Nguyện Kirti Tsenshab Rinpoche Sớm Ngày Trở Lại

–  Kirti Tsenshab Rinpoche’s Long Life Prayer

Kirty Tsenshab Rinpoche

TIẾNG TRỐNG ĐẠI BI HÙNG HỒN THỈNH CẦU LỰC GIA TRÌ TỪ HÓA THÂN SỚM TRỞ LẠI CỦA BẬC THIỆN TRI THỨC KIRTI TSENSHAB RINPOCHE

 

Cảnh giới đại từ bi
Của chư Phật ba thời;
Đức Hộ Phật từ bi
Du hí hiển lộ đủ
Mọi tướng hảo chính phụ;
Kho tàng tâm đại bi
Hành trình đầy may mắn
Của chúng sinh Xứ Tuyết;
Xin gia trì hộ niệm
Cho lời nguyện nơi đây
Tức thì thành sự thật

Với trí giác thông tuệ
Thâm sâu và vô úy,
Với tiếng lời hùng biện
Của Phật Pháp vi diệu
Tỏa rộng bao con sóng
Dịu êm như nụ cười,
Thầy là thiện tri thức
Là đại dương ngát rộng,
Là người con thương tiếc
Sâu tận đáy lòng con.

Hồi tưởng bao thiện đức
Thân ngữ ý nhiệm mầu
[Của đạo sư tôn kính],
Trong túng quẩn khốn cùng
Con nhất tâm thỉnh nguyện:
Kính xin Thầy che chở
Giữ gìn cho chúng con
Suốt mọi kiếp về sau,
Đừng bao giờ tuột khỏi
Vòng đại bi của Thầy.

Than ôi, nếu chúng con
Mất đi thiện tri thức,
Là nơi chốn qui y
Và chở che duy nhất,
Vậy giáo pháp của đấng
Đại Cứu Độ từ hòa
Lama Tông Khách Ba
Sẽ dần dần mai một,
Hạnh phúc của chúng sinh
Sẽ dần dần tối ám
Như mặt trời bóng ngã.
Kính xin Thầy quay về
Giải tỏa mối hiểm họa
Bi thương khẩn thiết này.

Sau một thời gian dài
Thầy hành trì nghiêm mật,
Rồi gánh lấy trọng trách
Thi triển mọi thiện hạnh,
Cùng trọng trách gánh vác
Tất cả mọi chúng sinh,
Và rồi Thầy toàn thành
Trọn vẹn mọi khả năng
Của trí giác nhiệm mầu.
Thế nhưng Thầy có hiểu
Nỗi bàng hoàng tuyệt vọng
Trong lòng con hôm nay?

Vì lẽ chúng con đây,
Những đứa con tối ám
Cứng đầu và cứng cổ,
Bị bỏ trong chốn vắng
Tuyệt vọng và bơ vơ,
Sao Thầy có thể vui
Cõi an lạc niết bàn!
Nay năm thứ vẩn đục
Ứ đầy và nổ tung,
Bây giờ chính là lúc
Chúng con đặc biệt cần
Thầy thương tưởng chúng con,
Khoát áo giáp tinh tấn.
Vì đó là đại nguyện
Của những bậc Đại Hùng
Trưởng tử Phật Thế Tôn
Kính xin Thầy mau chóng
Hiển lộ thêm lần nữa
Gương mặt đấng hóa thân.

Đã đến thời kỳ cuối
Phật Pháp cạn năm trăm*
Hầu hết bậc giác ngộ
Khi xưa vì đại nguyện
Mà đi vào cõi thế,
Bây giờ đã lần lượt
Nhập vào cõi pháp thân.
Chúng con như chim non
Tội nghiệp chưa ra ràng
Rớt lại ở phía sau
Bơ vơ và thiếu thốn.

Kính xin Thầy nhớ lại
Hạnh nguyện phát trong tâm
Để gánh vác giữ gìn
Ngọn đèn chánh pháp của
Vùng Rongchen-Amdo.
Đấng hóa thân tối thượng
Gương mặt rạng nụ cười
Bậc tạo nên ánh ngày
Như mặt trời chớm mọc
Nhanh chóng hiện ra đây
Không phút giây chậm trễ.

Không đánh mất thiện đức
Tu đạt qua nhiều đời;
Nụ cười như ánh trăng
Trong thanh và dịu mát
Của lời giảng, thành tựu;
Thiện tri thức duy nhất
Thuần dưỡng đóa Kuni
Của chánh pháp của Phật;
Nguyện vầng trăng thanh xuân
Của hóa thân của Thầy
Đích thực không thể lầm
Ngay tức thì hiển lộ.

Thầy là bậc giữ gìn
Ý nghĩa chữ Lama,
Thầy là người canh giữ
Chánh pháp của Phật đà,
Là bậc luôn lắng nghe
Tất cả lời khẩn nguyện,
Đấng Chiến Thắng Đại Hùng,
Đấng Hộ Pháp Đại Lực,
Kính xin Thầy thúc đẩy
Cho hóa thân của Thầy
Đích thực không thể lầm
Ngay tức thì hiển lộ.

Tóm lại, xin nương vào
Năng lực của duyên sinh
Đến từ nguồn tín tâm
Của đông đảo đệ tử,
Cùng với lực gia trì
Của các bậc Hộ Pháp
Như viên ngọc như ý
Nguyện cho mọi lời nguyện
Không sai sót mảy may
Tức thì thành sự thật.

* “cạn năm trăm”:  giai đoạn cuối của thời kỳ năm trăm năm cuối cùng của Phật Pháp (người dịch việt ngữ ghi chú)

Lời Ghi Xuất Xứ

Xuất Xứ Nguyên Văn Tạng Ngữ: Tôi, đệ tử mang tên hóa thân Thashel Kirti, Lozang Tenzin, có nghe rằng vào tuổi tám mươi mốt, đấng hóa thân của bậc đại thiện tri thức Tsatrug Geshe Tsang, thủ ngôi dòng truyền thừa Near Instruction, đại sư trụ trì Vajradhara Jetsun Lozang Jigme Damcho Pel Sangpo, lâm trọng bịnh thị tịch, nên trong lòng thôi thúc viết nên lời thỉnh nguyện mang tựa đề Tiếng Trống Đại Bi Thỉnh Cầu Năng Lực Gia Trì Từ Hóa Thân Sớm Trở Lại Của Bậc Đại Thiện Tri Thức KIRTI TSENSHAB RINPOCHE. Nguyện lời nguyện thanh tịnh không thể tranh cãi này, hướng về Tam Bảo nói chung và hướng về đức Tối Thượng Đại Từ Bi nói riêng, được thành tựu đúng như đã nguyện.
Viết tại Bồ Đề Đạo Tràng, Sublime Realm vào ngày mười lăm tháng chín năm 2006.

Xuất Xứ Bản dịch Anh Ngữ: Đấng Hộ Pháp tận tụy, Alak Rinpoche, thị giả của đại sư Kyabje Kirti Tsenshab Rinpoche vô cùng quí hiếm được nghe tên, hiện thân từ hòa hơn cả Chư Phật ba thời, và dịch giả Voula, người đã cống hiến nhiều năm dài cho Đại sư, đã yêu cầu tôi, Mickey Mouse Thubten Zopa, dịch ra Anh ngữ Bài Thỉnh Nguyện này. Với sự giúp đỡ của tỷ kheo ni Jane, tỷ kheo Tenzin Namdak và Ross Moore, tôi đã bằng trọn lòng kính ngưỡng dịch đúng theo như vậy. Nhờ vào công đức này, nguyện chúng sinh trong toàn cõi thế gian sớm gặp lại đấng Hóa Thân Với Khuôn Mặt Rạng Cười Không Thể Nhận Lầm, sớm ngày vui trong suối cam lồ chánh pháp của Kyabje Rinpoche, mau chóng thành tựu giác ngộ viên mãn.
Tu Viện Sera Je, Nam Ấn, 01/2007.

Xuất Xứ Bản Dịch Việt Ngữ: Đệ tử Hồng Như chuyển Việt ngữ. Mọi sai sót là của người dịch, mọi công đức xin hồi hướng chúng sinh, nhất là hồi hướng cho Phật tử Việt Nam tạo đủ thiện duyên để đời này kiếp sau mãi mãi được Thầy Kirti Tsenshab Rinpoche cùng các bậc chân sư trực tiếp nắm tay dẫn dắt cho đến tận quả vị Phật.
Bản dịch có hiệu đính, Sydney, ngày 20 tháng 1 năm 2007.


THE PERSUASIVE DRUM SOUND
OF THE SPHERE OF GREAT COMPASSION
INVOKING THE BLESSINGS OF THE QUICK RETURN
OF THE INCARNATION OF THE GREAT VIRTUOUS FRIEND
KIRTI TSENSHAB RINPOCHE

Realm of compassion of all Victorious Ones of the three times
Compassionate deity playfully manifesting the major and minor marks
Treasure of compassion, fortunate destiny of the migrators of the Land of Snow,
Please enable the accomplishment of these pure prayers.

Profound, fearless intelligence of pure wisdom
Eloquent speech of the sublime Dharma
Spreading like a smiling garland of gentle waves
Treasure filled with a wealthy abundance of instructions
The virtuous friend, the great ocean
You are the one I miss from the heart.

Recollecting all qualities of your Holy Body, Speech and Mind
In distress I single-pointedly request:
Please, our Protector, in all lifetimes
Never let us slip from the lasso of your compassion.

Alas! Lacking the virtuous friend who is the sole Refuge
The teachings of the tender Savior, Lama Tsong Khapa will end.
Migratory beings’ happiness will darken like shadows of a setting sun.
Therefore you must come to relieve this sad and urgent plight.

Training over an extensive period of time
You took responsibility for performing the great activities
Of the Buddha’s Teachings as well as those of transmigratory beings,
And generated completely the full capacity of the Holy Mind.
Yet do you comprehend the nature of our devastation?

For we, the ignorant thick-skulled ones, are abandoned to a forlorn place
While you enjoy the spheres of bliss and peace!
In this period when five degenerations’ faults gather and explode
It is now especially critical that you adopt the armor of zeal.
Since this is the promise of the Heroic Sons of the Victorious One
Quickly reveal again the Emanation Body’s Holy Face.

Already the time of the Buddha’s teachings has reached the end of the five-hundred.
Almost all the Great Holy Beings who could wishfully descend to this world have departed to the Sphere of Peace (Dharmakaya).
We, pitiful fledglings, find ourselves left behind – bereft and alone.

Please recall the commitment generated in your Holy Mind:
To assume responsibility to uphold the Lamp of the teachings of the land of Rongchen (region of Amdo).
Smiling face of the Supreme emanation, the creator of day,
Like the rising sun come quickly without delay.

Not degenerating qualities acquired across lifetime’s trainings
The smile of the white cooling moon of explanation and attainment
Our only friend who cultivates the Kunu (flower) of the Victorious One’s teachings
May the youthful moon of your unmistaken manifestation immediately appear.

Protectors of the words of the Lamas
Guardians of the Buddha’s teachings
Special watchers over what has been requested
Great Victorious Active Heroes
And all Powerful Protectors
Please impel the unmistaken incarnation to arise.

In short, by the power of the incontrovertible dependent arising
Of the students’ fervent faith,
Together with blessings of the Protectors of the Three Sublime Ones,
Like a wish-fulfilling jewel may our prayers without exception
be instantaneously accomplished.

Colophon
I, the student disciple bearing the name of the incarnated Thashel Kirti, Lozang Tenzin, having heard that at the age of eighty one the incarnation of the Great Virtuous Friend Tsatrug Geshe Tsang, the Holder of the Lineage of the Near Instruction, the Great Abbot Vajradhara Jetsun Lozang Jigme Damcho Pel Sangpo had seriously ailed and Gone Beyond, felt impelled to compose this requesting prayer titled The Persuasive Drum Sound of the Sphere of Great Compassion invoking the blessings of the Quick Return of the incarnation of the great virtuous friend Kirti Tsenshab Rinpoche. May my incontrovertible pure prayers to the Three Supreme Ones in general and to the Supreme Arya the Great Compassionate One in particular, be accomplished as here expressed.
It was written in the village of the Sublime realm of Bodhgaya on the 15th of the ninth month 2006.

The most devoted protector, Alak Rinpoche, attendent of Kyabje Kirti Tsenshab Rinpoche whose name is extremely rare to mention and who is the embodiment of and kinder than the Buddhas of the Three Times, and the Translator Voula who offered him so many years of service requested me, the Mickey Mouse , Thubten Zopa to translate this Requesting Prayer. With the help of the Venerable Nun Jane, Venerable Tenzin Namdak and Ross Moore I have done so with devotion. Due to the merits may all sentient beings of this world be able to soon see the Smiling Face of the Unmistaken Incarnation, and enjoy again the nectar of Kyabje Rinpoche’s teachings, in order to achieve Enlightenment as quickly as possible.
Sera Je Monastery, South India, January 2007.


 




Kamalashila: TRÌNH TỰ TU THIỀN – Quyển Trung

EnglishStages of Meditation, by Acharya Kalamashila (not available here) –
Tác giả (Author): Liên Hoa Giới  (Kamalashila) –

Việt ngữ: Hồng Như – 
bản hiệu đính, 06/2008, nhuận văn 07/2009, 06/2015.
Hạ Tải văn bản chánh văn tại www.hongnhu.org/thu-muc/#trinh-tu-tu-thien

KÍNH LỄ ĐỨC MẠN THÙ

Tôi sẽ giải thích ngắn gọn trình tự tu thiền cho người bước theo Đại Thừa Hiển Tông. Ai người có trí muốn mau chóng thành tựu trí toàn giác[1], phải ra sức cố công tích tụ đầy đủ nhân duyên.

1. TÂM LÀ GÌ?

Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào chỗ nào cũng có thể sinh ra, vì vậy nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.

2. LUYỆN TÂM

Hơn nữa, ta cần huân dưỡng nhân tố cho thật chính xác và đầy đủ. Nếu chọn lầm thì dù ra công khổ nhọc trong thời gian dài bao lâu cũng vẫn không thể đạt mục tiêu mong cầu. Giống như vắt sữa từ sừng. Tương tự như vậy, nhân không đủ thì quả không thể phát sinh. Ví dụ nếu thiếu hạt giống hay thiếu những nhân tố khác thì không thể có được mầm non. Vì thế, muốn đạt điều gì, ta cần huân dưỡng mọi nhân tố cần thiết cho thật đầy đủ chính xác.

Nếu quí vị hỏi rằng, “Đâu là nhân duyên tạo trí toàn giác?”. Tôi, người tựa kẻ mù lòa, chẳng thể trả lời,­­ thế nhưng tôi có thể dựa vào lời của đức Phật sau khi giác ngộ dạy cho chúng đệ tử. Đức Phật nói rằng: “Này Kim Cang Thủ, này đấng Thế Tôn Kín Mật, trí toàn giác siêu việt lấy tâm đại bi làm gốc, sinh ra từ nhân, là tâm vị tha, tâm bồ đề và phương tiện thiện xảo.” Vậy, nếu muốn đạt trí toàn giác, ta cần hành trì ba điều sau đây: tâm đại bi, tâm bồ đề và phương tiện thiện xảo.

3. TÂM ĐẠI BI

Vì có tâm đại bi nên bồ tát lập thệ nguyện phổ độ chúng sinh.

Rồi nhờ chiến thắng tâm chấp ngã, bồ tát tinh tấn miên mật dấn thân hành trì pháp tu tích tụ công đức trí tuệ vô vàn khó khăn.

Nhờ dấn thân hành trì như vậy, bồ tát chắc chắn tích tụ đầy đủ công đức trí tuệ. Công đức trí tuệ đủ rồi thì tựa như nắm trí toàn giác trong lòng bàn tay. Vì tâm đại bi là cội rễ duy nhất của trí toàn giác, cho nên ngay từ đầu ta cần làm quen với pháp tu này. Kinh Chánh Pháp Tập Kinh[2] nói rằng, “Kính bạch đức Phật,  Bồ tát không cần hành trì nhiều pháp tu. Nếu Bồ tát có thể giữ một pháp cho thật đúng đắn, tu một pháp cho thật toàn hảo, thì vô lượng thiện đức của Phật đà sẽ nằm gọn trong lòng bàn tay. Nếu hỏi một pháp ấy là gì, đó chính là tâm đại bi.”

Chư Phật tuy thành tựu mục tiêu cứu cánh, nhưng còn chúng sinh thì chư Phật vẫn còn ở lại trong luân hồi. Đó là vì chư Phật có tâm đại bi. Chư Phật không nhập niết bàn an lạc như chư Thanh văn. Vì lợi ích chúng sinh, chư Phật từ bỏ niết bàn an lạc như từ bỏ căn nhà lửa cháy. Vì vậy, nếu muốn thành tựu niết bàn vô trú của một đấng Phật đà thì tâm đại bi là nhân tố duy nhất không thể thiếu.

4. PHÁT TRIỂN ĐẠI XẢ, GỐC RỄ CỦA ĐẠI TỪ

Phương pháp thiền quán tâm bi sẽ được giải thích từ đầu. Bắt đầu bằng pháp quán tâm xả. Hãy cố gắng khởi tâm bình đẳng đối với hết thảy chúng sinh bằng cách đoạn diệt tham và sân.

Tất cả chúng sinh ai nấy đều mong cầu hạnh phúc và không muốn khổ đau. Hãy quán niệm sâu xa rằng, từ vô lượng sinh tử cho đến bây giờ, không có chúng sinh nào không đã từng là thân nhân bằng hữu của mình hàng trăm lần rồi. Vậy chẳng lý do gì lại tham luyến người này, oán hận người kia. Hãy nên khởi tâm bình đẳng đối với hết thảy chúng sinh.  Bắt đầu thiền quán đại xả bằng cách nghĩ đến người dưng kẻ lạ, rồi bạn thân, rồi kẻ thù. Một khi đã khởi tâm đại xả đối với hết thảy chúng sinh, hãy thiền quán đại từ.  Hãy để nước đại từ thấm nhuần dòng tâm thức, tưới tẩm tâm như tưới mảnh đất phì nhiêu. Để hạt giống bi mẫn một khi gieo xuống, sẽ nhanh chóng nảy mầm, tốt tươi tròn vẹn. Một khi tâm thức đã thấm nhuần trong đại từ, hãy thiền quán đại bi.

5. NHẬN DIỆN KHỔ ĐAU

Tâm bi là ước nguyện mong mỏi chúng sinh khổ đau đều được thoát khổ. Thiền quán tâm bi đối với hết thảy chúng sinh, vì chúng sinh trong toàn ba cõi đều luôn bị hành hạ bởi ba loại khổ, biểu hiện thành nhiều sắc thái phong phú. Đức Phật nói rằng nỗi khổ bỏng cháy và những loại khổ đau khác luôn hành hạ chúng sinh cõi địa ngục trong thời gian dài vô kể. Đức Phật cũng nói rằng các loài ngạ quỉ bị nỗi đói khát thiêu đốt, thể xác đớn đau khôn cùng. Chúng ta cũng có thể thấy loài súc sinh phải chịu khổ đau bất hạnh như thế nào: cứ phải nhai nuốt lẫn nhau, nổi sân hận, bị thương, bị giết. Chúng ta có thể thấy loài người cũng phải chịu đủ loại khổ đau bén nhọn. Điều mong cầu đều không đạt được, nên cứ mãi oán hận, gây thương tổn cho nhau. Điều đẹp đẽ mong cầu cứ mãi mất đi, điều xấu xa muốn tránh thì lại phải chịu, còn phải chịu nỗi khốn khổ bần cùng.

Có người bị ràng buộc trong đủ loại cùm gông phiền não như lòng tham ái. Có người rối loạn bởi nhiều loại tà kiến. Toàn là nhân tố tạo khổ, nên chỉ toàn là nỗi đớn đau cùng cực như đứng cheo leo bờ vực thẳm.

Chúng sinh cõi trời phải chịu khổ đau vì sự biến chuyển thay đổi [hoại khổ]. Ví dụ, tâm chư thiên cõi dục giới luôn bị ám ảnh vì biết khi chết sẽ đọa rơi ác đạo, làm sao có thể sống trong bình an?

Hành khổ là do nghiệp và phiền não làm nhân tố tác động mà khởi sinh, nên mang tính chất sát na sinh diệt và bao trùm toàn bộ chúng sinh cõi luân hồi.

Hãy nhìn chúng sinh trầm luân trong biển lửa khổ đau. Nhớ họ cũng như mình, không ai muốn khổ. “Hỡi ôi! Chúng sinh thương quí của tôi đều phải chịu khổ đau cùng cực như vậy. Tôi có thể làm gì để độ thoát cho họ?”, hãy mang khổ đau của họ làm khổ đau của chính mình. Dù đang nhập định hay đang sống trong đời sống hàng ngày, hãy liên tục thiền quán tâm bi, chú tâm vào chúng sinh, vào tâm nguyện mong chúng sinh thoát khổ.

Bắt đầu bằng thân nhân bằng hữu. Thấy họ phải chịu đủ loại khổ đau như đã giải thích ở  trên.

Tiếp theo, vì đã thấy tất cả chúng sinh đều bình đẳng như nhau nên bây giờ hãy quán về người dưng kẻ lạ. Khi tâm bi đối với họ cũng được như đối với người thân, bấy giờ hãy thiền quán tâm bi đối với chúng sinh khắp thế giới mười phương. Như tấm lòng người mẹ đối với đứa con thương yêu bé bỏng đang chịu bệnh khổ, đối với hết thảy chúng sinh bao giờ tự nhiên luôn có được tấm lòng như vậy, bấy giờ đã thành tựu tâm bi. Tâm bi này được gọi là tâm đại bi.

Thiền quán tâm từ bắt đầu với người thân, với những người quí vị thương quí, khởi tâm mong mỏi cho họ được hạnh phúc. Dần dần mở rộng ra, bao gồm cả người dưng kẻ lạ, gồm cả kẻ thù. Lấy tâm bi huân tập, từ từ sẽ tự nhiên phát khởi chí nguyện muốn độ thoát tất cả chúng sinh. Huân tập trong đại bi, lấy đó làm nền tảng để thiền quán phát tâm bồ đề.

Tâm bồ đề có hai: qui ước và cứu cánh. Tâm bồ đề qui ước là sự huân dưỡng chí nguyện ban đầu, vì lợi ích của chúng sinh trầm luân biển khổ mà hướng về quả vị Phật, vì đại bi mà thọ giới phát nguyện độ thoát chúng sinh. Tâm bồ đề qui ước này cần được thuần dưỡng theo quá trình tương tự như những gì được giải thích trong phẩm Giới Luật, Kinh Bồ Tát Địa[3], phát tâm bồ đề bằng cách thọ Bồ tát giới trước một đấng tôn sư nghiêm giữ giới luật bồ tát.

Sau khi phát khởi tâm bồ đề qui ước rồi, hãy dốc sức huân dưỡng tâm bồ đề cứu cánh. Tâm bồ đề cứu cánh siêu việt mọi niệm khởi. Tâm này cực kỳ trong sáng, là đối tượng cứu cánh, không ô nhiễm, không lay động, như ngọn đèn bơ không chao động trước gió.

Tâm này có được là nhờ liên tục huân tập tâm thức bằng pháp tu chỉ quán trong một thời gian dài. Kinh Giải Thâm Mật[4] nói rằng, “Này Đại bồ tát Từ Thị, hết thảy thiện pháp thuộc loại thế gian và xuất thế của Thanh văn, của Bồ tát hay của Như lai, nên biết đều là thành quả của chỉ quán tạo ra.” Vì tất cả chánh định đều thuộc về chỉ quán, nên mọi hành giả đều nên siêng tu chỉ quán. Kinh Giải Thâm Mật còn nói, “Đức Phật dạy rằng vô lượng chánh định của Thanh văn, của Bồ tát và của Như lai, ông nên biết tất cả đều nằm trong chỉ quán.”

Hành giả không thể tu thiền-chỉ một chiều để đoạn diệt phiền não. Tu thiền-chỉ một chiều, chỉ có thể tạm thời dẹp bỏ phiền não vọng tâm. Thiếu ánh sáng trí tuệ thì không thể đoạn diệt tập khí phiền não, vì vậy không thể tận diệt phiền não. Vì lý do này, Kinh Giải Thâm Mật nói rằng, “Định có khả năng hủy diệt phiền não, tuệ có khả năng triệt để hủy diệt tập khí phiền não.” Kinh Chánh Định Vương[5] còn nói:

Dù lấy tâm định / để mà tu thiền
Cũng không thể diệt / vọng tâm chấp ngã
Phiền não sẽ vẫn / quay về quấy phá
Như trong trường hợp / U-drak nhập định
Quán pháp-vô-ngã / cho thật tận tường,
Tu thiền dựa vào / pháp quán như vậy
Đây chính là nhân / tạo quả giải thoát
Chẳng nhân nào khác / mang đến an lạc.

Đại Bồ Tát Tạng Kinh[6] có nói như sau, “Ai chưa từng nghe nói đến giáo pháp của Bồ Tát Tạng, chưa từng nghe nói đến giáo pháp giới luật xuất gia, lại nghĩ rằng chỉ cần đạt định là đủ, người ấy sẽ vì kiêu ngạo mà trở nên tăng thượng mạn. Như vậy, họ sẽ không thể thoát khỏi sinh lão bịnh tử, bần cùng, than khóc, đau đớn, khổ tâm và xáo trộn. Họ cũng không thể giải thoát toàn bộ lục đạo luân hồi, không thể giải thoát ra khỏi núi cao khổ đau thân tâm. Các ông hãy ghi nhớ lời này, Như lai nói rằng nghe giáo pháp này sẽ giúp các ông thoát khỏi tuổi già và cái chết.”

Vì lý do đó, ai muốn đoạn diệt mọi chướng ngại để đạt đến trí tuệ thanh tịnh siêu việt thì phải ở trong định để mà quán tuệ.

6. TRÍ TUỆ

Kinh Bảo Tích[7] nói rằng: Nhờ Giới mà đạt Định. Đạt Định rồi thì tu Tuệ.  Tuệ sẽ giúp đạt trí giác trong sáng. Nhờ trí giác trong sáng mà Giới sẽ toàn hảo.

Kinh Quán Tín Tâm Đại Thừa[8] nói rằng: “Này thiện nam tử, nếu các ông không trụ nơi Tuệ thì Như lai chẳng thể nói các ông bằng cách nào lại có thể có được tín tâm nơi Đại Thừa, cũng không thể nói các ông làm sao có thể đặt mình an trụ trong pháp Đại Thừa.”

“Này thiện nam tử, các ông nên biết, chư bồ tát có được tín tâm nơi Đại thừa, đặt mình an trụ trong pháp Đại thừa, tất cả có được đều nhờ quán chiếu thực tại bằng cái tâm không tán loạn.”

Nếu chỉ tu tuệ quán mà không tu định chỉ, tâm sẽ tán loạn theo nhiều đề mục, chao động như ngọn đèn bơ trước gió. Độ trong sáng của trí giác sẽ không có, vì vậy phải song tu [chỉ quán].  Do đó, Kinh Đại Siêu Thoát Khổ[9] có nói như sau: “Chư Thanh Văn không thấy được Phật tánh, vì định mạnh mà tuệ yếu.”

“Chư Bồ tát thấy được Phật tánh, nhưng không thấy rõ, vì tuệ mạnh mà định yếu. Riêng chư Như Lai có thể thấy tất cả, vì định tuệ ngang nhau.”

Nhờ chỉ, tâm sẽ không bị ngọn gió tư tưởng khái niệm làm cho tán loạn, như ngọn đèn bơ không chao động trước gió.  Nhờ quán, mọi tà kiến đều đoạn lìa, không còn chịu sự chi phối của người khác. Kinh Nguyệt Đăng[10] nói như sau: “Với chỉ, tâm sẽ không lay động. Với quán, tâm sẽ như ngọn núi.” Vậy hãy nên giữ lấy phương pháp song tu chỉ quán.

7. ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT TU CHỈ QUÁN

Khởi đầu, hành giả cần hội đủ mọi điều kiện tiên quyết để nhanh chóng dễ dàng thành tựu chỉ quán.

Điều kiện tiên quyết để thành tựu chỉ, đó là : sống trong môi trường thuận tiện; thiểu dục tri túc; không gánh nhiều việc; giữ giới thanh tịnh; triệt bỏ lòng tham ái cùng mọi tư tuởng khái niệm khác.

Môi trường thuận tiện là môi trường có đủ năm yếu tố sau đây: nơi dễ kiếm thực phẩm y phục; nơi ở không có người ác hay kẻ thù; địa phương không có tai ương tật bệnh; gần bên có bạn đạo giữ giới và có chánh kiến; chỗ ở ban ngày ít người qua lại và ban đêm ít tiếng động.

Thiểu dục nghĩa là không ham muốn nhiều áo quần y phục tốt, ví dụ như áo cà sa v.v… Tri túc nghĩa là hài lòng với bất cứ điều gì mình có, ví dụ áo cà sa phẩm lượng kém v.v….

Không gánh nhiều việc nghĩa là xả bỏ những việc làm thế tục như công việc làm ăn; tránh tham dự vào việc thị phi của Phật tử tại gia hay của chúng tăng; từ bỏ mọi hoạt động y khoa và bói toán.

Cho dù nói rằng phạm giới Thanh Văn thì không thể vãng hồi, tuy vậy, nếu hối cải, kiên quyết không tái phạm, lại có được ý thức về tính chất không tự tánh của tâm tạo tác, quen thuộc với tính chất không tự tánh của các pháp, được như vậy thì giới hạnh có thể nói là vẫn thanh tịnh. Điều này được minh giải qua Kinh A Xà Thế Vương Đoạn Hối[11]. Quí vị phải hàng phục tâm hối tiếc, nỗ lực tu thiền.

Luôn nhớ được sự tai hại của lòng tham luyến trong kiếp hiện tại và mọi kiếp tương lai thì sẽ phá hủy được vọng tâm tham luyến này. Sự vật trong cõi luân hồi, dù đẹp hay xấu, đều phù du như nhau, đều sẽ hư hoại.  Chẳng mấy chốc, quí vị sẽ phải lìa xa tất cả, chắc chắn là như vậy. Hãy quán chiếu vì sao cái tôi lại tham luyến sự vật đến như vậy, rồi đoạn diệt mọi tri kiến sai lầm. Thế nào là điều kiện tiên quyết của quán? Đó là: nương dựa vào bậc thánh giả, nghiêm chỉnh thỉnh cầu lời khai thị phong phú, và tư duy chính xác.

Nên nương dựa vào bậc thánh giả nào? Bậc thánh giả học rộng đa văn, khéo giảng chánh pháp, đầy lòng từ bi, giàu sức nhẫn nại.

Nói “nghiêm túc thỉnh cầu lời khai thị phong phú” là nghĩa gì? Đó là bằng trọn lòng tôn kính, nghiêm chỉnh lắng nghe toàn bộ giáo pháp mười hai loại kinh liễu nghĩa và bất liễu nghĩa Phật thuyết. Kinh Giải Thâm Mật nói rằng, “Không lắng nghe bậc thánh giả thuyết pháp cho thỏa chí mong cầu cũng là một chướng ngại cho sự tu quán.”  Kinh này còn nói, “Nhân của quán là chánh kiến; nhân của chánh kiến là văn [nghe] và tư [tư duy chiêm nghiệm].” Narayana Vấn Kinh[12] nói rằng, “nhờ nghe mà phát tuệ, nhờ tuệ mà phiền não ô nhiễm đều đoạn diệt.”

Nói “tư duy chính xác”, là nghĩa gì? Là hiểu được chính xác ý nghĩa của kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa. Một khi thoát mọi nghi hoặc, Bồ tát có thể nhất tâm hành thiền. Bằng không, cứ để hoài nghi bủa vây, sẽ như người đứng giữa ngã tư đường, không biết phải chọn hướng đi nào.

Hành giả trong mọi lúc phải tránh các món thịt, cá v.v… ăn uống vừa phải điều độ, tránh mọi thức ăn gây hại cho sức khỏe.

Chư Bồ tát một khi hội đủ mọi điều kiện tiên quyết tu chỉ quán, hãy nên bắt đầu tham thiền.

Khi tham thiền, trước tiên phải hoàn tất mọi pháp tu sơ khởi. Phải tiêu tiểu, rồi ở chốn thoải mái không tiếng động quấy nhiễu, nghĩ rằng, “Tôi sẽ độ hết thảy chúng sinh vào niết bàn giác ngộ.” Rồi khởi tâm đại bi, khởi tâm bồ đề, nguyện độ thoát toàn thể chúng sinh, mang hết năm bộ phận gieo xuống chạm đất để mà đảnh lễ chư Phật và chư Bồ tát khắp mười phương.

Hành giả phải đặt ảnh tượng Phật và Bồ tát, ví dụ như tranh vẽ, ở trước mặt, hay ở nơi nào khác. Phải cúng dường xưng tán chư Phật càng nhiều càng tốt. Hành giả cần sám hối tội chướng và tùy hỉ công đức của mọi người.

Tiếp theo, hành giả ngồi thế kiết già Đại Nhật Như Lai, hay thế bán kiết già trên tọa cụ thoải mái. Mắt không mở lớn, không nhắm kín. Hãy nhìn xuôi chóp mũi. Thân không nghiêng về phía trước hay phía sau.  Giữ thân thẳng, tâm xoay vào trong. Hai vai để tự nhiên, đầu không nghiêng về phía sau, phía trước, hay một bên. Mũi giữ thẳng hàng với rốn. Răng và môi để tự nhiên, chót lưỡi chạm hàm trên. Giữ hơi thở thật nhẹ, đều đặn, không phát tiếng động, không cố gắng, không ngắt quảng. Hô hấp tự nhiên, chậm rãi, tựa hồ không có.

8. HÀNH TRÌ THIỀN CHỈ

Phải thành tựu chỉ trước. Chỉ, là cái tâm không tán loạn chạy theo ngoại cảnh, an trụ nơi đề mục một cách tự nhiên, liên tục, nhu nhuyễn khinh an.

Ở trong trạng thái của chỉ, suy xét chính xác về tánh như, đó là quán. Kinh Bảo Vân[13] nói như sau, “Chỉ là cái tâm chuyên nhất bất loạn; quán là cái tâm quán xét riêng biệt về chân tánh.”

Kinh Giải Thâm Mật cũng nói như sau: “Đại Bồ Tát Từ Thị hỏi, “Bạch đức Thế tôn, phải nên cầu về chỉ và khéo về quán như thế nào?’ Đức Phật dạy ‘Đại Bồ tát Từ Thị, giáo pháp Như Lai dạy cho Bồ tát gồm có: khế kinh; xưng tán [ứng tụng]; giáo pháp tiên tri [ký biệt]; thi kệ [phúng tụng]; giáo huấn đặc biệt [tự thuyết]; tùy duyên thuyết pháp [nhân duyên]; hiển lộ thành tựu [thí dụ]; tương truyền [bản sự]; chuyện đản sinh [bản sinh]; giáo pháp rộng lớn [phương quảng]; giáo pháp nhiệm mầu [hy pháp];  thiết lập giáo thuyết [luận nghị]; đối với giáo pháp ấy, Bồ tát khéo lắng nghe, khéo tiếp nhận ghi nhớ, văn khéo rành rẻ, ý khéo tìm tòi. Rồi với cái thấy thông suốt, Bồ tát một mình ở chỗ thanh tịnh mà tác ý tư duy, tiếp tục nhiếp tâm nơi giáo pháp ấy. Giáo pháp nào đã tác ý tư duy thì nhiếp tâm vào nơi đó, giữ cho liên tục. Đây gọi là chánh hạnh của tâm. Khi tâm thường xuyên đứng vững trong chánh hạnh như vậy, đạt sự khinh an nơi thân và nơi tâm, thì tâm ấy gọi là chỉ. Bồ tát cầu về chỉ là như vậy.

Khi Bồ tát đạt được thân tâm khinh an như vậy và an trú trọn vẹn nơi ấy thì sẽ diệt được tán tâm. Nhập chánh định nơi pháp nào thì cần phân tích quán xét pháp ấy, thấy như ảnh hiện. Ảnh hiện này, vốn là đề mục của chánh định, cần dùng trí biết mà chính xác quyết trạch. Phải tầm tư toàn bộ, tận tường quán xét. Phải kiên nhẫn, ưa thích, xét thấy, nhìn thấy và hiểu rõ tận tường. Như vậy gọi là quán. Bồ tát như vậy là khéo về quán.”

Hành giả muốn thành tựu chỉ, ngay từ đầu phải chú tâm để thấy rằng mười hai loại kinh Phật, khế kinh, ứng tụng, v.v…, đều có thể tóm tắt được như sau: tất cả đều đang dẫn đến tánh như, sẽ dẫn đến tánh như, và đã dẫn đến tánh như.

Có thể thiền chỉ bằng cách nhiếp tâm vào các hợp thể thân và tâm [uẩn] là vì đề mục này bao gồm tất cả mọi hiện tượng. Lại có một cách khác: nhiếp tâm vào hình Phật. Kinh Chánh Định Vương nói như sau:

Thân màu hoàng kim,
Đấng ngự cõi thế
Tướng đẹp vô cùng.
Bồ tát nhiếp tâm
Vào đề mục này
Thì được gọi là
Nhập vào chánh định.

Vậy hãy chọn một đề mục thiền chỉ rồi thường xuyên liên tục mang tâm đặt ở nơi ấy. Khi nhiếp tâm vào đề mục như vậy, hãy kiểm soát xem tâm có khéo chuyên chú nơi đề mục hay không. Đồng thời kiểm soát xem tâm có đang bị chìm đắm, có đang bị quấy động vì ngoại cảnh.

Nếu tâm bị chìm đắm vì buồn ngủ, tán loạn, hoặc nếu thấy tâm đang sắp chìm đắm, khi ấy hãy nên nghĩ đến điều đáng vui, ví dụ nghĩ đến hình Phật, hay nghĩ đến ánh sáng. Hết chìm đắm rồi, hãy cố gắng  thấy đề mục cho thật rõ nét.

Phải biết nhận diện khi tâm bị chìm đắm không còn thấy rõ đề mục, cảm giác như bị mù, như vào trong bóng tối, hay như khi đang nhắm mắt. Còn nếu ngồi thiền mà tâm bị ngoại cảnh quấy động, ví dụ chạy theo sắc tướng đáng ưa, hoặc chuyên chú vào đề mục khác, hoặc xao lãng vì ham muốn điều gì trước kia đã từng được hưởng, hoặc nếu nghi ngờ sắp bị tán tâm, những lúc như vậy hãy nhớ tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, nhớ nghĩ đến khổ đau luân hồi v.v…, về những đề mục có khả năng giúp tâm an định.

Theo quá trình này, tán tâm là điều cần đoạn diệt, dùng sợi dây chánh niệm và tỉnh giác cột chặt tâm như voi điên vào gốc cây đề mục. Bao giờ thấy tâm thoát mọi chìm đắm, mọi quấy động, không cần cố gắng cũng tự nhiên chuyên chú nơi đề mục, khi ấy, hễ tâm còn được như vậy, hãy thả lỏng tâm trong trạng thái trung tính tự nhiên.

Cần hiểu rằng khi đạt được chỉ thì thân tâm đều khinh an nhờ huân tập lâu dài trong thiền định, và tâm hễ chọn đề mục nào thì đều có được khả năng tùy ý nắm giữ đề mục ấy.

