. Từng phút, từng giây, đời sống cứ trôi đi, không ai có thể níu giữ. Tuy vậy, có một điều vẫn nằm trong quyền chọn lựa của mỗi người, đó là chọn làm gì với phần thời gian dành cho mình, tận dụng hay phí bỏ, làm những việc có tính chất xây dựng hay phá hoại. Thời gian không thiên vị ai, đối với ai cũng trôi cùng một vận tốc, bình đẳng với mọi người. Có khác nhau chăng, chỉ ở thái độ và động cơ hành động.

Muốn có được động cơ đúng đắn khi hành động không phải chỉ cần biết động cơ nào đúng động cơ nào sai là đủ. Hiểu biết lý trí tự nó không thay đổi được động cơ, phải nhiều nỗ lực. Nỗ lực đúng cách thì đạt được kết quả khả quan như ý. Nỗ lực không đúng cách chỉ giống như tự hành hạ chính mình. Vì vậy cần phải biết rõ phải nỗ lực thế nào mới là đúng cách.

Đây là vấn đề hệ trọng. Ngay như khi thực hiện một công trình xây dựng ở bên ngoài, ví dụ như khi xây dựng một tòa nhà, cũng đòi hỏi nhiều công lao, tâm sức. Phải xét kỹ đất đai, môi trường, phong cảnh, khí hậu, v.v… biết rõ mọi chi tiết rồi mới có thể chọn một cấu trúc vững chắc thích hợp.

Muốn ra sức trong lãnh vực tâm linh cũng vậy, điều quan trọng là ngay từ đầu phải có chút hiểu biết cơ bản về bản chất của tâm thức, của ý nghĩ, cảm xúc, đồng thời phải cũng phải quan tâm đến vấn đề sinh lý phức tạp của con người cũng như mối tương quan chằn chịt với môi trường xung quanh.

Vì vậy, điều quan trọng là phải có trí hiểu biết sâu rộng và toàn diện, đừng chỉ vì một góc nhìn nhỏ hẹp mà dốc sức theo đuổi mục tiêu một cách mù quáng. Làm như vậy không phải là cách của người thông minh, không phải là cách của bậc hiền thánh. Bậc hiền thánh khi ra sức hành động luôn dựa trên tầm nhìn lớn rộng hơn nhiều.

Truyền thống Phật giáo Tây tạng có hơn một trăm bộ kinh ghi lại lời Phật  dạy [Kangyur], hơn hai trăm bộ luận [Tengyur] do các đại thánh tăng Ấn độ như ngài Long Thọ, Vô Trước soạn tác. Nếu quý vị chịu khó chắt lọc ý nghĩa của hết thảy các bộ kinh luận này, đưa vào công phu tu tập của mình, tự nhiên sẽ có được những bước tiến và thành tựu tâm linh vượt bực. Nhưng nếu quý vị xem kho tàng kinh luận vĩ đại này chỉ đơn giản là chỗ để tôn thờ, thay vào đó, chọn một bài pháp nho nhỏ để tu, làm như vậy dù vẫn sẽ được đôi chút lợi ích, nhưng khó lòng có thể tiến xa trên bước đường tu.

>> 1.2. KIẾN THỨC VÀ KINH NGHIỆM

Điều quan trọng là phải có khả năng phân biệt giữa hai mức độ hiểu biết. Một là loại hiểu biết bề mặt, thuộc lãnh vực kiến thức, nhờ đọc sách, học hỏi, nghe giảng mà phân biệt được hai mặt tích cực và tiêu cực của tâm, biết được bản chất và gốc rễ của tâm. Ngoài ra còn một loại hiểu biết khác, thâm sâu hơn, thuộc lãnh vực kinh nghiệm tu chứng, là nơi huân dưỡng và phát khởi những tánh đức thuần thiện của tâm.

Mặc dù có được hiểu biết kiến thức về một số đề tài không phải là việc dễ, nhưng loại hiểu biết này nói chung vẫn tương đối dễ có hơn, là vì chỉ cần nghe hay đọc là có được. Hiểu biết đến từ kinh nghiệm tu khó hơn rất nhiều, vì đây phải là thành quả của cả một quá trình bền bỉ tu tập. Trong cảnh giới kinh nghiệm tu chứng này, hiểu biết luôn đi liền với cảm xúc mãnh liệt. Nói cho đúng, hiểu biết này chính là kinh nghiệm của cảm xúc.

Hiểu biết tu chứng luôn đi liền với cảm xúc mãnh liệt, điều này cho thấy mặc dù loại cảm xúc phá hoại tiêu cực có nhiều, nhưng cũng có nhiều loại cảm xúc tốt lành tích cực khác. Thật ra con người không thể sống thiếu cảm xúc. Làm người thì phải có cảm xúc. Tách lìa cảm xúc, sự sống sẽ mất cơ sở tồn tại. Nhưng chúng ta cũng hiểu được rằng cảm xúc dữ dội sẽ khiến mình vướng phải biết bao nhiêu là vấn đề tranh chấp, mâu thuẫn. Có những loại cảm xúc vừa dấy lên đã lập tức gây xáo trộn. Không chỉ trước mắt mà có khi còn tạo hậu quả tai hại cho lâu dài về sau, đặc biệt là đối với những mối tương quan giao tiếp giữa người và người. Cảm xúc tiêu cực có khi còn hủy hoại cả sức khỏe của chúng ta.

Ngược lại, loại cảm xúc tích cực hễ dấy lên là lập tức mang đến nguồn nghị lực, tạo không khí tích cực, dẫn đến nhiều kết quả tốt đẹp cho lâu dài về sau, kể cả trên phương diện sức khỏe. Tạm thời khoan nói đến khía cạnh tôn giáo, chỉ xét trên lãnh vực thế tục của đời sống hàng ngày cũng có thể thấy được rằng có những loại cảm xúc phá hoại, cũng có những loại cảm xúc tích cực.

“Pháp” Tạng ngữ gọi là chö, có nghĩa là “thay đổi,” là “chuyển hóa.” Khi nói về việc chuyển hóa tâm thức, người Tây tạng chúng tôi chủ yếu muốn nói đến việc làm giảm sức mạnh của loại ý nghĩ và cảm xúc tiêu cực và làm tăng sức mạnh của loại ý nghĩ và cảm xúc tích cực. Làm như vậy, nhờ tu theo Phật Pháp, chúng ta sẽ thuần phục được tâm mình, sẽ chuyển tâm vô kỷ luật của mình thành tâm có kỷ luật.

>> 1.3. NỀN TẢNG CHUYỂN HÓA TÂM

Làm sao có thể biết chắc tâm này là điều có thể chuyển hóa? Nhờ vào hai điều căn bản sau đây. Một là luật vô thường, đây là luật căn bản tự nhiên, rằng tất cả mọi sự đều biến chuyển thay đổi. Nhìn kỹ sẽ thấy sự vật trong đời biến chuyển liên tục trong từng khoảnh khắc. Cho dù chúng ta thường cho rằng người này ngày hôm nay không khác với ngày hôm qua, nhưng nói chung vẫn có thể ý thức được khía cạnh biến chuyển thô lậu nhất của luật vô thường, vẫn chấp nhận là, nói ví dụ, quả địa cầu này rồi sẽ có ngày tận diệt.

Nếu không tin rằng sự vật thay đổi liên tục trong từng khoảnh khắc, sẽ không thể giải thích sự biến chuyển của sự vật trong thời gian. Rút ngắn đơn vị thời gian dài thành từng đơn vị chớp nhoáng, sẽ thấy sự vật thật ra biến chuyển theo từng sát-na [gọi là sát na vô thường]. Kỹ thuật hiện đại sẽ giúp chúng ta quan sát một vài biến chuyển như vậy, ví dụ sự sinh sôi nảy nở của các loại vi khuẩn qua ống kính hiển vi. Ðồng thời, xét trên phương diện lý thuyết, có những quan sát cho thấy tính chất cực kỳ năng động của thế giới vật lý. Luật vô thường mang lại cho chúng ta khả năng chuyển biến, phát triển và tiến bộ.