9.  THÀNH TỰU QUÁN

Sau khi thành tựu chỉ, hãy nên thiền quán bằng suy nghĩ như sau: tất cả giáo pháp của Phật đều là giáo pháp tuyệt hảo, đều trực tiếp hay gián tiếp làm hiển lộ tánh như và dẫn đường tới tánh như cực kỳ trong sáng. Nếu hiểu được tánh như, sẽ thoát lưới tà kiến, như bóng tối tan khi ánh sáng hiện. Thiền chỉ một chiều không thể thanh tịnh bản giác, cũng không thể xua tan bóng tối của chướng nghiệp. Dùng tuệ để quán tánh như cho đúng cách thì thanh tịnh được bản giác. Phải có tuệ mới chứng được tánh như. Phải có tuệ mới đoạn được chướng nghiệp. Vậy khi thiền chỉ, phải vận dụng tuệ giác để truy tầm tánh như. Không thể với pháp tu chỉ mà thấy đủ.

Tánh như, là thế nào? Tánh như là chân tánh của vạn pháp, rằng rốt ráo đều là vô pháp ngã và vô nhân ngã. Điều này phải chứng bằng tuệ ba la mật, không có cách nào khác. Kinh Giải Thâm Mật nói như sau: ” ‘Kính bạch Như lai, chư Bồ tát chứng pháp vô ngã bằng ba la mật nào?’ Bồ Tát Quan Tự Tại, muốn chứng pháp vô ngã, phải vận dụng tuệ ba la mật.'” Vì vậy hãy từ trong chỉ mà quán tuệ.

Hành giả nên quán xét như sau: cái tôi không nằm ngoài các uẩn[14], các giới, các căn. Cái tôi cũng không mang cùng tính chất với các uẩn v.v…, vì uẩn thì có nhiều và vô thường, còn cái tôi lại được xem là độc nhất và thường còn. Cái tôi chỉ có thể hoặc là một, hoặc nhiều hơn một, không thể có cách hiện hữu nào khác. Vậy có thể kết luận rằng khái niệm thông thường về “tôi” và “của tôi” đều hoàn toàn sai lầm.

Thiền quán các pháp vô ngã như sau: tất cả các pháp, nói tóm lại, đều bao gồm trong năm uẩn[15], mười hai xứ[16], và mười tám giới[17]. Sắc tướng của uẩn, xứ và giới, nói cho rốt lại, chẳng qua chỉ là sắc tướng của tâm. Đó là vì nếu phân chia sắc thể ra thành từng hạt tử cực vi, xét tánh chất của từng hạt tử ấy, cũng chẳng thể tìm ra đặc tính của sắc.

Nói cho rốt ráo thì chính tâm cũng không thật có. Cái tâm này đây, chỉ biết nhìn vào hình tướng hư vọng của sắc, v.v…, biến hiện thành nhiều sắc thái, tâm như vậy làm sao có thể thật có? Cũng như sắc, v.v…,  chỉ là hư vọng, vì tâm không tách lìa sắc nên tâm cũng hư vọng. Cũng như sắc v.v… có nhiều sắc thái, đặc tính của sắc không phải một cũng không phải nhiều hơn một, tương tự như vậy, vì tâm không khác với sắc, nên đặc tính của tâm cũng không phải một, không phải nhiều hơn một. Do đó, ngay từ bản chất, tâm vốn như huyễn.

Hãy xét như sau, tương tự như tâm, tánh chất vạn pháp cũng đều như huyễn. Vậy khi lấy tuệ giác quán chiếu đặc tính của tâm, rốt lại sẽ thấy tâm không phải ở trong, không phải ở ngoài, cũng không phải không cả ở trong ở ngoài. Tâm của quá khứ, tâm của vị lai, và tâm của hiện tại đều không thể thấy. Khi tâm sinh, chẳng từ đâu mà sinh, khi tâm diệt, chẳng về đâu mà diệt, là vì tâm không thể nắm bắt, không thể chứng minh, không có hình tướng. Nếu có người hỏi thế nào là sự không thể nắm bắt, không thể chứng minh và không có hình tướng, Kinh Bảo Tích nói rằng, “Này Ca Diếp, tâm này nếu truy tầm sẽ chẳng thể tìm thấy. Không thể tìm thấy thì chẳng thể nhận biết. Không thể nhận biết thì chẳng phải là quá khứ, vị lai, hay hiện tại.” Khi quán chiếu như vậy, điểm khởi đầu của tâm rốt lại không thể thấy; điểm kết thúc của tâm rốt lại không thể thấy, đoạn giữa của tâm rốt lại không thể thấy.

Phải hiểu rằng vạn pháp đều không có phần cuối hay phần giữa; cũng giống như tâm, chẳng có khúc giữa, khúc đuôi. Biết tâm không có khúc đuôi, khúc giữa, sẽ nhận biết sự không-có-đặc-tánh của tâm. Điều gì tâm chứng tận tường thì chứng là không. Chứng được như vậy, ngay chính cái đặc tính được gọi là sắc thái của tâm, như đặc tính của sắc, v.v…, rốt lại đều không thể thấy. Hành giả một khi đã vận dụng trí tuệ mà vẫn không thể quán thấy chân tướng của sự vật, sẽ chẳng cần gì phải phân tích xem sắc là thường hay vô thường, không hay chẳng phải không,  ô nhiễm hay không ô nhiễm, sinh hay không sinh, hữu hay không hữu. Đã không quán xét truy tìm sắc, thì thọ, tưởng, hành, thức, cũng vậy, cũng chẳng quán xét truy tìm. Điều gì vốn đã không hiện hữu thì thuộc tính của nó cũng không hiện hữu. Làm sao quán xét truy tìm?

Cứ như vậy vận dụng trí tuệ để quán chiếu truy tìm một vật, vẫn không thể chứng thấy vật ấy vốn thật có, hành giả khi ấy nhập định vô niệm. Và như vậy chứng được sự vô-đặc-tánh của vạn pháp.

Nếu không vận dụng tuệ giác để quán xét chân tướng của từng sự vật mà chỉ đơn thuần đoạn diệt mọi hoạt động tâm thức sẽ không thể siêu việt khái niệm, lại càng không thể chứng biết sự vô đặc tánh, vì thiếu mất ánh sáng trí tuệ. Nếu từ sự quán xét tánh như của từng pháp mà phát được ngọn lửa giác, biết được vạn pháp đúng như sự thật, thì cũng như dùng củi cọ xát vào nhau mà thành lửa, lửa này sẽ thiêu rụi mọi củi gỗ tư tưởng khái niệm. Đó là lời Phật dạy.

Kinh Bảo Vân cũng nói rằng, “Người nào khéo nhận ra lỗi lầm, sẽ nhập định tánh không để siêu việt khái niệm phân biệt. Người như vậy, nhờ thường xuyên thiền quán tánh không nên khi tận tường truy tìm đề mục và đặc tính của đề mục, tâm sẽ thích thú, thư giản, người ấy chứng biết tất cả đều là không. Khi quán chiếu truy tìm ngay chính cái tâm chứng biết ấy, cũng thấy là không. Khi quán chiếu truy tìm đặc tính của điều mà tâm chứng biết, cũng thấy là không. Chứng không như vậy, nguời tu nhập định vô tướng.” Điều này cho thấy chỉ người nào tham thiền quán xét cho thật rốt ráo mới có thể nhập định vô tướng.

[Đức Phật] giải thích rất rõ, rằng nếu tuyệt diệt mọi hoạt động tâm thức, không vận dụng trí tuệ để quán xét đặc tánh của sự vật, sẽ chẳng làm sao có thể nhập định vô niệm. Vậy, đạt định là nhờ vận dụng trí tuệ quán xét rốt ráo chân tướng của sự vật như là sắc, v.v…, chứ không phải nhờ nhiếp tâm vào đề mục sắc, v.v… Cũng không thể đạt định bằng cách trú ở giữa cõi thế gian và xuất thế gian,  đó là vì sắc, v.v…, đều không thể nhận biết. Cho nên định này gọi là định vô trú.

[Hành giả như vậy] được gọi là hành giả tuệ giác vô thượng, là vì khi dùng tuệ giác quán xét đặc tánh của vạn pháp, hành giả ấy chẳng tìm thấy gì. Điều này được nói trong Kinh Không Tạng[18] Kinh Bảo Ngọc Vương Đỉnh[19], v.v…

Vậy, nhờ đi vào tánh như của nhân vô ngã và pháp vô ngã, người tu siêu việt mọi khái niệm, mọi quán xét, là vì không có gì để mà quán xét, quan sát. Người tu thoát mọi niệm khởi, từ trong nhất tâm bất loạn sẽ tự nhiên đi vào trong định mà không cần dụng công. Khi ấy, quán tánh như một cách rõ ràng, trú tâm nơi ấy. Khi trú trong chánh định này, phải giữ tâm cho liên tục, đừng để tán loạn. Khi nào, nói ví dụ, vì tham luyến mà tán tâm theo đối cảnh, tâm phải ghi nhận ngay.  Nhanh chóng đình chỉ sự tán tâm bằng cách quán bất tịnh nơi điều mình đang tham luyến, mau chóng mang tâm về lại với tánh như.

Nếu sinh tâm buồn chán đối với pháp thiền này thì hãy tư duy về lợi ích của tâm định, quán bằng sự phấn chấn. Tâm buồn chán cũng nên dẹp bỏ bằng cách thấy rõ nhược điểm của tán tâm.

Nếu mọi điều trong tâm trở nên mờ mịt, tâm bắt đầu chìm đắm, hay sắp sửa bị chìm đắm, vì tán loạn hay vì buồn ngủ, thì hãy như trước, mau chóng dẹp bỏ sự chìm đắm này bằng cách chú tâm vào những điều khiến tâm phấn chấn. Rồi chuyên chú giữ chặt đề mục tánh như. Khi nào thấy tâm bị quấy động, hay sắp sửa tán tâm vì nhớ lại những việc rộn rã tiếng cười trong quá khứ, hãy như trước, đình chỉ mọi quấy động bằng cách nhớ lại tánh chất vô thường của sự vật, làm như vậy sẽ giúp điều tâm. Rồi hãy cố  gắng không áp dụng biện pháp hóa giải, giữ tâm trong tánh như.

Bao giờ tâm tự nhiên nhập định tánh như, thoát mọi chìm đắm và quấy động, khi ấy hãy để tâm trong trạng thái tự nhiên, thả lỏng mọi cố gắng. Nếu đang khi nhập định mà cố gắng dụng công, tâm sẽ bị tán. Nhưng nếu bị chìm đắm mà không cố gắng dụng công, tâm sẽ vì quá tối mà trở thành như người mù, không thể đạt tuệ. Vậy, khi tâm bị chìm tối thì phải cố gắng dụng công, còn khi ở trong định thì phải thả lỏng. Trong khi thiền quán, nếu để tuệ mạnh mà định yếu, tâm sẽ chao động như ngọn đèn bơ trước gió, hành giả không thể thấy tánh như một cách rõ ràng. Vào lúc ấy hãy nên thiền chỉ. Đến khi định trở nên quá đà, hãy quán tuệ.

10. HỢP NHẤT PHƯƠNG TIỆN VÀ TRÍ TUỆ

Đến khi chỉ quán cân bằng, hãy giữ tâm tịch lặng, không dụng công. Hễ thân tâm còn thoải mái thì cứ giữ như vậy. Nếu thân tâm bắt đầu khó chịu, hãy nhìn toàn cõi thế gian như huyễn, như ảo, như mộng, như bóng trăng, như ảnh hiện. Nghĩ rằng: “Tất cả chúng sinh đang vô cùng khốn khổ trong cõi luân hồi, đó là vì họ không có  được trí tuệ thậm thâm này.” Rồi phát tâm đại bi và tâm bồ đề, nghĩ rằng: “Tôi phải nỗ lực giúp cho họ hiểu được tánh như.” Nghỉ ngơi. Rồi trở lại, như cũ, nhập vào chánh định vô tướng. Nếu tâm buồn nản, hãy lại nghỉ ngơi. Đây là con đường tu tập kết hợp chỉ quán, nhiếp tâm vào đề mục bằng khái niệm và vô niệm.

Qua tiến triển này, hành giả thiền về tánh như một tiếng đồng hồ, hay nửa thời tọa thiền buổi tối, hay trọn một thời tọa thiền, hay lâu hơn nếu thấy thoải mái. Đây là chánh định thâm chứng chân cảnh giới như trong Kinh Nhập Lăng Già[20] có dạy. Tiếp theo, nếu muốn xuất định thì đang khi chân còn xếp bằng, hãy suy nghĩ như sau: “Mặc dù xét theo chân đế, tất cả các pháp này đều không có đặc tánh, nhưng xét theo tục đế, các pháp vẫn hiện hữu. Bằng không, làm sao có nhân quả? Đức Phật dạy rằng:

Vạn pháp sinh ra trong tục đế
Còn trong chân đế, không tự tánh.

Chúng sinh với thái độ ấu trĩ luôn phóng đại thế giới thực tại, cho rằng sự vật có đặc tính cố định, mặc dù thật ra không phải vậy. Vì gán đặt hiện hữu có tự tánh lên những điều vốn không tự tánh, nên tâm thức trở nên mê muội, cứ phải lang thang dài lâu trong cõi luân hồi. Vì vậy, tôi phải nỗ lực cố gắng, không chút sai sót, thành tựu công đức trí tuệ vô thượng, đạt địa vị toàn giác để giúp chúng sinh chứng được tánh như.”

Tiếp theo, chầm chậm xả thế kiết già, đảnh lễ mười phương Phật đà, Bồ tát. Hãy cúng dường và tán dương chư Phật, chư Bồ tát. Phát nguyện rộng lớn bằng cách đọc tụng bài Hạnh Nguyện Vương[21] [Phổ Hiền],  v.v… Sau đó, nỗ lực tích tụ công đức trí tuệ bằng cách thực hành hạnh thí, v.v…, bao gồm đầy đủ tinh túy của tánh không và đại bi.

Làm như vậy sẽ từ trong định chứng được tánh không với đầy đủ mọi thiện đức tối thượng. Kinh Bảo Ngọc Vương Đỉnh dạy rằng “Khoác áo giáp đại từ, an trú trong đại bi, nhập chánh định trực chứng tánh không bao gồm đầy đủ mọi thiện đức tối thượng. Thế nào là tánh không bao gồm đầy đủ mọi thiện đức tối thượng? Là tánh không không rời hạnh thí, không rời hạnh giới, không rời hạnh nhẫn, không rời hạnh tấn, không rời hạnh định, không rời hạnh tuệ, và không rời phương tiện.” Bồ tát phải nương vào thiện hạnh như hạnh thí, dùng làm phương tiện để thành tựu chúng sinh, để thanh tịnh cảnh giới, thân và vô lượng thánh chúng.

Bằng không, lấy gì làm nhân tố để thành tựu cõi Phật như đức Phật thường nói? Trí toàn giác bao gồm đầy đủ mọi thiện đức tối thượng, trí này có thể đạt được nhờ thực hành hạnh thí cùng các hạnh phương tiện khác. Vì vậy đức Phật nói rằng trí toàn giác có được là nhờ phương tiện. Nên Bồ tát cũng phải thực hành hạnh thí cùng các hạnh ba la mật khác, chứ không thể chỉ biết đến tánh không.

Kinh Thiện Pháp Nhiếp Trì Đại Phương Quảng[22] dạy rằng: “Này Di Lạc, chư Bồ tát thành tựu viên mãn sáu hạnh toàn hảo là để đạt quả vị Phật cứu cánh. Nhưng kẻ điên rồ thì lại nói rằng, ‘Bồ tát chỉ cần tu tuệ ba la mật là đủ, cần gì phải tu những ba la mật còn lại?’ Họ từ bỏ các hạnh ba la mật khác. Này Di Lạc, ông nghĩ thế nào? Khi vua Kashi bố thí thịt mình cho chim ưng để cứu chim bồ câu, làm như vậy có phải vì thiếu tuệ?” Bồ tát Di Lạc trả lời, “Không,  không phải là như vậy.” Đức Phật dạy, “Di Lạc, Bồ tát tích lũy thiện căn nhờ thực hành đúng theo sáu hạnh ba la mật. Thiện căn này, có tai hại hay chăng?” Bồ tát Di Lạc trả lời, “Kính bạch đức Phật, không thể nào là như vậy.” Đức Phật nói thêm, “Di Lạc, ông cũng đã từng chính xác hành trì hạnh thí ba la mật trong vòng sáu mươi kiếp, hành trì hạnh giới ba la mật trong vòng sáu mươi kiếp, hành trì hạnh nhẫn ba la mật trong vòng sáu mươi kiếp, hành trì hạnh tấn ba la mật trong vòng sáu mươi kiếp, hành trì hạnh định ba la mật trong vòng sáu mươi kiếp, hành trì hạnh tuệ ba la mật trong vòng sáu mươi kiếp. Đối với việc này, kẻ điên rồ sẽ nói: ‘Chỉ có một con đường để đạt quả vị Phật, đó là con đường tánh không.’ Phương pháp hành trì của họ hoàn toàn sai lầm.”

Bồ tát có tuệ mà thiếu phương tiện sẽ như chư Thanh văn, không có khả năng gánh vác thiện hạnh của Phật đà. Nhưng Bồ tát nếu có phương tiện thì sẽ đủ sức gánh vác. Kinh Bảo Tích nói, “Ca Diếp, sự thể là như vậy. Như đấng quốc vương mà được quần thần hỗ trợ thì sẽ đủ sức chu toàn mọi nhiệm vụ. Tương tự như vậy, trí tuệ của bồ tát  được phương tiện hỗ trợ thì vị bồ tát ấy sẽ đủ khả năng hoàn thành mọi thiện hạnh của Phật đà.” Tri kiến bồ tát đạo khác với tri kiến ngoài Phật giáo, và [tri kiến] thanh văn đạo cũng khác. Vì  tri kiến ngoài Phật giáo lầm thấy có ngã, v.v…, cho nên đường tu của họ hoàn toàn lìa khỏi trí tuệ. Do đó không thể đạt giải thoát.

Chư thanh văn vì tâm lìa đại bi và không có phương tiện nên nhất tâm dốc sức đạt niết bàn. Còn chư Bồ tát trên đường tu luôn trân quí giữ gìn trí tuệ và phương tiện, nên dốc sức đạt niết bàn vô trú. Bồ tát đạo bao gồm trí tuệ và phương tiện, nhờ vậy đạt vô trú niết bàn. Nhờ trí tuệ nên không vướng luân hồi, nhờ phương tiện nên không vướng niết bàn.

Kinh Già Da Thủ[23] nói rằng, “Nói cho ngắn gọn, Bồ tát đạo bao gồm hai phần. Một là phương tiện, hai là trí tuệ.” Kinh Đệ Nhất Tối Thắng Cát Tường[24] nói như sau, “Tuệ giác toàn hảo là mẹ, phương tiện thiện xảo là cha.”

Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh[25] cũng có dạy như sau: “Đối với bồ tát, ràng buộc là thế nào, cởi thoát là thế nào? Sống trong luân hồi mà thiếu phương tiện là ràng buộc. Sống trong luân hồi mà có phương tiện là giải thoát. Sống trong luân hồi mà thiếu tuệ giác là ràng buộc. Sống trong luân hồi mà có tuệ giác là giải thoát. Tuệ giác không phương tiện là ràng buộc. Tuệ giác có phương tiện là giải thoát. Phương tiện không tuệ giác là ràng buộc. Phương tiện có tuệ giác là giải thoát.”

Nếu bồ tát chỉ lo tu tuệ thì sẽ vướng cõi niết bàn mà chư Thanh văn mong cầu. Vậy cũng như bị ràng buộc, không thể giải thoát vào vô trú niết bàn. Nên tuệ giác lìa phương tiện là ràng buộc đối với bồ tát. Như người rét mướt trong cơn gió lạnh trông tìm ngọn lửa ấm, bồ tát cũng vậy, song tu tuệ giác tánh không và phương tiện để diệt trừ ngọn gió vọng kiến, chứ không chỉ riêng đạt tuệ giác tánh không như chư Thanh văn. Kinh Thập Thiện[26] nói rằng, “Này thiện nam tử, sự thể là như vậy. Lấy ví dụ có người hết lòng thờ lửa, kính lửa như kính tôn sư, vẫn không hề nghĩ rằng: “Vì tôi kính ngưỡng, thờ phụng, tôn sùng lửa nên phải ôm chặt lửa bằng cả hai tay.” Là vì người ấy biết nếu làm như vậy sẽ phải chịu đớn đau thể xác tinh thần. Tương tự như vậy, bồ tát biết về niết bàn nhưng không cố đạt niết bàn, vì bồ tát hiểu rằng làm như vậy là quay lưng với giác ngộ viên mãn.

Nếu chỉ dựa vào phương tiện, bồ tát sẽ không thể siêu việt cảnh giới thế tục, tất cả sẽ chỉ là ràng buộc. Vì thế phải song tu phương tiện và trí tuệ. Nương vào tuệ lực, bồ tát có thể chuyển phiền não thành nước cam lồ, như thuốc độc dưới huyền thuật. Chẳng cần gì phải nói đến [lợi ích của] giới ba la mật, v.v…, sẽ đưa đến cảnh giới siêu việt tự nhiên.

Kinh Bảo Tích nói rằng, “Ca Diếp, sự thể là như vậy. Nhờ năng lực của mật chú và dược phẩm, thuốc độc không thể khiến chết người. Tương tự như vậy, nhờ năng lực của trí tuệ, phiền não không thể khiến bồ tát đọa rơi. Vì vậy, nhờ phương tiện, bồ tát không bỏ luân hồi, không rơi niết bàn; nhờ trí tuệ, bồ tát xả bỏ đối cảnh [tưởng lầm là thật có], không trầm luân luân hồi. Từ đó đạt vô trú niết bàn của đấng Phật đà. Kinh Không Tạng cũng có nói, “nhờ trí tuệ nên đoạn diệt phiền não, nhờ phương tiện nên không lìa chúng sinh.” Kinh Giải Thâm Mật  cũng nói, “Như lai chẳng hề nói người không quan tâm đến lợi ích của chúng sinh, không hướng về tuệ giác chứng chân tánh của vạn pháp hữu vi, mà lại có thể chứng được quả vô thượng chánh đẳng giác của đấng Phật đà.” Vì vậy, ai người muốn thành tựu Phật quả cần thuần dưỡng cả trí tuệ và phương tiện.

Khi đang quán tuệ giác siêu việt, hay khi đang đi sâu vào trong định, đều không thể hành trì các hạnh phương tiện như là giới ba la mật. Nhưng phương tiện vẫn có thể được thực hành chung với tuệ giác vào những lúc trước hay sau buổi tọa thiền. Đây là phương pháp song tu trí tuệ và phương tiện.

Hơn nữa, đây là đường tu của bồ tát, con đường hành trì pháp tu hợp nhất trí tuệ và phương tiện. Đường tu này siêu việt, thấm nhuần tâm đại bi hướng về toàn thể chúng sinh. Khi tu phương tiện lúc xuất định, hãy thực hành hạnh thí cùng các hạnh ba la mật khác giống như nhà làm ảo thuật, không hề vướng vọng kiến. Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh nói rằng, “Phương tiện của Bồ tát là gì, trí tuệ của Bồ tát là trí tuệ nào? Phương tiện của bồ tát là, trong khi nhập định, với lòng đại bi, luôn nhớ nghĩ và giữ  tâm gần gũi với chúng sinh. Nhập định với tâm an lạc và tâm an lạc tột cùng, đó là trí tuệ.” Kinh Phật có nhiều nơi cũng nói về nghĩa này. Trong Phẩm Hàng Phục Ma Lực[27] có nói như sau, “Hơn nữa, hạnh ba la mật của chư Bồ tát là ý thức nỗ lực của tâm tuệ, là kho bồ thiện pháp của tâm phương tiện. Tuệ dẫn đến chứng ngộ vô ngã, tính không hiện hữu [có tự tánh] của chúng sinh, của đời sống, của phương tiện sinh sống và của con người. Còn phương tiện thì giúp thành tựu chúng sinh. Thiện Pháp Nhiếp Trì Đại Phương Quảng cũng nói:

Nhà làm ảo thuật / dễ dàng buông xả / tạo vật của mình.
Vì vốn biết rõ / thực chất của nó  / nên không tham luyến.
Tương tự  như vậy / ba cõi như huyễn / Phật biết từ lâu,
trước khi biết đến / chúng sinh trong đó,
và trước cả khi / nỗ lực độ sinh.

Vì phương pháp hành trì trí tuệ và phương tiện của Bồ tát là như vậy, cho nên có nơi nói rằng: hạnh bồ tát trụ ở luân hồi, trí bồ tát trụ nơi niết bàn.

Vậy hãy huân tập tâm thức với hạnh thí và các hạnh ba la mật khác, hồi hướng chánh  đẳng giác, bao gồm tinh túy của tánh không và đại bi. Để phát khởi tâm bồ đề, như đã làm, hãy tinh tấn hành trì chỉ và quán qua các thời tọa thiền đều đặn. Như Kinh Tịnh Hạnh[28] đã dạy, hãy luôn tự huân tập tâm mình trong phương tiện, bằng cách luôn giữ chặt chánh niệm nơi thiện đức của chư Bồ tát, là những người không ngừng nỗ lực vì lợi ích của chúng sinh.

Huân tập trong đại bi, phương tiện và tâm bồ đề như vậy, chắc chắn sẽ được một kiếp sống tuyệt hảo trong hiện tại. Trong mơ luôn thấy chư Phật và chư bồ tát, cùng nhiều giấc mơ cát tường khác. Chư thiên thiện thần đều luôn hộ trì cho người ấy. Bất cứ lúc nào cũng tích tụ được vô lượng công đức trí tuệ.  Phiền não cùng các hiện tượng bất tường đều sẽ được thanh tịnh. Lúc nào cũng được vô vàn hạnh phúc an lạc, được vô vàn bậc thánh trân quí giữ gìn. Thân thể cũng vậy, thoát mọi tật bịnh. Tâm được nhiều khả năng tối thượng, đạt các loại thần thông như nhãn thông.

Người như vậy có thể vận dụng thần thông du hành đến vô lượng cõi giới, cúng dường chư Phật, nghe Phật thuyết pháp. Đến lúc mạng chung sẽ thấy chư Phật cùng chư bồ tát [đến tiếp dẫn]. Trong các đời tương lai, sẽ luôn tái sinh vào gia đình nơi chốn đặc biệt, không xa rời chư Phật chư Bồ tát. Không cần dụng công mà vẫn tích tụ tròn đầy công đức trí tuệ, có được tài sản dồi dào, với đông đảo chúng đệ tử, thị giả, có được trí thông minh sắc bén, đầy đủ khả năng thành tựu tâm chúng sinh. Bất kể là sinh ra ở đâu, sẽ luôn nhớ các đời trước. Hãy cố gắng hiểu những lợi ích vô lượng như vậy, trong các bộ kinh khác cũng có giải thích.

Cứ vậy thiền quán về từ bi, về phương tiện và về tâm bồ đề trong một thời gian dài với lòng kính ngưỡng sâu xa, tâm nhờ vậy sẽ từ từ thanh tịnh, chín mùi. Khi ấy, tương tự như dùng khúc cây cọ xát vào nhau để lấy lửa, quí vị sẽ đạt pháp thiền về chân thực tại. Quí vị sẽ có được tuệ giác cực kỳ trong sáng về pháp giới, thoát mọi khái niệm phân biệt, là tuệ giác siêu việt vượt mọi mạng lưới tư tưởng khái niệm bủa vây. Tuệ giác của tâm bồ đề cứu cánh hoàn toàn vô cấu, như ngọn đèn bơ không lay động trước gió. Tâm bồ đề cứu cánh như vậy là nằm trong kiến đạo, chứng thấy chân tánh vô ngã của vạn pháp. Với thành tựu này, quí vị sẽ hội nhập đường tu chứng biết chân tánh của sự vật, sinh vào dòng giống Như Lai, nhập địa vị vô cấu của bồ tát, quay lưng với mọi kiếp tái sinh lẩn quẩn, trụ trong tánh Như của bồ tát, đạt địa bồ tát thứ nhất. Quí vị có thể tìm hiểu thêm chi tiết của lợi ích này trong các kinh văn khác, như Kinh Thập Địa. Đây là phương pháp thiền chỉ, tập trung nơi tánh như, như Kinh Nhập Lăng Già đã dạy. Đây là phương pháp Bồ tát nhập định vô niệm, thoát mọi khái niệm phân biệt.

Như vậy, hành giả vào địa thứ nhất, rồi khi vào tu tập đạo cần huân tập tâm mình với hai loại tuệ giác siêu việt và trí tuệ phương tiện. Làm như vậy sẽ tuần tự thanh tịnh mọi chướng ngại vi tế nhất, là những điều hành giả trong tu tập đạo cần phải tịnh hóa. Và để bước vào những đạo vị cao hơn, hành giả cần thanh tịnh tất cả mọi đạo vị thấp hơn. Khi bước vào trí giác siêu việt của chư Như lai, nhập biển toàn giác, sẽ đạt được tất cả mọi tâm nguyện mục tiêu.  Cứ như vậy nhờ tu tập theo quán trình tuần tự, tâm thức trở nên hoàn toàn thanh tịnh. Kinh Nhập Lăng Già nói như vậy, Kinh Giải Thâm Mật nói như vậy, nói rằng, “Để thành tựu các đạo vị cao, cần tịnh hóa tâm như đãi lọc vàng, cho đến khi đạt được quả vô thượng tam miệu tam bồ đề.”

Nhập biển toàn giác rồi thì được mọi tánh đức châu ngọc để gìn giữ chúng sinh, hoàn thành tâm nguyện lúc ban đầu. Cá nhân người tu sẽ là hiện thân của từ bi, có được muôn vàn thiện phương tiện nhiệm vận cùng khắp, hoạt hiện thành nhiều sắc tướng thích ứng với căn cơ sở thích của chúng sinh. Lại đủ mọi tướng hảo. Chư Phật đoạn diệt tất cả ô nhiễm cùng tập khí ô nhiễm, trú ở luân hồi để phổ độ chúng sinh. Nhờ thấy được như vậy, hãy khởi tín tâm nơi Phật, cội nguồn của mọi trí tuệ thiện đức nhiệm mầu. Mọi người đều nên nỗ lực cố gắng thành tựu những thiện đức như vậy.

Cho nên đức Phật nói,  “Trí toàn giác siêu việt lấy tâm đại bi làm gốc, tâm bồ đề làm nhân, trở nên toàn hảo nhờ phương tiện thiện xảo. “

Kẻ trí giữ mình
lìa tâm ganh ghen
cùng nhiễm tâm khác.
Nỗi khát trí tuệ
thôi thúc khôn nguôi
như lòng biển rộng.
Sáng suốt phát đoán
chỉ giữ lấy điều
đáng được gìn giữ
như loài thiên nga
chắt sữa từ nước.
học giả giữ mình
lìa xa tất cả
khái niệm phân biệt,
thời cả đứa trẻ
làm được như vậy
ngay cả đứa trẻ
cũng sẽ ngợi khen.

Nay tôi thuyết giảng
pháp trung đạo này
được bao công đức
nguyện xin hồi hướng
về khắp chúng sinh
chứng được trung đạo.

[Hết]


Lời Ghi Xuất Xứ:

Trình Tự Tu Thiền, Quyển Trung, do đức A Xà Lê Liên Hoa Giới [Acharya Kamalashila] trước tác đến đây chấm dứt. Sư Trưởng Ấn Độ Prajna Verma và Tỷ kheo Yeshe De chuyển Tạng ngữ và hiệu đính. Ven. Geshe Lobsang Jordhen, Lobsang Choephel Gangchenpa và Jeremy Russell chuyển Anh ngữ và hiệu đính.
Hồng Như Thubten Munsel chuyển Việt ngữ
hiệu đính, 06/2008, nhuận văn 07/2009, 06/2015.


Ghi chú:

Hồi Hướng: 

Nguyện cho Bồ đề tâm
Nơi nào chưa phát triển
Sẽ nảy sinh lớn mạnh.
Nơi nào đã phát triển
Sẽ tăng trưởng không ngừng
Không bao giờ thoái chuyển.

Mọi sai sót là của người dịch
Mọi công đức xin hồi hướng bồ đề

[1] Trí Toàn Giác là trí Phật, biết hết khắp cả, đúng và đủ.
[2] The Compendium of Perfect Dharma
[3] Bodhisattvabhumi
[4] Unravelling of the Thought Sutra
[5] King Of Concentration Sutra. Bản Anh ngữ ghi  ở đây là Kinh Giải Thâm Mật], đức Đalai Lama đính chính lại thành Kinh Chánh Định Vương [trong kỳ pháp hội Sydney 2008.
[6] The Bodhisattva Collection
[7] Heap of Jewels Sutra
[8] Meditation on Faith in the Mahayana Sutra
[9] Sutra of the Great and Complete Transcendence of Suffering
[10] Moon Lamp Sutra
[11] Sutra on the Elimination of Ajatashatru’s Regret
[12] Questions of Narayana Sutra
[13] Cloud of Jewels
[14] Anh ngữ: mental and physical aggregates, nghĩa là các hợp thể thân và tâm.
[15] Anh ngữ : five aggregates, bao gồm các hợp thể thân tâm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
[16] Anh ngữ: twelve sources of perception, nghĩa là mười hai nguồn nhận thức, gồm có sáu căn [mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý] và sáu trần [hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, tiếp xúc, đối tượng của ý tưởng]
[17] Anh ngữ: eighteen elements, bao gồm sáu căn, sáu trần và sáu thức.
[18] Space Treasure Sutra
[19] Jewel in the Crown Sutra
[20] Descent into Lanka Sutra
[21] Prayer of Noble Conduct
[22] Extensive Collection of All Qualities Sutra
[23] Hill of Gaya Head Sutra
[24] First among the Supreme and Glorious
[25] Teaching of Vimalakirti
[26] Ten Qualities Sutra
[27] The Chapter on Controlling Evil Forces
[28] Pure Field of Engagement Sutra




Đức Đalai Lama giảng: PHÁP TU TÂY TẠNG DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN

– English: CULTIVATING A DAILY MEDITATION (not available on this website) –
Tác Giả: Đalai Lama XIV Tenzin Gyatso –
Việt Ngữ: Hồng Như – bản dịch 2006 – nhuận văn nhẹ 2015
Hạ Tải văn bản chánh văn tại www.hongnhu.org/thu-muc/#phap-tu-tay-tang

pttt

Mục lục

Lời Giới Thiệu Bản Dịch Việt Ngữ

image003

 “Nguyện đại thọ chúng sinh khổ”
thủ bút HT Thích Trí Quang –


<< Đọc Tiếp >>


Mục lục

 Chương 1: Thái độ và Hành động

 

A. Ðặc điểm Phật giáo Tây Tạng

Thông thường có hai lối giảng Phật pháp. Một là đạo sư giảng cho đệ tử: trong trường hợp này, để bày tỏ lòng thiết tha đối với giáo pháp, lòng tôn kính đối với thầy, đệ tử có khi phải sám hối và cúng dường nội tâm và ngoại vật trước khi nhận pháp. Hai là bạn nói với bạn, giữa người giảng và người nghe không có quan hệ thầy trò, vì vậy không cần câu nệ lễ nghi hình thức.

Chúng ta chọn cách nói chuyện sau, giữa bạn với bạn. Buổi nói chuyện thân mật này sẽ không dựa trên cuốn kinh nào đặc biệt, tôi chỉ xin nói về tinh yếu của Phật pháp. Có gì thắc mắc, xin quí vị cứ tự nhiên đặt câu hỏi.

Tôi nghĩ quan trọng nhất là phải có được chút khái niệm chính xác về Phật pháp. Phật pháp Tây Tạng là một truyền thống sống động chứ không chỉ là giáo pháp khẩu truyền. Cộng đồng Tây Tạng tị nạn tuy bé nhỏ nhưng vẫn có nhiều vị thầy chứng ngộ rất cao. Ngày nay, truyền thống Phật giáo được lưu truyền ở Tây Tạng vẫn hãy còn là một truyền thống chân tu thực chứng, cực kỳ sống động.

Mặc dù như đã nói, buổi nói chuyện này không câu nệ hình thức, nhưng vì tôi là một sa môn nên trước khi bắt đầu, tôi xin đọc lời tán dương đức Phật Cồ Ðàm:

Tán dương Phật tuyệt hảo
Là bậc thầy tối cao
Ðã dạy lý duyên khởi
Không diệt cũng không sinh
Không đoạn cũng không thường
Không đến cũng không đi
Không một cũng không khác
Vắng bặt mọi hý luận
Là an lạc chân chính.

Quí vị có lẽ đã từng nghe qua Phật giáo có hai tông phái chính: Mahayana và  Hinayana, thường dịch là Đại thừa và Tiểu thừa. Phật dạy Tiểu thừa cho đại chúng, dạy Đại thừa cho một số đệ tử. Ðại thừa có nhiều phương pháp chuyển hóa tâm, gọi là hiển pháp, lại có cả những phương pháp vận dụng khí và luân xa trong cơ thể, gọi là mật pháp. Phật giáo truyền sang Tây Tạng từ nhiều thế kỷ qua, mang đầy đủ cả ba lớp giáo pháp [là Tiểu thừa, Đại thừa hiển pháp và Đại thừa mật pháp], kết hợp thành một đường tu nhất quán.

Lấy trường hợp của tôi mà nói, tôi thọ giới tỷ kheo theo bộ luật Tỷ kheo giới, thuộc phần cốt tủy của giáo pháp Tiểu thừa. Cử chỉ hành động hàng ngày của tôi đều thuận theo giáo pháp ấy: tôi sống nếp sống của người xuất gia. Theo Phật giáo Tây Tạng, tỷ kheo thọ 253 giới, phải nghiêm giữ 253 giới này. Thêm vào đó, mỗi ngày tôi đều ngồi thiền chỉ (shamatha, zhi gnas) và thiền quán (vipashyana, lhag mthong) theo pháp tu Tiểu thừa.

Tuy vậy, công phu chính của tôi lại thuộc về Đại thừa: dựa trên nền tảng của đại bi (karuna, snying rje) và đại từ (maitri, byams pa) để phát bồ đề tâm (bodhicitta, byangchub sems) và thực hành sáu hạnh toàn hảo là Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Ðịnh và Tuệ. Tất cả những điều này thuộc về phần cốt tủy của Phật giáo Đại thừa. Thêm vào đó, tôi còn tu theo phương pháp quán tưởng Bổn tôn Du Già [deity yoga] trong mạn đà la. Ðây là phương pháp hành trì thuộc giáo pháp Đại thừa mật tông.

Vậy có thể nói Phật giáo Tây Tạng là đường tu kết hợp cả ba lớp giáo pháp. Ðây là đặc điểm của Phật giáo Tây Tạng, phương pháp tu ở đây đặc biệt phong phú súc tích.

Ðể bắt đầu một cách đơn giản, có thể nói rằng giáo pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni bao gồm hai phương diện là hành động và quan niệm.

Theo lời Phật dạy, cái gọi là “quan niệm” phải là tinh thần bất bạo động, là tâm bất hại (ahimsa, tshe med zhi ba’l lam). Tâm bất hại có nghĩa là không gây hại và đồng thời mang lợi ích đến cho người khác. Hầu hết mọi tôn giáo lớn đều nói tới tinh thần bất bạo động, dạy con người phải có trái tim nồng ấm, nuôi dưỡng tâm tính tốt lành, giữ tấm lòng nhân ái. Mục tiêu của mọi tôn giáo lớn đều giống nhau ở điểm này, đều hướng tới bình an nhân loại.