Vô thường không có nghĩa là sự vật sinh ra, tồn tại, rồi tận diệt. Ðó không phải là nghĩa vi tế nhất của vô thường. Vô thường vi tế có nghĩa là sự vật sinh ra là đã vô thường. Ngay từ lúc sinh ra là đã bắt đầu đi vào quá trình hoại diệt. Thứ gì đã do nhân duyên mà có thì vốn sẵn trong mình mầm mống hoại diệt, không cần phải đợi về sau mới có một nguyên nhân hoàn cảnh nào khác làm cho hư hoại, vì như vậy không đúng với nghĩa vô thường. Vô thường có nghĩa là ngay từ lúc sinh ra là đã bắt đầu hoại diệt.

Nếu chỉ dựa vào dòng tương tục của sự vật để hiểu về vô thường thì quý vị sẽ chỉ thấy được nghĩa thô lậu. Quý vị sẽ cảm thấy rằng sự vật sinh ra là do sự hội tụ của một số nhân duyên nào đó, yếu tố duy trì vẫn còn thì sự vật ấy vẫn sẽ tồn tại y nguyên, chỉ bắt đầu tan rã khi gặp phải yếu tố bất lợi. Ðây là nghĩa thô lậu của vô thường.

Ngược lại, nếu hiểu sâu hơn, tiếp cận vô thường ở mức độ vi tế hơn, biến chuyển thay đổi trong từng khoảnh khắc, quý vị sẽ biết được rằng sự vật ngay lúc sinh ra là đã bắt đầu hoại diệt.

Mới đầu quý vị có thể cảm thấy sinh và diệt là hai quá trình tương phản, nhưng hiểu sâu hơn về vô thường quý vị sẽ nhận ra rằng, hiểu trên một mức độ nào đó, sinh và diệt xảy ra cùng một lúc. Vì vậy luật vô thường là cơ sở thứ nhất cho thấy tâm thức là điều có khả năng chuyển hóa.

Cơ sở thứ hai cũng là điều có thể quan sát được từ thế giới vật lý bên ngoài, qua những cực đối nghịch mâu thuẫn với nhau. Ví dụ nóng và lạnh, tối và sáng v.v., đều là những cực đối kháng, bên này tăng thì bên kia giảm, có khi từ từ, có khi tức thì. Ví dụ như khi mở ngọn đèn, bóng tối trong phòng lập tức biến mất.

Nhìn vào thế giới của ý nghĩ và cảm xúc trong tâm, quý vị cũng sẽ thấy có nhiều phạm trù đối kháng tương tự. Một loại cảm xúc tăng thì tự nhiên những loại cảm xúc đối nghịch liền  giảm. Tính chất tự nhiên này của tâm chính là cơ sở thứ hai cho thấy việc biến chuyển thay đổi là điều có thể thực hiện.

Khi đối diện với hai loại ý nghĩ hoặc cảm xúc đối nghịch nhau, câu hỏi đặt ra đó là làm sao phân biệt được loại nào đúng với thực trạng của sự việc, loại nào không đúng? Câu trả lời như sau: ý nghĩ cảm xúc nào xuất phát từ cơ sở vững chắc của kinh nghiệm và lý trí thì đúng với chân lý, còn ý nghĩ cảm xúc nào đi ngược với thực trạng của sự vật thì dù trong nhất thời có mạnh mẽ đến đâu cũng đều không ổn. Không được bắt nguồn từ kinh nghiệm và lý trí, chúng hoàn toàn không có điểm dựa vững chắc.