Tuy vậy, để thực hiện mục tiêu đó, mỗi tôn giáo lại có một hệ thống triết lý khác nhau. Con người không ai giống ai, vì vậy mỗi người phải tự xét lấy khả năng khuynh hướng của chính mình để chọn một hệ thống triết lý cho thích hợp. Nhưng dù chọn hệ thống triết lý nào chăng nữa, mục tiêu chính của tôn giáo vẫn là để điều phục tâm thức, mở rộng con tim. Dù có nhiều hệ thống triết lý khác nhau, nhưng mục tiêu chung vẫn là làm sao cho trí thuần, cho tim nhân hậu.

Hãy thử nhìn từ góc độ này để xét về hai hệ thống triết lý hữu thần và vô thần. Nhiều tôn giáo công nhận có một đấng sáng tạo vạn năng tạo ra vạn vật và con người. Sống thuận theo ý của đấng sáng tạo thì được hạnh phúc bình an. Cá nhân con người không có gì đáng nói, chỉ đấng sáng tạo mới thật quan trọng. Mọi sự đều do đấng sáng tạo mà có, cá nhân con người không nên đi ngược ý đấng sáng tạo. Như vậy sẽ nhiều người thấy hợp lý, sống thuận theo và tìm được quân bình trong đời sống tinh thần và đạo đức.

Lại có người mang khuynh hướng hoài nghi, chỉ tin vào mối tương quan giữa mình và cuộc sống. Khi nghe nói mọi sự không nằm trong tay của đấng sáng tạo mà nằm trong tay của chính mình, họ sẽ thấy hợp lý, nhờ đó tìm được quân bình trong đời sống tinh thần và đạo đức.

Phật giáo thích hợp với loại người sau. Mặc dù cũng có thể nói rằng hại người là trái với ý Phật, nhưng đây không phải là nội dung của Phật giáo. Phật dạy khổ đau mà mình không muốn, hạnh phúc mà mình mong cầu, tất cả đều do nhân quả mà thành. Vì vậy con người có khả năng điều khiển vận mệnh của chính mình.

Phật giáo không công nhận có đấng sáng tạo. Ðấng sáng tạo thật sự, chính là tâm. Tâm vốn trong sáng. Nếu động cơ trong sáng thì làm gì, nói gì cũng đều là hành động tích cực, tạo quả tốt lành, mang lại kinh nghiệm bình an hạnh phúc. Ngược lại, động cơ hành động đã ô nhiễm thì làm gì, nói gì cũng chỉ gây hại cho người, gieo quả khổ đau. Không thể trách ai khác, chỉ do nơi mình. Trách nhiệm của đời sống này mỗi người phải tự gánh lấy. Phật giáo cũng có nói đến hiện tượng tự sinh, nhưng hoàn toàn không có gì có thể gọi là Thượng Đế hay là Đấng Sáng Tạo vạn năng.

Ðể giảng về tinh thần bất hại, Phật dạy tri kiến duyên khởi, vì duyên khởi là trí tuệ của tâm bất hại. Duyên khởi trong Phật giáo có nghĩa là tất cả hạnh phúc và khổ đau đều tùy theo nhân duyên và thuận theo nhân quả mà có. Vì vậy, muốn được hạnh phúc lìa khổ đau, chỉ cần cấy trồng nhân hạnh phúc, vất bỏ nhân khổ đau.

Lý duyên khởi được trình bày cặn kẽ qua mười hai chi duyên khởi, đầu tiên là vô minh [mù quáng], và cuối cùng là lão tử [già và chết]. Mười hai chi duyên khởi được giải thích theo mô hình một chu kỳ. Tuy vậy, trong thực tế, không phải con người bắt đầu với vô minh, kết thúc với lão tử, mà thật ra có rất nhiều niệm vô minh, mỗi niệm đều có tác dụng riêng, kéo theo một kiếp tái sinh trong tương lai, tạo thành vô số chu kỳ hiện hữu chằng chịt không kết thúc. Xin nhấn mạnh ở đây, lý duyên khởi khẳng định tất cả mọi kinh nghiệm khổ đau và hạnh phúc đều là quả, từ nhân mà sinh ra.

Khế kinh dạy nhân nào sinh quả nấy. Tất cả mọi kinh nghiệm chúng ta đang trải qua đều là quả, sinh ra từ nhân là hành động của chính mình trong quá khứ. Ngoài ra không có Đấng Sáng Tạo nào khác, cũng không có Đấng Tối Cao nào hiện hữu trường tồn, vượt ngoài nhân quả.

Phật dạy có hai loại nhân quả. Một là nhân quả tương ứng với quá trình ô nhiễm, ví dụ nhân ác độc sinh quả khổ đau. Hai là nhân quả tương ứng với quá trình thanh tịnh, ví dụ nhân tốt lành sinh quả an lạc.

Giáo thuyết về nhân quả nằm trong Tứ diệu đế [bốn chân lý nhiệm mầu] được Phật giảng dạy trong thời kỳ chuyển bánh xe chánh pháp lần thứ nhất. Tứ diệu đế là Khổ, Tập, Diệt và Ðạo.

Chân lý đầu tiên là Khổ đế, là chân lý về Khổ. Khổ có ba mức độ khác nhau. Thứ nhất, vì đau đớn tinh thần thể xác nên khổ, loại khổ này gọi là khổ khổ. Thứ hai, vì cuộc sống thay đổi luôn luôn nên khổ, loại khổ này gọi là hoại khổ. Ví dụ như ăn để khỏi đói, nhưng nếu cứ tiếp tục ăn mãi không ngưng, sẽ gặp nhiều vấn đề. Loại khổ này rất thường thấy ở xã hội tân tiến. Ðược cái gì mới là cảm thấy cực kỳ cao hứng. Máy quay phim, máy truyền hình, xe hơi, khi mới có ai cũng cảm thấy vui vẻ hạnh phúc. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn, dần dần hạnh phúc giảm, bất mãn tăng. Lại muốn vất cái đã có, mang cái khác về. Có được cái khác, mọi sự lại tái diễn: mới đầu thật cao hứng, dần dần cảm thấy khó chịu không thỏa mãn. Ðây là điều Phật giáo gọi là hoại khổ. Thứ ba là khổ đau đến từ hoàn cảnh sống, gọi là hành khổ. Nguyên nhân chính của khổ đau là gì? Là vì, trong cõi luân hồi, những thành phần tâm lý và vật lý của chúng ta đều do nghiệp và phiền não sinh ra. Ba loại khổ này đều nằm trong chân lý đầu tiên là Khổ đế.

Niết bàn là siêu thoát cả ba loại khổ đau chứ không phải chỉ hai loại khổ đau đầu. Chúng ta ngồi đây, cảm thấy thật thoải mái, vậy là thoát được loại khổ đau thứ nhất là khổ khổ, tuy nhiên vẫn thường bị loại khổ đau thứ hai là hoại khổ chi phối. Có người nhờ tham thiền nhập định, vượt lên trên mọi cảm giác thô lậu của khổ đau hạnh phúc, tâm an trú trong trạng thái trung tính, thoát khỏi cả hai loại khổ đau là khổ khổ và hoại khổ. Tuy vậy, chỉ khi nào thoát được hành khổ, khi ấy mới thật gọi là niết bàn.

Muốn lìa khổ, phải hiểu rõ nguyên nhân của khổ. Tìm hiểu về nguyên nhân của khổ là lãnh vực của chân lý thứ hai, chân lý về nguyên nhân của khổ, gọi là Tập đế.

Nguyên nhân của Khổ có hai: một là hoạt động của thân và miệng và hai là hoạt động của ý. Ví dụ bây giờ tôi dùng lời hòa nhã nói chuyện với quí vị, không khí sẽ nhẹ nhàng dễ chịu. Ngược lại nếu tôi dùng lời dữ dằn, lại đưa tay đánh đấm, không khí sẽ ngột ngạt khó thở. Một người khi làm việc gì, nói điều gì, đều lưu lại ấn tượng trong tâm thức của chính mình. Tâm thức lưu ấn tượng ấy được gọi là nền tảng nhất thời lưu trữ nghiệp. Tâm thức ấy thuộc về ai thì gọi cá nhân người ấy là nền tảng liên tục lưu trữ nghiệp. Chính vì mỗi hành động đều gieo nghiệp trong tâm thức, nên sớm muộn gì quả cũng sẽ tới, bất kể phải đợi bao nhiêu lâu. Ðó là lời giải thích về Khổ đế và Tập đế.

Chân lý thứ ba là sự chấm dứt của khổ, gọi là Diệt đế. Khổ vĩnh viễn đoạn diệt, đó là niết bàn. Phương pháp diệt khổ và thành tựu niết bàn thuộc lãnh vực của chân lý thứ tư, nói về phương pháp diệt khổ, gọi là Ðạo đế.

Muốn diệt khổ, phải diệt ngay từ trong tâm thức. Ðạo đế nói về phương pháp thâm nhập những tầng tâm thức cực kỳ vi tế, nơi ấy vốn có sẵn một loại tuệ giác rất đặc biệt gọi là tuệ giác tánh không. Ðể giải thoát tâm thức ra khỏi phiền não và tập khí của phiền não, cần hiểu rõ tuệ giác tánh không nghĩa là gì, cần hiểu đâu là cái Tâm có khả năng diệt trừ mọi phiền não, trực nhận chân tướng của thực tại. Vì chứng tánh không là điều rất quan trọng, nên tánh không được giải thích qua nhiều mức độ khác nhau. Ví dụ có bốn tông phái Phật giáo Ấn Độ giải thích tánh không qua bốn hệ thống khác nhau, rồi từ đó mà tỏa ra thành nhiều tông phái phụ khác.

B. Thật tánh của Tâm

Kinh sách Phật giáo nói rằng muốn nhận định sự vật có thật hay không, chỉ cần xét xem sự vật ấy có phải là đối cảnh của nhận thức đúng đắn hay không. Điều có thật là điều do nhận thức đúng đắn nhận biết; nếu như không phải do nhận thức đúng đắn nhận biết thì không có thật.

Hiện tượng có thật có thể chia thành hai loại: một là hiện tượng khi có, khi không; hai là hiện tượng luôn luôn có đó, ví dụ không gian.

Hiện tượng khi có khi không là hiện tượng duyên sinh, do yếu tố kết hợp mà thành, gọi là hữu vi. Còn loại hiện tượng không phải duyên sinh, không do nhân duyên kết hợp mà có, lúc nào cũng hiện diện, hiện tượng như vậy gọi là vô vi.

Hiện tượng hữu vi có rất nhiều loại. Có loại hữu vi hữu sắc, ví dụ hình dạng, màu sắc. Loại này gom chung lại thành cái Phật giáo thường gọi là sắc pháp. Lại có loại hữu vi vô sắc, tuy cũng do các yếu tố kết hợp mà thành nhưng không có hình sắc, ví dụ tâm thức hay kiến thức. Lại có loại chỉ hoàn toàn là khái niệm trừu tượng, ví dụ thời gian, cái tôi, v.v… Vậy các hiện tượng hữu vi có thể là sắc, là thức, hoặc không phải sắc cũng không phải thức mà chỉ là khái niệm trừu tượng.

Sắc là tất cả những gì có thể nhận thức bằng giác quan, như hình sắc do nhãn thức nhận biết, âm thanh do nhĩ thức nhận biết, v.v…

Thức có hai loại. Tâm vương là loại tâm thức lệ thuộc trực tiếp vào giác quan. Tâm sở là những trạng thái tâm thức tùy theo tâm vương mà khởi chứ không tùy vào giác quan.

Tâm vương lại có hai loại. Một là tâm thức thuộc phạm vi ngũ căn, gọi là tiền ngũ thức. Hai là tâm thức thuộc phạm vi của ý.

Tâm sở có năm mươi mốt thứ. Năm thứ có mặt cùng khắp, gọi là tâm sở biến hành: thọ [lãnh chịu], tưởng [liên tưởng], tư [lo lắng, tạo tác], tác ý [mong khởi], xúc [giao tiếp]. Gọi là có mặt cùng khắp vì năm tâm này luôn đi kèm tâm vương. Bốn mươi sáu tâm sở còn lại có năm tâm sở biệt cảnh, mười một tâm sở thiện, sáu căn bản phiền não, hai mươitùy phiền não, và bốn bất định tâm sở.[2]

Bây giờ nói rõ hơn về tâm vương. Loại tâm vương thuộc phạm vi của ngũ căn, tiền ngũ thức, luôn khởi sinh tùy theo ba yếu tố chính, gọi là ba duyên tố. Lấy ví dụ nhãn thức thấy được cuốn sách, nhưng chỉ thấy sách chứ không thấy bàn. Vậy cuốn sách là đối cảnh của nhãn thức và cũng là duyên tố phát sinh ra nhãn thức thấy cuốn sách.

Ðệ tử tông phái Tì bà sa bộ [Vaibhashika] cho rằng tâm thức có thể khởi sinh mà không cần đối cảnh. Luận A Tì Ðạt Ma Câu Xá[3] giải thích đối cảnh là do nhãn căn nhận biết chứ không phải nhãn thức. Các tông phái khác, như Kinh lượng bộ [Sautrantika] và các tông phái cao hơn, nói rằng nhãn thức nương theo đối cảnh để nhận biết đối cảnh. Có nhiều quan điểm khác nhau về mối tương quan giữa đối cảnh và tâm thức, tôi xin giải thích hiện tượng này thuận theo hệ thống nói rằng đối cảnh nằm ngoài tâm thức.

Nhờ có cuốn sách trước mặt nên ta mới thấy cuốn sách. Vậy cuốn sách là một trong những yếu tố sinh ra nhãn thức thấy cuốn sách; yếu tố này gọi là sở duyên. Ngoài ra, nhãn thức chỉ có thể nhận biết hình sắc chứ không thể nhận biết âm thanh. Căn nào sinh thức nấy, vậy nhãn căn cũng là một yếu tố phát sinh ra nhãn thức thấy cuốn sách; yếu tố này gọi là tăng thượng duyên, là yếu tố chính. Hội đủ sở duyên và tăng thượng duyên cũng chưa chắc đã sinh ra thức. Ví dụ khi ngủ, hay khi tâm lơ đễnh, nhiều khi nhìn mà không thấy. Ðiều này cho thấy còn một yếu tố thứ ba. Yếu tố này gọi là vô gián duyên, là thức của thời điểm đi trước, từ đó sinh ra thức của thời điểm theo sau, nhờ vậy nhận thức giác quan có thể chuyển thành kinh nghiệm tâm thức. Dù có đối cảnh, có nhãn căn, nhưng nếu bộ óc không hoạt động bình thường thì nhãn thức vẫn không thể phát sinh. Vậy bộ óc cũng là một yếu tố quan trọng. Nhưng bộ óc tự nó không có khả năng phát sinh kinh nghiệm nhãn thức, do đó còn có một yếu tố quan trọng khác nữa liên quan đến bộ óc, đó là ý thức. Bốn thức còn lại cũng khởi sinh tương tự như vậy.

Năm loại tâm thức khởi sinh từ giác quan nói trên [tiền ngũ thức] không nằm trong lãnh vực của khái niệm. Ví dụ khi nhìn cuốn sách, dù là nhìn tổng quát, vẫn sẽ có một phần tâm thức chú ý đến góc bên này, hay cạnh bên kia. Như đã nói, hễ tâm bị hình sắc thu hút thì sẽ xao lãng không ghi nhận âm thanh. Hoặc như khi đang chăm chú lắng nghe một bản nhạc hay, mắt tuy nhìn nhưng không thấy, sau đó không thể nhớ. Ðiều này cho thấy ngoài tâm thức khởi sinh từ giác quan ra [tiền ngũ thức] vẫn còn một yếu tố tác động khác. Yếu tố này chính là ý thức. Ý thức có hai loại, ý thức có khái niệm[4]ý thức vượt khái niệm[5]. Ý thức vượt khái niệm còn gọi là trực chứng.

Có một vài bất đồng ý kiến giữa các tông phái về vấn đề có hay không có loại kinh nghiệm trực chứng tự lấy mình làm đối cảnh. Tuy vậy, mọi tông phái đều đồng ý rằng kinh nghiệm trực chứng có ba loại: trực chứng nhờ giác quan, nhờ tâm thức, hay nhờ thiền định. Loại thứ ba chỉ có thể xảy ra trong khi tham thiền nhập định.

Sáu tâm vương – từ nhãn thức cho đến ý thức – luôn luôn đi liền với năm loại tâm sở có mặt cùng khắp [tâm sở biến hành]. Còn các loại tâm sở khác không phải lúc nào cũng có mặt. Vì có nhiều chức năng khác nhau như vậy nên tâm sở được chia thành hai loại, một là nhận thức đúng đắn[6], hai là nhận thức sai lệch[7].

Muốn đạt thành tựu trên đường tu, chúng ta cần dựa vào loại nhận thức đúng đắn. Nhận thức đúng đắn đưa đến hai kết quả, kết quả không gián đoạn kết quả có gián đoạn[8]. Còn nhận thức sai lệch có ba loại. Một là không biết đối cảnh, hai là biết sai đối cảnh, ba là nghi hoặc đối cảnh. Không biết đối cảnh có nghĩa là tâm thức tuy giao tiếp với đối cảnh nhưng không biết, không ghi nhận. Biết sai đối cảnh có nghĩa là tâm thức tuy biết đối cảnh, nhưng biết một cách sai lệch méo mó. Nghi hoặc đối cảnh có ba loại, một là nghi hoặc điều sai, thiên về điều đúng; hai là nghi hoặc điều đúng, hướng về điều sai; ba là nghi hoặc cả hai, lưỡng lự ở giữa. Nhận thức sai lệch có nhiều mức độ. Muốn chuyển nhận thức sai lệch thành nhận thức đúng đắn, cần trải qua nhiều chặng đường chuyển hóa tâm thức.

Bước đầu tiên của con đường chuyển hóa tâm thức là phải dứt bỏ tâm chấp thủ vọng kiến. Chúng ta thường vẫn khăng khăng bám chặt vào nhận thức sai lầm. Có nhiều phương pháp giúp chúng ta suy nghĩ, phân tích vấn đề sâu hơn, nhờ đó bắt đầu nghi hoặc điều mình thường vẫn lầm tin, chấm dứt giai đoạn chấp thủ, bước vào giai đoạn nghi hoặc. Tâm nghi hoặc sẽ càng lúc càng vi tế. Nếu cứ tiếp tục tư duy phân tích về thực tại, dần dần nghi hoặc yếu dần, hiểu biết chính xác phát triển. Tâm càng lúc càng quen với chân tướng của thực tại, đến một lúc nào đó sẽ vượt thoát khái niệm, có được kinh nghiệm trực chứng.

Trí tuệ có thể đếm thành ba loại, trí tuệ đến từ sự nghe [văn tuệ], trí tuệ đến từ sự hiểu [tư tuệ], trí tuệ đến từ sự tu [tu tuệ]. Ba loại trí tuệ này phân thành vô số loại trí tuệ khác.

Ðây là lời giải thích sơ lược về cảnh giới của tâm thức. Muốn nắm vững đề tài này, trước tiên cần biết về đối cảnh của tâm thức, sau đó biết tâm thức nhận biết đối cảnh như thế nào, sau cùng là biết về các mối tương quan giữa tâm thức và đối cảnh.

Tâm thức tiếp xúc đối cảnh qua nhiều cách. Vì vậy ý thức vượt khái niệm có một loại đối cảnh gọi là tướng hiện, nhưng đây không phải là đối cảnh của ý thức có khái niệm. Ý thức có khái niệm, ngược lại, có đối cảnh gọi là đối cảnh phân biệt, cùng với một loại đối cảnh khác, gọi là đối cảnh nhận thức.

Thế giới hiện tượng cũng được chia thành hai loại, hiện tượng khẳng định hiện tượng phủ định. Có đủ loại khái niệm liên quan đến hai loại hiện tượng này, như khái niệm nhìn vào khía cạnh phủ định, hay khái niệm nhìn vào khía cạnh khẳng định. Ví dụ cuốn sách này là một hiện tượng khẳng định. Vậy muốn nhận biết cuốn sách, chúng ta phải trực tiếp loại bỏ yếu tố đối nghịch là yếu tố không-phải-sách. Ngược lại, khi nói trên bàn không có sách, tâm thức ở đây phải hoạt động theo phương thức phủ định, phủ nhận đối tượng phủ định, là cuốn sách. Nhận thức này chỉ có nhờ phủ định, không thể có nhờ khẳng định.

Hiện tượng phủ định nói chung có mười lăm loại,  có thể qui nạp thành hai: hiện tượng phủ định có khẳng địnhhiện tượng phủ định không khẳng định.

Hiện tượng phủ định có khẳng định có bốn loại: một là trực tiếp khẳng định; hai là gián tiếp khẳng định; ba là vừa trực tiếp vừa gián tiếp khẳng định; bốn là mặc nhiên khẳng định. Ví dụ cho trường hợp mặc nhiên khẳng định là nếu nói chỉ có A hoặc B, vậy phủ định A là mặc nhiên khẳng định B. Ví dụ cho trường hợp gián tiếp khẳng định là nói người đàn ông tuy mập béo nhưng ban ngày lại không ăn. Dù không nói thẳng, phủ định người ấy ăn ban ngày là gián tiếp khẳng định người ấy ăn ban đêm. Hiện tượng phủ định mà không khẳng định là như khi nói “người này không uống rượu”, tuy phủ định sự uống rượu, nhưng vẫn không khẳng định có uống thứ gì khác.

Cần hiểu cho thật rõ về các hiện tượng phủ định, vì tánh không là một hiện tượng phủ định và chỉ có thể tiếp cận được bằng phương pháp phủ định.

C. Hỏi đáp

Hỏi. Lúc nãy ngài có nói mỗi người thích hợp với một phương pháp tu. Xin hỏi làm sao biết phương pháp tu nào thích hợp với mình?

Ðáp. Mới đầu phải thử nhiều phương pháp khác nhau. Rồi nhờ một vài kinh nghiệm khác thường, hay nhờ những giấc mơ, từ từ có thể tìm ra pháp tu thích hợp.

Tôi có nói các tôn giáo giống nhau ở điểm muốn giúp cho đời sống con người tốt đẹp hơn, nói như vậy chỉ có nghĩa là mọi tôn giáo giống nhau ở điểm này. Ngoài điểm này ra, hệ thống triết lý và phương pháp hành trì của mỗi tôn giáo đều khác nhau. Ví dụ Thiên chúa giáo cho rằng con người có thể lên thiên đàng. Phật giáo lại cho rằng con người có thể đạt niết bàn giải thoát.

Ngay như trong Phật giáo, chữ niết bàn cũng có nhiều nghĩa, Tì bà sa bộ cho rằng đại niết bàn, là niết bàn rốt ráo mà các đấng giác ngộ đạt tới khi lìa trần, không những là trạng thái tách lìa phiền não ô nhiễm mà còn tách lìa cả tâm thức. Tông phái này cho rằng tâm không thường trụ. Do đó đức Phật Thích Ca Mâu Ni đối với tông phái này chỉ là một nhân vật lịch sử, không còn hiện hữu nữa.

Ngài Long Thọ ngược lại khẳng định niết bàn giải thoát là trạng huống tách lìa phiền não ô nhiễm [của Tâm]. Nhập niết bàn giải thoát không có nghĩa là đoạn diệt tâm thức, mà vẫn phải có một người thành tựu niết bàn. Ðây là điều ngài Long Thọ giải thích rất cặn kẽ.

Vậy ngay trong hệ triết lý công nhận có niết bàn cũng có nhiều kiến giải khác nhau. Ngay cả trong Phật giáo cũng có nhiều điểm khác biệt giữa các tông phái. Bây giờ nếu người theo Thiên chúa giáo thắc mắc không biết có phương pháp tu nào trong đạo Thiên chúa có thể giúp đạt đến niết bàn của Phật giáo hay không, câu trả lời khẳng định là không. Tương tự như vậy, nếu Phật tử thắc mắc không biết có pháp tu Phật giáo nào dẫn tới thiên đường của Thiên chúa giáo hay không, câu trả lời đương nhiên là không có. Muốn đạt niết bàn của Phật giáo, phải tu trọn vẹn theo phương pháp Phật giáo. Còn nếu trong lòng không thấy hứng thú với pháp tu Phật giáo thì nên tìm cho mình một tôn giáo khác thích hợp hơn.

Hỏi. Ðường tu Phật giáo đề cao lý trí quá độ. Có khi nào vì vậy mà mang khuynh hướng xem thường những kinh nghiệm phi thường, cho đó là điều phi lý không đáng quan tâm?

Ðáp. Kinh nghiệm trực chứng khi nhập định là chuyện có thật. Những kinh nghiệm này không phải ai cũng có nên phần lớn chúng ta chỉ có thể dựa vào suy luận để biết những điều này là có thật.

Có một số kinh nghiệm chỉ cần dựa vào tầng tâm thức thô lậu là có thể biết được, nhưng cũng có một số kinh nghiệm cần vận dụng những tầng tâm thức vi tế hơn mới có thể biết được. Ví dụ khi ngủ, tâm thức trong trạng thái ngủ luôn vi tế hơn tâm thức khi tỉnh, nhờ vậy lúc ngủ có thể có được một số kinh nghiệm mà khi tỉnh không thể có.

Do đó có thể dùng tâm thức khi mơ để quán chiếu về một số chuyện. Lúc tỉnh có thể vận dụng lý trí để thấy rằng tâm thức của mình vốn trong sáng, có khả năng thấy biết không ngăn ngại. Dựa vào lý luận, chúng ta có thể suy nghiệm và kiểm chứng những kinh nghiệm khác thường, để thấy rằng có những điều chỉ có thể hiểu được nhờ phương pháp khác thường, tỷ như kinh nghiệm đến trong giấc mơ.

Hỏi. Muốn giải thích giấc mơ thì phải làm sao? Có cần phải có khả năng gì đặc biệt không? Nên tiếp cận qua phương diện tâm lý, hay qua phương diện nào khác?

Ðáp.  Ðiều tôi đang nói đây không phải là giấc mơ thông thường, mà là một số giấc mơ khác thường, ví dụ những giấc mơ lặp đi lặp lại nhiều lần. Giấc mơ đến khi mới ngủ không mấy quan trọng. Quan trọng là giấc mơ lúc về sáng. Nếu quí vị thật sự quan tâm muốn tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của giấc mơ, phải nhờ đến những bậc chân tu có khả năng điều khiển tầng khí vi tế để giúp giấc mơ của quí vị được rõ ràng chính xác hơn. Nhờ vậy dễ phân tích hơn.

Ðó là nói cho vài trường hợp đặc biệt. Phần lớn giấc mơ chỉ là hư vọng, không có ý nghĩa gì cả. Theo trường phái cao nhất trong Phật giáo là Trung Quán thì mọi kinh nghiệm tâm thức khi thức giấc đều là hư vọng cả. Ngay khi tỉnh đã là hư vọng, huống gì khi mơ.

Hỏi. Vậy mơ có khi chỉ là hư vọng, làm sao có thể phân biệt cái gì là hư vọng, cái gì là chân thật?

Ðáp. Nói nhận thức khi tỉnh đều là hư vọng, đó là nói theo Chân đế [chân lý rốt ráo]. Còn nói theo Tục đế [chân lý qui ước – còn gọi là chân lý phổ thông hay chân lý thế tục], vẫn có cái gọi là nhận thức đúng đắn.

Nhận thức đúng đắn có hai, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp. Trong đời sống hàng ngày chúng ta thường dùng loại nhận thức gián tiếp để mà so sánh nhận thức của mình với nhận thức của người khác. Nếu so sánh như vậy mà cảm thấy chao đảo hoài nghi thì cũng không cần phải hoảng sợ. Cứ nhớ nghĩ về nghiệp, về cảnh sống luân hồi vốn là khổ não, để giữ bình tĩnh. Rồi tiếp tục phân tích tìm hiểu.

Hỏi. Làm sao có thể phân biệt khi nào tâm đang hư vọng khi nào không? Muốn tư duy phải dùng tới tâm, mà tâm chỉ là hư vọng, vậy phải làm gì?

Ðáp. Ở đây cần giải thích về hai cái nhìn đúng đắn, một là cái nhìn đúng đắn thuộc phạm vi thế tục, hai là cái nhìn đúng đắn thuộc phạm vi xuất thế.

Cái nhìn đúng đắn thuộc phạm vi xuất thế là trực nhận chân tướng của sự vật, thấy được tánh không. Sự vật thấy giống như một thực thể có tự tánh, hiện hữu một cách độc lập, nhưng đây chỉ là cái thấy sai lầm. Cái thấy sai lầm này khiến chúng ta tin chắc rằng sự vật có tự tánh. Muốn nhìn ra cái thấy này vốn sai lầm, trước hết phải hiểu sự vật tự nó không phải như ta thấy, tự nó hoàn toàn không phải là một thực thể có tự tánh. Ngộ được chân tánh của sự vật rồi, sẽ thấy rõ nhận thức của mình về sự vật chỉ là nhận thức sai lầm.

Khi phiền não dấy lên trong tâm, ví dụ lúc nổi cơn thương ghét, chúng ta luôn thấy đối tượng của lòng thương hay ghét đó là một chủ thể độc lập, chắc thật. Nếu hiểu đối tượng của phiền não thật ra không giống như ta thấy, tự nhiên lòng thương ghét sẽ giảm đi. Ở giai đoạn này, chúng ta quán tánh không.

Hỏi. Thưa đức Đalai Lama, nói ở một mức độ thấp hơn một chút, con người đối với nghiệp của mình có được chút quyền năng gì không?

Ðáp. Nghiệp có nhiều loại. Cùng gieo nghiệp thì phải cùng chịu quả [cộng nghiệp]. Tự một mình tạo nghiệp thì phải tự một mình chịu quả [biệt nghiệp].

Chúng ta cùng có mặt ở đây hôm nay, đó là kết quả của nghiệp đã gieo chung trong quá khứ. Nhưng nói gieo chung, không có nghĩa là chung nhau tạo nghiệp ở cùng nơi, cùng lúc.

Nghiệp đã gieo trong quá khứ thì không thể thay đổi. Nghiệp đã gieo là phải chịu quả, bằng không phải sám hối để thanh tịnh hóa. Nhưng thật sự chúng ta vốn có khả năng chi phối nghiệp, vì tất cả những gì xảy ra trong tương lai đều tùy thuộc vào hành động đang làm trong hiện tại.

Hỏi. Tôi nghĩ vấn đề nằm ở chỗ nghiệp lực có khả năng chi phối hành động trong hiện tại. So với lực chi phối của nghiệp quả, ý chí và ước muốn của con người nằm ở đâu?

Ðáp. Như tôi vừa nói, nghiệp đã gieo rồi không thể thay đổi. Hành động một khi kết thúc là để vết lại trong tâm thức, nghiệp quả ắt phải tới. Nhưng tất cả những gì xảy ra trong tương lai vẫn nằm trong tầm tay của chúng ta, vẫn do chúng ta quyết định lấy. Ví dụ nếu bây giờ chúng ta gieo nhân ác thì chắc chắn sẽ có ngày phải đối diện với quả ác.

Tuy vậy, ác nghiệp đã gieo trong quá khứ vẫn có thể bị phá hủy nhờ công phu sám hối. Tương tự như vậy, thiện nghiệp cũng có thể bị tiêu hủy vì việc làm bất thiện, ví dụ như nổi tâm sân si giận dữ. Cũng có khi thiện nghiệp đủ mạnh nên hóa giải được ác nghiệp. Thiện nghiệp cũng có thể được bảo vệ [khỏi bị ác nghiệp phá hủy] nhờ hồi hướng công đức.

Hỏi. Cái gì tái sinh? Có phải là tâm thức cá nhân tan vào dòng tâm thức lớn hơn, rồi từ đó hiện ra trở lại?

Ðáp.  “Cái tôi” tái sinh.

Hỏi. Nhưng tôi không biết “cái tôi” là gì. Nếu tôi tái sinh, tôi có biết tôi là ai đâu. Tôi không nhớ kiếp trước tôi là gì. Tôi là ai?

Ðáp. Ðể trả lời cho câu hỏi tâm thức là của ai: tâm thức thuộc về bản thân của người mang tâm thức ấy. Còn cái tôi có thể tìm thấy được hay không, đây lại là một câu hỏi khác.

Nếu nói rằng hễ tái sinh thì phải nhớ hết chuyện đời trước, nói như vậy là lầm. Có chuyện có thể nhớ, có chuyện không. Ngay như chuyện của kiếp này đã không thể nhớ hết. Nhưng dù nhớ hay không nhớ, cũng vẫn không thể nói rằng “Chuyện đó không liên quan gì đến tôi”.

Có người nhớ rất rõ các đời quá khứ, nhưng người bình thường phần lớn không ai nhớ chuyện tiền kiếp, vì khi đi qua giai đoạn tiếp nối giữa hai kiếp tái sinh, tâm thức bấy giờ vi tế hơn tâm thức lúc sống rất nhiều. Những gì trí nhớ ghi nhận được ở tầng tâm thức vi tế này không thể chuyển lại cho tầng tâm thức thô lậu sau khi tái sinh.

Người nào có chút kinh nghiệm với tầng tâm thức vi tế sẽ có nhiều khả năng nhớ lại chuyện tiền kiếp hơn.

Hỏi. Ngài có nói trước khi dấn thân vào con đường diệt khổ, người tu phải biết chắc, phải có bằng chứng, rằng khổ đau là điều có thể tận diệt. Vậy tìm đâu ra bằng chứng này?

Ðáp. Nguyên nhân tạo khổ đau là điều có thể diệt bỏ, vì vậy khổ đau cũng có thể diệt bỏ.

Nói cho thật đơn giản, khổ đau bắt nguồn từ phiền não. Phiền não bắt nguồn từ tâm lý chấp ngã [tâm lý cho rằng cái tôi có tự tánh]. Cái thấy hư vọng của Tâm, cho rằng sự vật có tự tánh, đây chính là điều cần được gạn sạch.

Mọi tông phái trong Phật giáo đều vạch ra phương pháp diệt trừ thói quen hư vọng này của tâm. Trung Quán tông nói rằng có thể dùng lý luận để phủ nhận tự tánh của sự vật, nhờ đó hiểu được tánh không và thấy được tâm thức vốn có khả năng tách lìa phiền não.

Hỏi. Giải thoát có phải là trở lại với trạng huống nguyên thủy, từ lâu bị che khuất, trở lại với Như Lai tạng, với Phật tánh, vốn có sẵn?

Ðáp.  Phật giáo không nói chúng sinh ban đầu vốn thanh tịnh trong sáng, mà nói rằng vô minh không có khởi điểm, vì vậy khổ đau và luân hồi cũng không có khởi điểm. Khi tâm một người thoát khỏi phiền não, trạng thái ấy gọi là giải thoát.

Phật tánh là tiềm năng có sẵn trong tâm thức mỗi người. Bao giờ tiềm năng này được nhân duyên tác động, sẽ đủ sức khai mở đến mức tối đa, thành tựu giác ngộ viên mãn. Nhưng Phật tánh không phải là quả vị Phật.

Nói cho cùng, phải hiểu niết bàn là sự tận diệt của khổ đau, hay là sự mở rộng của thế giới hiện tượng, nói cách khác, là tánh không, làm cho thanh tịnh tất cả mọi phiền não ô nhiễm. Niết bàn là tánh không của Tâm lìa phiền não, đồng bậc với luân hồi. Luân hồi và niết bàn không khác.

Ví dụ, chiếc bàn trước mặt tôi đây không có voi. Bàn không có voi, cũng giống như thực tại, không có tự tánh, và cũng không có phiền não ô nhiễm.

Ðường tu và cõi niết bàn đều không có tự tánh, vốn ở ngay trong ta vì Tâm này cũng không tự tánh. Vì vậy tiềm năng của niết bàn nằm ngay trong tâm của chúng ta. Sự không-có-tự-tánh là chân tánh, là tánh không (shunyata). Sự vật đã tùy nhân duyên mà có thì hoàn toàn không thể có một cách độc lập, hoàn toàn không thể có một cái tôi độc lập. Vì vậy tất cả toàn là không.

Giải thoát và niết bàn cần được giải thích từ góc độ của người tách lìa vọng tâm. Không thể nói tới niết bàn của cuốn sách. Chỉ có thể nói về niết bàn của chúng sinh hữu tình.

Ở thời đại tân tiến này, khoa học Tây phương hiểu nhiều biết rộng về thế giới vật lý, nhưng dường như hiểu biết về lãnh vực tâm thức lại rất hạn hẹp. Không nắm vững lãnh vực tâm thức thì dù biết hết về thế giới vật lý cũng chẳng ích gì. Trí tuệ nói đây không phải là trí tuệ của chúng sinh nói chung, mà là trí tuệ của con người, vì vậy mục tiêu khai mở trí tuệ phải là mang lại lợi ích cho nhân loại.

Vì vậy tôi thấy trí tuệ cần phải giữ quân bình giữa hai lãnh vực: kinh nghiệm tâm thức bên trong và thế giới vật lý bên ngoài. Nếu con người chỉ quan tâm nghiên cứu một chiều, bỏ rơi lãnh vực tâm thức, làm như vậy sẽ đánh lạc mất phần tâm tư tình cảm của con người. Lấy ví dụ một vũ khí tối tân, tàn khốc lợi hại, xét trên khía cạnh thuần vật lý, đây có thể là một thành tựu đáng kể. Nhưng nếu nói về lợi ích đối với nhân loại thì vũ khí như vậy không chắc gì đã có giá trị.

Tôi tin rằng thảo luận về tâm thức không nhất thiết phải liên quan đến tôn giáo. Việc này cũng rất quan trọng đối với lãnh vực kỹ thuật, đối với kho tàng hiểu biết của nhân loại. Nhìn theo khía cạnh này, triết lý Ðông phương, nhất là triết lý Phật giáo, vẫn còn có thể mang lại nhiều điều quí giá cho nhân loại trong thời đại mới.


<< Đọc Tiếp >>


Mục lục

Chương 2: Thực chất đường tu

image008

 

A. Nhị đế

Giải thích về thế giới hiện tượng rồi, bây giờ tôi xin giải thích về các giai đoạn tu chứng.

Chúng ta ai cũng muốn hạnh phúc, lánh khổ đau. Phật giáo nói con người ai cũng có quyền thực hiện hai mục tiêu này trong cuộc sống. Hạnh phúc và khổ đau có nhiều loại, nói chung có thể qui nạp thành hai: thể xác và tinh thần. Kinh nghiệm tinh thần luôn quan trọng hơn kinh nghiệm thể xác.

Phật dạy có nhiều cách diệt bỏ khổ đau tinh thần, thành tựu an lạc. Phương pháp diệt khổ được Phật nói trong Diệt đế, là chân lý thứ ba của Tứ Diệu Ðế.

Diệt đế là chân lý về sự tận diệt của khổ đau, còn được gọi là giải thoát, là niết bàn. Ðây là trạng thái tâm thức hoàn toàn tách lìa mọi hư vọng phiền não.

Tâm vốn có khả năng tách lìa hư vọng phiền não. Muốn hiểu được điều này, cần hiểu về hai chân lý là Chân đế Tục đế, nói cách khác, là chân lý rốt ráo và chân lý qui ước (khác với Tứ Diệu Ðế). Tôi sẽ giải thích dưới đây về Chân đế và Tục đế dựa theo quan điểm của tông phái Trung quán Cụ duyên [Prasangika-Madhyamika].

Phật giáo có bốn tông phái: Tì bà sa bộ, Kinh lượng bộ; Duy thức và Trung quán[9]. Bốn tông phái này xuất phát từ lời giáo huấn của Phật, nhưng lại không đồng quan điểm với nhau về Nhị đế, mặc dù tông phái nào cũng đều căn cứ luận điểm của mình trên chính lời Phật dạy.

Làm sao có thể biết kiến giải nào chính xác hơn? Đức Phật đề nghị phương pháp tiếp cận như sau:

Này các tỷ kheo, các bậc hiền giả / xin các vị đừng vì kính ngưỡng Thế tôn mà tin lời Thế tôn nói / hãy phân tích tỉ mỉ như thợ kim hoàn thử vàng / rồi mới nên tin lời Thế tôn.

Cụ thể hơn, Phật giáo có nói về tứ pháp y, nghĩa là bốn nơi đáng tin cậy, đó là: 1. dựa theo giáo pháp, không theo cá nhân người nói pháp; 2. dựa theo ý nghĩa, không theo ngôn từ; 3. dựa theo ý nghĩa rốt ráo, không theo ý nghĩa giai đoạn; 4. dựa theo kinh nghiệm thực chứng, không theo kiến thức[10]. Vậy chính đức Phật khuyến khích Phật tử phải biết phân tích mổ xẻ lời Phật dạy. Phải dùng trí tuệ phán xét quan điểm nào chính xác chứ không thể chỉ trích dẫn lời dạy của Phật.

Hai tông phái Đại thừa (Duy thức và Trung quán) công nhận tánh không của sự vật [pháp vô ngã], còn hai tông phái Tiểu thừa (Tì bà sa bộ và Kinh lượng bộ), chỉ công nhận tánh không của con người [nhân vô ngã], không công nhận tánh không của sự vật.

Tì bà sa bộ và Kinh lượng bộ khẳng định sự vật có tự tánh. Duy thức cho rằng sự vật sinh ra từ chủng tử lưu dấu trên tâm thức. Trung quán chia thành hai hệ phái: Trung quán Y tự khởi[11] nói rằng tất cả mọi hiện tượng chỉ đơn thuần là tên gọi và khái niệm; Trung quán Cụ duyên nói rằng mọi hiện tượng tuy vô ngã, nhưng vẫn thực hữu trên lãnh vực qui ước [Tục đế].

Dựa theo lý luận mà nói, dùng tâm phân tích để truy tầm chân tướng của thực tại thì biết được Chân đế [chân lý rốt ráo], còn dùng trực giác để truy tầm thực tại thì biết được Tục đế  [chân lý qui ước].

Xét trên Tục đế, một cuốn sách, ví dụ vậy, nhìn giống như một thực thể độc lập, cố định, có tự tánh. Sách là một món đồ có thể cầm lên, lật từng trang, đọc từng chữ. Vì vậy chúng ta mặc nhiên nghĩ món đồ này có chủ thể và gọi chủ thể ấy là “sách”. Nhưng nếu truy tìm sâu xa hơn, sẽ thấy cái gọi là “sách” thật ra chỉ là tập hợp của nhiều thành phần. Toàn bộ cuốn sách là tổng hợp của tất cả hình dáng, màu sắc, chức năng, ví dụ như ý nghĩa tư tưởng có trong sách, hay sách có thể dùng để chặn giấy. Mỗi thành phần của cuốn sách đều có thể phân thành nhiều phần nhỏ hơn, ví dụ như mực, giấy… những thành phần này lại có thể phân thành nhiều phần nhỏ hơn nữa, cứ như vậy phân chia mãi, không giới hạn. Rốt lại, cái có thể tìm thấy chỉ là tổ hợp của nhiều thành phần, được gọi chung là “sách”, còn chính cuốn sách thật sự là gì, càng tìm lại càng không thể kiếm ra.

Mọi sự vật khác đều tương tự như vậy, tuy có thật, nhưng chỉ có trên lãnh vực qui ước của Tục đế. Xét theo Chân đế, sự vật chỉ có thể hiện hữu nhờ mối tương quan giữa các yếu tố bên ngoài.

Tất cả mọi sự đều hiện hữu trong một môi trường gọi là duyên sinh. Gắng tìm cho ra một điều gì, sẽ chỉ gặp cái tên do khái niệm gán đặt lên tổ hợp của nhiều thành phần, ví dụ như danh từ “sách” vừa nói trên đây. Hơn nữa, chính ý thức phân biệt chủ động đặt tên kia cũng lệ thuộc vào dòng tâm thức: điểm tâm thức trước sinh ra điểm tâm thức sau, liên tục không khởi đầu. Hoàn toàn không có một thực thể nguyên thủy nào có tự tánh có thể đặt làm nền tảng chắc thật cho cái tên.

Thử lấy một ví dụ trừu tượng hơn. “Dài” và “ngắn”, thật ra có nghĩa gì? Nhìn lại bàn tay, ngón đeo nhẫn dài hơn ngón út, nhưng lại ngắn hơn ngón giữa. Muốn nói ngón đeo nhẫn dài hay ngắn hãy còn tùy vào hai ngón hai bên, chứ ngón tay tự nó không có tính chất ngắn dài.

Suy nghiệm như trên sẽ thấy mọi hiện tượng đều không có tính chất độc lập, chỉ dựa vào nhau mà có. Áp dụng lý luận này vào bản thân, sẽ dẫn đến hai loại vô ngã: vô ngã ứng vào con người và vô ngã ứng vào đối cảnh. Hai loại vô ngã này được gọi là nhân vô ngã và pháp vô ngã.

B. Ngã

Có nhiều hệ thống khẳng định có cái tôi trên lãnh vực qui ước [Tục đế]. Theo một số kinh sách không phải Phật giáo, cái tôi – hay ngã – được định nghĩa là một hiện tượng thường hằng, bao trùm, không thay đổi hủy diệt, nằm ngoài thân tâm con người. Phật giáo không công nhận có cái ngã như vậy.

Theo kinh điển Phật giáo, ngã có liên hệ mật thiết với thân tâm chứ không biệt lập bên ngoài.

Năm hợp thể tạo thành một người [ngũ uẩn] được chia thành hai thành phần chính: vật lý và tâm lý, còn gọi là thân và tâm. Từ bẩm sinh, con người tự nhiên cho rằng thân này thuộc về tôi. Lại cũng có cảm giác rất tự nhiên cho rằng tâm cũng vậy, cũng thuộc về tôi. Vì vậy mà thấy cái tôi với thân tâm không phải là một. Tuy đây là cảm giác bẩm sinh, nhưng nếu dùng lý trí phân tích thì lại thấy cái tôi thật ra không thể nằm ngoài thân tâm.

Mặt khác, nếu cái tôi hoàn toàn không có, vậy sẽ chẳng làm sao có được con người. Theo đó mà nói, tuy cái tôi có thật, nhưng lại không thể tìm thấy khi phân tích truy tìm, điều này cho thấy cái tôi thật ra không hiện hữu độc lập.

Theo Trung Quán, đây chính là ý nghĩa của chữ giả danh, chỉ là cái tên, không có nền tảng chắc thật. Nên hiểu rằng tuy chúng ta thấy sự vật độc lập có tự tánh, nhưng cái thấy này lại không phù hợp với kết quả tìm thấy qua sự phân tích.

Vì sao những gì tìm thấy qua sự phân tích lại đáng tin cậy hơn? Vì cái thấy thông thường của chúng ta luôn dẫn đến sự chấp bám có tự tánh, từ đó phát sinh nhiều phiền não như tham ái, cố chấp. Phủ nhận tự tánh, hiểu được sự vật vốn không có chủ thể, phiền não sẽ không thể phát sinh.

Mọi trạng thái tiêu cực của tâm thức đều bắt rễ từ tâm chấp ngã. Tâm này hư vọng méo mó. Nhờ phủ nhận tự tánh của sự vật, gốc rễ của phiền não sẽ bị chặt đứt.

Muốn đoạn diệt phiền não, cần bước qua ba chặng đường. Trước hết, đừng để phiền não có cơ hội phát sinh. Tiếp theo, ráng diệt bỏ phiền não. Sau cùng, ráng diệt bỏ cả tập khí của phiền não còn sót lại trong tâm thức.

Ba giai đoạn này dẫn đến ba loại thành tựu như sau: một, nhờ tự chế không phạm ác nghiệp thân và miệng nên thành tựu được kiếp tái sinh trong thiện đạo; hai, nhờ diệt phiền não nên thành tựu giải thoát niết bàn; ba, nhờ diệt bỏ được tập khí của phiền não nên thành tựu trí toàn giác của Phật. Ðó là con đường tu chứng. Con đường này được giải thích qua ba môn vô lậu học Giới Ðịnh Tuệ.

Giới là chế ngự hành động và lời nói của mình, không để phạm ác nghiệp. Nhờ giữ giới như vậy nên tránh được mọi xao lãng thô lậu của tâm thức.

Ðịnh là định tĩnh thu nhiếp tâm thức, thành tựu trạng thái tập trung tối đa, diệt bỏ toàn bộ mọi xao lãng vi tế của tâm thức.

Nhập Ðịnh quán tánh không thì được Tuệ.

Ba môn vô lậu học Giới Ðịnh Tuệ có khả năng giải thoát người tu ra khỏi ba loại khổ. Nhờ Giới mà thoát khỏi dục giới, lên sắc giới, diệt được loại khổ đau thể xác tinh thần [khổ khổ]. Nhờ Ðịnh mà thoát khỏi sắc giới, diệt được loại khổ đau đến từ sự thay đổi [hoại khổ]. Nhờ Tuệ mà thấy được chân tướng của sinh tử, diệt được tất cả các loại khổ đau đến từ cảnh sống trong luân hồi [hành khổ].

C. Hỏi đáp

Hỏi. Trung quán Cụ duyên cho rằng thế giới hiện tượng chỉ có qua khái niệm. Nếu thật là như vậy, có phải ngay cả hiện hữu khách quan của sự vật cũng đã bị phủ nhận?

Ðáp. Trung quán Cụ duyên nói sự vật chỉ là giả danh, điều này không phủ nhận thực tại khách quan, không phủ nhận những hiện tượng không có tên, mà chỉ khẳng định rằng nhận thức của chúng ta thường không phải là nhận thức đúng đắn.

Trung quán Cụ duyên đi đến kết luận rằng bản thể của sự vật là điều không thể tìm thấy, nói như vậy không phải là khẳng định sự vật không hiện hữu, mà chỉ là khẳng định sự vật không có tự tánh.

Ngài Long Thọ trong bài kệ mở đầu Luận Trung quán có giải thích rằng dù trên lãnh vực qui ước vẫn có đi có đến, có sinh có diệt, nhưng nếu phân tích truy tìm, sẽ thấy sự vật hoàn toàn không có tự tánh.  Có thể nói cái bàn này không có tự tánh là vì nó có thật, do nhân duyên mà có. Chính vì cái bàn này có thật, nên không thể có tự tánh.

Trái lại, Duy thức tông vì không thể tìm ra chủ thể của sự vật khách quan nên kết luận rằng hiện tượng khách quan không nằm ngoài tâm thức mà mang cùng tính chất với tâm thức. Duy thức tông cho rằng thế giới khách quan bên ngoài không có thật, và khẳng định hiện hữu của thế giới tâm thức bên trong.

Hỏi. Xin ngài giải thích sơ qua về cuộc tranh luận giữa thánh tăng Ấn Độ Liên Hoa Giới (Kamalashila) và đại sư Trung Hoa Hashang.

Ðáp. Vào thời của thánh Thiện Hải Tịch Hộ (Shantarakshita), có nhiều vị đại sư Trung Hoa sống trên đất Tây Tạng, được gọi chung là Hashang [Hòa Thượng]. Thời ấy ở học viện Samye, các nhà dịch giả, hành giả mật tông hay thiền giả đều ở riêng theo từng dãy nhà. Các vị Hashang ngụ tại tu viện gọi là “Cõi Ðại Ðịnh Bất Ðộng[12]”, chỗ dành riêng cho người tu thiền.

Vào thời đó, các vị Hashang lấy thiền định làm công phu tu tập chính. Phương pháp tu của các vị không có gì sai, chỉ chuyên về thiền định. Khế kinh có nơi nói rằng nếu không ly niệm sẽ không thể giải thoát. Vào thời của ngài Kamalashila, nhiều vị Hashang hiểu sai câu nói này, cho rằng bất cứ loại niệm nào cũng là khuyết điểm của tâm.

Trong Mật tông Tối thượng Du già, khi muốn thâm nhập ánh sáng chân như chủ thể[13], người tu cần ly niệm, vì còn niệm thì khí vi tế sẽ không thể về an trụ trong đường khí mạch trung tâm. Tuy vậy, cần ly niệm không phải vì niệm nào cũng là vọng niệm chấp ngã, mà chỉ vì trong giai đoạn này người tu phải ra sức thu nhiếp năng lực về lại đường khí mạch trung tâm, khi ấy ngay cả chánh niệm cũng trở thành chướng ngại, nếu còn nằm trong phạm vi của khái niệm phân biệt.

Vì không hiểu được điểm này nên nhiều vị Hashang cho rằng niệm nào cũng là vọng niệm chấp ngã. Vì vậy sinh ra nhiều lầm lẫn xáo trộn. Trong một vài trường hợp đặc biệt có thể là cần phải ly niệm, nhưng nếu bất cứ niệm nào cũng lìa bỏ thì không cách gì có thể khai mở trí tuệ.

Theo tôi, ý nghĩa của cuộc tranh luận này là như vậy. Nếu nói các vị Hashang đều sai cả, vậy tại sao ngài Thiện Hải Tịch Hộ (Shantirakshita) lại còn cho phép mở cuộc tranh luận? Nếu nói rằng kiến giải của các vị Hashang hoàn toàn đúng, vậy ngài Liên Hoa Giới (Kamalashila) đâu cần phải phủ nhận.

Hỏi. Tôi có chút thắc mắc về mối tương quan giữa thiền minh sát (vipashyana) và thiền mật tông. Theo thiển ý, thiền minh sát dựa trên tính chất vô thường của tâm, là bước trước của vô ngã. Còn thiền mật tông lại chuyên chú về hình sắc bên ngoài, dễ khiến tâm xao lãng. Phương pháp phức tạp như vậy làm sao có thể thích ứng với nét giản dị của vô ngã?

Ðáp.  Ðiều này tôi sẽ giải thích sau. Cần nói ngay bây giờ là mật tông rất khó tu, không dễ chút nào cả. Phương pháp tu này có ý nghĩa đặc biệt, có lý do đặc biệt, vì tu theo mật tông, tâm thức có thể đồng thời tích lũy được cả hai loại tư lương phước trí.

Tu theo Đại thừa hiển tông, nếu chuyên chú thiền chỉ quán tánh không thì sẽ tích tập được một loại tư lương gọi là trí, còn nếu phát tâm bồ đề hay tâm từ bi thì sẽ tích tập được một loại tư lương khác, gọi là phước. Cùng một lúc, nếu đang tích tập phước đức thì không thể tích tập trí tuệ, và ngược lại, nếu đang tích tập trí tuệ thì không thể tích tập phước đức.

Còn tu theo Đại thừa mật tông thì vận dụng trí tuệ chứng tánh không [không tuệ] để hoạt hiện thành thân Phật. Mạn đà la, thân Phật, tất cả thâm nhập trong chân tánh của thực tại, trong tánh không. Loại trí tuệ này đồng thời tích tụ được cả hai bồ tư lương phước trí. Ðó là đặc điểm của mật tông. Giải thích thì rất dễ, tu được hay không lại là chuyện khác.

Phương pháp tu này cũng có thể gọi là thiền minh sát, vì thiền minh sát có nhiều mức độ.

Hỏi. Xin ngài cho biết ý kiến về vô thường. Nhiều tổ chức xã hội, ví dụ như chính phủ, hay như tập tục hôn nhân, nói chung đều dựa trên nền tảng của những mối tương giao lâu bền. Nhìn theo Trung Quán, có thể nói rằng mọi tổ chức xã hội đều vô ích dư thừa, thậm chí mâu thuẫn với công phu tu tập.

Ðáp. Nói về vô thường, hễ một hiện tượng tùy nhân duyên mà sinh ra thì cũng sẽ vì nhân duyên mà thay đổi.

Ví dụ cái bàn trước mặt tôi đây. Hôm qua chúng ta đã thấy nó. Nhưng cái bàn ngày hôm qua thật ra không phải là cái bàn ngày hôm nay. Cuốn sách này cũng vậy. Hôm nay nằm ở đây nhưng cuốn sách của hôm qua bây giờ đã không còn. Mọi hiện tượng đều thay đổi liên tục, từng ngày, từng phút, từng giây. Ðiều này khoa học cũng đã khẳng định khi quan sát các phân tử cực vi, thấy chúng liên tục thay đổi.

Sự vật biến chuyển liên tục, không cần ai ra lệnh cũng không cần có cái gì chấm dứt tình trạng trước. Nhân duyên tạo ra cuốn sách cũng chính là nhân duyên tạo ra tính biến chuyển liên tục của cuốn sách. Tỉ như còn mắt thì còn thấy, nhưng nếu mắt hỏng hay người chết đi thì sự thấy cũng không còn.

Tâm thức con người cũng vậy, kể cả tâm thức của người Tây Tạng. Tâm thức chỉ có trong từng sát na. Nhưng chủ thức, là thức thứ sáu, tầng tâm thức sâu hơn, vẫn luôn có đó. Không khởi điểm, không kết thúc, tuy thay đổi từng sát na nhưng vẫn liên tục không gián đoạn. Vì vậy nếu nhìn trên phương diện liên tục thì phải nói rằng thức này thường còn.

Xã hội con người thay đổi trong mỗi phút giây, điều này dễ thấy. Thức ăn thay đổi, thói quen thay đổi, thời trang thay đổi, giáo dục thay đổi. Nhưng nói chung xã hội con người vẫn liên tục không gián đoạn.

Tất cả mọi hiện tượng sinh ra từ nhân duyên đều vô thường, vì biến chuyển trong từng sát na [nhất kỳ vô thường], nhưng cũng có thể gọi là thường còn, vì liên tục không gián đoạn.

Ðể trả lời câu hỏi làm sao khỏi chấp bám vào sự vật vô thường: nếu cho rằng vật vô thường là vật bỏ đi, vậy chính Phật đạo cũng phải bỏ, vì Phật đạo cũng vô thường. Vấn đề không nằm ở chỗ thế giới này vô thường hay không, mà phải xét xem sự việc có đáng cho mình mong cầu hay không. Nếu đáng thì phải biết cách làm thế nào để chu toàn tâm nguyện của mình.

Cần phân biệt rõ cái muốn chánh đáng và cái muốn không chánh đáng. Phải dùng lý trí phân tích kỹ lưỡng, nếu điều mình muốn là chánh đáng, có được lòng khát khao như vậy cũng tốt cho đường tu. Ví dụ muốn thành Phật, hay muốn cứu độ chúng sinh, hai điều này đều thuộc loại mong muốn chánh đáng, cần dốc sức để cấy dưỡng trong tâm. Chúng ta phải cố gắng phát khởi cho bằng được cảm giác thấy tất cả chúng sinh đều là “của mình”.

Ngược lại, có nhiều loại mong muốn càng nghĩ càng thấy không hợp lý. Ra chợ thấy bày bán đủ thứ hấp dẫn, gặp cái gì cũng muốn mua. Ðến khi mở túi tiền ra mới phải suy nghĩ lại coi mình có thật sự cần hết những thứ đó hay không. Quí vị nghĩ sao? Chắc cũng không cần gì lắm đâu.

Ðó là kinh nghiệm của tôi. Mong muốn không chánh đáng thật ra chỉ là chút lòng tham lam trước những món vật không cần thiết cho sự sống. Còn muốn một hai món vừa phải để sống, loại muốn này hoàn toàn chính đáng.

Ðối với người cư sĩ, đời sống gia đình là chuyện tự nhiên. Tuy vậy xét trên phương diện tu giải thoát, quí vị cần thận trọng, đừng rơi vào vũng xoáy của phiền não. Cả người xuất gia cũng nên thận trọng. Trong một vài trường hợp, có khi làm cư sĩ lại dễ giúp ích cho xã hội hơn. Cư sĩ có thể vừa tu hành nghiêm chỉnh, vừa cống hiến cho xã hội. Lại có thể đi làm kiếm tiền, làm một người tốt, với tâm an lạc, đủ khả năng tạo không khí an vui cho mình, cho gia đình và cho xã hội xung quanh. Người như vậy với lòng vị tha, với tâm bồ đề, trong một hoàn cảnh nào đó quả thật có khi dễ mang lợi ích lại cho người khác hơn là xuất gia. Tuy nhiên, nếu muốn chứng ngộ để giải thoát khổ đau cho chính mình thì xuất gia tốt hơn, vì đời sống của người xuất gia vốn thanh đạm. Còn nếu muốn phát tâm bồ đề, lãnh trách nhiệm mang lợi lạc về cho mọi loài chúng sinh, thì có khi nên tu xuất gia, cũng có khi nên tu tại gia.

Hỏi. Tâm cầu giải thoát[14] so với thái độ trốn tránh đời sống khác nhau ra sao?

Ðáp. Khác nhau xa lắm. Nhưng nếu tu để giải thoát khổ đau cho chính mình thì có khi lại chẳng khác nhau bao nhiêu.

Trốn chạy đời sống vì bị đời sống quấy nhiễu, đây thật không phải là một giải pháp hay. Thậm chí có người vì chuyện bất như ý, xuống tinh thần đến nỗi tự sát, thật quá bi thảm.

Gốc rễ của khổ đau nằm ở loại khổ thứ ba, gọi là hành khổ. Hành khổ chỉ giản dị là tấm thân này. Vì vậy muốn thoát khổ thì phải ngừng tái sinh trong luân hồi. Thân này sinh ra không phải do đấng Chúa trời hay do sức mạnh vạn năng nào xui khiến, mà chỉ phát sinh từ năng lực vô minh của chính mình. Vô minh là trạng thái tâm thức lầm lẫn bám chặt vào đối cảnh.

Phật tử Bồ tát phải là người tự nguyện bước vào chốn rối loạn, vì ước nguyện của Bồ tát là sống vì lợi lạc của chúng sinh. Tuy vậy, khi mới phát tâm, tuy chí nguyện mãnh liệt nhưng tâm thức lại chưa đủ sức gánh vác. Bồ tát mới phát tâm thường gặp cảnh không thuận tiện dễ làm thoái chuyển tâm bồ đề. Vì vậy trong thời gian đầu cần sống cách ly để phát huy định lực. Một khi tâm đã vững vàng tự tại, chừng đó phải tự nguyện quay về với xã hội, chọn dấn thân vào những chốn hiểm nguy rối loạn để giúp đỡ người khác.

Hỏi. Ðối với xã hội mà nói, khuyến khích con người từ bỏ xã hội như vậy có nguy hiểm không?

Ðáp. Từ bỏ xã hội không thôi thì đúng là rất nguy hiểm. Nếu vài người từ bỏ xã hội với mục tiêu tìm đường giải thoát thì không sao, nhưng nếu nhiều người cùng từ bỏ xã hội, điều này có thể gây xáo trộn đáng kể.

Hỏi. Tôi nghĩ dạy về tâm cầu giải thoát cho người trẻ tuổi là điều rất nguy hiểm. Họ có thể không hiểu hết những gì ngài vừa nói. Có khi tâm cầu giải thoát đối với họ chỉ là đừng ở với vợ, đừng uống rượu. Họ nên ở lại chốn thành thị hơn là tu trên núi. Lên núi rồi tưởng mình cao siêu đức hạnh, cái ngã càng lúc càng vĩ đại hơn lên.

Ðáp. Hành động thiếu suy nghĩ là điều tai hại. Trước khi quyết định một việc gì, cần phân tích cho thấu đáo. Có người tự nhiên nhất quyết muốn tu, thiết tha đến nỗi bỏ cả ăn uống, được đôi ba ngày lại chán không muốn tu. Phải tránh việc như vậy xảy ra cho mình.

Ngược lại, nếu mang tâm nguyện chân thành, từ bỏ xã hội tìm nơi vắng vẻ để nghiêm chỉnh tu, làm như vậy có khi được lợi ích lớn lao. Không tu thiền chỉ, không đạt đại định, thì không thể chuyển thức thứ sáu thành tuệ giác sắc bén.

Vì vậy cần thành tựu thiền chỉ. Muốn thành tựu thiền chỉ, phải tu một mình nơi vắng vẻ. Cần tìm một nơi cách ly không người lui tới, tu hành miên mật trong một thời gian dài, ít ra là vài ba năm. Ðợi khi đạt định rồi mới quay về.

Hiện nay có vài vị thầy Tây Tạng đang ở trên núi dốc sức tu hành. Cũng có nhiều người tự xưng mình đang tu, nhưng thật sự chẳng phải thầy tu cũng không là cư sĩ. Có một câu châm ngôn Tây Tạng nói rằng con dơi khi ở với chim thì giả đò làm chuột, khi ở với chuột lại giả bộ làm chim.

Hỏi. Xin ngài chỉ cho một lối tu vừa phải dành cho người bình thường, không cần phải phát đại nguyện phức tạp.

Ðáp. Muốn giải thoát, điều quan trọng nhất là phải thật tâm mong mỏi điều này. Cần nhận diện, quán niệm về khổ. Khổ nói ở đây là hành khổ, là khổ đau đến từ hoàn cảnh hiện hữu trong luân hồi.

Vô thường không nhất thiết phải là khổ. Ví dụ trí toàn giác của Phật, tuy vô thường nhưng không mang tính chất khổ đau.

Hợp thể tâm lý vật lý của chúng ta cũng vô thường, nói cách khác, luôn thay đổi, là quả, do nhân sinh ra. Nhân trong trường hợp này là nghiệp đã tạo trong quá khứ, cùng với động cơ phiền não tác động thành nghiệp. Vì sinh ra từ phiền não, nên thân người cũng mang đầy tính chất phiền não khổ đau.

Ðời sống này khởi đầu bằng khổ đau chào đời. Sau khi nhập thai mẹ, cơ thể con người bắt đầu thành hình và phát triển. Hình sắc càng lúc càng thô lậu hơn. Ðến một lúc nào đó, bào thai bắt đầu có cảm giác thoải mái hay khó chịu, khi chào đời là lúc khổ đau thật sự bắt đầu. Một thời gian rất lâu sau khi ra đời, con người yếu đuối như côn trùng, không thể tự lo cho mình. Ðời sống chúng ta bắt đầu như vậy đó. Mặc dù cha mẹ luôn ăn mừng khi trẻ chào đời, nhưng phải nói đó chính là lúc khổ đau bắt đầu. Rồi đời sống kết thúc bằng cái chết, cũng là một loại khổ đau không ai muốn. Ở giữa hai đầu sinh tử, là bệnh tật, già nua.

Con người cần một mục tiêu trong đời sống để thấy đời này có chút ý nghĩa nào khác hơn là sớm tối nhồi nhét đồ ăn nuôi tấm thân này. Chúng ta cần tự hỏi nuôi sống tấm thân này có phải là ý nghĩa duy nhất của cuộc sống. Nếu có thể chuyển hóa được tâm, đó mới thật sự là mục tiêu có ý nghĩa.

Theo lẽ mà nói, thân này không có gì đáng cho mình nâng niu lưu luyến. Ðẹp cỡ nào, mạnh cỡ nào, nhìn lại từng thành phần xương, da, máu, thịt, thật chẳng có gì hay. Cơ thể là kết hợp của nhiều thành phần không sạch. Chính thân người cũng rất dơ, sinh ra từ tinh chất của cha và của mẹ, vốn không sạch. Thân người lại thường chế tạo phân và nước tiểu. Có thể nói thân này là một cái máy chuyên chế tạo đồ bẩn. Mục tiêu chính của tấm thân này là tiêu thụ đồ ăn thức uống và chế tạo của dơ.

Nhìn lại suốt năm mươi hai năm qua tôi đã ăn bao nhiêu, uống bao nhiêu, thật sự mà nói thân này chỉ giỏi việc chế tạo của bẩn. Ðồng thời, nếu gom lại hết tất cả những đờm dãi đã thải ra trong quá khứ, chắc chắn phải nhiều lắm. Không ai thấy cầu tiêu là nơi sạch sẽ cả, đúng không? Thật sự thân người cũng như cái cầu tiêu. Mấy thứ trong nhà cầu không phải từ trên trời rơi xuống, mà từ trong thân người rớt ra.

May mắn thay, ngoài thân vật lý, con người còn có thêm phần trí tuệ. Chỉ khi nào tận dụng được năng lực trí tuệ của con người, đời sống mới thật sự có ý nghĩa. Chúng ta biết suy nghĩ, biết phân tích, đây thật là một khả năng cực kỳ quí giá của kiếp làm người.

Ta có thể thấy rằng cả súc vật, trong một giới hạn nào đó, cũng có khi có được tinh thần vị tha. Ví dụ như loài ong hay loài kiến, chúng sống có tổ chức xã hội. Gặp lúc thuận tiện hay khó khăn, tổ chức này sẽ bảo đảm sự sống còn cho từng cá nhân. Con này nương dựa vào con kia, sống một cách tự nhiên trong tinh thần trách nhiệm, nâng đỡ lẫn nhau. Loài người cũng vậy, dù muốn dù không, vẫn phải dựa vào nhau để sống.

Suy nghĩ sâu một chút sẽ thấy chúng ta có một nhu cầu rất tự nhiên là cần tình thương. Sinh ra và lớn lên được là nhờ tình yêu thương chăm sóc của cha mẹ. Có thể sống còn cũng là nhờ tình thương cha mẹ, nhờ hơi ấm loài người. Mai mốt già đi, tâm thần và thể xác đều suy thoái, lại phải sống nhờ tình thương yêu của người khác. Ở giữa hai giai đoạn này, khi khoẻ mạnh trẻ trung, chúng ta không mấy khi nghĩ đến những việc như vậy. Ðây cũng là một thứ vô minh.

Nhu cầu thiết yếu nhất của con người là trái tim nồng ấm. Rõ ràng là chúng ta cần bạn bè, người thân. Nhờ bạn bè mà cảm thấy an vui hạnh phúc. Muốn có tình bạn chân chính, phải lấy những tình cảm tốt đẹp để đối xử với nhau, ví dụ như tình yêu thương quan tâm với trái tim rộng mở.  Ðược như vậy, tình bạn chân chính sẽ nảy nở dễ dàng.

Bạn bè cũng có nhiều người không thật lòng. Khi có tiền, có thế, chắc chắn cũng sẽ có rất nhiều bạn. Nhưng khi tiền tài thế lực mất hết, thứ bạn này cũng mất theo. Tình bạn chân chính chỉ có thể có nhờ trái tim nhân hậu. Loại tình bạn này sẽ luôn ở lại, cho dù chúng ta có đang thất bại hay thành công. Con người sống được là nhờ tình yêu thương, nhờ lòng quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Con người đủ khả năng phát huy nhiều loại tình cảm cực kỳ tốt lành, đây mới thật là một điều quí giá, một may mắn vượt bực.

Nay chúng ta có được thân người, phải biết tận dụng trí tuệ cùng năng lực đặc biệt của trái tim yêu thương, chừng đó cuộc sống mới thật sự có ý nghĩa, chúng ta mới thật sự không phí uổng kiếp người.

Tự xét lấy mình, sẽ thấy thân tâm này là do nghiệp và phiền não mà ra, vì vậy hễ thân tâm này còn là chưa thể có được niềm an lạc vĩnh cửu. Nhìn lại quanh mình, ai nấy cũng đều như vậy cả. Vì vậy phải phát khởi chí nguyện muốn đạt giác ngộ để vượt thoát ràng buộc của nghiệp và phiền não. Ðây có thể gọi là tâm cầu giải thoát, là tâm buông xả, mặc dù không rời bỏ gia đình xã hội. Hướng về lợi ích chúng sinh thì mọi nhu cầu cá nhân tự nhiên sẽ được thỏa mãn.

Ðể phát tâm bồ đề, các vị cao tăng Ấn Độ có dạy hai phương pháp chính, đó là Bảy Ðiểm Nhân Quả, và Hoán Chuyển Ngã  Tha.

Muốn tu theo phương pháp Bảy Ðiểm Nhân Quả, trước hết cần khởi tâm đại xả. Tâm đại xả là tâm bình đẳng. Nói cách khác, là trạng thái quân bình, không lưu luyến người thân, không oán ghét kẻ thù, và cũng không dửng dưng đối với kẻ lạ.

Ðiểm nhân quả thứ nhất là nhớ sự tái sinh vốn không có khởi điểm, vì vậy chúng sinh nào cũng có lúc đã từng là cha mẹ, anh em hay người thân của mình.

Thấy như vậy rồi, điểm thứ hai là nhớ nghĩ về tình thương họ đã từng mang đến cho ta.

Ðiểm thứ ba là ước muốn đền đáp tình yêu thương đó. Ðể quyết tâm đền đáp yêu thương, hãy nhớ lại người mẹ đời này đã thương yêu chăm sóc ta như thế nào, nhớ các bậc cha mẹ nói chung yêu thương con mình như thế nào.

Khởi tâm đại từ là điểm thứ tư. Tâm đại từ là một trạng thái tâm thức rộng mở, thương yêu tất cả chúng sinh.

Có tâm đại từ rồi, điểm thứ năm là mong mỏi chúng sinh thoát khổ đau. Ðó là tâm đại bi.

Ðiểm thứ sáu là phát tâm nguyện vị tha phi thường, tự nguyện gánh lấy trách nhiệm giải thoát chúng sinh ra khỏi khổ não.

Ðiểm thứ bảy là phát tâm bồ đề. Tâm này có hai phần, vừa là năng lực đại bi tỏa rộng đến mọi loài chúng sinh, vừa là trí tuệ chứng biết tâm chúng sinh có khả năng vượt thoát phiền não, ai cũng có thể thành tựu trí toàn giác. Trí tuệ này đi cùng với năng lực của đại bi sẽ khiến tâm bồ đề khởi phát.

Phương pháp thứ hai là Hoán Chuyển Ngã Tha. Cũng bắt đầu với  tâm xả, nhưng theo cách khác. Phương pháp này dạy người tu đứng về phía chúng sinh, thấy tất cả đều bình đẳng, vì tất cả đều muốn được hạnh phúc thoát khổ đau. Tất cả chúng sinh đều giống nhau ở ước nguyện này. Vì vậy mà mình và người bình đẳng như nhau.

Tiếp theo, suy nghĩ thử xem lòng vị kỷ sẽ mang lại những gì. Nếu ích kỷ muốn dành hết hạnh phúc trên đời về phần mình, vậy rốt cuộc sẽ không còn bạn mà lắm kẻ thù. Ngược lại, nếu hoán chuyển lòng vị kỷ thành lòng vị tha, thương yêu lo lắng cho người khác hơn chính bản thân, kết quả sẽ trái ngược, ít thù nhiều bạn.

Nói tóm lại, đúng như lời của ngài Tịch Thiên[15] trong Nhập Bồ Đề Hành Luận[16] đã từng nói,  “Tất cả mọi bất hạnh trên đời đến từ lòng vị kỷ và tất cả mọi hạnh phúc trên đời đến từ lòng vị tha.”

Tiếp theo là phương pháp thiền Cho và Nhận [tong-len] để phát tâm bồ đề. Phương pháp này chỉ cách quán tưởng cho đi tất cả mọi hạnh phúc tốt lành của mình, đồng thời nhận về tất mọi khó khăn vất vả của người khác.

Thời nay, người Tây Tạng chúng tôi phối hợp hai phương pháp tu nói trên để phát tâm bồ đề. Hai phương pháp tu này sẽ giúp ta thấy kẻ thù vốn là người tốt nhất trên thế gian. Lý do rất đơn giản, muốn phát tâm bồ đề chân chính thì phải điều phục tâm giận dữ. Ðể điều phục tâm giận dữ, cần kiên nhẫn độ lượng. Ðể luyện tính kiên nhẫn độ lượng, cần phải có một kẻ thù. Nghĩ như vậy, kẻ thù tự nhiên biến thành người giúp mình tu, dù không phải tự ý họ muốn vậy. Một khi đã có thể thấy kẻ thù là người giúp mình, đương nhiên sẽ thấy tất cả mọi người đều như vậy.

Ước vọng trong đời sống như danh vọng, tiền tài, chỉ có thể có được nhờ sự giúp đỡ của người khác. Ngay như buổi nói chuyện hôm nay, có được là nhờ công lao của rất nhiều người: người xây nhà, lót thảm v.v… Cả chiếc xe bus chở quí vị đến đây bất kể mọi xáo động ở Punjab, đó cũng là một yếu tố cho phép chúng ta gặp nhau hôm nay. Nếu không có công lao của nhiều người quen và không quen, chúng ta đã không thể ngồi đây. Suy nghĩ như vậy sẽ thấy nếu không có sự giúp đỡ của người khác, chúng ta không làm sao có thể sống đến ngày hôm nay.

Ngoài ra cũng nên nghĩ đến nghiệp. Tất cả những cơ hội có được trong cuộc sống đều là quả của nghiệp đã tạo trong quá khứ. Nghĩ đến thiện nghiệp, nói chung là những gì đã làm với tâm nguyện muốn tốt cho người khác. Vậy muốn tích tụ thiện nghiệp cũng cần phải có người khác.

Trong tất cả những công phu hành trì Phật giáo, phát tâm bồ đề được xem là công phu quan trọng quí giá nhất. Tâm bồ đề bắt rễ từ đại bi. Không có chúng sinh thì không thể khởi tâm đại bi. Phật đà và Bồ tát có thể hộ trì cho ta phát tâm bồ đề, nhưng không thể giúp chúng ta phát tâm đại bi. Ðại bi chỉ có thể có được nhờ hướng về chúng sinh.

Nhìn trên phương diện này, chúng sinh còn tốt với ta hơn cả Phật đà. Chúng sinh luôn tốt với ta như vậy, dù cố ý hay không. Có nhiều điều đối với chúng ta rất quí, như diệt đế, đạo đế, nhưng những điều này không có ý muốn tốt với ai cả, dù vậy chúng ta vẫn quí giá nâng niu. Ðối với Phật tử Đại thừa, mọi chúng sinh đều là bạn và mọi hoàn cảnh đều là hoàn cảnh thuận tiện để tu. Kẻ thù duy nhất là thái độ vị kỷ, là tâm chấp ngã, từ đó sinh ra đủ loại vọng tâm.

Tu được như vậy, quí vị sẽ có được tinh thần vô úy, thoát mọi sợ hãi.


<< Đọc Tiếp >>


Mục lục

 Chương 3:  Hai pháp tu trọng yếu

Ngang đây tôi xin dựa trên hai bài tụng đơn giản để tiếp tục trình bày về Phật giáo.

Bài thứ nhất là Tám Thi Kệ Chuyển Tâm, nói về việc làm và tác phong của Bồ tát. Bài tụng này được viết từ nhiều thế kỷ về trước [xin đọc Phụ Lục 2].

Bài thứ hai là Pháp Thiền Mật Tông Đơn Giản dành cho Phật Tử Nhập Môn, do tôi soạn vài năm về trước [xin đọc Phụ Lục 1].

A. Tám Thi Kệ Chuyển Tâm

Giáo pháp này tôi được thầy tôi là Rinpoche Kyabje Trijang[17] trực tiếp truyền thừa. Từ đó đến nay đã hơn ba mươi lăm năm, tôi vẫn hàng ngày trì tụng quán niệm tám bài kệ này. Tác giả là vị thầy dòng Kadampa tên Geshe Langri Thangpa. Vị thầy này luôn xem công phu phát tâm bồ đề là quan trọng nhất trong suốt cuộc đời hành đạo của mình, nhất là phương pháp Hoán Chuyển Ngã Tha.