Ngoài ra, so sánh hai loại cảm xúc trực tiếp mâu thuẫn với nhau sẽ thấy còn một điểm khác biệt nữa, đó là tầm tác động về lâu về dài.

Có những loại cảm xúc tuy mang đến cho ta cảm giác thỏa mãn nhất thời, nhưng nếu dùng lý trí để soi, – loại lý trí có khả năng đánh giá tốt xấu nhất thời và dài lâu – thì lại thấy loại cảm xúc này về lâu về dài sẽ gây tàn phá, tổn hại, không được lý trí, hay trí tuệ chống đỡ. Những loại cảm xúc tiêu cực này, ánh sáng trí tuệ soi đến là chúng lập tức mất hết cơ sở tồn tại.

Lại có những loại cảm xúc trong lúc nhất thời có vẻ như gây xáo trộn bất ổn, nhưng về lâu về dài thì chỉ có ích chứ không gây hại và, vì vậy, được sự chống đỡ của lý trí và trí tuệ.

Theo đó thì loại cảm xúc tích cực bao giờ cũng vững mạnh hơn loại cảm xúc tiêu cực, vì có nhiều tiềm năng phát triển hơn.

Luật vô thường và luật mâu thuẫn đối kháng là hai cơ sở cho chúng ta thấy sự chuyển hóa tâm là điều chúng ta có thể thực hiện được.

>> 1.4. TRUY TÌM CHÂN TÁNH THỰC TẠI

Tất cả những điều này cho thấy tầm quan trọng của việc tìm hiểu sâu xa về bản chất của tâm, về sắc thái và chức năng của tâm nói chung, cũng như bản chất và mức độ phức tạp của cảm xúc nói riêng. Ngoài ra, mọi vấn đề trong cuộc sống đều phát xuất từ sự sai lầm cố hữu trong cách chúng ta nhận thức và tiếp xúc thực tại, nên điều quan trọng là phải có khả năng kiểm soát nhận thức của mình xem có phù hợp với thật tánh của thực tại hay không. Hiểu đúng thật tánh của thực tại là điểm then chốt, vì nhận thức về thực tại luôn nằm ở trọng tâm của mọi mối tương giao giữa mình và ngoại cảnh. Tuy vậy, cái gọi là thực tại ở đây không phải chỉ là những việc xảy ra liền liền trước mắt trong nội tâm hay ngoại cảnh, mà là trọn vẹn  cảnh giới thực tại, vì có rất nhiều loại ý nghĩ và cảm xúc không chỉ phát xuất từ thế giới vật lý trước mắt mà còn phát xuất từ thế giới của  ý tưởng trừu tượng.

Đó là lý do vì sao Phật pháp nói nhiều về bản chất của thực tại qua mười tám giới, mười hai xứ, năm hợp thể v.v., liên quan đến việc cầu quả giác ngộ như thế nào. Nếu chỉ cần lòng tin và tín ngưỡng nơi đấng giáo chủ là đủ thì Phật đã chẳng phải phí công giải thích tỉ mỉ phức tạp về chân tánh của thực tại làm gì. Nhìn trên khía cạnh này, có thể nói Phật Pháp là một cuộc du hành vào cảnh giới chân thật của thực tại.

Khoa học luôn đòi hỏi thái độ khách quan nơi các nhà chuyên gia. Phật giáo cũng vậy, đòi hỏi người tu phải quan sát bản chất của thực tại bằng tinh thần khách quan. Không thể tùy tiện dựa vào định kiến trong ý tưởng hay cảm xúc của mình để mà đánh giá thực tại. Nếu chỉ biết nhìn thực tại bằng óc tưởng tượng hay bằng sự phỏng đoán thì sẽ không bao giờ có khả năng mở rộng tầm nhìn của mình đến vô tận.