Bây giờ tôi xin giải thích sơ lược về Tám Thi Kệ Chuyển Tâm.

1.   Với quyết tâm thành tựu
Lợi lạc lớn lao nhất
Nhờ tất cả chúng sinh,
Tôi nguyện luôn giữ gìn
Chúng sinh trong đáy tim,
Vì chúng sinh quí hơn
Cả bảo châu như ý.

Chúng sinh không những giúp chúng ta hoàn thành mục tiêu cao nhất là thành Phật, mà còn mang lại cho chúng ta hạnh phúc trước mắt. Vì vậy mà nói chúng sinh quí hơn ngọc như ý. Và cũng vì vậy mà phát nguyện gìn giữ chúng sinh.

2.   Khi gặp gỡ tiếp xúc
Với bất kỳ một ai,
Nguyện tôi luôn thấy mình
Là kẻ thấp kém nhất,
Từ đáy lòng chân thật
Luôn tôn kính mọi người
Như kính bậc tối cao.

Với người khác, chúng ta không nên tự cao thấy mình hơn người, từ trên nhìn xuống, mà phải luôn thấy mình khiêm nhượng thấp kém hơn tất cả. Cần kính trọng người khác, vì người khác có khả năng tương đương với hành động của Phật đà, đó là khả năng mang đến cho chúng ta nguồn hạnh phúc giác ngộ.

3.   Nguyện trong từng hành động
Tôi luôn tự xét mình,
Phiền não vừa dấy lên,
Ðe dọa mình và người,
Nguyện tức thì nhận diện,
Và tức thì dẹp tan.

Trên bước đường tu, thỉnh thoảng chúng ta gặp trở ngại. Trở ngại không đến từ bên ngoài mà phát sinh ngay từ bên trong, do vọng tâm mà có. Kẻ thù chân chính phá hủy hạnh phúc của chúng ta là kẻ thù nội tại.

Nếu cố gắng tu tập sẽ có được khả năng tự chế, được vậy mới gọi là tự tại bình an thật sự. Vì vậy Phật dạy: “Các con là thầy của chính mình”. Mọi sự đều phải trông cậy vào chính mình.

Khi tu phát tâm bồ đề chúng ta cần dẹp hết phiền não, tuy vậy, cái cần diệt bỏ trước nhất vẫn là tâm giận dữ. Ðã giận dữ thì không thể hạnh phúc, trong khi tham dục có khi vẫn mang lại niềm vui.

Tục ngữ Tây Tạng có câu “Bao giờ nổi cơn giận dữ, hãy tự cắn đốt ngón tay”. Câu nói này có nghĩa là nếu lỡ nổi giận thì đừng phát ra ngoài mà chỉ nên tự nói với mình “Thôi bỏ đi”.

4.   Khi gặp người hiểm ác
Vì bị tâm phiền não
Và ác nghiệp tác động,
Nguyện tôi quí người ấy
Như vừa tìm ra được
Kho tàng trân quí nhất.

Có nhiều người khi thấy người khác bị khổ đau khống chế, bị vô minh phiền não bức bách, thường hay gắng tránh né để khỏi liên lụy tới mình. Bồ tát thay vì tránh né, luôn can đảm đến gần, vì đây là cơ hội quí giá để mang hạnh phúc lại cho kẻ khác.

5.   Khi gặp người vì lòng
Ganh ghen và đố kỵ
Miệt thị phỉ báng tôi,
Nguyện tôi nhận phần thua,
Nhường đi mọi phần thắng.

Khi người khác, nhất là những người oán ghét mình, vì ganh ghen mà gây hại cho ta, ta không được từ bỏ họ mà phải giữ gìn, thương yêu, chăm sóc họ với lòng đại bi.

Vì vậy mà nói Phật tử phải nhận phần “thua” và tặng phần “thắng” cho người.

Tâm bồ đề thì phải biết nhận thua, tặng thắng. Làm như vậy không phải để tự thấy mình đạo đức hơn người, mà chỉ giản dị vì muốn lợi ích chúng sinh. Còn nếu nhận thua tặng thắng mà gây tổn hại đến cho người khác thì đương nhiên không nên làm như vậy. Phật tử Đại thừa gặp trường hợp này cần nương theo lòng vị tha, khởi tâm mong mỏi lợi ích chúng sinh để hành động ngược lại.

Hãy suy nghĩ như vầy: gặp việc không vừa ý mà nổi giận mới thật là thua, vì cơn giận sẽ tức khắc phá hủy niềm an lạc trong tâm, về lâu về dài sẽ mang lại kết quả tai hại. Ngược lại nếu bị xâm phạm mà vẫn không nổi nóng, đó mới là chiến thắng thật sự.

Khi tâm mất kiên nhẫn, nổi cơn giận dữ, trí óc sẽ mất hết sáng suốt, không còn khả năng nhìn rõ sự việc. Nổi điên lên vì giận sẽ làm mất hết khả năng phán xét. Giữ tâm bình thản mới có thể sáng suốt quan sát tình hình, bao giờ cần phản ứng quyết liệt thì phản ứng. Vậy mới là ý nghĩa chân chính của thắng bại.

6.   Khi gặp người mà tôi
Giúp đỡ, đặt kỳ vọng,
Lại vong ân bội nghĩa
Gây tổn hại cho tôi,
Nguyện tôi xem người ấy
Là một đấng tôn sư.

Khi gặp người phụ ơn, ta thường cảm thấy chán nản không muốn giúp. Gặp trường hợp này thật khó mà bỏ qua không trách. Vì đây chính là trở ngại lớn cho lòng vị tha, nên câu kệ này dạy ta cần đặc biệt quan tâm chăm sóc những kẻ phụ ơn.

Kẻ gây hại không những cần được quan tâm giúp đỡ, mà thật sự còn là vị thầy dẫn dắt chúng ta trên đường tu. Phật tử sẽ thấy kẻ thù mới đích thật là vị thầy cao quí nhất của mình.

7.   Tóm lại tôi xin nguyện
Trực tiếp và gián tiếp
Trao tặng mọi lợi lạc
Cho tất cả chúng sinh
Ðều là mẹ của tôi
Từ vô lượng kiếp trước.
Nguyện [không đợi ai cầu
Vẫn] âm thầm gánh chịu
Mọi ác nghiệp khổ não
Thay thế cho chúng sinh.

Người khác nhiều vô tận, mà tôi chỉ có một, vì vậy dù tôi có quan trọng đến đâu, người khác vẫn quí hơn. Có chút phán đoán sẽ thấy hy sinh một để cứu vô lượng là việc rất đáng làm, ngược lại hy sinh vô lượng chúng sinh chỉ vì cá nhân một người là điều thật vô lý.

Ở đây có một cách quán tưởng rất hữu hiệu. Hãy tưởng tượng mình là một người rất ích kỷ, trước mặt có nhiều người khác đang chịu khổ. Tưởng tượng chúng sinh đang trải qua đủ loại khổ đau, trong khi đó kẻ ích kỷ kia vẫn dửng dưng không quan tâm. Tưởng tượng vậy rồi thử nhìn lại xem mình nghiêng về bên nào hơn. Thái độ ích kỷ rất khó dẹp bỏ, nhất là khi mới tu. Nhưng nếu kiên trì cố gắng, chắc chắn sẽ thành công.

Người nào đã biết chân thành nhận lãnh khổ đau và khuyết điểm của chúng sinh về phần mình thì cũng nên tập cách tặng cho chúng sinh tất cả mọi đức tính tốt lành cũng như mọi hạnh phúc mình đang có.

Bảy câu kệ trên dạy phương pháp tu hạnh bồ đề thuộc lãnh vực qui ước, đó là phần phương tiện. Câu kệ thứ tám nói về tâm bồ đề cứu cánh, là phần trí tuệ. Tu hạnh bồ đề qui ước thì tích  tập được phước đức tư lương, còn tu hạnh bồ đề cứu cánh thì tích tập được trí tuệ tư lương. Hai nguồn năng lực tư lương phước trí này sẽ giúp ta thành tựu Sắc thân [Rupakaya] và Pháp thân [Dharmakaya].

8.   Nguyện những điều nói trên
Không bị vướng ô nhiễm
Bởi tám ngọn gió chướng.
Nguyện tôi  thấy mọi sự
Hiện ra trong cõi đời
Ðều chỉ như huyễn mộng
Cho tâm thôi chấp bám
Thoát ràng buộc luân hồi.

Tu để được sống lâu, tăng sức khỏe hay để được an vui thành đạt trong cuộc sống là không đúng. Tu để người khác thấy mình là đại hành giả cũng không đúng. Tu và thấy đối tượng của lòng từ bi của mình có tự tánh, cũng không đúng.

Phải tu và hiểu rằng mọi sự đều như huyễn mộng. Thấy được mọi sự như huyễn mộng là vì đã phủ nhận tự tánh của sự vật, bỏ lại phía sau tất cả những gì là giả danh, là danh từ và khái niệm. Ðó là chứng ngộ trong Phật giáo.

Chúng ta có nói qua về tri kiến và hành động trong Phật giáo. Tri kiến Phật giáo được gọi là duyên khởi. Duyên khởi tuy có nhiều ý nghĩa, nhưng ý nghĩa vi tế nhất của duyên khởi rất gần với tuệ giác tánh không.

Duyên khởi nói rằng không có điều gì thật sự có tự tánh. Hiểu được duyên khởi là có được lòng tin chắc chắn về luật biến hóa của thế giới hiện tượng qui ước. Từ đó mà tu hạnh bồ đề để tích tập phước đức, và thiền quán tánh không, quán sự vật không có tự tánh, để tích tập trí tuệ.

Phát tâm bồ đề rồi dựa vào tâm ấy để tu sáu hạnh toàn hảo: Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Ðịnh và Tuệ. Sáu hạnh toàn hảo còn có thể qui nạp thành ba môn vô lậu học: Giới, Ðịnh, Tuệ.

Giới là tự chế ngự, không làm việc bất thiện. Có tất cả ba bộ giới: một là giới Ba la đề mộc xoa [Pratimoksha hay Vinaya], còn gọi là “giải thoát cá nhân”; hai là giới Bồ tát; ba là giới Kim cang.

Giới Ba la đề mộc xoa có hai loại, dành cho người xuất gia và dành cho cư sĩ. Cư sĩ có thể nhận hai loại giới, hoặc giới nhận một ngày,  hoặc giới nhận một đời.

Căn bản của mọi giới là tránh phạm mười ác nghiệp, trong đó có ba việc của thân: sát sinh, trộm cắp, tà dâm; bốn việc của miệng: nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời thô ác, không cần mà nói; ba việc của ý: tham lam, ác ý, tà kiến.

Tà kiến nói ở đây chủ yếu là đoạn kiến, nghĩa là quan niệm sai lầm cho rằng tất cả mọi sự rỗng rang không thật. Ngoài ra còn những loại tà kiến khác như là tin có đấng sáng tạo vạn năng.

Nói về giới Bồ tát, quan trọng nhất phải biết dứt lòng vị kỷ, đừng xem mình quan trọng hơn người khác, được như vậy  thì giữ được giới Bồ tát.

Riêng nói về mật tông, mật tông có bốn bộ. Muốn hành trì hai bộ mật tông cao nhất, phải thọ trì một số giới luật gọi là giới Kim cang. Muốn giữ giới Kim cang, quan trọng nhất phải biết tự chế không để tâm hiện tướng thế tục, cũng không để tâm chấp bám vào sắc tướng cõi thế tục.

Nói về ba môn vô lậu học Giới Ðịnh Tuệ, Giới là nền tảng của Ðịnh, và Ðịnh là nền tảng của Tuệ. Một khi Giới đã vững, phải tu Ðịnh và Tuệ.

Mặc dù Đại thừa hiển tông có hướng dẫn phương pháp tu Ðịnh và Tuệ, nhưng Phật tử Tây Tạng tin rằng trên lãnh vực này pháp tu Đại thừa mật tông thâm diệu hơn.

B. Một pháp thiền Tây Tạng

Vài ba năm trước, tôi có soạn một tập sách nhỏ mang tựa đề Pháp Thiền Mật Tông Đơn Giản dành cho Phật Tử Nhập Môn [xin đọc Phụ lục 1 trước khi đọc tiếp bài giảng này], dành cho những người quan tâm đến Phật giáo mật tông Tây Tạng nhưng chưa có cơ hội nhận pháp quán đảnh[18].

Ở đây xin miễn giải thích mấy câu mở đầu tập sách. Hãy bắt đầu từ đoạn “Quán tưởng”, với câu “Ngay khoảng không trước mặt hiện ra trong quán tưởng…” v.v., hướng dẫn phương pháp quán tưởng năm đấng Bổn tôn[19]: Phật Thích Ca ở giữa, xung quanh có bốn vị đại Bồ tát: Quan tự  tại, Kim Cang Thủ, Văn Thù Sư Lợi, và Tara [Độ Mẫu].

Ở đây xin nói thêm, mặc dù Phật giáo phủ nhận thuyết hữu thần, không công nhận có đấng sáng tạo vạn năng, nhưng trong Phật giáo, nhất là Phật giáo mật tông, có nói đến mạn đà la và các vị thần. Lý do là vì bậc giác ngộ có khả năng thị hiện nhiều sắc tướng khác nhau. Phật Thích Ca vẫn thường hóa hiện nhiều thân khác nhau để tạo lợi lạc cho chúng sinh, để chúng sinh có cơ hội thấy được thân Phật. Tướng, sắc và dạng của hóa thân Phật đều tùy khả năng khuynh hướng của mỗi chúng sinh mà hoạt hiện.

Mặc dù hóa thân Phật đều từ trí toàn giác của Phật mà có, nhưng vì hoàn cảnh và căn cơ của chúng sinh khác nhau nên thân thị hiện của Phật cũng mang nhiều sắc tướng khác nhau. Ngược lại, Pháp thân không hình sắc nên ngoài chư Phật ra, không ai có thể nhìn thấy. Mật pháp Kalachakra [Luân Thời] có hơn bảy trăm chư tôn trong mạn đà la Kalachakra, thật ra đều từ trí Phật hiện ra, đều là diệu dụng của trí Phật.[20]

Ở đây, đức Quan Tự Tại là hiện thân của lòng từ bi Phật [bi]; đức Văn Thù Sư Lợi là hiện thân của trí tuệ Phật [trí]; đức Kim Cang Thủ là hiện thân của năng lực [dũng] của chư Phật; và đức Tara, thân nữ của đức Quan Tự Tại, là hiện thân của thiện hạnh của chư Phật.

Theo Mật tông Tối thượng Du già, hai vị đại đệ tử của Phật là tôn giả Mục Kiền Liên và tôn giả Xá Lợi Phất cũng đều là Bồ tát. Nhưng nói chung hai ngài không phải là hiện thân của thiện đức của Phật.

Nói gọn lại thì “cảnh nhiệm mầu trong quán tưởng” là như sau: Phật ngồi ở tòa sen chính giữa, chân xếp theo tư thế kiết già, tay phải bắt ấn “mời đất chứng giám” [xúc địa], tay trái cầm bình bát ngang bụng; hai bên đức Phật, hơi thiên về phía trước, là tôn giả Xá Lợi Phất và tôn giả Mục Kiền Liên. Pháp là từ bỏ trọn vẹn cả hai chướng ngại, phiền não chướng và sở tri chướng, vì vậy Pháp đi liền với tâm thức, không hình sắc. Trong hình ảnh quán tưởng, Pháp được thể hiện qua những cuốn kinh, đặt trên bàn phía bên phải của đức Phật. Sau đó, quán tưởng trí toàn giác vô sắc tướng của đức Phật qua dạng bảo tháp, đặt ở phía bên trái của đức Phật. Kinh sách bên phải đức Phật (là Diệt đế và Ðạo đế nơi Phật), và bảo tháp bên trái đức Phật (là trí toàn giác của Phật), tất cả đều thuộc về Pháp bảo.

Vậy cảnh nhiệm mầu này hội đủ ba nẻo qui y, Phật bảo là Phật ngồi chính giữa, Tăng bảo là chư Bồ tát và hai đại đệ tử hai bên, và Pháp bảo và kinh sách và bảo tháp. Trong ba nẻo qui y này, nẻo qui y chân chính là Pháp bảo, vì từ trong tâm thức hễ thành tựu được Pháp là giải thoát được toàn diện khổ não. Vì vậy Pháp chính là nơi chở che chân chính.

Ðể tâm đạt được kinh nghiệm thành tựu của Pháp, chúng ta cần một vị thầy dẫn dắt. Ðó là Phật, là đấng đại đạo sư. Ta cũng cần những người bạn đồng hành, cùng tu trên con đường thoát khổ, cần những tấm gương sáng để noi theo. Ðó là Tăng.

Công phu qui y Tam bảo đi đôi với công phu phát tâm bồ đề, vì vậy cần khởi lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh. Ðể khởi lòng từ bi, hãy quán tưởng quanh mình là tất cả chúng sinh. Kẻ thù ngồi trước mặt, vì họ là những người cần được giữ gìn trân quí chứ không phải vì sợ họ chạy trốn nếu để ngồi ở sau lưng.

Ngang đây, Phật tử hãy suy nghĩ cho thật sâu về lòng vị tha, quán niệm về cảnh bất an thiếu hạnh phúc của chúng sinh, về nỗi khổ bén nhọn họ đang phải gánh chịu.

Khi nghĩ về chúng sinh, không nên nghĩ một cách chung chung tổng quát, mà phải nghĩ đến người thân gần như gia đình, bà con, hàng xóm. Bằng không, nói tới đối tượng của lòng từ bi lại giống như nói tới đối tượng của sự tranh chấp.

Bây giờ hãy nghĩ rằng muốn giải thoát khỏi khổ đau và nguyên nhân của khổ đau, ta phải tin chắc rằng điều mà chúng sinh thật sự cần, là thấy được chân tướng của thực tại, thấy được nẻo qui y chân chính sẵn có trong tâm. Với tâm nguyện như vậy, đọc câu qui y sau đây:

Nam mô Phật, [Namo Buddhaya]|
Nam mô Pháp, [Namo Dharmaya]
Nam mô Tăng [ Namo Sanghaya]

Ðọc như vậy ba lần, hai mươi mốt lần, hay càng nhiều càng tốt. Giọng đọc ra sao không quan trọng bằng động cơ và lòng quyết tâm. Hãy phát khởi tâm nguyện trong sáng, khởi chí quyết tâm, rồi đọc những dòng qui y nói trên.

Qui y Tam bảo xong, Phật tử cúng dường bảy hạnh nguyện Phổ hiền, như đã giải thích trong bài tụng.

Sau đó, chú tâm nơi Phật và cảnh nhiệm mầu trong quán tưởng. Bao giờ hình ảnh hiện ra rõ ràng, hãy quán tưởng có đài ánh sáng nằm nơi tim của từng vị. Trên mỗi đài ánh sáng là chủng tự: MUM của Phật,  HRIH của ngài Quan Tự Tại; DHIH của ngài Văn Thù Sư Lợi; HUM của ngài Kim Cang Thủ; và TAM của ngài Tara. Mỗi chủng tự được bao bọc bằng minh chú của từng vị.

Ngang đây, tôi xin truyền lại năm bộ minh chú. Xin đọc theo tôi ba lần:

Om muni muni maha muniye svaha
[ôm mu-ni mu-ni ma-ha mâu-ni-dê soa-ha]
(Minh chú Phật)

Om mani padme hum [ôm ma-ni pê-mê hùm]
(Minh chú đức Quan Tự Tại)

Om wagi shvari mum [ôm wa-ghi soa-ri mâm]
(Minh chú đức Văn Thù Sư Lợi)

Om vajra pani hum  [ôm vai-ra pa-ni hùm]
(Minh chú đức Kim Cang Thủ)

Om tare tuttare ture svaha [ôm ta-rê tu-ta-rê tu-rê soa-ha] (Minh chú đức Tara).

Ðọc năm câu minh chú này càng thường xuyên càng tốt. Trong khi tụng chú phải quán về lòng vị tha, về từ bi, về ơn nặng của chúng sinh đối với mình.

Cứ như vậy, hướng về ba nẻo qui y mở tâm khát khao mãnh liệt. Quán tưởng ánh sáng phóng ra từ chư Phật chư Bồ tát trong quán tưởng.

 

Chú của Phật Thích Ca là chính. OM MUNI MUNI MAHA MUNIYE SVAHA, nghĩa là nắm vững giác ngộ.

Ðức Quan Tự Tại hiện thân cho tâm đại bi của mười phương Phật, vì vậy Phật tử nào đang cố gắng phát tâm đại bi hãy nên chuyên tâm tụng chú OM MANI PADME HUM. Chú này cũng có thể tụng cho người quá vãng.

Ðức Văn Thù Sư Lợi hiện thân cho trí giác và trí tuệ của mười phương Phật đà. Vì vậy tụng chú OM WAGI SHVARI MUM của Văn Thù Sư Lợi rất tốt cho sinh viên học sinh đang đi học. Nếu có người cần kiện tụng tranh cãi, tụng chú này cũng giúp trí óc bén nhọn hơn.

Ðức Kim Cang Thủ hiện thân cho dũng lực và hành động của mười phương Phật đà. Tụng chú OM VAJRA PANI HUM rất tốt khi cần phá tan chướng ngại. Phật tử tu theo chánh pháp không được mê tín dị đoan, tuy vậy có vài trường hợp thật sự bị tà ma cõi khác quấy nhiễu, chú này có thể giúp phá tan loại chướng ngại này.

Ðức Tara hiện thân cho phần nội khí trong sáng thanh tịnh nhất, là loại năng lực trong cơ thể, chuyên chở tâm thức đến với đối cảnh, tác động thành hành động. Khí này là một loại năng lực đặc biệt, rất vi tế. Muốn được an lạc, tăng sức khỏe, tăng mạng sống, hay tăng tài sản, nên tụng chú OM TARE TUTTARE TURE SVAHA, rất hữu hiệu.

Phật tử nào đang muốn tu định, ngang đây nên chú tâm thiền chỉ. Ðề mục thiền chỉ có rất nhiều loại. Hoặc chú tâm vào đối tượng bên ngoài, hoặc chú tâm vào đối tượng bên trong, hoặc chú tâm vào chính tâm mình, hay vào tánh không. Khi ngồi thiền chỉ, Phật tử cần cảnh giác nhận diện năm loại chướng ngại cản trở không cho tâm an định, áp dụng tám món hóa giải. Lại có nhiều điều phải biết về chín giai đoạn phát triển, sáu lực, bốn chánh niệm, v.v…. Những điều này có thể đọc được trong sách khác[21].

Tóm lại, yếu tố quan trọng nhất cần có khi chỉ quán là tâm phải nhập định nhanh và vững, đề mục phải tuyệt đối rõ ràng, tâm quán sát phải thật trong sáng bén nhạy.

Có hai điều khiến tâm không an định, một là trạo cử [kích thích], hai là hôn trầm [trì trệ]. Khi ngồi thiền mà tâm lăng xăng không chuyên chú, đó là trạo cử. Nên nghĩ đến cảnh khổ có thể giảm bớt tình trạng kích thích này. Còn khi ngồi thiền mà tâm rút vào quá sâu phía trong, trở nên nặng nề, trì trệ, có khi biến thành chán ngán u sầu, đó là hôn trầm. Trong trường hợp này, phải ráng nâng tâm lên bằng cách nghĩ đến những điều vui vẻ, hay xả thiền, bước ra trời rộng, hít thở khí trời, ở trong ánh sáng mà ngắm phong cảnh thoáng rộng. Ðó là một vài phương pháp chữa chứng trạo cử và hôn trầm.

Trong lúc ngồi thiền có khi vướng phải trạng thái vi tế của trạo cử và hôn trầm. Ðề mục không còn rõ nét, tâm giảm độ chuyên chú. Gặp trường hợp này không cần phải kết thúc buổi thiền, chỉ cần ráng quân bình tâm lại là được. Còn nếu tâm dễ xao lãng thì nên ngồi thiền trong phòng tối, đối mặt với bức tường.

Phật tử nào muốn nghiêm chỉnh tu định, phải tổ chức chia một ngày thành nhiều buổi ngồi thiền, có thể lên đến hai mươi buổi, mỗi buổi kéo dài khoảng mười phút. Phải cố gắng liên tục, như cố giữ một hòn than sao cho luôn đỏ hồng, không để tắt.

Nếu ngồi thiền quá lâu, tâm dễ rơi vào trạng thái hôn trầm vi tế, đề mục không rõ nét, ngồi thêm chỉ phí thì giờ. Lúc mới tập thiền tốt nhất là đừng ngồi quá lâu. Có nhiều người ngồi trong tư thế rất đẹp, thật ra chỉ đang chìm đắm trong trạng thái hôn trầm, tâm trì trệ mờ mịt. Hôn trầm nhiều sẽ khiến tâm càng lúc càng tối.

Chịu khó ngồi thiền cho thật đúng cách, sẽ có lúc tâm đủ khả năng chuyên chú vào một đề mục suốt bốn tiếng đồng hồ, hoàn toàn không vướng hôn trầm hay trạo cử, được như vậy là tiến bộ rõ rệt. Khi ngồi thiền đúng cách, hệ thống hô hấp có khi sẽ ngừng trong một thời gian.

Tiếp theo là thiền quán về tánh không, về chân tánh của Phật. Mọi sự vốn không có tự tánh, nên đức Phật mà chúng ta về qui y nương dựa cũng không có tự tánh. Trước đây chúng ta có đã suy nghĩ truy tìm về cái tôi, xem tôi là thân hay là tâm, bây giờ hãy theo cùng một phương pháp để phân tích thực tánh của Phật.

Nếu tự hỏi Phật là thân Phật, hay là tâm Phật, sẽ không thấy Phật ở đâu cả. Đức Phật tuy có thật, nhưng khi tìm xem thực chất của đức Phật là gì, sẽ không thể tìm thấy có gì là Phật, dù ở trong hay ở ngoài thân tâm. Từ đó đi đến kết luận đức Phật chỉ là một cái tên gán lên trên hợp thể của các thành phần thân tâm.

Tiếp theo, thử nhớ lại xem đức Phật hiện ra trong trí mình như thế nào. Sẽ thấy cũng tương tự như cái tôi hiện ra rõ ràng chắc thật như một thực thể tuyệt đối, đức Phật cũng vậy, cũng hiện ra trong trí chúng ta như một thực thể tuyệt đối. Lại suy nghĩ rằng nếu đức Phật thật sự là một thực thể tuyệt đối, vậy khi tìm xem danh từ Phật ứng vào cái gì, lẽ ra phải tìm thấy. Nhưng thật sự là không thể tìm thấy. Vì vậy có thể kết luận cái mà chúng ta thấy về đức Phật thật ra không phải là chân tướng của Phật.

Ðể biểu hiện tất cả thế giới hiện tượng khách quan bên ngoài đều là Không, hãy quán tưởng như sau:

Ðức Quan Tự Tại tan nhập vào đầu Phật. Ðức Văn Thù Sư Lợi tan nhập vào yết hầu Phật (cuống họng). Ðức Kim Cang Thủ tan nhập vào ngực Phật. Ðức Tara tan nhập vào rốn Phật. Hai vị đại đệ tử tan vào hai bên thân hình Phật.

Giữ lại hình ảnh một mình đức Phật cho thật rõ ràng, an định nơi đó càng lâu càng tốt. Rồi đức Phật dần tan thành ánh sáng, từ trên tan xuống và từ dưới tan lên, nhập vào đài ánh sáng tròn giữa trái tim.

Đài ánh sáng tan vào chuỗi minh chú. Chuỗi minh chú tan vào chữ MUM ở giữa. Rồi chữ MUM cũng tan thành ánh sáng, chỉ còn lại chóp nhọn trên đầu chữ MUM tiếng Tây Tạng [xem hình phía trên]. Rồi chóp nhọn cũng tan vào tánh không. An trú một lúc trong tánh không của thế giới hiện tượng.

Khi thu nhiếp sắc tướng của Phật về lại tánh không, đừng nghĩ rằng Phật không có thật, mà phải hiểu là Phật không có tự tánh.

Bây giờ từ giữa chân Không, đức Phật cùng chư Bồ tát lại hiện ra. Giữ hình ảnh quán tưởng này trước mặt, rồi hồi hướng công đức, chấm dứt buổi thiền.

C. Hỏi đáp

Hỏi. Khi đạt đến trình độ nhập định của các bậc thánh giả, có cần phải quán tưởng Phật và các vị Bồ tát với đầy đủ mọi tánh đức như vậy hay không? Người tu khi đã đạt đến trình độ cao có thể đến thẳng với Phật mà không cần xuyên qua quá trình quán tưởng hay không?

Ðáp. Theo cách tu mật tông này, có nhiều phương pháp giúp người tu thâm nhập từng tánh đức của Phật, vì vậy mà có lời giải thích về phương pháp quán tưởng như trên.

Trên đường tu nói chung, đúng là không cần phải quán tưởng Phật. Người tu có thể quán về tánh không, hay về tâm Bồ đề, không cần phải quán tưởng thân Phật. Quán tánh không là tu hạnh trí tuệ, còn quán tâm bồ đề là tu hạnh phương tiện.

Mật tông Tây Tạng phần lớn đòi hỏi người tu phải quán tưởng, là vì phương pháp này cho phép người tu, trong cùng một lúc, thành tựu sắc thân và pháp thân. Thành Phật là để cứu độ chúng sinh. Cái có khả năng cứu độ chúng sinh là sắc thân chứ không phải pháp thân. Vì vậy Bồ tát vì tâm bồ đề mà phải cố gắng thành tựu sắc thân.

Muốn thành tựu sắc thân, cần thuận theo nhân quả, tích tụ đầy đủ nhân duyên dẫn đến sắc thân. Nhân quả chi phối toàn bộ mọi hiện tượng vô thường, kể cả quả vị Phật, vì vậy cần gom đủ nhân tố và duyên tố để thành tựu sắc thân. Nhân tố này không thể có nhờ tu hạnh trí tuệ, chỉ có thể có nhờ tu hạnh phương tiện. Phước là nhân, thành tựu sắc thân là quả.

Ðại thừa hiển tông dạy sáu hạnh ba la mật. Tuy sáu hạnh này cũng có thể làm nhân duyên thành tựu sắc thân Phật, nhưng nhân tố chánh yếu vẫn nằm trong mật pháp Tây Tạng. Đó là một loại năng lực đặc biệt, gọi là khí. Còn tuệ giác tánh không là nhân tố chính yếu giúp thành tựu pháp thân.

Vì thân Phật có hai, nên nhân duyên thành tựu quả vị Phật cũng có hai. Nếu phần năng lượng đặc biệt gọi là khí không được phát khởi cùng lúc với tuệ giác tánh không, sẽ không thể có cái gọi là kết hợp phương tiện và trí tuệ. Vì vậy người tu cần phát khởi một loại tâm thức có đủ hai tính chất trí tuệ và phương tiện, nhờ đó đồng loại thành tựu sắc thân và pháp thân.

Nếu hỏi sắc thân của Phật ra sao, đương nhiên là không có câu trả lời. Không thể nói sắc thân của Phật trông giống như pho tượng. Nhưng ít ra chúng ta có thể có chút khái niệm về hình ảnh của Phật mà con người trong thế giới này có thể tưởng tượng ra được. Phải lấy hình ảnh đó, hình ảnh của vị Bổn tôn với những sắc tướng tương tự như sắc thân của Phật, rồi chú tâm vào đó, quán về tánh không của hình ảnh này.

Ở đây người tu thấy được ảnh hiện của vị Bổn tôn, đồng thời hiểu được tánh không của hình ảnh ấy. Vậy tâm này có đủ hai tính chất, quán hình dáng của vị Bổn tôn, và hiểu về tánh không. Hạnh phương tiện và hạnh trí tuệ đều gói trọn đầy đủ trong cùng một tâm.

Vì lý do này cần phải quán tưởng về đức Phật cùng chư Bồ tát trong mạn đà la.

Hỏi. Kính thưa đức Đalai Lama, tôi thường thấy trong chùa hay treo trên tường dòng chữ sau đây:

Mọi sự[22] như bóng nước
Trong sáng, thanh tịnh, không loạn động
Không thể chấp bám, ngoài tầm nghĩ bàn
Không tự tánh, không trú xứ, chỉ do nhân, nghiệp mà có.

Xin ngài cho một lời giải thích về những dòng này.

Ðáp. Câu thứ nhất nói rằng, nếu lấy tâm của người bình thường như chúng ta đây mà xét, tất cả mọi hiện tượng đều như ảnh hiện trên mặt nước. Mặc dù hiện ra như vậy, nhưng chân tướng lại khác. Nhìn tựa như có tự tánh, nhưng thật sự không phải là một thực thể tuyệt đối. Vì vậy có sự mâu thuẫn ở đây. Cũng giống như khuôn mặt hiện ra trên mặt nước trông giống khuôn mặt thật, nhưng thật ra không phải.

Câu thứ nhì nêu ra ba yếu tố: trong sáng, thanh tịnh, không loạn động. Câu này ứng vào ba loại chướng ngại cần buông xả, đó là chướng ngại đến từ phiền não [phiền não chướng], chướng ngại án ngữ trí tuệ [sở tri chướng], và chướng ngại ngăn cản tâm an định. Câu này nói rằng nhờ thấu triệt tánh không mà người tu thoát khỏi ba loại chướng ngại này.

Câu thứ ba nói về sự “không thể chấp bám, ngoài tầm nghĩ bàn”, có nghĩa là không thể dùng tâm phân biệt của kẻ phàm phu như chúng ta đây mà đạt đến kinh nghiệm giác ngộ. Kinh nghiệm giác ngộ này cũng không thể dùng khái niệm để mà giải thích.

Câu chót nói “không tự tánh, không trú xứ, chỉ do nhân, nghiệp mà có”, câu này ứng vào ba cánh cửa giải thoát[23].

Hỏi. Nếu sự vật chỉ do tâm thức đặt tên, vậy có phải tất cả chỉ có trong trí tưởng tượng?

Ðáp. Mặc dù đích thật mọi sự đều chỉ là giả danh, ngoài danh từ và khái niệm ra hoàn toàn không có thực thể nào cả. Tuy vậy, khái niệm mà tâm thức gán đặt lên trên một vật vẫn không thể biến thành chính vật đó. Tâm thức không thể tùy tiện thao túng thế giới hiện tượng như vậy được. Bằng không, nhận thức đúng đắn và nhận thức sai lầm sẽ không khác gì nhau, đúng sai sẽ hoàn toàn đồng nhất.

Sự vật tuy có thật, nhưng khi phân tách lại thấy không phải là một thực thể tuyệt đối, vì vậy mà nói sự vật chỉ là giả danh. Nói như vậy không có nghĩa là gán đặt khái niệm nào lên cái gì thì cái ấy sẽ biến thành chính khái niệm ấy.

Trong Trung Quán Luận, ngài Long Thọ phủ nhận quan điểm cho rằng Phật không phải là bậc toàn giác vì có khi hỏi mà Phật không trả lời. Ngài Long Thọ nói rằng sự im lặng này mới chính là bằng chứng của trí toàn giác của Phật.

Nói như vậy có nghĩa là nếu biết nói ra không giúp được gì thì nên im lặng. Một khi đã nói, lời nói phải mang lại lợi ích. Trong mười ác nghiệp, có nghiệp gọi là nói lời chia rẽ. Nếu nói để chia rẽ bạn bè thì dù nói thật cũng vẫn không phải là điều hay, cần phải tránh. Khi lời nói mang lại lợi ích thì dù nói không đúng sự thật cũng vẫn là thiện nghiệp. Tất cả đều tùy lời nói có mang lại lợi ích gì hay không.

Trong một số giáo pháp, Phật dạy rằng ngũ uẩn như gánh nặng, mình là kẻ khuân vác. Ở đây, Phật giải thích cái tôi như một chủ thể tuyệt đối. Ðiều này mâu thuẫn với giáo thuyết rốt ráo của Phật. Phật nói vậy là để tạo lợi ích cho những người tin tưởng quá sâu vào cái tôi. Nếu nói thẳng rằng cái tôi không có thật, những người này sẽ đi đến kết luận sai lầm rằng chẳng có cái gì thật sự quan trọng.

Hỏi. Thưa đức Đalai Lama, lý luận có phải luôn có giá trị tuyệt đối hay không?

Ðáp. Có vài loại hiện tượng có thể dùng trí thông minh bình thường để mà hiểu được. Lại có loại hiện tượng không thể nhận thức, tiếp cận, trừ phi tâm thức đạt đến trình độ cao siêu hơn. Nhưng ngay cả những trạng thái tâm thức cao siêu cũng phải thuận theo lý luận.

Phật giáo Đại thừa có câu khẳng định rằng giáo pháp của Phật có hai loại: loại mang nghĩa rốt ráo và loại mang nghĩa giai đoạn[24]. Một số giáo pháp của Phật có thể hiểu theo nghĩa đen, một số khác không thể.

Vậy làm sao có thể phân biệt đâu là ý nghĩa rốt ráo, đâu là ý nghĩa giai đoạn? Chỉ nhờ vào lý luận. Vì Phật luôn tùy hoàn cảnh mà đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau. Ðể tránh tình trạng đoán mò, cần phán xét dựa trên nền tảng của lý luận. Luận điểm nào không thể dùng lý luận để bác bỏ, luận điểm ấy mang nghĩa rốt ráo của lời Phật dạy.

Hỏi. Thưa ngài, trong mật giáo chúng ta cần quán tưởng kẻ thù đứng trước mặt. Kẻ thù chân chính thật ra là tâm hư vọng, vậy có cần phải giữ tâm hư vọng đứng ở trước mặt như vậy hay không?

Ðáp. Chúng ta cần phải đồng ý với nhau rằng, nói theo lẽ thông thường, có nhiều loại người được xem là bạn hay là thù. Mặc dù có những trường hợp chúng ta tưởng lầm bạn là thù vì không hiểu được động cơ hành động của người ấy, nhưng nói chung, vẫn có thể đồng ý với nhau rằng có người được chúng ta gọi là bạn, lại có người bị chúng ta xem là thù.

Nếu có thứ kẻ thù từ đầu chí cuối vẫn luôn là thù thì kẻ thù ấy chỉ có thể là tâm hư vọng của chính mình. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta không có kẻ thù bằng xương bằng thịt phía bên ngoài.

Nếu có người cố tình hại ta, người này cần được xem là đối tượng của lòng kiên nhẫn: nhờ người ấy, ta có thể thực hành hạnh nhẫn. Còn nếu chú tâm vào vọng tâm của mình để tu hạnh nhẫn thì chẳng được lợi ích gì. Mục đích của phương pháp tu này là để loại bỏ tâm lý thù hận và thương yêu thường vẫn dấy lên trước người được xem là thù hay bạn, để cố gắng chận đứng những xáo trộn tình cảm đến từ phiền não.

Trong trận chiến chống kẻ thù bên trong, Phật giáo dạy bước đầu tiên phải là phòng thủ. Bước thứ nhì mới là tấn công. Khi mới bước vào đường tu, chúng ta không có khả năng chiến thắng phiền não, vì vậy phải cố gắng phòng thủ để tâm khỏi rơi vào tầm khống chế của phiền não. Ðiều người cư sĩ có thể làm ngay tức khắc là tự chế không để thân miệng ý phạm mười ác nghiệp, như sát sinh, trộm cắp v.v… Ðây là phương pháp có thể tu liền tức thì.

Nói chung, ai cũng thấy sát sinh là tội ác. Phần lớn pháp luật quốc gia đều trừng phạt tội giết người. Và ai cũng công nhận trộm cắp là không tốt. Là Phật tử, tu hành theo Phật pháp, cho dù có cảnh sát đứng một bên hay không, cũng vẫn phải giữ gìn hành vi của mình cho thật trong sáng. Tránh sát sinh, tránh trộm cắp. Phật tử có riêng một đại đội cảnh sát nằm ngay trong tâm. Bao giờ cũng cảnh giác, luôn xem xét hành động lời nói ý nghĩ của chính mình, luôn cẩn thận nhìn xem động cơ hành động của mình có trong sáng hay không.

Có một phương pháp rất hữu hiệu, là mỗi sáng thức dậy tự nói với mình như sau: “Từ giờ cho đến khi chết sẽ luôn như vậy, nhưng đặc biệt ngày hôm nay, tôi sẽ ráng sống trong chánh đạo. Phải cố gắng giúp đỡ người khác, ít ra là không gây hại cho ai”. Dù là thương gia, kỹ sư, nhà giáo, hay làm bất cứ nghề nào, cũng phải nên sống theo như vậy. Ngay cả trong chiến tranh cũng cần giữ giới. Dù có phải giết người cũng phải hành động trong tinh thần giữ giới, đừng đánh mất tính người. Chỉ làm vì không thể khác hơn được.

Chiến tranh thời nay sử dụng quá nhiều vũ khí máy móc nên mất hết tính người. Máy móc đương nhiên không có lòng thương cảm, vì vậy chiến tranh thời nay rất tàn khốc. Ðàn bà trẻ em bị giết chỉ vì bom đạn không có ý thức, không biết phân biệt.

Tôi thật sự nghĩ rằng chúng ta đang dựa vào máy móc quá nhiều. Trong lãnh vực xây dựng, máy móc rất hữu ích, nhưng không phải ở lãnh vực nào cũng vậy. Ðời sống hàng ngày của con người cần được đặt trên nền tảng của luân lý.

Ðội ngũ cảnh sát, cơ quan tình báo, tòa thẩm phán, tất cả phải nằm ở bên trong. Chúng ta nên tự làm cảnh sát và quan tòa cho chính mình. Nếu làm điều gì sai, cần nhận diện, tự trách phạt, không phải trách phạt thể xác mà trách phạt tinh thần. Phải biết hối hận nhận lỗi.

Rồi buổi tối trước khi đi ngủ, đừng đếm lời lỗ tiền bạc mà hãy soát lại hành vi tâm thức của mình trong ngày. Tự hỏi xem tâm mình đã làm được bao nhiêu việc tốt lành, đã phạm bao nhiêu điều bất thiện.

Cố gắng để ý như vậy, dần dần sẽ tiến bộ. Người dễ nổi giận sẽ ôn hòa hơn. Ðó là bước đầu tiên trên đường tu. Từ từ sức mạnh nội tại tăng, tâm có khả năng tự chế không phạm điều bất thiện, chúng ta trở thành người chân thành, với trái tim nhân hậu, không hại người khác, giàu lòng từ bi, nhiều quan tâm đến kẻ khác. Những đức tính này càng tăng, tâm càng an định tự tại. Người tu sẽ thấy mình giàu can đảm giàu nghị lực hơn, ý chí cũng mạnh hơn. Ðó là những đức tính tốt của con người.

Tôi thường nói từ bi nhân hậu là giá trị chung của mọi tôn giáo, dù tin tái sinh hay không, tin đấng Tạo hóa hay không, tin Phật hay không. Sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ chết. Nếu đợi đến khi chết mới nhìn lại quá khứ để hối hận thì đã quá muộn, đúng không ? Ngay bây giờ phải biết sống từng ngày cho thật có ích. Ðừng hại kẻ khác, gắng sức giúp đỡ mọi người. Ðến phút cuối cùng, quí vị sẽ thấy hài lòng với đời sống của mình. Dù bạn bè người thân vẫn sẽ khóc, nhưng quí vị không có gì để hối tiếc. Là Phật tử, quí vị cấy trồng những hạt giống tốt lành trong đời này, vì vậy có thể tin chắc rằng kiếp sau sẽ tốt đẹp hơn.

Cứ tu như vậy, đến một lúc nào đó ta sẽ phải bắt đầu nghĩ đến tánh không. Ðây là điểm khởi đầu của giai đoạn tu thứ hai, là giai đoạn tấn công kẻ thù phiền não. Ở đây cũng vậy, yếu tố chính vẫn là động cơ, là tâm nguyện của mình. Nếu tôi nhớ không lầm, cựu thủ tướng Morarji Desai có lần nói với tôi về tinh thần bất bạo động, cho rằng phương pháp hành động mới là điều đáng nói. Dù động cơ và kết quả có tốt lành chăng nữa, nếu dùng phương pháp bạo động thì vẫn không phải là điều hay. Ðó là quan điểm của cựu thủ tướng.

Trong quan điểm Phật giáo, động cơ và kết quả luôn quan trọng hơn phương pháp hành động. Nếu động cơ tốt mà kết quả xấu thì động cơ quan trọng hơn. Dù không thành công, nếu tâm nguyện chân thành thì vẫn tốt hơn.

Tây Tạng có một câu chuyện như sau: một hôm trời đổ mưa lớn, bên đường có pho tượng Phật đẫm nước mưa. Có người đi ngang thấy vậy nghĩ rằng: “Không thể để Phật ướt”. Anh ta nhìn quanh, thấy có đôi giày cũ vất bên đường, bèn nhặt để lên đầu tượng Phật để che mưa.

Một người khác đi ngang, thấy vậy nghĩ rằng: “Ai lại để giày trên đầu tượng Phật?” Anh ta bèn lượm giày vất đi. Cả hai đều có tâm tốt lành đối với tượng Phật, vì vậy hành động tuy trái ngược nhưng đều gieo thiện nghiệp như nhau.

Như vậy chúng ta vừa nói xong về phương pháp điều phục, thanh tịnh và chuyển hóa tâm thức. Ðây là những vấn đề rất quan trọng, rất khó tu trong bước khởi đầu. Nhưng với thời gian, nếu quí vị chịu khó kiên trì cố gắng, nhất định sẽ có tiến bộ.


<< Đọc Tiếp >>


Mục lục

 Chương 4: Tổng quan Phật giáo

 

A. Tôn giáo và đời sống

Ðời nay việc nhẫn tâm tàn bạo càng lúc càng xảy ra nhiều hơn, vì vậy lời dạy của Phật về tâm bất hại trở nên đặc biệt quan trọng.

Cũng như Thánh Gandhi, tôi tin rằng lời Phật dạy cùng lời dạy của nhiều bậc thầy Ấn Độ thời xưa phải được mang ra áp dụng vào đời sống hàng ngày. Tốt nhất là nắm lấy phần tinh túy rồi áp dụng vào đời sống gia đình xã hội. Bằng không, nếu để tôn giáo tách lìa khỏi đời sống con người, vậy có tôn giáo cũng như không. Còn nếu cứ sống đời sống hàng ngày không chú ý gì đến tôn giáo, làm như vậy cũng không nên.

Tôi cảm thấy song song với nền phát triển khoa học kỹ thuật, Ấn Độ nên duy trì kho tàng văn hóa của mình. Nếu trong tương lai con người trên toàn thế giới sống hòa đồng, nhân loại chân thành tự nguyện thành người một nhà, xóa hết mọi sai biệt tranh chấp, khi ấy nền văn hóa riêng của từng dân tộc sẽ không quan trọng nữa, không cần phải bảo tồn. Nếu một ngày hoàng kim như vậy có xảy ra, mỗi dân tộc đều có thể xả bỏ sắc thái riêng của mình.

Trong lúc chờ đợi, tôi tin rằng mỗi dân tộc cần duy trì nền văn hóa riêng. Ðiều này lại càng đúng cho nền văn hóa Ấn Độ cổ. Nền văn hóa này có liên hệ chặt chẽ với tiến bộ tâm linh. Tiến bộ vật chất cần đi chung với văn hóa, và văn hóa lại rất gần với tiến bộ tâm linh.

Như đã nói, đây chỉ là một buổi nói chuyện thân mật, chúng ta cùng gặp nhau để trao đổi kinh nghiệm, bàn luận về một số vấn đề liên quan đến khổ đau và hạnh phúc, xem bằng cách nào có thể giảm bớt khó khăn trong cuộc sống, tăng thêm niềm an lạc. Tâm an lạc thì không khí gia đình sẽ yên ấm, nhờ vậy các thế hệ con cháu về sau cũng đều được hạnh phúc.

B. Tứ đế và duyên khởi

Mỗi khi gặp khó khăn trong cuộc sống, có một phương pháp đối phó rất đơn giản là quên đi tất cả. Bao giờ tinh thần mỏi mệt, tâm trí nặng nề, ta có thể vất hết sau lưng, đi nghỉ mát vài ngày, một tuần. Nhưng phương pháp này dù sao vẫn rất tạm bợ. Vấn đề còn nguyên chưa được giải quyết.

Còn một cách đối phó khác là nhìn thẳng vào vấn đề, phân tích tìm hiểu nguyên do. Vấn đề nào cũng vậy, đứng gần mà nhìn sẽ thấy vĩ đại, cơ hồ không thể kham. Nhưng cũng cùng một vấn đề mà đứng từ xa nhìn lại sẽ thấy thật ra không có gì đáng nói. Vì vậy đối trước mọi vấn đề, chúng ta nên phân tích mổ xẻ, suy nghĩ cho tường tận.

Trước khi lên đường tìm đạo, Phật nhìn ra nỗi thống khổ của kiếp làm người, biết rằng khổ đau là điều không ai mong cầu, vì vậy Phật đi tìm con đường diệt khổ. Khi chưa giác ngộ, còn bước trên đường tìm đạo, Phật có lần chọn tu lối khổ hạnh. Sáu năm khổ tu, gần như không ăn uống. Ðiều này mang nhiều ý nghĩa, qua đó chúng ta có thể thấy tu hành đòi hỏi nhiều can đảm, nhiều quyết tâm, phải sẵn sàng chịu khó nhọc. Cuộc đời của nhiều vị thầy từ nhiều tôn giáo khác cũng tương tự vậy, thường phải hy sinh rất nhiều để thanh tịnh sám hối.

Sau khi giác ngộ, giáo pháp đầu tiên Phật dạy là Tứ đế, [Tứ diệu đế – bốn chân lý nhiệm mầu]. Tứ đế được giải thích trên căn bản của luật nhân quả.

Cái được gọi là luân hồi, còn gọi là cõi ta-bà, thật ra chỉ là quá trình luân chuyển từ nhân – là hành động sai quấy – đến quả – là khổ đau. Niết bàn giải thoát là kết quả của sự vượt thoát quá trình luân chuyển nói trên.

Trong Tứ đế, hai chân lý đầu tiên là Khổ đế [chân lý về khổ] và Tập đế [chân lý về nguyên nhân của khổ]. Phật dạy hai chân lý này là để giải thích về luân hồi và về động lực ràng buộc chúng sinh trong luân hồi. Sau đó Phật dạy tiếp hai chân lý sau: Diệt đế là niết bàn giải thoát, nghĩa là trạng thái an lạc tận diệt khổ đau, và Ðạo đế là con đường dẫn đến sự tận diệt khổ đau nói trên. Vì vậy Phật vạch rõ Tứ đế như sau: “Đây là chân lý về khổ; đây là chân lý về nguyên nhân của khổ; đây là chân lý của sự diệt khổ; và đây là chân lý về con đường diệt khổ”.

Nhận diện Tứ đế rồi, Phật đưa ra phương pháp cụ thể giúp Phật tử hiểu về Tứ đế. Ðể hiểu Tứ đế và áp dụng Tứ đế vào công phu tu tập hàng ngày, Phật dạy chúng ta phải biết nhận diện khổ đau để buông bỏ mọi nguyên nhân tạo khổ. Nếu không biết khổ đau tai hại như thế nào sẽ không thể ra sức tận diệt khổ đau. Vậy trước tiên phải thấy rằng chính sự hiện diện của luân hồi là khổ đau. Nếu hiểu rằng luân hồi, nguyên nhân tạo khổ, là điều cần buông bỏ và sự tận diệt của khổ đau là điều cần thành tựu, thì sẽ tận lực bước theo con đường diệt khổ. Phải tu như vậy mới có thể chấm dứt khổ đau.

Khi quán chiếu về khổ, chúng ta sẽ gặp một số mâu thuẫn mặt ngoài, ví dụ Phật có nói: “Cần nhận diện khổ đau nhưng không có khổ đau để nhận diện; cần xả bỏ nguyên nhân tạo khổ, nhưng không có gì để xả bỏ; cần thành tựu sự tận diệt [của khổ đau], nhưng không có gì để thành tựu; cần tu theo con đường giải thoát, nhưng không có đường nào để tu”.

Mâu thuẫn như vậy là vì khi quán niệm về khổ đau, sẽ thấy không có khổ đau nào có chủ thể khách quan hiện hữu độc lập. Ngược lại, cả khổ đau luân hồi lẫn an lạc niết bàn đều chỉ do nhân duyên kết hợp mà thành. Không có gì hiện hữu độc lập, tất cả đều tùy thuộc nhân duyên.

Tiếp theo Phật dạy thuyết mười hai duyên khởi [thập nhị nhân duyên] để giải thích rõ hơn về khổ, về nguyên nhân tạo khổ, về quá trình hình thành của khổ. Duyên khởi có mười hai chi, đó là 1. vô minh [mù quáng]; 2. hành [hoạt động]; 3. thức [nghiệp thức]; 4. danh sắc [tập hợp tâm lý vật lý]; 5. lục nhập [sáu giác quan sinh hoạt với sáu đối tượng]; 6. xúc [giao tiếp]; 7. thọ [cảm giác]; 8. ái [lưu luyến]; 9. thủ [bám víu]; 10. hữu [hiện hữu]; 11. sinh [chào  đời]; 12. lão tử [già, chết][25].

Thuyết duyên khởi nói rằng mười hai chi duyên khởi cứ theo thứ tự, chi trước sinh ra chi sau, nếu chi trước không có thì chi sau cũng không có. Vậy muốn chấm dứt già và chết thì phải dẹp bỏ thủ phạm sinh ra sự già và chết, dẹp bỏ cái gốc mà mình không muốn, đó chính là sự tái sinh trong luân hồi do nghiệp và phiền não tác động. Muốn đừng tái sinh trong luân hồi, phải chấm dứt vô minh. Một khi chi duyên khởi đầu tiên là vô minh bị phá vỡ, mười một chi còn lại cũng sẽ tự tan biến.

Khổ phát sinh như thế nào? Một vị cao tăng Ấn Độ tên Vô Trước [Asangha] có giải thích về vấn đề này qua thuyết “ba duyên tố”[26]. Duyên tố thứ nhất là bất động[27]. Bất động có nghĩa là khổ đau sinh ra từ ý[28] chứ không phải từ một đấng sáng tạo vạn năng. Khổ đau có, là vì có nhân duyên tạo khổ đau. Duyên tố thứ hai là vô thường. Vô thường có nghĩa là mặc dù khổ đau sinh ra từ nhân duyên tạo khổ, nhưng nhân duyên tạo khổ này tự nó cũng phải là một hiện tượng vô thường, vì hiện tượng thường hằng không có khả năng tạo tác dụng. Duyên tố thứ ba được gọi là nhân quả tương ứng. Nói nhân duyên là vô thường vẫn chưa đủ, cần nói thêm rằng nhân nào sinh quả nấy chứ không phải nhân nào sinh quả nào cũng được.

Phật nhận diện nguyên nhân của khổ là vô minh.

Phật giáo không công nhận có đấng sáng tạo, mà nói chính tâm là tạo hóa. Tâm ô nhiễm sinh quả ô nhiễm. Tâm thanh tịnh thì ô nhiễm dứt, sinh quả trong sáng tốt lành.

Tôi thường hay nói Phật giáo là đạo của con người, không dính gì đến Chúa trời, hay Thánh, Thần. Phật giáo dạy cách hành xử và chuyển hóa tâm. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là Phật giáo không công nhận có những đấng phi phàm. Nếu nói về kinh nghiệm giác ngộ của những đấng phi phàm, không những Phật giáo cũng có Thần, Thánh, Trời, mà còn có rất nhiều, có hàng triệu vị. Ðiều này Phật giáo công nhận là có. Nhất là trong Phật giáo mật tông, có rất nhiều vị hung thần, thiện thần. Tất cả những bậc Bổn tôn, thánh, thần, thiên tử, thiên nữ, đều là hiện thân của cùng một vị, hay cũng có khi chỉ từ tâm của chính mình mà ra.

Nhưng đối với Phật tử thì quan trọng nhất vẫn là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đấng đại đạo sư toàn hảo, đầy từ bi trí tuệ, đã dựa vào kinh nghiệm cá nhân mà vạch đường chỉ phương tiện cho chúng ta biết cách thanh tịnh tâm thức. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giác ngộ được là nhờ khổ công tu hành.

Phật đích thân giải thích quá trình luân chuyển của mười hai chi duyên khởi, từ vô minh cho đến lão tử, và Phật cũng dạy cho phương pháp phá vỡ vòng xoay này.

Sau khi dạy xong quá trình luân chuyển trong luân hồi và quá trình tận diệt luân hồi nhờ Tứ đế, Phật lại giảng về cái gọi là Nhị đế [hai Chân lý].

Phật nói “phải nhận diện khổ đau nhưng không có khổ đau để nhận diện”, câu nói này thật ra là nói về Nhị đế. Sự vật có thể được nhìn từ hai khía cạnh, một là khía cạnh qui ước của Tục đế, hai là khía cạnh rốt ráo của Chân đế.

Ví dụ như khi nhìn đóa hoa đẹp, chúng ta sẽ thấy hoa này thay đổi luôn luôn. Khi nằm dưới ánh mặt trời lại càng chóng thay đổi. Yếu tố bên ngoài như nóng hay lạnh đều có thể tạo tác dụng lên đóa hoa, đây là điều dễ nhận thấy.

Có người thấy: “Đóa hồng này đẹp lắm! Ðẹp màu, đẹp sắc, đẹp hương”. Có người lại thấy: “Hoa hồng thật dễ sợ. Coi đẹp vậy mà gai nhọn nhiều quá, đụng tới là bị đâm ngay”. Ðóa hoa chỉ có một, nhưng ý kiến lại rất nhiều. Kẻ thấy hay, người thấy dở, lại có người hoàn toàn dửng dưng. Ðó là vì tính chất của đóa hoa vốn tuơng đối, ai muốn thấy sao cũng được. Ðiều này cho thấy đóa hoa lệ thuộc vào nhân duyên bên ngoài. Nếu một vật tự nó là đẹp hay xấu thì bất kể nhìn từ góc cạnh nào cũng sẽ chỉ thấy đẹp hoặc thấy xấu. Sự vật nếu không tùy thuộc nhân duyên thì khi đẹp sẽ luôn là đẹp, khi xấu sẽ mãi là xấu, sẽ hoàn toàn độc lập như vậy. Nhưng đẹp hay xấu thật ra chỉ là khái niệm tương đối. Quan sát một vật thông thường như đóa hoa, rồi quan sát những khái niệm về đóa hoa, sẽ thấy ngay từ đóa hoa phải có một điều gì đó cho phép phát sinh nhiều khái niệm về nó như vậy. “Ðiều gì đó” của đóa hoa, chính là sự không có tự tánh.

Bàn trống thì có thể bỏ đồ lên trên. Bàn đầy sẽ không còn chỗ cho cái gì khác. Chân tánh của sự vật là nền tảng, nhờ đó sự vật có khả năng chở mang đủ loại tính năng khác nhau. Ðiều này cho thấy sự vật hiện hữu dưới hai mức độ. Ở một mức độ, mọi sắc thái khác nhau đều có thể đồng loạt hiện hành trên cùng một nền tảng. Nền tảng này không thể trực tiếp nhìn thấy, nhưng nếu chiêm nghiệm sâu xa sẽ cảm thấy phải có một điều gì đó cho phép tất cả mọi sắc thái khác nhau có thể đồng loạt hiện hữu.

Hai chân lý Chân đế và Tục đế [chân lý rốt ráo và chân lý qui ước] là hai hiện tượng khác nhau. Hiểu về Chân đế và Tục đế sẽ giúp chúng ta hiểu về Tứ đế.

Khổ đế – chân lý về khổ – được giải thích qua cái gọi là hai nguyên nhân: một là phiền não và hai là nghiệp do phiền não tác động. Phật nói phiền não là kết quả của trạng thái vô kỷ luật thiếu thuần hóa của tâm. Trạng thái vô kỷ luật này không phải tự nhiên có, mà sinh ra từ nhân duyên. Vì tùy nhân duyên mà có, nên tâm có thể được chuyển hóa, phiền não có thể diệt. Biết có thể tận diệt được khổ đau phiền não là hiểu được Diệt đế. Vì vậy mà nói phải hiểu Chân đế và Tục đế rồi mới có thể hiểu được tận tường về Tứ đế.

Tứ đế là chung cho Tiểu thừa và Đại thừa, nhưng chỉ Đại thừa mới giải thích sâu xa về Chân đế và Tục đế. Nhờ Chân đế và Tục đế mà hiểu được Tứ đế; và nhờ Tứ đế mà hiểu được Tam Bảo – Phật, Pháp, và Tăng.

Người đạt đến địa vị trong sáng nhất, mọi nghiệp chướng đều thanh tịnh, mọi vọng niệm đều đoạn diệt, thì gọi là Phật. Người đang bước trên con đường thanh tịnh nghiệp chướng thì gọi là Tăng. Tất cả mọi đức tánh tốt lành của Tâm, đó chính là Pháp.

C. Tiểu thừa, Đại thừa, Mật thừa

Phương pháp diệt khổ Phật dạy là Giới Ðịnh Tuệ. Ba môn vô lậu học này nằm trong giáo pháp Tiểu thừa.

Môn đầu tiên là Tuệ. Ðây là vũ khí phá vỡ vô minh. Người tu có đủ khả năng sử dụng vũ khí này một cách mãnh liệt và hữu hiệu hay không, hãy còn tùy tâm có được tập trung định tĩnh hay không, vì vậy Phật dạy tu Ðịnh. Và vì không có Giới thì không thể Ðịnh, nên Phật dạy tu Giới.

Theo Phật giáo Đại thừa, phương pháp hay nhất để tu Giới Ðịnh Tuệ là phát tâm bồ đề. Tâm bồ đề có nghĩa là vì nặng lòng thương xót chúng sinh mà nguyện thành Phật và nguyện tu theo sáu hạnh toàn hảo là Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Ðịnh, Tuệ.

Phương pháp tu mật tông phức tạp hơn. Ðể mau chóng bước đến quả vị Phật, người tu vận dụng một số phương pháp hành thiền đặc biệt, không cho tâm hiện tướng chúng sinh mà chỉ hiện tướng Phật, an định trong sắc tướng nhiệm mầu này để hành thiền. Phương pháp tu mật là như vậy.

Trong mật tông có Mật tông Tối thượng Du già. Cốt lõi của Mật tông Tối thượng Du già nằm ở pháp tu hợp nhất phương tiện và trí tuệ. Phương tiện và trí tuệ có rất nhiều nghĩa. Ở đây, trí tuệ là tuệ giác chứng ngộ tánh không [không tuệ]; phương tiện là đại nguyện muốn thành Phật để cứu độ chúng sinh [tâm bồ đề]. Muốn tu phương tiện trí tuệ, người tu phải nhập định quán tưởng.

Tu theo phương pháp này không nhất thiết phải quán tưởng thân Phật và cảnh Phật, nhưng nếu chọn thân Phật làm đề mục chỉ quán, sẽ được nhiều thuận tiện hơn. Vì vậy ở đây tôi xin hướng dẫn phương pháp quán tưởng năm vị Phật và  Bồ  tát (xin xem phần B, chương ba).

Phương pháp tu này có khi đòi hỏi phải tụng chú, nhưng việc chính vẫn là nhập định quán tưởng. Bao giờ ngồi thiền mệt, thay vì bắt tâm tiếp tục làm việc, người tu có thể bắt cái miệng làm thay, bằng cách tụng chú.

D. Môi trường thích hợp

Phần đầu bài tụng chỉ cách xếp dọn chỗ ngồi thiền.

Chỗ ngồi thiền rất quan trọng đối với người mới bắt đầu tu. Bao giờ có chút kinh nghiệm thiền định rồi, yếu tố bên ngoài sẽ không còn gây nhiều ảnh hưởng. Nhưng nói chung, chỗ ngồi thiền phải là nơi thanh tịnh.

Nếu là tu thiền chỉ để định tâm, ta cần chọn một chỗ cách ly, không tiếng động. Ðây là điều rất quan trọng. Ngoài ra ngồi chỗ cao cũng rất tốt. Tốt nhất là ngồi thiền trên núi cao.

Cũng có những nơi chốn khi xưa đã từng có những bậc đại hành giả ngồi thiền, nhờ vậy tích tụ được nhiều năng lực gia trì. Người đời sau đến ngồi thiền sẽ nhận được làn sóng gia trì còn lưu lại. Trước có bậc đại hành giả chứng ngộ cao, truyền năng lực gia trì cho chốn ngồi thiền, rồi chốn ngồi thiền truyền năng lực này lại cho người đời sau.

Khi quét dọn chỗ ngồi thiền, đừng nghĩ mình đang quét dọn chỗ ngồi, mà phải nghĩ mình đang thu xếp tâm trí cho ngăn nắp. Chúng ta sắp sửa quán tưởng thân Phật, cúng dường, tụng chú, vậy cũng như đón Phật vào nhà. Nhà có khách quí, chủ nhà phải lo quét dọn sạch sẽ. Không ai đón khách quí vào nơi dơ bẩn lộn xộn. Vậy trước khi thiền, phải quét dọn chỗ ngồi cho thật sạch. Quét với tâm trong sáng, đừng để vướng thái độ tham đắm, giận dữ hay phiền não.

Tương truyền có một vị đại hành giả ở Tây Tạng, một hôm tự dưng nổi hứng bày biện phẩm vật cúng dường thật đẹp đẽ trang nghiêm. Bày biện xong, ông ta ngạc nhiên tự hỏi tại sao hôm nay mình lại làm như vậy. Nghĩ lại mới thấy chỉ vì hôm nay có nhiều thí chủ đến thăm, ông ta muốn họ hâm mộ bàn thờ của mình. Thấy ra động cơ thiếu trong sáng này, ông ta hốt một nắm bụi, rãi lên trên cúng phẩm.

Vị đại hành giả này khi xưa từng sống bằng nghề ăn trộm. Về sau thỉnh thoảng ông ta vẫn còn giữ thói quen muốn ăn cắp. Có lần ông ta đến thăm nhà người bạn, tay phải tự động đưa ra nắm một món đồ đẹp đẽ, tay trái bèn chụp lại, miệng la lên: “Có trộm, có trộm!”, rồi tự nắm tay mình mà lôi đi. Ðây là một phương pháp tu rất hay, nhờ vậy từng phút từng giây đều có thể tự giữ mình ngay thẳng.

Chúng ta nên quét dọn chỗ ngồi thiền với thái độ tương tự như vậy, cần giữ tâm nguyện cho thật trong sáng. Phải cố gắng loại bỏ tất cả mọi động cơ thế tục.

Tiếp theo, bài tụng giải thích phương pháp xếp dọn bàn thờ. Nếu đủ khả năng, nên bày tượng Phật như chỉ dẫn. Nếu không đủ khả năng thì cũng không sao. Vị đại hành giả Tây Tạng Milarepa tựu trung chỉ có vài tấm cẩm nang ghi lời hướng dẫn của sư phụ Marpa treo quanh động đá. Ngoài ra không có gì khác. Một hôm có tên trộm chui vào động. Milarepa cười: “Trong này ban ngày trống trơn, ban đêm anh lẻn vào, định trộm cái gì đây?” Thường nói hành giả chân chính khi tu không cần tới ngoại vật.

E. Biểu tượng qui y

Ðầu tiên là lời giải thích về tượng Phật.

Trong tiếng Phạn, chữ Phật dùng để chỉ người có tâm thanh tịnh, thành tựu viên mãn. Phật còn được gọi là Như Lai (Tathagatha), là người đã thâm nhập thật tánh chân như, và trở lại từ đó.

Thế nào là thâm nhập thật tánh chân như và trở lại từ đó, muốn giải thích điều này, cần phải nói đến ba thân Phật. Ðó là Pháp thân (Dharmakaya), Báo thân (Sambhogakaya), và Hóa thân (Nirmanakaya). Kinh sách Đại thừa có nhiều nơi giải thích về Tam Thân Phật.

Theo thuyết này, Phật xuất thế làm đức Thích Ca Mâu Ni, đó là từ Pháp thân mà hoạt hiện thành Hóa thân. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời của đức Phật, khởi từ lúc vào thai cho đến khi nhập đại niết bàn, tất cả đều là thiện hạnh của đấng Phật đà.

Phật còn được gọi là Thiện thệ (Sugata), là người đã đi vào an lạc, bước trên con đường an lạc để đạt đến kết quả an lạc. Danh hiệu này của Phật bao gồm toàn bộ mọi thành tựu an lạc, mọi buông xả, mọi tận diệt, bao gồm cả Phật tánh, là chân tánh của Phật, vốn sẵn có trong mọi chúng sinh.

Nói chung, thân miệng ý của chư Phật có thể hóa hiện thành nhiều sắc tướng: thân Phật hóa thành Quan Tự Tại, miệng Phật hóa thành Văn Thù Sư Lợi, ý Phật hóa thành Kim Cang Thủ. Nhưng trong bài nhật tụng này, ba vị Bồ tát Quan Tự Tại, Văn Thù Sư Lợi và Kim Cang Thủ được giải thích là hiện thân của lòng từ bi, trí tuệ, và dũng lực của chư Phật.

Bồ tát Quan Tự Tại và Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hiện tướng an lạc, còn Bồ tát Kim Cang Thủ hiện tướng hơi phẫn nộ. Nói chung, hễ tâm chứa nhiều năng lực thì sẽ đủ khả năng làm những việc quả quyết mạnh mẽ, đó là lý do có thân Phật phẫn nộ. Xét theo Mật tông Tối thượng Du già, phương pháp này gọi là “chuyển hóa tham và sân để hành đạo”.

Ngài Tara hiện tướng an lạc, ngài là hiện thân trong sáng của khí lực trong cơ thể. Tất cả mọi thiện đức của Phật, kể cả từ bi, trí tuệ và năng lực [dũng], chỉ có thể phát huy được nhờ lực chuyển, gọi là khí.

Tara là vị Bồ tát hộ pháp mang thân nữ. Tương truyền đức Tara khi tu hạnh bồ đề đã phát đại nguyện sẽ mang thân nữ mà thành Phật.

Kinh Phật xếp trên bàn thờ tượng trưng cho miệng Phật. Tốt nhất là có được một bộ trong hệ kinh Bát Nhã Ba La Mật (Pranaparamita sutra). “Bát Nhã Ba La Mật” dịch nghĩa là “Tuệ Giác Toàn Hảo”. Tuệ giác có nhiều loại, liên quan đến nền tảng, đạo và quả. Tất cả những loại tuệ giác khác nhau đều được giải thích cặn kẽ trong hệ kinh Bát nhã.

Hệ kinh Bát nhã là tinh túy của Phật giáo Đại thừa. Kho kinh dịch sang tiếng Tây Tạng có khoảng hai chục quyển thuộc hệ Bát nhã, gồm hơn hai mươi bộ kinh. Bộ kinh dài nhất có trên một trăm ngàn câu, tiếp theo là hai mươi lăm ngàn câu, và tám ngàn câu v.v… Bộ kinh ngắn nhất chỉ vỏn vẹn một chữ AH, được gọi là Nhất Tự Bát Nhã Ba La Mật Kinh. Tiếng Phạn lấy chữ AH để chỉ nghĩa phủ định, vì chân như hay là chân tánh, như đã nói, là sự vắng mặt của tự tánh; là một hiện tượng phủ định.

Bảo tháp tượng trưng cho ý Phật. Bảo tháp có tám loại khác nhau, ví dụ như bảo tháp chiến thắng tà ma, bảo tháp giác ngộ, bảo tháp đại niết bàn, v.v…. Tôi nghĩ nhiều loại bảo tháp như vậy là để nhắc nhở chúng ta.

Tiếp theo cần bày biện phẩm vật cúng dường, mang nước, hoa, hương, đèn, trái cây xếp trên bàn thờ. Ðây là phong tục tiếp khách của người Ấn Độ cổ. Nếu đức Phật dạy Phật pháp ở Tây Tạng, có lẽ phẩm vật cúng dường sẽ là bơ và bánh bột [tsampa].

F. Tư thế ngồi và phương pháp thở

Bây giờ tôi xin giải thích về tư thế ngồi thiền. Tọa cụ ngồi thiền phía sau phải cao hơn phía trước một chút để tư thế ngồi khỏi bị căng thẳng. Chiếc ghế tôi đang ngồi đây có nệm, phía trước cao hơn phía sau, hoàn toàn ngược với tư thế ngồi thiền.

Ngồi kiết già[29] rất khó, nếu ngồi được thì đây là tư thế đúng nhất. Bằng không, ráng ngồi theo thế bán kiết già (đức Đalai Lama ngồi thử cho mọi người xem một tư thế xếp bằng)[30], hay ngồi theo thế Tara, rất thoải mái (đức Đalai Lama lại ngồi thử cho mọi người xem một tư thế khác)[31].

Hai bàn tay bắt ấn thiền định: mu bàn tay phải đặt trong lòng bàn tay trái, hai đầu ngón cái đưa lên chạm nhau, thành hình tam giác. Hình tam giác này có ý nghĩa đặc biệt trong mật tông, tượng trưng cho pháp giới (dharmadhatu), nguồn gốc của thực tại và cũng là luồng nội nhiệt nằm ở vùng bụng.

Hai cánh tay đừng ép sát vào thân mình. Ðầu hơi nghiêng về phía trước, chót lưỡi chạm chân răng hàm trên để tránh khát nước khô miệng khi nhập định. Môi và răng giữ trong tư thế tự nhiên, mắt nhìn xuôi theo chót mũi. Thật ra nếu mũi to thì nhìn như vậy không sao, nhưng nếu mũi nhỏ, nhìn một lúc sẽ thấy nhức mắt (cười). Thành ra còn tùy mũi to hay mũi nhỏ.

Nói về đôi mắt, lúc đầu nếu nhắm mắt, hình trong quán tưởng dễ hiện ra hơn, nhưng về lâu về dài làm như vậy sẽ gây trở ngại. Quí vị không nên nhắm mắt khi ngồi thiền. Hình trong quán tưởng là ảnh hiện trong tâm thức, không cần dùng giác quan. Vậy nếu quen mở mắt khi thiền, gặp lúc đối cảnh hiện trước mắt, hình ảnh trong quán tưởng cũng sẽ không mất. Ngược lại nếu quen nhắm mắt khi thiền, hễ mở mắt ra là hình trong quán tưởng sẽ tan biến.

Lúc ngồi thiền phải hô hấp tự nhiên. Không nên thở quá mạnh hay quá nhẹ. Nếu đang hành trì công phu vận nội khí trong mật tông (ví dụ như công phu chín vòng hô hấp) thì lại là chuyện khác.

Gặp lúc tâm đang chao động, như đang giận dữ nóng nảy, thì nên an định bằng cách chú tâm vào hơi thở. Giản dị ngồi đếm hơi thở, quên đi cơn giận. Chú tâm vào hơi thở rồi đếm một, hai, ba, cho đến hai mươi. Thu nhiếp hết tâm trí vào trong hơi thở, mỗi lần hơi thở đi vào đi ra, tâm sẽ giảm bớt một phần chao động. Từ từ tâm trí sẽ sáng suốt rõ ràng hơn.

Tất cả mọi hành động, kể cả thiền định, đều tùy vào năng lực của đại nguyện, của động cơ tác động, nên trước khi ngồi thiền, quan trọng nhất là phải giữ tâm nguyện cho thật đúng đắn. Ở đây chúng ta hành trì theo phương pháp tu thiền mật tông, vì vậy tâm nguyện đúng đắn phải là không quan tâm đến chuyện của kiếp này, cũng không để tâm chạy theo những cảnh an vui thuộc cõi luân hồi.

Tâm nguyện đúng đắn nhất cho phương pháp hành trì đang nói ở đây phải là tâm nguyện vị tha. Phải là tâm bồ đề.

G. Hỏi đáp

Hỏi. Có thể nào trực tiếp quán Tâm, khỏi cần quán tưởng phức tạp về thân Phật ?

Ðáp. Một trong những tính chất của Tâm là không sắc, không màu. Ðồng thời Tâm lại có khả năng chiếu hiện tất cả mọi điều thuộc lãnh vực phân biệt đối đãi.

Tâm nằm ngoài tầm nghĩ bàn, không thể nắm được bóng hình của Tâm, cũng không thể tưởng tượng mà thấy được. Cũng như gương soi vật thể, vật thể mất là hình sắc phản chiếu trong gương tự nhiên cũng mất. Tâm cũng tương tự như vậy, phản chiếu sự vật. Ðó là một trong những chức năng của Tâm.

Quán niệm về Tâm như vậy, không cần phải có tín ngưỡng. Chỉ cần hàng ngày chú tâm quán niệm, chắc chắn sẽ tiến bộ.

Nhưng ở đây, chúng ta đang nói về bồ đề tâm, là một loại tâm vị tha rất đặc biệt, đi đôi với tuệ giác tánh không. Ðây cũng là căn bản nhập môn của pháp tu Bổn tôn Du Già [deity yoga]. Sau khi nhận pháp quán đảnh, pháp tu mật tông chính yếu chính là pháp quán tưởng Bổn tôn Du Già. Người tu quán tưởng mình mang thân Phật, lấy đó làm nền tảng tu hành.

Muốn đạt tới cảnh giới quán tưởng chân chính, lúc ban đầu người tu phải trải qua một thời gian tưởng tượng. Phật nói những giai đoạn tưởng tượng này ví như chiếc thuyền, nhờ đó mà vượt qua bờ bên kia. Bước lên thuyền không phải chỉ để vui thú chuyện ngồi thuyền, mà là để qua tới bờ bên kia. Qua bờ rồi, thuyền phải vất lại phía sau. Lên được bến bờ của cảnh giới quán tưởng chân chính, tất cả những trạng thái do tâm thức tự tạo đều phải vất bỏ.

Có vị thầy Tây Tạng dạy rằng trước sau gì cũng phải vất thuyền, nhưng chỉ nên vất thuyền khi đã sang đến bờ bên kia, chứ không ai lại vất thuyền khi còn kẹt ở bờ bên này.

Dựa theo Phật giáo Tây Tạng mà nói, tôi nghĩ nếu không áp dụng phương pháp quán tưởng Bổn tôn Du Già mà trực tiếp quán Tâm để tìm kinh nghiệm trực chứng chân tâm trong sáng, chắc chắn sẽ phải dùng tới khái niệm để quán Tâm. Phương pháp tu như vậy rất giới hạn.

Phương pháp đúng nhất là phải lấy chân tâm tách lìa phiền não để trực chứng thực tại. Ðiều này rất khó thực hiện. Nói “quán trực tiếp” nghe thì rất hay, nhưng muốn có kinh nghiệm trực tiếp thật không phải chuyện dễ.