Khi dấn thân vào con đường khám phá bản chất của thực tại theo Phật giáo, quý vị chủ yếu cần vận dụng hai loại chức năng của tâm. Một là khả năng quán xét, lấy thực tại làm đối tượng phân tích. Phật giáo gọi khả năng này là “trí tuệ” hay “tuệ quán.” Hai là khả năng được gọi là “phương tiện,” hay là “phương tiện thiện xảo.” Đây là khả năng giúp ta huân dưỡng cho lòng can đảm và độ lượng càng thêm sâu rộng, tạo nguồn động cơ chống đỡ cho người tu trên suốt con đường cầu đạo.

>> 1.5 HỎI ĐÁP

Hỏi. Kính thưa đức Đalai Lama, ngài dạy rằng mọi hiện tượng đều vô thường. Vậy thì bản tánh trong sáng không ngăn ngại của tâm có phải cũng vô thường? Có phải là cũng có sinh có diệt?

Đáp. Khi nói về bản chất của tâm theo quan niệm Phật giáo, cần hiểu rằng tâm này có thể chứng biết qua hai mức độ khác nhau. Một là thực tại chân thật, trong cảnh giới đúng như sự thật này, bản chất của tâm là tánh không không có tự tánh. Hai là thực tại tương đối, trong cảnh giới danh ngôn thế tục này, bản chất của tâm ứng với tánh sáng và tánh biết.

Nếu quý vị hỏi về bản chất của tâm trên phương diện danh ngôn thế tục thì câu trả lời là như sau: vì tâm luân chuyển không ngừng nên bản chất của tâm cũng luân chuyển không ngừng. Điều này cho thấy bản chất của tâm là một hiện tượng vô thường. Tuy vậy, nếu câu hỏi ứng vào tánh không của tâm thì cần phải xét rằng tuy tánh không của tâm không phải là một hiện tượng sinh diệt –nói cách khác, tánh không thì không tùy thuộc vào nhân và duyên– nhưng tánh không cũng không thể tồn tại nếu thiếu đi cái thứ mà tánh không ứng vào. Nói cách khác, tánh không của tâm không thể tồn tại biệt lập với tâm. Tánh không của tâm chỉ đơn giản là trạng thái vắng bặt sự tồn tại có tự tánh của tâm chứ không là gì khác. Vì thế khi tâm chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác thì mỗi trạng thái tâm ấy đều tương ứng với một tánh không của mình.

| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN 2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |

Lama Tsongkhapa: LAMRIM TINH YẾU LUẬN: Chứng Đạo Ca

– English Title: Song of Experience
– Tác Giả (Author):
Lama Tông Khách Ba (sơ tổ dòng Gelug)
– Việt ngữ: Hồng Như
      1: Bản mới, nhuận văn 2021 (dịch từ Tạng ngữ)
      2: Bản mới 2019: Tạng Anh Việt (dịch từ Tạng ngữ)
      3: Bản cũ 2004 (dịch từ Anh ngữ)

      BẢN MỚI, DỊCH TỪ TẠNG NGỮ (2019, nhuận văn 2021)

      Tiếng Việt

      Tibetan title: Lam rim nyams mgur
      Tựa đề tiếng Việt: LAMRIM CHỨNG ĐẠO CA
      : Tinh Yếu Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ

      1. Thân sinh ra từ / muôn vạn thiện lành;
      Lời nói toàn thành / nguyện ước chúng sinh;
      Ý thấy khắp cả / đúng như sự thật:
      Trước bậc đứng đầu / dòng họ Thích ca / con xin đảnh lễ.

      2. Là trưởng tử của / bậc Thầy vô song,
      Đảm đương việc làm / của khắp chư Phật,
      Du hí thị hiện / hằng sa cõi giới:
      Di Lạc, Văn Thù / con xin kính lễ.

      3. Dù nghĩa Phật mẫu / thậm thâm khó lường,
      Vẫn giảng đúng như / ý thật của Phật:
      Long thọ, Vô trước, / ba cõi danh lừng,
      Đê đầu dưới chân / con xin kính lễ.

      4. Là người tiếp giữ / mọi điểm tinh yếu / kho tàng khai thị / đầy đủ không sai
      Của hai đường tu / tri kiến thâm sâu, / thiện hạnh quảng đại,
      Được truyền xuống từ / nhị đại tổ sư.
      Đức Atisa (Di-pam-ka-ra), con xin kính lễ.

      5. Ân sư là mắt / cho chúng con nhìn / muôn trùng kinh điển;
      Là lòng sông cạn / đưa kẻ thiện duyên / sang bờ giải thoát;
      Từ bi vận dụng / mọi thiện phương tiện, / soi tỏ lối đường:
      Khắp đấng Ân sư / con xin kính lễ.

      6. Là ngọc trang nghiêm / trên đỉnh bậc trí / cõi Diêm phù đề;
      Tràng phang danh xưng / lẫy lừng khắp chúng;
      Pháp chân truyền từ / Long thọ, Vô trước:
      Là Trình Tự Đường / Dẫn Đến Giác Ngộ.

      7. Vì bởi pháp này / làm tròn nguyện ước / chín loại chúng sinh
      Nên đây chính là / vua của vua pháp,
      Là lòng biển rộng / rạng ngời khéo giảng,
      Nơi ngàn dòng suối / luận văn đổ về.
      Giúp người tu hiểu / trăm vạn pháp môn / vốn không mâu thuẫn;
      Giúp trọn pháp Phật / tỏa rạng thành lời / trực chỉ khai thị / trong trí người tu;
      Giúp cho dễ dàng / hiểu được ý Phật;
      Giúp giữ người tu / thoát khỏi hố thẳm / của đại ác hạnh.
      Vì vậy nhiều bậc / thiện duyên Ấn-Tạng
      Dốc tâm nương vào / diệu pháp này đây.
      Trình tự đường tu / ba căn cơ này,
      Kẻ trí không ai / không bị cuốn hút.

      8. Pháp này thu nhiếp / trọn lời Phật dạy,
      Nên giảng hay nghe / dù chỉ một lần,
      Đều như giảng, nghe / toàn bộ diệu Pháp,
      Lợi ích nhất định / sẽ như sóng cả, / vì vậy hãy nên / chuyên chú tư duy.