Tôi có vài người bạn, đến nay vẫn còn tại thế, thỉnh thoảng họ có được loại kinh nghiệm trực tiếp này. Trong những phút giây cực kỳ mãnh liệt trong sáng ấy, họ có thể nhớ lại quá khứ, không phải chỉ kiếp trước, mà hàng trăm kiếp đã qua. Khi ấy, tâm thức vi tế hiển lộ. Những người này thật sự có được một thoáng kinh nghiệm về tầng tâm thức vi tế nhất, có thể nhớ lại được nhiều kiếp quá khứ.

Cũng có khi trạng thái tâm thức này xảy ra sau một thời gian dài kính ngưỡng Tam bảo, ví dụ sau nhiều năm quì lạy một trăm ngàn lạy, cúng dường một trăm ngàn mạn đà la, hay trì tụng một trăm ngàn lần bách tự chú. Toàn là những công phu rất khó khăn, đòi hỏi nhiều kiên trì, kỷ luật. Nhưng làm như vậy đôi khi mang đến chút kinh nghiệm trực chứng.

Hỏi. Thưa ngài, tôi xin bắt đầu bằng lời ngài nói, rằng Phật giáo là kho tàng xuất phát từ Ấn Độ, được duy trì bảo tồn ở Tây Tạng. Tôi nghĩ người Ấn chúng tôi thật bất hạnh, đã đánh mất kho tàng trân quí này.

Trước hết, tôi tin rằng tâm phải sẵn sàng mới có thể nhận được kho tàng này. Ðó là điều tôi muốn thưa rõ.

Ðiều thứ nhì, thưa đức Đalai Lama, ngài có đề cập đến mười hai giai đoạn chuyển tiếp, đi từ vô minh, v.v…. Khi đạt được niết bàn, khổ đau tận diệt, không còn trở lại. Chỉ một vài người đạt đến thành tựu này. Còn hàng triệu người tầm thường như chúng tôi, sống trong luân hồi, có gia đình, phải đi làm kiếm sống, dù có ráng tu một vài đức tính tối thiểu nhưng rồi vẫn phải va chạm với đủ hạng người, đủ hoàn cảnh, đôi khi có thể tự chủ, lắm lúc không. Xin ngài một lời khuyên cho người sống trong cảnh sống gia đình bình thường như chúng tôi.

Ðáp. Tôi hiểu lời bạn nói, vì tôi cũng vậy, và nhiều người bạn khác của tôi cũng phải trải qua những hoàn cảnh khó khăn tương tự.

Chúng ta hiểu được tính chất của luân hồi và niết bàn, cùng với khả năng và phương pháp thành tựu niết bàn. Tuy hiểu, nhưng có khi lại không thể ứng dụng vào đời sống hiện tại. Như trường hợp của tôi, có nhiều công phu không sao thực hiện được, ví dụ như thiền chỉ. Tu thiền chỉ cần rút vào một nơi hoàn toàn yên tịnh, ít nhất vài ba năm không được gặp ai. Nếu không rất khó đạt kết quả. Hoàn cảnh hiện nay của Đalai Lama không thể làm như vậy được.

Nhưng dù sao hiểu về luân hồi và hiểu về tính chất của đời sống vẫn luôn hữu ích. Khi phải đụng chạm nhiều vấn đề trong cuộc sống, với chính mình hay với người khác, chúng ta có thể hiểu những khó khăn này xảy ra chỉ là vì đời sống luân hồi vốn là như vậy. Sống trong luân hồi gặp phải vấn đề, đó là chuyện đương nhiên.

Bất cứ hành động nào, dù tốt dù xấu, đều do tâm tác động. Ta thường gặp nhiều hoàn cảnh dễ khiến nổi giận, khiến bức xúc, nhưng nếu hiểu về luân hồi, dù gặp cảnh như vậy cũng vẫn biết tự chủ, hay ít ra cũng không để phiền não tác động thái quá, nhờ đó tâm không mất bình tĩnh, giữ được niềm an lạc.

Nếu có được hiểu biết chính xác về đường tu, về thành tựu nhắm đến, về phương pháp dẫn đến thành tựu, thì dù chưa thể áp dụng phương pháp tu hành vào đời sống hàng ngày, hiểu biết này vẫn giúp ta có được năng lực tự tại, không dễ bị khuynh đảo bởi cảnh khó khăn trong cuộc sống.

Cư sĩ sống với gia đình, so với người xuất gia đương nhiên bận rộn hơn nhiều. Phải lo cho vợ chồng con cái. Khi có cháu nội cháu ngoại lại càng nhiều người để lo hơn. Trong hoàn cảnh như vậy, động cơ hành động là điều quan trọng nhất. Sống trong đời sống hàng ngày có khi quí vị phải nói lời nặng nhẹ khó nghe, hoặc có khi phải tỏ thái độ quyết liệt để bảo vệ cho gia đình thân nhân. Tâm nguyện, động cơ, là điều quan trọng nhất. Hành động làm với động cơ tốt, với lòng chân thành, sẽ là hành động tốt và chân thành.

Ví dụ có hai người sắp bị kẻ thù hãm hại. Cả hai đều chống trả quyết liệt để tự bảo vệ. Phản ứng của hai người giống như nhau, hành động như nhau, nhưng một người làm với tâm vị kỷ, không nghĩ đến kẻ thù, chỉ lấy tâm thù oán để chống trả. Người kia cũng làm cùng một hành động, nhưng lại nghĩ rằng “nếu để người này muốn làm gì thì làm, muốn giết ai thì giết, về sau chính người ấy sẽ chịu quả tàn khốc, sẽ trầm luân khổ não”. Kẻ thù ngay lúc ấy có thể sẽ cảm thấy thỏa mãn, nhưng về lâu về dài chắc chắn sẽ chịu khổ, đúng không? Ngăn chận hành động của kẻ thù vì tránh không để kẻ thù tạo ác nghiệp, động cơ này so với động cơ của người trước khác nhau xa, vì vậy hành động tuy nhìn bề mặt giống nhau, nhưng thật sự không giống.

[…]

Hỏi. Về trạng thái siêu việt của tâm thức trong Phật giáo Đại thừa, có khi tôi nghe nói đến thực tại qui ước và thực tại chân thật. Hai thực tại này có phải chỉ là một?

Ðáp. Hai Chân lý [Nhị đế] là hai khía cạnh của cùng một sự vật. Vì là cùng một sự vật, nên hai Chân lý thật ra chỉ là một, nhưng đồng thời vẫn trái ngược nhau.

Ví dụ có người rất tài giỏi, nhưng lại rất xảo quyệt. Chúng ta muốn dùng người này, tuy vậy vẫn không thể tin tưởng, vẫn phải cực kỳ thận trọng. Mặc dù cùng một người, nhưng tính tình lại có hai khía cạnh mâu thuẫn, một tốt, một xấu.

Hai Chân lý tuy không có tốt xấu, nhưng lại tương tự ở điểm có hai sự thật nơi cùng một vật. Lấy ví dụ đóa hoa này. Hoa có một thực tại tương đối, ở đó hình thành đủ loại qui ước như màu sắc, hương thơm v.v…. Ngoài ra, hoa này lại còn có một thực tại sâu hơn, thuộc về chân cảnh giới.

Ðiều này tương tự như nhìn sự vật từ hai góc độ. Vì mọi hiện tượng là duyên sinh [tùy duyên mà có], nên không có tự tánh. Vì không có tự tánh, không tự sinh, nên là duyên sinh. Ý nghĩa của hai Chân lý tuy khác nhau, nhưng bổ xung lệ thuộc lẫn nhau. Tách lìa ra sẽ không thể hiểu được.

Vì Phật tử có nhiều động cơ, tầm vóc rộng hẹp khác nhau, nên Phật giáo có hai cỗ xe lớn nhỏ khác nhau. Tâm nguyện của người theo Đại thừa lớn rộng, nên quả vị thành tựu cũng lớn rộng.

Khế kinh có nói chúng sinh khi còn lưu lạc sinh tử đều là những sinh vật cách biệt, tách lìa, nhưng khi giác ngộ sẽ thành một với biển trí tuệ bao la. Nước từ nhiều nhánh sông đổ về biển cả, tuy màu sắc mùi vị và độ chảy khác nhau, nhưng về tới biển rồi lại cùng chung một vị.

Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa là thành tựu quả vị Phật rồi, chúng ta mất hết cá tính riêng. Không phải vậy. Thành tựu quả vị Phật rồi thì đồng đẳng với chư Phật, nhưng những nét riêng vẫn còn.

Hỏi. Thưa ngài, khi ngài nói về kinh sách, cuốn kinh ngắn nhất chỉ có một chữ AH, là từ phủ định. Vậy có phải trước hết có chữ phủ định, rồi từ đó biến hóa thành tất cả mọi phạm trù đối kháng?

Ðáp. Khi tôi nói chữ AH có nghĩa là tánh không, đây không phải tôi muốn nói rằng tánh không thiêng liêng, mà thật ra chính chữ AH mới là thiêng liêng.

Tánh Không tự nó chỉ là một hiện tượng phủ định. Gọi là hiện tượng phủ định, vì nếu muốn nhận thức về nó, phải nhận thức xuyên qua tất cả những yếu tố không phải nó. Loại hiện tượng như vậy được gọi là hiện tượng phủ định.

Như khi nói “không có voi”. Muốn nhận thức được sự “không có voi”, trước hết phải biết voi là cái gì. Phải có khả năng nhận diện được đối tượng phủ định, là con voi, sau đó mới có khả năng khẳng định sự “không có voi”.

Hiện tượng nói chung được chia thành hai loại: hiện tượng phủ định và hiện tượng khẳng định. Hiện tượng phủ định lại có hai: phủ định có khẳng định, và phủ định không khẳng định.

Hoa này là hoa hồng hay là uất kim hương? “Không phải uất kim hương”. Tuy câu trả lời là phủ định, nhưng đồng thời cũng khẳng định điều gì khác. Còn khi nói “không có voi”, câu phủ định này hoàn toàn không mang nghĩa khẳng định nào cả.

Tánh Không cũng vậy, là một hiện tượng phủ định: phủ định tự tánh. Chữ AH biểu tượng cho tánh không, là vì AH là từ phủ định.

Cũng có thể nói, vì sự vật không có tự tánh nên những chức năng khác mới có thể hình thành. Vì vậy mà nói thực tại qui ước phát sinh từ tánh không.


<< Đọc Tiếp >>


Mục lục

 Chương 5Khai mở trí giác

 

A.  Tâm nguyện

Tâm nguyện cao nhất là tâm bồ đề: nguyện thành Phật để cứu độ chúng sinh. Kế tiếp là tâm nguyện cầu giải thoát luân hồi. Thứ ba là tâm nguyện xả bỏ ràng buộc trong kiếp sống hiện tại để nhắm đến lợi ích an lạc của những kiếp về sau.

Ðể phát tâm cho đúng, ta nên nhìn lại sự việc trong đời, nhìn những gì ta trân quí. Tất cả đều trôi nhanh. Nếu chuyện trong đời còn hoài không mất, bám vào đó hãy còn có chút ý nghĩa. Nhưng đời sống này chỉ được trăm năm, hiếm hoi lắm mới có người sống tới một trăm hai chục năm, một trăm ba chục năm, là người khó lòng sống lâu hơn vậy. Phải luôn nhớ nghĩ đến vô thường.

Ai cũng biết rằng khi chết, tiền tài danh vọng hay quyền lợi trong đời tất cả đều không thể giúp được gì. Ðời sống tự nó là một hiện tượng biến chuyển liên tục. Nếu chỉ quan tâm đến đời sống hiện tại mà quên đi mọi kiếp về sau, làm như vậy dễ sinh tâm mê đắm hưởng thụ kiếp này, càng lúc càng nhiều chấp vọng, càng thêm tham đắm. Rốt cuộc lại phải đối diện với nhiều vấn đề hơn. Ngay từ đầu, thái độ trong cuộc sống cần phải quân bình thoải mái. Ðến khi gặp khó khăn, tâm thức mới không quá chao động.

Rất nên đọc tiểu sử của những vị có nhiều kinh nghiệm sống hơn mình. Phải thấy rằng lo lắng thái quá cho kiếp sống hiện tiền sẽ đưa đến đủ loại vấn đề nan giải. Ngược lại, nếu nhìn đời sống bằng cặp mắt thực tế hơn, vấn đề sẽ ít hẳn đi.

Cũng có người thắc mắc đời sau có hay không. Câu hỏi này rất quan trọng. Thời nay cũng hãy còn nhiều người nhớ được kiếp quá khứ của họ.

Căn bản luận lý thiết lập thuyết tái sinh nằm ở nguyên nhân phát sinh ra hai loại hiện tượng tâm lý và vật lý. Cả hai loại hiện tượng này đều do nhân duyên mà có, điều này chứng tỏ cả hai đều là những hiện tượng biến chuyển.

Nguyên nhân phát sinh ra hiện tượng có hai loại: nguyên nhân chính, và nguyên nhân phụ. Nguyên nhân chính phát sinh ra vật thể phải đồng nhất và liên tục với vật thể, vì vậy cũng phải là vật thể. Tương tự như vậy, nguyên nhân chính phát sinh ra tâm thức cũng phải là tâm thức. Tâm thức thời điểm trước phát sinh ra tâm thức của thời điểm sau.

B. Tâm thức

Tâm thức nói chung có hai loại: liên quan đến giác quan và liên quan đến ý thức. Tâm thức liên quan đến giác quan, ví dụ như nhãn thức, phát sinh từ nhiều nguyên nhân bên ngoài và bên trong. Nguyên nhân bên trong gọi là tăng thượng duyên, [nguyên nhân bên ngoài gọi là sở duyên].

Với hai loại nguyên nhân này, nhãn thức còn cần thêm một nguyên nhân thứ ba để phát khởi, đó là tâm thức của thời điểm đi trước [gọi là vô gián duyên].

Thử lấy ví dụ của đóa hoa và nhãn thức nhìn vào đóa hoa. Nguyên nhân khách quan bên ngoài trong trường hợp này là đóa hoa. Chức năng của đóa hoa là phát khởi nhãn thức mang sắc tướng của đóa hoa. Tông phái Tì bà sa bộ không công nhận sự vật có sắc tướng, mà cho rằng nhãn thức tiếp xúc trực tiếp với vật thể. Ðiều này thật khó chấp nhận. Những tông phái khác trong Phật giáo đều cho rằng sự vật có sắc tướng, nhờ sắc tướng này mà nhãn thức nhận thức được vật thể.

Khoa học hiện đại có đưa ra thuyết mới, công nhận vật thể có sắc tướng, nhờ đó tâm thức có thể tiếp cận với vật thể, thuyết này có vẻ phù hợp với quan điểm Phật giáo.

Nhãn nhức thấy được hình sắc, nhưng không nghe được tiếng động. Ðó là vì nhãn thức tùy thuộc vào nhãn căn. Nhãn thức này cũng được sinh ra nhờ vào tâm thức của thời điểm ngay trước đó.

Mặc dù tâm thức thô lậu sinh ra và biến đi, nhưng tâm thức vi tế vẫn liên tục không gián đoạn. Ba nguyên nhân nói trên nếu thiếu một, ví dụ thiếu mất tâm thức của thời điểm đi trước [vô gián duyên], thì dù nhãn căn có gặp đối cảnh cũng không thể phát sinh ra nhãn thức nhận biết đối cảnh.

Ý thức lại khác. Ý căn với ý thức đều nhận thức đối cảnh theo một cách đặc biệt. Vì ý căn vượt khái niệm, nên có khả năng đồng loạt nhận diện mọi tính chất, mọi đặc điểm của vật thể. Tuy vậy ý thức nói chung lại thuộc lãnh vực khái niệm, nên ý thức chủ yếu chỉ toàn là khái niệm. Ý thức nhận thức đối tượng qua hình ảnh, và nhận diện vật thể bằng cách loại bỏ tất cả những gì không phải là vật thể ấy.

Ta cần suy nghiệm sâu xa, xem tâm thức có phải được sinh ra từ những hiện tượng hóa học trong não bộ con người hay không. Mấy năm gần đây, tôi thường có dịp trao đổi với nhiều nhà khoa học, chuyên gia về nguyên tử học, thần kinh học, và tâm lý học. Rất hay. Chúng ta có thể học được nhiều điều từ những khám phá mới nhất của họ. Họ có vẻ rất quan tâm đến quan điểm của Phật giáo về lãnh vực của tâm và tâm thức.

Tôi có nói về đề tài này với rất nhiều người nhưng chưa từng tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Nếu chúng ta cho rằng tâm thức chỉ do tác động của những thành phần nguyên tử trong não bộ mà có, vậy phải kết luận rằng thức nào cũng do những thành phần nguyên tử trong não bộ sinh ra. Nếu là như vậy, hãy thử nói về đóa hoa này. Ví dụ có người nghĩ rằng hoa này là hoa nhựa: nhận thức này sai lầm. Rồi người ấy lại nghĩ, có khi lại không phải là hoa giả: từ nhận thức sai lầm bây giờ biến thành hoài nghi. Rồi người ấy phỏng đoán có lẽ đóa hoa này là hoa thật. Tuy đúng, nhưng vẫn chỉ là đoán mò. Cuối cùng, người ấy đến gần đóa hoa, cầm lên, ngửi mùi hương, thấy rõ hoa này là hoa thật.

Qua tất cả những giai đoạn chuyển biến tâm thức nói trên, đối cảnh chỉ có một, là đóa hoa, nhưng tâm thức lại chuyển từ nhận thức sai lầm sang hoài nghi, từ hoài nghi thành đoán biết, từ đoán biết thành hiểu biết đúng đắn, từ hiểu biết đúng đắn thành nhận thức đúng đắn. Rõ ràng tâm thức của người ấy trải qua nhiều giai đoạn. Làm sao giải thích sự biến chuyển của các thành phần hóa học trong não bộ trên quá trình biến chuyển này?

Lấy một ví dụ khác: chúng ta gặp một người và tưởng người ấy là bạn của mình, nhưng thật ra không phải, chúng ta lầm. Khi mới nhìn thì nhìn lầm, nhưng khi biết không phải, nhận thức sai lầm chuyển thành nhận thức đúng đắn.

Lại còn vấn đề của những bậc đại hành giả. Những vị này khi nhập định, hơi thở gián đoạn, tim ngừng đập. Tôi có vài người bạn có khả năng dứt hơi thở và nhịp tim trong một thời gian khá lâu. Nếu trạng thái này kéo dài vài tiếng đồng hồ, trong thời gian này hoạt động của não bộ ra sao?

Nói như vậy để chứng minh rằng có một hiện tượng gọi là tâm thức, hoàn toàn biệt lập với những tế bào trong bộ óc. Mức độ thô lậu của tâm thức gắn liền với con người vật lý, tùy thuộc vào não bộ. Nhưng chân tánh của tâm thức lại khác. Tâm thức càng vi tế lại càng tách khỏi các thành phần vật lý.

Ðó là lý do vì sao khi nhập định, mọi hoạt động của thân vật lý đều gián đoạn nhưng tâm thức vẫn hoạt động. Khi ấy, vì những thành phần vật lý đều đã ngừng hoạt động nên các tầng tâm thức thô lậu cũng không còn, chỉ còn tầng tâm thức vi tế nhất, hiển hiện rõ ràng.

Tâm thức có rất nhiều loại, tâm thức khi thức, khi ngủ,  khi ngủ say, và trạng thái vô thức, ví dụ như khi ngất xỉu. Theo Mật tông Tối thượng Du già, quá trình chết bao gồm tám giai đoạn tan rã. Có sự tan rã của năm thành phần đất, nước, lửa, gió và không gian. Sau đó là ba giai đoạn tan rã gọi là “trắng hiện”, “đỏ tăng trưởng”, “đen cận thành tựu” và “ánh sáng chân như” của cái chết.

Có nhiều người đi qua vài giai đoạn tan rã rồi sống lại. Tôi gặp vài người trải qua kinh nghiệm này, họ cực kỳ ngạc nhiên, đến gặp tôi nhờ giải thích. Xét theo Mật tông Tối thượng Du già, tôi nghĩ họ đi vào một tầng tâm thức vi tế nào đó, rồi trở ra.

Sau khi thấy ánh sáng chân như, người chết bước qua giai đoạn tái sinh. Nếu tái sinh vào nơi có cõi trung ấm [bardo] thì người chết phải bước qua cõi trung ấm trước. Ví dụ nếu tái sinh làm người, người chết sẽ phải bước qua cõi trung ấm trước khi nhập thai mẹ. Vì vậy đời sống bắt đầu và kết thúc với ánh sáng chân như.

Phủ nhận sự liên tục của tâm thức thì sẽ không thể nào giải thích được sự tiến hóa của vạn vật. Nếu chấp nhận thuyết Bùng nổ là đúng, vậy cái gì là nguyên nhân phát sinh ra sự Bùng nổ? Nếu cho rằng sự vật có thể hiện hữu không cần nguyên nhân, điều này sẽ đưa đến nhiều nghịch lý. Còn nếu nói rằng có một đấng sáng tạo toàn năng, cũng sẽ dẫn đến rất nhiều nghịch lý.

Theo quan điểm Phật giáo, có chúng sinh hữu tình sống trong môi trường vật lý thiên nhiên, và toàn vũ trụ không ngừng biến hóa. Phật giáo nói tâm thức không có khởi điểm mà biến chuyển liên tục. Thuyết này tuy không nhiều nghịch lý, nhưng vẫn đưa đến một vài câu hỏi. Ví dụ vì sao tâm thức vi tế lại không bắt đầu không kết thúc? Khi giác ngộ thành Phật, tâm vi tế của Phật vẫn còn chứ không mất, tại sao?

Luận cứ chính của thuyết tái sinh là tâm thức trong thời điểm hiện tại bắt buộc phải khởi sinh từ tâm thức trong thời điểm đi trước. Cứ như vậy truy ngược dòng liên tục của tâm thức, về lại thời điểm nhập thai, rồi tiếp tục truy ngược về kiếp quá khứ. Theo đó suy ra không lý do gì dòng tâm thức liên tục không khởi điểm này lại kết thúc ở cuối kiếp sống hiện tại.

Vì vậy mà phải quan tâm đến những kiếp tương lai. Kiếp sau là hạnh phúc hay bất hạnh, đều tùy ở việc làm trong hiện tại. Dù đời sống hàng ngày có bận rộn đến đâu, chúng ta vẫn không thể bỏ bê không lo tới những kiếp tái sinh về sau của mình.

C. Vô minh chấp ngã

Khổ đau có nhiều lý do, nhưng đáng kể nhất vẫn là lòng quyến luyến tham đắm. Vì vậy trong mười hai duyên khởi, lòng tham được nhấn mạnh ở hai chi thứ tám và thứ chín, là ái thủ.

Gốc rễ của tham là vô minh. Vô minh có nhiều loại, nhưng ở đây vô minh chủ yếu là nhận thức sai lầm về chân tánh của thực tại.

Vô minh dù vững mạnh đến đâu cũng vẫn không có căn cứ. Vô minh nói ở đây bao gồm hai mặt, là nhận thức sai lầm về cái tôi có tự tánh [chấp nhân ngã], và nhận thức sai lầm về sự vật có tự tánh [chấp pháp ngã].

Nói về khổ đau và vui sướng, thế giới hiện tượng có thể chia thành hai thành phần: yếu tố tạo khổ và bản thân người chịu khổ. Nhìn bản thân người chịu khổ mà tin là có tự tánh, đó là chấp nhân ngã. Nhìn vào yếu tố tạo khổ mà tin là có tự tánh, đó là chấp pháp ngã.

Bây giờ thử nhìn lại chính mình. Thử nhớ lại kinh nghiệm vui buồn sướng khổ mình đã trải qua trong quá khứ. Khi tâm dấy lên ý tưởng: “Lúc ấy sao tôi vui quá”, hay là “Khi ấy sao tôi khổ quá”, hãy tự hỏi “Cái tôi đang vui đang buồn đó, vui buồn đến nỗi mãi đến bây giờ vẫn còn cảm nhận tràn đầy, cái tôi đó, thật ra là gì?” Xét cho tận tường xem mình đang lấy thân thể của mình làm cái tôi, hay đang lấy tâm thức của mình làm cái tôi.

Xét theo quan điểm Phật giáo, khi nhớ lại chuyện vui buồn quá khứ, mang cảm giác sâu đậm là “tôi” đã trải qua tất cả những kinh nghiệm đó, ngay lúc ấy, cái “tôi” sừng sững hiện ra trong trí giống như một ông chủ, còn những tập hợp thân tâm lại giống như đám đầy tớ. Cái tôi có vẻ như có quyền sử dụng thân tâm. Tuy vậy, cảm giác này hoàn toàn sai lầm. Cái tôi có thật, độc lập, giống như một ông chủ, thật ra không từng có.

Phật giáo nói thuyết vô ngã. Vô ngã không có nghĩa là không có cái tôi nào cả, thật sự cái tôi qui ước vẫn có đó, vẫn hành động, tích nghiệp và chịu quả. Nhưng Phật giáo phủ nhận khái niệm sai lầm về một cái tôi chủ thể độc lập.

Tương tự như vậy, nếu dùng luận lý phân tích năm hợp thể [ngũ uẩn] tạo thành một con người, bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành thức [hình sắc, cảm giác, ấn tượng, diễn biến tâm lý vật lý, và chủ thức tác động những thành phần trên], phân tích cách nào cũng không thể tìm ra năm hợp thể thật sự là gì. Khi ta nói “thân của tôi”,  đây lại là tập hợp của đầu, mình, tay, chân v.v… Ðó là cái ta gọi là thân. Nhưng nếu phân tích coi đầu có phải là thân, tay có phải là thân, sẽ thấy từng bộ phận cơ thể không phải là thân mà chỉ là những thành phần tập hợp của cái thường được gọi là thân. Tương tự như vậy, bàn tay là tập hợp của ngón tay, móng tay v.v… Nhưng nếu phân tích xem thật sự bàn tay là cái gì, sẽ không thể tìm ra. Cứ như vậy, cho đến từng phân tử cực vi. Rồi phân tử cực vi này tuy không thể chia thành những thành phần vật lý nhỏ hơn, nhưng vẫn có những thành phần phương hướng trong không gian, vẫn có sắc tướng.

Lãnh vực tâm thức cũng tương tự như vậy. Tâm thức không có hình sắc, không có thành phần phương hướng trong không gian, nhưng lại có thứ tự trong thời gian.

Ta thường nói “ý tưởng của tôi ngày hôm nay”, cái gọi là ý tưởng đó, thật ra là tập hợp của dòng tâm thức liên tục trải qua trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Ngay cả khái niệm về tâm thức cũng chỉ là một cái tên, dùng để chỉ tổ hợp của nhiều thời điểm tâm thức nối liền liên tục.

Khi nói tới “tâm của tôi” một cách hời hợt, cái gọi là “tâm của tôi” hiện ra trong tâm thức như một vật thể hoàn toàn độc lập, có tự tánh. Tương tự như khi nói về “cái tôi”, một cái tôi hiện ra trong trí chúng ta sừng sững như một ông chủ. Nhìn ra ngoại cảnh cũng vậy, mỗi hiện tượng đều hiện ra trong trí chúng ta như một thực thể độc lập. Nhưng sự thật không phải vậy.

Thử lấy ví dụ khác, như “chính phủ”. Chúng ta có thể nói “chính phủ nói cái này”, “chính phủ làm cái kia”. Nói vậy nghe thuận tai, nhưng nếu suy nghĩ cho kỹ, xem chính phủ có cái miệng hay cái lưỡi nào để nói hay không, chắc chắn khi ấy sẽ cảm thấy bối rối lắm.

Hay thử lấy ví dụ “người thợ may”. Có thể thấy ngay rằng danh từ này đến từ một chức năng, một hành động, là may áo. Nếu không có việc may áo, làm sao có thể nói đến thợ may? Nhưng nếu không có người thợ may thì làm sao có được hành động may áo? Hai khái niệm này phải đi chung với nhau, lệ thuộc lẫn nhau. Mọi sự đều tương tự như vậy. Khi phân tích, sẽ không thể tìm thấy. Chúng ta nên để yên mọi sự, đơn giản chấp nhận sự việc là như vậy.

Ví dụ như tánh không. Tánh Không là một chức năng, Vì vậy phải có cái gì thể hiện chức năng ấy. Nếu phân tích xem tánh không là gì, chúng ta có thể mơ hồ nói tánh không là sự vắng mặt của những hiện tượng có tự tánh. Nếu phân tích tường tận hơn, tánh không này, tánh không kia, ngay đến tánh không là chân tánh của thực tại, nếu áp dụng cùng một biện pháp phân tích truy tìm, cũng sẽ không thể tìm ra cái gì thật sự là tánh không. Chúng ta sẽ thấy rằng khi nói đến tánh không, hãy còn tùy là tánh không như thế nào, tánh không của cái gì. Vậy duyên khởi nghĩa là gì? Nói rốt lại thì duyên khởi chỉ là sản phẩm của trí phân biệt. Làm sao lại có thể là sản phẩm của trí phân biệt? Lại sinh ra nhiều câu hỏi như vậy.

Vì vậy Phật giáo nói rằng khi phân tích truy tìm, sẽ không có câu trả lời. Nói như vậy không có nghĩa là sự vật không hiện hữu, mà là sự vật tùy duyên mà hiện hữu. Nói cách khác, sự vật hiện hữu tùy thuộc vào những yếu tố bên ngoài.

Khi chúng ta vì giận dữ hay vì luyến tham mà tâm chao động, đó là vì chúng ta nghĩ có cái này tốt, cái kia xấu. Có cảm giác cái này tốt cái kia xấu, là vì chúng ta tin rằng sự vật vốn có tính chất tốt hay xấu. Tin rằng sự vật vốn có tính chất tốt hay xấu, là vì chúng ta tin rằng thật sự có cái xấu, cái tốt trong đời.

Phật giáo nói rằng những trạng thái chao động của tâm thức luôn bắt nguồn từ vô minh chấp sự vật có tự tánh. Tuệ giác tánh không, là tuệ giác thấy sự vật vốn không có tự tánh, có thể được sử dụng làm liều thuốc hóa giải nhận thức sai lầm về thực tại. Vì vậy mà nói tâm chấp ngã là một trạng thái tâm thức có thể hủy diệt được.

Tư duy suy nghĩ tận tường về tánh không của chính mình và của ngoại cảnh, rồi hãy thử đứng giữa đám đông mà im lặng quan sát. Sẽ thấy mình vẫn nhận ra từng người, nhưng nhận thức đã thay đổi một cách vi tế.

Dùng tuệ giác tánh không hóa giải vô minh chấp có tự tánh, đó là giải thoát chân chính, là thành tựu niết bàn. Vì chúng ta ai cũng có khả năng thành tựu niết bàn, giải thoát luân hồi, nên phải biết phát tâm cho mãnh liệt, phải quyết chí tận dụng mọi tiềm năng ưu điểm của mình.

D. Quán tưởng qui y Tam bảo

Tiếp theo, bài tụng nói về tầm quan trọng của tâm bồ đề, là sự phát tâm thành Phật, vì tất cả chúng sinh chứ không chỉ vì riêng mình.

Phải lấy tâm bồ đề rộng lớn như vậy để qui y Tam bảo. Qui y Tam bảo có nghĩa là về nương dựa nơi Phật, nơi Pháp, và nơi Tăng.

Muốn qui y Tam Bảo, hãy quán tưởng quanh mình là toàn thể chúng sinh. Rồi ở khoảng không trước mặt, cách khoảng một thước, ngang tầm mắt, hãy quán tưởng đối tượng qui y, toàn là ánh sáng. Quán thân Phật phát ánh sáng rực rỡ sẽ giúp tâm khỏi bị hôn trầm trì trệ. Ngược lại, quán thân Phật nặng và đầy sẽ giúp tâm khỏi bị trạo cử kích thích.

Bên phải đức Phật là Bồ tát Quan Tự Tại, thân sắc trắng, thể hiện sự thanh tịnh trong sáng. Bên trái đức Phật là Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, thân sắc vàng, thể hiện sự tăng trưởng. Ðức Văn Thù Sư Lợi là hiện thân của sự tăng trưởng của trí tuệ. Thiền quán về ngài Quan Tự Tại sẽ làm tăng năng lực từ bi. Thiền quán về ngài Văn Thù Sư Lợi sẽ làm tăng năng lực trí tuệ.

Tiếp theo, quán tưởng đức Kim Cang Thủ đứng trước mặt Phật. Kim Cang Thủ mang tướng phẫn nộ. Nếu người tu gặp chướng ngại vô hình cản trở bước đường tu, tụng chú của ngài Kim Cang Thủ sẽ giúp dẹp tan loại chướng ngại này.

Cuối cùng là đức Tara đứng sau lưng Phật. Thiền quán về ngài Tara sẽ giúp người tu được trường thọ.

Nói về chúng sinh vây quanh, nên quán tưởng phía bên trái của mình là tất cả thân quyến phái nam, đứng đầu là người cha đời này, và phía bên phải của mình là tất cả thân quyến phái nữ, đứng đầu là người mẹ đời này. Sau lưng là tất cả mọi chúng sinh khác. Kẻ thù để phía trước mặt. Tất cả mọi chúng sinh đều mang thân người, đang chịu mọi khổ não tái sinh trong mọi nẻo luân hồi.

Quán tưởng vậy rồi, hãy nghĩ rằng ta muốn vui người khác cũng muốn vui, ta sợ khổ người khác cũng sợ khổ. Nhất là những kẻ mà ta gọi là kẻ thù, hay những kẻ mà ta cho rằng chỉ đang chực chờ phá rối ta, hay luôn làm ta nổi giận, khiến ta vô cùng bực bội khi gặp mặt, cứ quán tưởng họ đứng ở trước mặt mình, rồi nghĩ rằng: “Họ cũng là chúng sinh như mình. Họ cũng muốn vui, không muốn khổ. Nhìn trên phương diện này, họ không khác gì mình, đều cùng chung một hoàn cảnh. Chẳng cần phải cảm thấy giận dữ hay bực bội đối với họ. Dù có giận dữ bực bội cách mấy, cũng chẳng làm gì được ai. Nếu có thể gây ảnh hưởng đến cho kẻ thù thì nuôi tâm thù hận hãy còn có chút ý nghĩa, đàng này giận dữ bực bội chỉ khiến chính mình thêm phiền não mà thôi”.

Ví dụ như tôi, là Đalai Lama của xứ Tây Tạng, dù có giận dữ hận thù người Trung Quốc cũng chẳng làm gì được họ. Họ cũng sẽ chỉ thấy thoải mái thôi, đúng không? Nhưng chính tôi lại mất hết tự tại an nhiên. Cảm giác hận thù thật ra mang đầy tính chất tự hủy hoại.

Vì vậy mà phải quán tưởng kẻ thù phía trước mặt. Rồi đọc câu qui y 21 lần, hay càng nhiều lần càng tốt,

Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng

[Namo Buddhaya, namo Dharmaya, namo Sanghaya]

Nếu có thì giờ và nếu muốn, trong khi đọc câu qui y với tâm từ bi và lòng quả quyết, quí vị có thể đồng thời quán tưởng ánh sáng lớn tỏa ra từ Tam bảo, tan vào thân mình cùng toàn thể chúng sinh vây quanh. Quán tưởng tất cả mọi tâm lý bất thiện như tham ái, vô minh, giận dữ, của mình và của chúng sinh, đều nhờ luồng ánh sáng lớn này mà tan biến hết.

E. Phát tâm bồ đề

Muốn phát tâm bồ đề, cần nhớ rằng tất cả mọi loài chúng sinh đều giống như mình, đều có khuynh hướng cầu an lạc, lánh khổ đau. Sự khác biệt duy nhất, tôi thì chỉ có một, mà chúng sinh lại nhiều không kể xiết. Nói cách khác, tôi là thiểu số, kẻ khác chiếm đa số.

Nhớ rằng tôi muốn hạnh phúc, kẻ khác cũng vậy. Tôi không muốn khổ, kẻ khác cũng vậy. Kẻ khác và tôi rõ ràng có mối liên hệ lớn lao. Tôi lệ thuộc vào kẻ khác. Không có kẻ khác, tôi chắc chắn không thể nào có được niềm an lạc, quá khứ không thể, hiện tại không thể, tương lai cũng không thể. Nếu nghĩ nhiều đến kẻ khác, quan tâm tới sự an nguy của kẻ khác, cuối cùng người được hưởng phúc lại chính là tôi.

Nghĩ như vậy để thấy rằng so sánh bản thân với người khác thì người khác chắc chắn là quan trọng hơn. Từ đó kết luận rằng vui buồn sướng khổ của bản thân dù gì cũng chỉ là của một người. Nếu một mình tôi chịu khổ để toàn thể chúng sinh được hạnh phúc thì khổ như vậy rất xứng đáng. Ngược lại, nếu vì hạnh phúc của riêng mình mà gây khổ cho bao nhiêu người, rõ ràng là có sự không ổn trong cách nhìn như vậy.

Muốn phát tâm bồ đề, phát đại nguyện thành Phật để cứu độ chúng sinh, trước hết phải có được tâm địa bình đẳng. Bình đẳng nói ở đây, chính là tâm xả, là trạng thái tâm thức an nhiên bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, không cảm thấy thân thiết với bạn bè, thù hận với kẻ thù hay dửng dưng với người lạ. Phải cố sao cho tâm không chao động trước người xa kẻ gần.

Phương pháp luyện tâm bình đẳng như sau: quán tưởng trước mặt mình có ba người ngồi, một là người dưng, hai là người bạn thân nhất, ba là kẻ thù ác liệt nhất. Rồi quan sát phản ứng của tâm. Sẽ thấy đối với ba người này tâm mình phát sinh ba loại phản ứng hoàn toàn khác nhau. Tại sao như vậy?

Người này đối xử với tôi rất tốt, nên tôi gọi là bạn. Nhưng có gì bảo đảm người ấy sẽ mãi tốt như vậy? Có thể biết chắc bạn sẽ mãi là bạn hay không? Ðương nhiên là không thể. Ngay trong đời này, đang là bạn thân sống chết có nhau, thoắt một cái đã thành hờ hững xa lạ. Sự đời rất chóng đổi thay. Thực tế là như vậy. Do đó chẳng cần phải lưu luyến đến như vậy. Cảm giác thân thiết tuy rất tốt, nhưng lưu luyến một cách mù quáng là điều không nên.

Bây giờ hãy thử nhìn sang phía kẻ thù. Người này hôm nay đối xử với tôi rất tệ. Nhưng ở đây cũng không thể biết chắc họ sẽ tệ như vậy bao lâu, bao đời. Nghĩ vậy tâm tự nhiên sẽ lắng xuống. Người này là bạn, người kia là thù, tuy thật đúng như vậy, nhưng tâm không cần phải chao động. Ðó là bước thứ nhất.

Bước thứ hai, phải thấy tất cả chúng sinh đều đã từng là mẹ của mình trong một kiếp quá khứ nào đó. Nói chung, sự sinh ra có tất cả bốn loại, sinh từ thai, từ trứng, từ hơi nóng và từ thần thông. Nếu là sinh từ thai hay từ trứng thì cần phải có mẹ. Ví dụ như ngày hôm nay, có thể nói rằng người mẹ đời này của tôi tuy đã vắng bóng vài năm trước, nhưng trong những kiếp quá khứ, tất cả mọi người đều đã từng là mẹ của tôi, tôi có thể cảm nhận được điều này rất rõ ràng. Xét theo lý lẽ có khi không thể biết chắc được, nhưng vẫn có thể có được cảm giác mọi người đều đã từng là mẹ của mình.

Từ căn bản này, thử suy nghiệm về tình yêu thương đã nhận được từ người mẹ trong quá khứ. Tương tự như vậy, thấy ai cũng đã từng là cha, là người thân, là bạn bè của mình trong một kiếp quá khứ nào đó.