      9. Rồi sẽ thấy ra / gốc rễ duyên lành
      Cho mọi thiện lành / đời này kiếp sau
      Nằm ở nỗ lực / mang tâm và hạnh / nương dựa đúng cách
      Nơi đấng đạo sư, / là người chỉ cho / đường tu giác ngộ.
      Thấy điều này rồi / cho dù mất mạng / cũng không từ bỏ,
      Phải gắng làm cho / đạo sư hoan hỉ / bằng cách tu theo / lời của đạo sư.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      10. Thân người ung dung / quí giá còn hơn / bảo châu như ý
      Đến chỉ một lần / cực kỳ khó gặp,
      Lại dễ mất như / tia chớp giữa trời.
      Thấy rõ kiếp người / chóng vánh như vậy,
      Chuyện đời khác gì / trấu lép loạn bay.
      Nên ngày lẫn đêm / phải luôn tận dụng / tinh túy thân này.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      11. Chết rồi chắc gì / không rơi ác đạo,
      Giúp thoát sợ này / chỉ có Tam Bảo.
      Vậy tâm qui y / phải giữ cho chắc,
      Đừng bao giờ để / phá hạnh qui y.
      Muốn được như vậy / phải khéo nghĩ về / nghiệp quả thiện ác,
      Để biết chọn việc / nên bỏ, nên làm.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      12. Thân người đủ mọi / phẩm tướng cần thiết / để theo thắng đạo,
      Nếu như thiếu đi / thì đường giác ngộ / không thể bứt phá.
      Vậy phải gắng sao / cho có đủ cả.
      Vì bởi ba cửa / nhuốm đầy cấu nhiễm / ác nghiệp, rơi đọa,
      Khẩn thiết nhất là / tẩy tịnh nghiệp chướng,
      Nên bốn sám lực / phải thường trân quí / áp dụng siêng năng.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      13. Tai hại khổ đế / không nỗ lực quán
      Thì tâm cầu thoát / không thật phát sinh.
      Nguyên nhân của khổ / luân chuyển thế nào, / nếu không quán chiếu
      Thì gốc luân hồi / không biết cách chặt.
      Cần nhất phải biết / chán khổ sinh tử, / khởi tâm cầu thoát,
      Và biết điều gì / trói buộc mình trong / sinh tử luân hồi.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      14. Phát tâm bồ đề / là cốt lõi của / đường tu Đại thừa;
      Nền tảng, chỗ dựa / của khắp muôn trùng / sóng cả thiện hạnh;
      Tựa như thuốc tiên / hóa sắc thành vàng, / biến tất cả thành / hai kho phước trí;
      Là cả kho tàng / công đức đồ sộ, / chứa hết vô lượng / thiện đức bồ đề.
      Vì biết điều này / nên chư bồ tát / uy dũng tự tại
      Gìn giữ tâm ấy / sâu thẳm bên trong / cốt tủy pháp hành.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      15. Thí là ngọc quý / toàn thành ước nguyện / cho khắp chúng sanh;
      Vũ khí thượng thặng / chặt phăng nút thắt / của lòng keo bẩn;
      Là hạnh bồ tát / sinh nguồn dũng cảm / không hề chán mệt;
      Và là nền tảng / khiến cho danh lành / truyền khắp mười phương.
      Vì biết điều này / nên người có trí / xả hết thân mạng / tài sản công đức,
      Chỉ để nương theo / con đường lành này.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      16. Giới là nước trong / giặt sạch tất cả / vết nhơ ác nghiệp;
      Là ánh trăng thanh / xoa dịu nỗi đau / rát bỏng phiền não;
      Đứng giữa phàm phu, / thân thể rạng ngời / như núi Tu di,
      Không cần thị uy / nhiếp phục khắp cả.
      Vì biết điều này / nên chư giác giả,
      Giữ giới đã thọ / quí như đôi mắt.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      17. Nhẫn là trang sức / quí giá nhất cho / người có quyền năng;
      Là sức chịu đựng / tuyệt bậc dành cho / bức bách phiền não;
      Là kim sí điểu / bay vút giữa trời, / làm khắc tinh của / rắn thù sân hận;
      Là lớp giáp bào / kiên cố ngăn chận / vũ khí ác ngữ.
      Biết vậy cho nên / giáp bào kham nhẫn,
      Bằng đủ mọi cách / phải tập làm quen.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      18. Khoát lớp giáp bào / tinh tấn bất thoái
      Thì học và chứng / tăng trưởng nhanh như / trăng đến độ rằm,
      Làm gì cũng đều / tràn đầy ý nghĩa,
      Và đều mang đến / kết quả mong cầu.
      Vì biết như vậy / nên chư bồ tát
      Cuộn sóng tinh tấn / quét sạch hết thảy / mọi kiểu biếng lười.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      19. Định là đại vương / ngự trị tâm thức.
      Để yên, bất động / như núi Tu Di
      Mở ra, thu nhiếp / toàn bộ thiện pháp,
      Cho hỉ lạc nhờ / nhu nhuyễn thân tâm.
      Vì biết vậy nên / hành giả tự tại
      Luôn nương pháp định / diệt thù tán tâm.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      20. Tuệ là đôi mắt / thâm chứng tánh Như;
      Là con đường bứng / sạch gốc luân hồi;
      Là kho tánh đức / kinh luận tán thán;
      Và nổi danh là / ngọn đèn vô thượng / xua bóng vô minh.
      Vì biết như vậy / nên người có trí / tìm cầu giải thoát
      Nỗ lực đủ cách / tu theo đường này.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      21. Nếu chỉ dựa vào / mỗi định-nhất-tâm / thì không thấy được
      Khả năng chặt đứt / gốc rễ luân hồi.
      Nếu chỉ có tuệ / thiếu đi tịnh chỉ
      Thì dù quán chiếu / truy tìm đến đâu / vẫn không thể nào / dứt được phiền não.
      Vì vậy kẻ trí / lấy tuệ thâm nhập / vào chân thực tại
      Cưỡi trên lưng ngựa / tịnh chỉ diệu trạm;
      Dùng vũ khí bén / luận lý Trung đạo / không vướng biên kiến
      Phá tan hết thảy / khái niệm phân biệt / chấp thường chấp đoạn.
      Dùng tuệ rộng lớn / quán chiếu chính xác
      Để làm khai mở / trí chứng tánh Như.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      22. Nhờ thiền nhất tâm / mà đạt tam muội,
      Chẳng gì đáng nói. / Dùng quán sát trí
      Truy xét tầm tư, / mà vẫn yên lắng,
      Bất động vững vàng / nơi chân thực tại,
      Thấy rồi nỗ lực / hợp nhất chỉ quán,
      Đây mới chính thật / là điều nhiệm mầu.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      23. Khi vào trong định, Không – như không gian;
      Khi xuất trở ra, Không – như huyễn cảnh;
      Tán dương những ai / nhờ tu như vậy / hợp nhất phương tiện / cùng với trí tuệ
      Nhờ đó siêu việt / các hạnh bồ tát.
      Để chứng điều này / nên bậc thiện duyên
      Không đành lòng với / đường tu riêng lẻ.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      24. Như thế chính là / đường tu phổ thông, / thiết yếu cho hai / thắng đạo đại thừa.
      là cỗ xe nhân / và cỗ xe quả.
      Tu rồi hãy tìm / nương sự che chở / của bậc thuyền trưởng / trí tuệ tài ba
      Để mà bước vào / biển cả mật pháp.
      Rồi nhờ dựa vào / lời giảng toàn hảo
      Sẽ không phí uổng / thân người có đây.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      25. Vì để huân tập / tâm của chính mình,
      Cũng để làm lợi / cho hàng thiện duyên,
      Thầy đã giải thích / bằng lời dễ hiểu
      Trọn vẹn đường tu / khiến Phật đẹp lòng.
      Nương công đức này / nguyện cho chúng sinh
      Không bao giờ lìa / chánh đạo tối thượng.
      Thầy là hành giả / đã nguyện như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy nguyện theo.

      Trình tự đường tu giác ngộ được trình bày ngắn gọn theo dạng dễ nhớ khó quên, do tỷ kheo đa văn, người đã buông xả, tên Lobsang Drakpa [Lama Tsongkhapa] viết nơi núi lớn lan nhã tại Geden Nampar Gyalwai Ling.

      Bản tiếng Việt: Hồng như Thupten Munsel, 2019: Bản mới dịch lại từ Tạng ngữ, tham khảo với ba bản dịch, Alex Berzin, Thupten Jinpa và Ven. Joan Nicell.

      Atisa: BỒ ĐỀ ĐẠO ĐĂNG LUẬN: Ngọn Đèn Soi Đường Giác Ngộ

      English version: A Lamp for the Path to Enlightenment << Link to Lama Yeshe Wisdom Archives >> –
      Tác Giả: Atisha Dipamkara Shri Jnana (982-1054) –
      Tựa Đề: Bồ Đề Đạo Đăng Luận (Đèn Soi Đường Giác Ngộ) – 
      Việt ngữ:  Hồng Như, ấn bản tháng 07 năm 2005.
      Hạ Tải văn bản chánh văn tại www.hongnhu.org/thu-muc/#bo-de-dao-dang-luan

      Continue reading

      image_pdfimage_print