Nếu thật là như vậy, phải nhớ lòng yêu thương chăm sóc vô hạn của họ dành cho chúng ta. Vì mỗi người trong chúng ta ai cũng đã từng tái sinh vô lượng lần, nên chắc chắn ai cũng đã từng là con của mỗi chúng sinh trong cõi luân hồi này. Ðó là bước thứ ba.

Bước thứ tư là nhớ lại tình thương yêu trìu mến mà mình đã nhận được, không chỉ từ người thân của mình, mà từ tất cả chúng sinh. Sự sống còn của chúng ta hoàn toàn tùy thuộc vào người khác. Ví dụ chiếc áo ta đang mặc đây, nếu dệt bằng gòn thì gòn ấy đến từ cây, cây do người trồng và đã phải trồng như vậy từ nhiều thế hệ. Lại ví dụ căn nhà này, căn phòng này. Hôm nay trời hơi nóng chứ bình thường ở đây rất thoải mái. Sự thoải mái này đến từ công khó của nhiều người thợ, đổ mồ hôi làm việc cho đến khi tay mỏi, lưng cong.

Chúng ta có sống được đến hôm nay cũng là nhờ thực phẩm. Trong trường hợp của riêng tôi, nếu gom hết số bánh mì tôi đã tiêu thụ trong quá khứ ra xếp chồng lại, chắc đã cao bằng trái núi. Gom lại số lượng sữa tôi đã uống, chắc thành sông thành hồ. Người không ăn chay tiêu thụ cả núi thịt. Người ăn chay tiêu thụ cả núi trái cây rau quả. Tất cả không từ trời rơi xuống, không từ thinh không hiện ra, mà có được là nhờ công lao khó nhọc của nhiều người.

Ngay cả danh vọng trong đời cũng vậy. Tiếng tăm không đến từ mình mà từ người khác. Nếu trên đời chỉ có một người thì lấy gì để nổi danh? Không có người khác, không làm sao có thể có danh vọng.

Thực phẩm, áo quần, nhà cửa, tất cả đều nhờ vào người khác. Chúng ta có thể nghĩ rằng “Nhưng mà tôi trả tiền, tôi đưa họ tiền để đổi lấy những thứ này. Không có tiền, tôi sẽ chẳng có được gì cả”. Nhưng tiền cũng vậy, không thể từ một mình mình mà có được. Muốn có tiền, cũng phải nhờ tới người khác. Ðời sống của chúng ta, hiện hữu của chúng ta, hoàn toàn lệ thuộc vào người khác.

Ngang đây quí vị có thể nghĩ rằng: “Nói vậy cũng được đi, nhưng đâu phải họ cố ý giúp tôi. Họ làm như vậy cũng chỉ vì bản thân của họ mà thôi”. Nói rất đúng. Nhưng chúng ta vẫn thường trân quí rất nhiều thứ vốn chẳng hề quan tâm đến chúng ta. Nếu đồng hồ trên tay tôi rớt xuống vỡ nát, tôi sẽ cảm thấy có chút mất mát. Ðâu phải vì đồng hồ cố ý cư xử tốt lành gì với tôi đâu. Tôi quí nó, chỉ vì nó hữu dụng.

Tương tự như vậy, chúng sinh có thể không cố ý cư xử tốt lành với ta, nhưng dù vô tình hay cố ý, công khó của họ vẫn giúp đỡ ta nhiều, vì vậy phải biết quí. Cần phải ý thức rằng cho dù người khác không cố ý giúp, nhưng thiếu họ thì chúng ta không thể sống còn.

Quán về ơn của chúng sinh là một công phu sâu rộng, đòi hỏi nhiều kiên nhẫn.

Tâm đại bi, đại từ và lòng vị tha là những điều cực kỳ tốt lành. Nhiều khi tôi thật sự kinh ngạc trước năng lực của con người. Trái tim con người có khả năng phát khởi tâm vị tha, quí người hơn cả bản thân. Ðó là điều cực kỳ hiếm hoi quí giá. Nhưng nếu không có kẻ khác thì đại bi, đại từ hay vị tha đều không thể nói tới. Yếu tố quan trọng nhất để có thể phát tâm đại từ đại bi là có chúng sinh hữu tình. Không có kẻ khác, lấy gì để luyện tâm đại bi? Không có kẻ khác, lấy gì để luyện tâm yêu thương? Lấy gì luyện lòng vị tha chân chính? Lấy gì để khởi tâm bồ đề ?

Chắc chắn là không thể. Chúng ta kính ngưỡng Phật, Bồ tát và thánh giả, nhưng để luyện năng lực từ bi vị tha, chúng sinh quan trọng hơn cả Phật. Theo đó, sự sống còn của chúng ta phụ thuộc vào lòng tốt của kẻ khác, và cả mọi thành tựu trên con đường tu cũng phụ thuộc vào kẻ khác.

Lại lấy ví dụ khác: muốn luyện tâm từ bi, chúng ta cần biết độ lượng. Thiếu độ lượng sẽ không sao có thể tu. Tâm thù hận giận dữ là chướng ngại lớn nhất của lòng từ bi. Ðộ lượng là chìa khóa hóa giải tâm giận dữ thù hận. Muốn tu tâm độ lượng, chúng ta cần một kẻ thù. Kẻ thù đương nhiên không muốn giúp chúng ta, nhưng việc làm của kẻ thù lại có khả năng giúp chúng ta tu tâm độ lượng.

Lúc phải đối diện với kẻ thù là cơ hội ngàn vàng để tu. Tất cả chúng sinh, nhất là kẻ thù, đều quan trọng cho quá trình chuyển hóa tâm thức. Con đường tu tập của chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào kẻ khác, và cả sự sống còn của chúng ta cũng lệ thuộc vào kẻ khác. Nhìn như vậy, sẽ thấy tất cả chúng sinh đều cực kỳ quí giá chứ không phải chỉ bạn bè thân thiết mới đáng quí. Ðó là bước thứ tư của phương pháp thiền quán này.

Bước thứ năm là phát huy nguyện vọng muốn đền trả ơn nặng của chúng sinh.

Bước thứ sáu là thấy mình và người hoàn toàn bình đẳng. Bình đẳng ở đây có nghĩa là ta muốn an lạc, thoát khổ đau, thì người khác cũng vậy. Hiểu như vậy thì có được tâm bình đẳng giữa mình và người. Phải thấy người khác cũng tựa như thân thể của chính mình. Khi gặp việc nguy hiểm, ta luôn cố gắng bảo vệ toàn thân không bỏ sót bộ phận thân thể nào. Ðối với chúng sinh, cần có thái độ thấy chúng sinh là “của mình”. Chúng sinh đau đớn thì mình đau đớn. Khi cảm giác như vậy bao trùm khắp cả chúng sinh thì mỗi chúng sinh sẽ là một thành viên trong đại gia đình. Bất cứ ai đau, ta cũng đau. Ðó là bước thứ sáu.

Bước thứ bảy là suy nghĩ về khuyết điểm của lòng vị kỷ. Tôi thường nói với mọi người rằng hành động vị kỷ dù trên căn bản là nhắm tới lợi ích bản thân, nhưng thật ra chỉ đem lại vấn đề mà thôi. Sát sinh, trộm cắp, dối láo, đều là việc bất thiện, không những đối với tôn giáo, mà pháp luật cũng không chấp nhận. Tất cả những hành động này đều phát sinh từ lòng vị kỷ.

Làm người, mọi tranh chấp giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, hàng xóm, quốc gia, đều sinh ra từ nỗi xáo trộn mê muội trong tâm con người. Tất cả những việc làm đáng tiếc này đều phát sinh từ lòng vị kỷ.

Ngược lại, tâm vị tha là chìa khóa mở cánh cửa hạnh phúc. Nếu luôn hết lòng vì người khác, mở rộng tâm mình, thành thật với người, như vậy chính mình cũng sẽ được lợi. Sẽ rất dễ có nhiều bạn tốt, nói ví dụ vậy.

Tôi hay nghĩ rằng người tị nạn Tây Tạng sống lưu vong, chỉ cần thành thật và lương thiện, có một nụ cười trên môi, là có được rất nhiều bạn. Cho dù có đi lạc đến xứ Liên xô chăng nữa, cũng sẽ có nhiều bạn tốt. Nhưng nếu ích kỷ tự cao, khinh miệt người khác, thì dù ở đâu cũng không thể có bạn.

Phải nuôi tâm vị tha, lo cho người khác hơn cả cho bản thân, cứ như vậy sẽ gặt hái nhiều lợi lạc. Mọi phát triển tâm linh, mọi thành tựu trên đường tu, mọi kiếp tái sinh tốt lành về sau, thậm chí thành tựu giải thoát, vô thượng bồ đề, tất cả đều dựa vào tâm địa vị tha.

Vì lòng vị kỷ mà sát sinh, kết quả sẽ là khổ đau mệnh yểu. Vì lòng vị tha mà bảo vệ sự sống, kết quả sẽ là được kiếp tái sinh tốt lành và đời sống dài lâu. Quả của nghiệp trộm cắp là bần cùng. Quả của nghiệp bố thí là sung túc. Quả của dối láo là tâm mê mờ, và quả của lời nói thật là tâm trong sáng. Bất cứ hành động vị kỷ nào cũng mang lại khổ đau, bất cứ hành động vị tha nào cũng mang lại lợi lạc. Dù xét từ kinh nghiệm hàng ngày hay xét từ kinh nghiệm thiền định, vẫn sẽ thấy sự tương ứng giữa quả ác với hành động vị kỷ, giữa quả thiện với hành động vị tha.

Bước thứ chín là thật sự hoán chuyển vị trí giữa mình và người. Trạng thái tâm thức này thành thục được nhờ tám bước chuyển hóa trước. Ngang đây, một cách rất tự nhiên, trong lòng chúng ta luôn thôi thúc mong mỏi lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Đến đây có thể bắt đầu thiền theo phương pháp “cho và nhận”. Quán tưởng mình nhận vào tất cả mọi khổ nạn của kẻ khác – đó là đại bi. Rồi lại quán tưởng mình cho đi tất cả mọi an lạc và hạt giống tạo an lạc – đó là đại từ.

Bước thứ mười là cái thường được gọi là “tâm nguyện phi thường”. Ðây là tâm nguyện mãnh liệt muốn gánh lấy trách nhiệm đối với chúng sinh. Tâm nguyện này thành thục được nhờ chín bước tu trước.

Rồi tâm nguyện phi thường sẽ chuyển thành tâm bồ đề, nghĩa là cầu thành Phật để cứu độ chúng sinh. Ðây là bước thứ mười một và cũng là bước cuối cùng của phương pháp phát tâm bồ đề này. Phương pháp này kết hợp hai phương pháp phát bồ đề tâm của ngài Vô Trước[32] và của ngài Tịch Thiên[33].

Với tâm bồ đề như vậy, đọc những dòng sau đây:

Con xin về nương dựa
nơi Phật Pháp và Tăng
cho đến khi giác ngộ.
Nương theo lực tu hành
của sáu hạnh toàn hảo
nguyện trọn thành Phật đạo
vì lợi ích chúng sinh.

Lặp lại những dòng trên với tấm lòng vị tha mạnh mẽ trong sáng. Từng chữ đọc lên, như lấy dầu châm cho ngọn lửa cháy bừng phía bên trong.

Câu này nên đọc ba lần hay nhiều hơn. Ðọc tiếng Anh hay đọc theo ngôn ngữ mẹ đẻ đều được.

F. Hỏi đáp

Hỏi.  Thưa ngài, nói việc thăng trầm trong đời có là do nghiệp gieo trong quá khứ, như vậy sẽ khiến người ta dễ chấp nhận chuyện đời hơn; nói gieo nghiệp xấu sẽ gặt quả xấu sẽ giúp con người tự chế ngự không làm điều bất thiện; những điều này tôi có thể hiểu được.

Tuy vậy, xin hỏi muốn sống một cuộc sống đàng hoàng ngay thẳng, có nhất thiết phải tin có kiếp trước kiếp sau hay không?

Ðáp.  Chắc chắn là không. Tôi thường nói cho dù quí vị có tin Phật giáo hay không, vẫn nên sống với trái tim nhân hậu. Ðiều này không đòi hỏi phải tin vào kiếp trước kiếp sau, cũng không cần tin vào thuyết nhân quả của Phật giáo. Sống nhân hậu tự nó đã là một tôn giáo rồi.

Tôi thật sự tin rằng những người vô thần chống đối tôn giáo vẫn có thể là những con người nhân hậu. Tôi đã từng gặp vài người như vậy, họ sống theo lương tri, hy sinh trọn đời cho quần chúng. Có nhiều người rất tốt, tuy không tin vào thuyết tái sinh của Phật giáo.

Tôi thường nói lòng yêu thương nhân ái là tôn giáo chung của nhân loại. Vì hôm nay chúng ta nói về Phật giáo, nên tôi trình bày lòng nhân ái qua tầm nhìn của Phật giáo. Người không có tinh thần Phật giáo vẫn có thể cố gắng sống nhân hậu, điều này đương nhiên là có thể được.

Tuy vậy, nếu không tin có giác ngộ viên mãn thì vấn đề phát tâm bồ đề đương nhiên không cần đặt ra, vì tâm bồ đề chính là tâm nguyện muốn đạt giác ngộ viên mãn.

Hỏi.  Thưa ngài, khi ngài nói về phần tâm thức vi tế, có sự khác biệt nào không giữa tâm thức, tâm thức của cái gì, và tâm thức cho cái gì?

Ðáp.  Nói chung khó lòng nói đến tâm thức mà không nói đến đối cảnh của tâm thức, vì ngay chính chữ tâm thức đã có nghĩa là nhận thức đối cảnh.

Xét trên phương diện hành động, tôi nghĩ chữ tâm thức tương ứng với phần thô lậu của tâm. Còn phần tâm thức vi tế chỉ hiển lộ trong tâm người bình thường ở trạng thái vô thức, ví dụ khi ngất xỉu.

Nói về tám giai đoạn tan rã của quá trình chết, giai đoạn thứ bảy là giai đoạn đen cận tử. Giai đoạn này có hai: một là vẫn còn giữ lại phần ký ức vi tế, hai là mất tất cả mọi ký ức. Ở đây, kinh nghiệm ánh sáng chân như này có được là do nghiệp lực.

Cũng giống như quá trình tan rã tự nhiên của năm hợp thể. Năm hợp thể có được cũng do nghiệp lực. Quá trình tan rã như vậy xảy ra một cách tự nhiên.

Ngoài ra cũng có trường hợp nhờ thiền định, vận dụng khí vi tế v.v., mà người tu có được kinh nghiệm ánh sáng chân như. Trong trường hợp này, người tu dựa vào khả năng thành tựu của mình để có được kinh nghiệm ánh sáng chân như trong thiền định. Người tu bước vào tầng vi tế của tâm thức, an định trong đó, hoàn toàn tỉnh thức, không lúc nào mất đi sự tự chủ. Rồi vận dụng loại kinh nghiệm thiền định này để quán về tánh không của thực tại.

Hỏi.  Nếu chết là trạng thái cuối cùng của tâm thức, vậy ma quỉ là gì? Ngài có đã từng gặp ma quỉ chưa?

Ðáp.  Tôi nhớ lúc bé tôi rất sợ ma.

Theo Phật giáo, thế giới này có sáu đường tái sinh, tương đương với nhiều mức độ khổ đau an lạc khác nhau trong cõi sống. Còn nếu nói về mức độ thô lậu vi tế của hình sắc, cảm giác và ý tưởng, thì chúng sinh được chia thành ba cõi: dục giới, sắc giới, và vô sắc giới.

Ma quỉ có thể thuộc về bất cứ cõi nào trong ba cõi nói trên. Tương tựa như người ta, ma quỉ cũng có kẻ tốt, kẻ xấu, kẻ thiện, kẻ ác. Như vậy đó.

Hỏi.  Thưa ngài, có thể nào chứng duyên sinh mà không cần phải tích tụ công đức, thanh tịnh nghiệp chướng?

Ðáp.  Tâm người bình thường vẫn có thể thấy được duyên sinh, không cần phải diệt trừ tất cả mọi nghiệp chướng. Dựa trên thuyết duyên sinh này để chiêm nghiệm về tánh không, rồi sẽ có lúc hiểu được tánh không. Dùng lý trí suy nghĩ, quán niệm, từ từ sẽ cảm nhận được tánh không.

Ở đây cần phải phân biệt hai loại tâm thức khác nhau, đó là tâm trực chứng duyên sinh, và tâm hiểu về duyên sinh. Muốn có kinh nghiệm trực chứng tánh không, hay duyên sinh, cần phải giảm bớt năng lực của phiền não ô nhiễm. Sau đó, mỗi khi thiền quán về tánh không lại càng làm nghiệp chướng mỏng hơn.

Rồi quí vị sẽ thấy trực chứng tánh không thật ra không phải là khó khăn gì cho lắm.

Hỏi.  Thưa ngài, ngài nói “cái tôi” giống như ông chủ. Tôi không hiểu rõ lắm nói như vậy nghĩa là sao. Có phải có cái gì trong người, khiến chúng ta suy nghĩ hành động? Cái ngã chăng?

Ðáp.  Chúng ta không thể phủ nhận hiện hữu của “cái tôi”. Không ai có thể kiếm ra cái tôi là gì cả, nhưng cái tôi thật sự có đó. Cái tôi có đó, vì cái tôi là kết quả của sự giả danh. Ngã, hay “cái tôi”, không thể tự sinh, tuy vậy có rất nhiều tôn giáo cổ không thuộc Phật giáo giải thích rằng có một cái tôi tự có, tự đủ, hoàn toàn nằm ngoài hợp thể thân tâm của con người. Thuyết này nói rằng thân thể tuy thay đổi, nhưng bản ngã vẫn trường tồn, duy nhất. Loại ngã này Phật giáo không chấp nhận. Ngã như vậy gọi là atma, chính chữatma đã tượng trưng cho một hiện hữu chắc thật và độc lập.

Rõ ràng là khi tâm thay đổi, cái tôi cũng tự nhiên thay đổi. Khi đau ốm, chúng ta có thể nói “tôi bệnh”, “tôi đau”. Tuy không phải là “cái tôi”, nhưng qua đó chúng ta có thể nói về mình.

Hỏi.  Thưa ngài, ngài nói với chúng tôi rằng thế giới này không khởi điểm, không kết thúc. Chúng tôi lại được nghe rằng khúc giữa, cái gọi là thế giới hiện tượng, cũng không có nốt. Không đầu, không đuôi, không khúc giữa. Vậy chúng ta đang đứng ở đâu?

Ðáp.  Chính đức Phật cũng nói như lời tôi vừa giải thích. Ngài nói rằng “Điều gì sinh ra từ nhân duyên là vô sinh”. Câu này có nghĩa là các hiện tượng vừa được sinh ra, vừa không được sinh ra. Phật giáo chấp nhận tâm thức không bắt đầu, không kết thúc, là vì thấy được tâm thức có nhiều chức năng và nhiều tầng lớp. Một khi đã chấp nhận quan điểm này, cứ xét theo lẽ hợp lý là có thể giải thích và tin chắc được rằng tất cả mọi biến hóa đều khởi từ nền tảng vô thủy vô chung của tâm thức.

Sự vật có nhiều chức năng khác nhau, vì vậy ta có thể thấy được rằng không thể có điều gì có tự tánh, tự sinh, tự tồn, mà lại không bị những chức năng khác nhau đó tác động, vì vậy chân tánh của sự vật bắt buộc phải là tánh không. Trên nền tảng của tánh không, tất cả mọi chức năng mâu thuẫn đều có thể hiện hữu, vì vậy mà nói sự vật như huyễn mộng.

Tánh Không trong nghĩa Shunyata phải là tánh không của một vật hiện hữu, nằm trong thực tại. Tính chất của mỗi hiện tượng đều là tánh không, là sự không có tự tánh.

Tánh Không là một đặc tính, là chân tánh của sự vật. Sự vật sinh ra từ nhân duyên có tính chất chuyển biến liên tục. Ngoài ra, nhờ đâu sự vật lại có thể chuyển biến liên tục? Nhờ tính chất của sự vật vốn là Không. Ðã nói tính chất thì phải là tính chất của một cái gì đó. Nếu không có gì hiện hữu cả thì cũng chẳng có tính chất nào để mà nói tới.


<< Đọc Tiếp >>


Mục lục

 Chương 6Đường đi của Phật

 

A. Quán tâm bồ đề

Một vị thầy Ấn Độ tên Sư Tử Hiền (Haribhadra) có viết rằng tâm bồ đề là trạng thái tâm thức đến từ nguyện vọng mong mỏi chúng sinh thoát cảnh luân hồi, đi cùng với ý chí muốn thành Phật để cứu độ chúng sinh. Ðại nguyện cầu giác ngộ được biểu hiện bằng tâm từ bi hướng về toàn thể chúng sinh, và đây cũng chính là tuệ giác hướng về giác ngộ.

Muốn đạt giác ngộ, trước tiên phải thành tựu niết bàn. Muốn thành tựu niết bàn, phải chứng ngộ tánh không.

Ngay như công phu rất căn bản là qui y Tam Bảo, là yếu tố quyết định người tu có phải là Phật tử hay không, người tu cũng phải trực chứng tánh không rồi mới có thể đạt tới tâm qui y thật sự thuần tịnh. Vậy ngay cả công phu qui y Tam Bảo cũng có nhiều mức độ thành tựu khác nhau.

Nói về con đường tu chứng, một người không phải là Phật tử vẫn có thể cố gắng tìm hiểu về tánh không, nhờ hiểu tánh không mà tin có sự tận diệt của khổ đau gọi là niết bàn. Từ đó khởi lòng tin nơi Phật pháp, nhờ vậy mà cảm thấy kính ngưỡng vị thầy đã dạy về tánh không, kính ngưỡng những người đang bước trên con đường tu chứng. Nói chung, người tu có hai loại, hoặc là dựa vào lý trí để tu, hoặc là dựa vào lòng tin để tu. Phương pháp thích hợp nhất cho người có căn cơ cao là dựa vào lý trí để tu.

Qui y Tam bảo rồi thì trở thành Phật tử. Nhưng có là Phật tử Đại thừa hay không hãy còn tùy lúc qui y có phát đại nguyện vì chúng sinh mà cầu quả vị giác ngộ cao nhất hay không. Vì lý do này, hai công phu qui y Tam bảo và phát tâm bồ đề thường đi chung với nhau.

Tiếp theo là tích lũy công đức bằng cách trì tụng Thất Chi Phổ Hiền. Thất Chi Phổ Hiền này nằm trong kinh Hoa Nghiêm[34]. Ngoài ra, kinh Bát Nhã Ba La Mật[35] cũng có nhắc đến.

Một là đảnh lễ Phật đà. Bài tụng nói rất rõ, tôi nghĩ không cần giải thích thêm. Lạy Phật sẽ giúp quí vị trị tâm kiêu ngạo.

Hai là cúng dường Tam bảo. Ðây là thuốc hóa giải tâm ích kỷ.

Ba là sám hối tội chướng, nhìn nhận những hành động sai quấy của mình. Sám hối giúp hóa giải ba chất độc tham sân và si.

Bốn là tùy hỉ công đức, nhằm hóa giải lòng ganh ghen đố kị.

Năm là xin Phật chuyển Pháp luân, là thuốc hóa giải mọi ác nghiệp đã phạm đối với kinh điển và các bảo vật tượng trưng cho Tam bảo.

Sáu là xin Phật ở đời, nhằm hóa giải ác nghiệp phỉ báng các đấng giác ngộ.

Bảy là hồi hướng công đức, nhằm hóa giải tà kiến, nhất là tà kiến không tin nhân quả nghiệp báo, cho rằng quả không đến từ nhân.

B. Thiền chỉ

Vị nào muốn thiền chỉ để đạt định (shamata) thì, như đã nói, nên lựa một chỗ ngồi cách ly, yên tịnh để tu trong vài tháng. Tôi nghĩ việc này không phải ai cũng làm được. Tuy vậy, trong đời sống hàng ngày, vẫn có thể thu xếp chút ít thời gian để tu thiền chỉ, giúp tâm an định phần nào. Quí vị có thể chọn bất cứ một điều gì để làm đề mục thiền chỉ. Trong bài tụng này, đề mục quán tưởng được chọn là đức Phật cùng bốn vị đại Bồ tát Quan Tự Tại, Văn Thù Sư Lợi, Kim Cang Thủ và Tara.

Nếu muốn thiền chỉ, nên chú tâm vào đức Phật ở chính giữa, không cần chú ý nhiều đến bốn vị đại Bồ tát xung quanh. Quán tưởng Phật phát ánh sáng rạng ngời, thân Phật đầy và nặng. Làm như vậy để giúp tâm trụ vững, giải tỏa bóng tối.

Muốn hình ảnh trong quán tưởng được rõ ràng thì nên chọn một tượng Phật to lớn, có nhiều chi tiết rõ ràng, ngồi học từng chi tiết cho thật kỹ. Rồi khi ngồi thiền ráng nhớ lại hình ảnh Phật đã học. Một khi ảnh Phật hiện ra trong quán tưởng, phải dùng năng lực chánh niệm để giữ hình ảnh ấy lại. Phải dùng tâm nắm lấy hình ảnh.

Muốn đạt định (shamatha), tâm cần hội đủ hai yếu tố chính là tĩnh và sáng. Các bộ luận của ngài Di Lạc và Vô Trước có nói về năm chướng ngại của thiền chỉ, và tám biện pháp đối trị.

Chướng ngại đầu tiên là làm biếng. Biện pháp đối trị có hai, một là hiểu được lợi ích của định tâm và hai là quyết tâm muốn đạt định. Phải có lòng tin vững chắc nơi phương pháp tu định thì mới trị được bệnh làm biếng.

Dù không thể sánh với các bậc hành giả cao, nhưng trong đời sống hàng ngày hễ tâm an định được chừng nào sẽ khiến trí óc bén nhạy, bớt trì trệ chừng nấy. Tu như vậy sẽ giúp đầu óc tỉnh táo, bớt nhọc mệt. Ðây là điều rất hữu dụng.

Chưa đạt định sẽ  không thể thiền quán để khai tuệ (tì bát xá na – vipashyana). Không thể nhập định thì quán tưởng thân Phật sẽ không mang lại ích lợi gì cả. Phải từ trong định mà quán thân Phật, có như vậy phương pháp tu này mới có hiệu quả, mới tạo tác dụng. Tất cả những điều này đều tùy thuộc vào khả năng nhập định của người tu.

Biện pháp thứ hai để chống bệnh làm biếng là lòng quyết tâm muốn đạt định, đạt lực, đạt trạng thái nhu nhuyễn của thân và tâm. Bốn điều này là kết quả có được khi đạt định, và cũng là thuốc chữa bệnh làm biếng.

Chướng ngại thứ hai là quên mất đề mục thiền. Muốn chữa bệnh này tâm phải giữ chánh niệm, phải luôn nắm giữ đề mục thiền.

Chướng ngại thứ ba là trạo cử và hôn trầm, có nghĩa là kích thích và trì trệ. Muốn chữa bệnh này phải giữ tâm nhanh nhẹn tỉnh táo.

Hai trạng thái trạo cử và hôn trầm có nhiều mức độ thô lậu vi tế khác nhau. Có một trạng thái tâm thức hoàn toàn trì trệ, khiến tâm bị chìm đắm. Trì trệ đến nỗi đề mục quán tưởng không hiện, tâm người thiền cũng không chút tỉnh táo, tất cả đều mờ mịt trống trơn.

Ngoài ra còn một trạng thái hôn trầm khiến đề mục bị lu mờ mất ánh sáng. Hôn trầm còn có nghĩa là chìm đắm, năng lực của tâm thức chùng xuống, như bị lún xuống bùn. Hôn trầm thô lậu là đánh mất đề mục quán tưởng. Hôn trầm vi tế là đề mục tuy vẫn còn, nhưng hình ảnh không được rõ.

Trạo cử là trạng thái thiếu tập trung, tâm tán loạn theo đủ loại đối cảnh, không thể an định. Trạo cử vi tế là tâm vẫn còn giữ đề mục quán tưởng, nhưng phần lớn độ tập trung đã bị xao lãng. Ðể tránh loại trở ngại này, phải dùng thuốc hóa giải là tâm bén nhạy tỉnh táo.

Ðể tâm thư giãn quá độ sẽ bị hôn trầm. Bắt tâm tập trung quá độ sẽ bị trạo cử. Muốn đừng vướng hai loại chướng ngại này, phải điều chỉnh sao cho tâm giữ được mức độ quân bình, không quá chùng cũng đừng quá căng.

Làm sao thoát hôn trầm và trạo cử? Phải tùy trường hợp mà siết chặt hay nới lỏng độ tập trung của tâm. Gặp loại hôn trầm rất vi tế thì phải tăng cường độ tập trung. Còn gặp phải loại hôn trầm thô lậu, tốt nhất nên tạm ngưng buổi ngồi thiền, nhớ lại những kỷ niệm vui tươi dễ chịu để lên tinh thần. Hoặc ra ngoài dạo một vòng cho thoáng mát.

Nếu gặp loại trạo cử vi tế, phải biết giảm cường độ tập trung. Còn khi gặp trường hợp trạo cử thô lậu thì nên nhớ lại những việc buồn để giảm bớt độ kích thích. Nói chung muốn thoát hai loại chướng ngại này, người tu phải dựa vào kinh nghiệm riêng của mình để tự tìm cách quân bình mức độ tập trung.

Ðề mục thiền chỉ có nhiều loại, không nhất thiết phải chọn một món vật cụ thể bên ngoài làm đề mục mà có thể chọn một đề mục nội tại như là minh chú, chủng tự, hay là ánh sáng trong khí huyệt. Điều này được giải thích rõ trong Mật tông Tối thượng Du già.

Cũng có phương pháp chọn tâm thức làm đề mục thiền chỉ. Phương pháp này lúc đầu rất khó, vì đối cảnh ở đây là tâm, mà tâm cũng chính là chủ thể hành thiền. Nếu chọn phương pháp tu này, lúc mới bắt đầu tu quí vị phải ráng phát huy ý muốn trụ tâm nơi tâm, rồi dùng chánh niệm giữ vững ý muốn này. Phải tu tập như vậy cho thật lâu thật quen, rồi ra mới có thể trực tiếp trụ tâm nơi tâm, bằng không rất khó. Chúng ta thường nói về tâm, luôn vận dụng tâm, nhưng thấy được tâm là điều rất khó.

Hai chướng ngại tiếp theo, một là không áp dụng biện pháp hóa giải khi gặp trạng thái trạo cử hay hôn trầm, hai là áp dụng biện pháp hóa giải khi không cần thiết.

Có tất cả chín giai đoạn trên con đường tu chỉ. Khi đạt đến giai đoạn thứ bảy hay tám, mọi chướng ngại gần như không còn. Khi ấy nếu còn tiếp tục áp dụng biện pháp hóa giải thì điều này sẽ tạo trở ngại cho sự định tâm. Gặp trường hợp như vậy, biện pháp hóa giải tốt nhất là giữ tâm bình đẳng.

Tâm bình đẳng có rất nhiều loại. Bình đẳng có khi là cảm giác trung tính. Bình đẳng cũng là tâm không phân biệt khi hướng về chúng sinh. Ở đây, bình đẳng có nghĩa là không áp dụng biện pháp hóa giải khi không cần thiết.

Ðó là năm loại chướng ngại và tám biện pháp hóa giải.

Muốn dốc công tu thiền chỉ, có một yếu tố rất quan trọng cần quan tâm, đó là cách ăn uống. Trong suốt thời gian tu thiền chỉ, ăn chay đặc biệt có tác dụng tốt.

Theo y học Tây Tạng, nếu từ nhỏ đã quen ăn chay thì ăn chay là tốt nhất. Nhưng nếu lớn rồi mới bắt đầu ăn chay, có khi sẽ khiến khí mạch trong người bị xáo trộn. Tai có thể nghe tiếng gió, tay chảy mồ hôi, tâm thần xáo trộn bất an. Những điều này tạo trở ngại lớn cho thiền chỉ. Ngoài trường hợp này ra, ăn chay là tốt nhất.

Buổi tối nên ăn ít một chút. Hay hơn hết là nên nhịn ăn buổi tối, nếu không chỉ nên ăn bữa nhẹ. Cũng không nên đi ngủ trễ, ráng ngủ sớm, dậy sớm.

Thời gian tốt nhất để thiền chỉ là buổi bình minh. Nhất là khi đã thức dậy nhưng giác quan vẫn chưa hoàn toàn tỉnh táo, rất dễ được kết quả tốt. Nếu có thể thu xếp ngồi thiền vào lúc đó, quí vị sẽ thấy kinh nghiệm trực tiếp về ánh sáng chân như không phải là điều khó. Đương nhiên điều này cũng còn tùy vào căn duyên của mỗi người.

Mật tông Tối thượng Du già còn nhiều phương pháp khác, nhưng quí vị nếu chưa nhận pháp quán đảnh thì không thể tu theo.

Ngoài ra, còn một phương pháp rất hay là thiền trong giấc mơ. Muốn hành trì theo phương pháp này, khi mơ phải biết là mình đang mơ, rồi từ trong mơ tự chủ ngồi thiền. Tâm trong giấc mơ vi tế hơn, vì vậy thiền với tâm trong mơ sẽ tốn ít công sức mà lại có thể vận dụng được những tầng tâm thức sâu hơn. Nếu làm được như vậy, chúng ta có thể hoạt hiện một loại “thân trong mơ”. Loại thân này rất đặc biệt,  không liên quan đến thân vật lý. Là một loại thân vi tế, vì vậy có thể đi đến nhiều nơi, làm nhiều việc. Tôi nghĩ loại thân này là gián điệp tài tình nhất. Có được thân này sẽ dễ hoàn thành nhiều trách nhiệm, không sợ bị bắt, không sợ ai khác thấy được mình.

Loại công phu này chủ yếu nhắm vào khả năng vận dụng thân vi tế và tâm vi tế, chỉ thấy có trong mật tông. Trong nhiều trường hợp người tu vì lớn tuổi hay bệnh tật, không thể nhìn bằng mắt, vì mắt thuộc thân thô lậu. Nhưng nhờ thành tựu tâm linh, họ có thể đọc kinh sách bằng đầu ngón tay. Ðây là một loại thần thông có được nhờ định tâm, trong Phật giáo hay ngoài Phật giáo gì cũng có thể làm được.

C. Tụng chú

Tiếp theo là phần tụng chú. Thông thường khi hành trì công phu hàng ngày, sau khi quán tưởng, thiền định, nếu còn thì giờ thì tụng chú.

Trong khi tụng chú, quán tưởng chủng tự của Phật và Bồ tát như chỉ dẫn trong bài tụng (xem Phụ lục 2). Năm chủng tự là MUM (vàng ròng), HRIH (trắng), DHIH (vàng), HUM (xanh biển đậm), TAM (xanh lá). Chủng tự có thể được quán tưởng bằng chữ Phạn, mẫu tự la tinh, hay loại chữ gì khác cũng được.

MU là âm đầu của chữ Muni, hồng danh đức Thích Ca Mâu Ni. Chữ MU cộng với chóp mũ trên đầu, đọc thành MUM. Chóp mũ trên đầu gọi là Bindu,  âm “em mờ”, tượng trưng cho tánh không, và MU là thực tại qui ước. MUM là sự kết hợp giữ tánh không và hiện tượng qui ước.

HRIH là chủng tự của đức Quan Tự Tại, vì đây là chủng tự của đức Phật A di đà, là đấng Như Lai hóa chủ bộ Phật của ngài Quan Tự Tại.

DHIH âm Phạn có nghĩa là trí tuệ. Ðức Văn Thù Sư Lợi là hiện thân của trí tuệ, vì vậy đây là chủng tự của ngài.

HUM là chủng tự của đức Kim Cang Thủ, là hiện thân của ý Phật. HUM cũng là chủng tự của Phật Bất động[36], là vị Như Lai hóa chủ bộ Phật của ngài Kim Cang Thủ.

TAM là chủng tự của đức Tara. Cũng giống như chữ MU, TA là âm đầu của Tara, cộng thêm chóp mũ trên đầu thành chữ TAM.

Màu sắc của năm chủng tự này tương ứng với màu sắc của năm vị Phật và Bồ tát. Mỗi chữ được bao quanh bằng minh chú riêng. Chúng ta nên đọc cả năm minh chú, càng nhiều lần càng tốt.

OM MUNI MUNI MAHA MUNIYE SVAHA là minh chú của Phật Thích Ca Mâu Ni. MUNI (Mâu ni) có nghĩa là người-có-khả-năng (năng nhân), MAHA MUNI có nghĩa là người-vĩ-đại-có-khả-năng. Xét theo nguyên nghĩa, chữ OM là chữ tắt của ba Phạn tự A-U-M, tượng trưng cho thân miệng và ý của Phật, đồng thời cũng là thân miệng ý của người tu.

OM MANI PADME HUM là minh chú của Bồ tát Quan Tự Tại. MANI tiếng Phạn có nghĩa là ngọc báu, tượng trưng cho phương tiện. Ý nghĩa chữ Phương tiện trong mật tông Đại thừa là tâm bồ đề, là đại từ – đại bi (mahamaitri – mahakaruna). PADME là hoa sen, tượng trưng cho tuệ giác tánh không. HUM tượng trưng cho sự hợp nhất. Tương tự như OM vừa tượng trưng cho thân miệng ý bất tịnh của người tu, vừa là thân miệng ý thanh tịnh của Phật đà; chữ HUM cũng có nghĩa là nhờ tu tập nên có thể chuyển thân miệng ý của mình thành thân miệng ý của Phật. Ba cửa bất tịnh chuyển thành ba cửa thanh tịnh.

Chuyển hóa bằng cách nào? Sự chuyển hóa này được thể hiện qua hai chữ MANI và PADME, tượng trưng cho phương tiện và trí tuệ.

Như đã nói, phương tiện là tâm bồ đề, là đại từ, đại bi mà cũng là Bổn tôn Du Già; còn trí tuệ là tuệ giác tánh không. Chữ HUM là sự hợp nhất của phương tiện và trí tuệ. Phương tiện và trí tuệ hợp nhất có khả năng chuyển thân miệng ý bất tịnh thành thân miệng ý thanh tịnh.

Ðó là ý nghĩa của Om Mani Padme Hum. Minh chú này ai cũng biết, đúng không? Rất nhiều người nghe nói tới minh chú này. Nghĩa đen của minh chú này là “người cầm đóa sen và ngọc quí trong tay”.

OM WAGI SHVARI MUM là minh chú của Bồ tát Văn Thù Sư Lợi. WAGI tiếng Phạn nghĩa là lời nói; SHVARI là người. Nghĩa đen của minh chú này là “người có tiếng lời tuyệt hảo”.

OM VAJRA PANI HUM là minh chú của Bồ tát Kim Cang Thủ. PANI là bàn tay. Tây Tạng dịch Kim Cang Thủ là “người cầm chày kim cang trong tay”. Ðó là nghĩa đen của chú. Xét về nghĩa thật sự, VAJRA có nghĩa là sự kết hợp giữa phương tiện và trí tuệ. Nếu chày kim cang và chuông báu đi chung thì chày kim cang là phương tiện mà chuông báu là trí tuệ. Nhưng nếu chỉ nói đến một mình chày kim cang thì chày này là biểu tượng của sự hợp nhất giữa phương tiện và trí tuệ.

OM TARE TUTTARE TURE SVAHA là minh chú của Bồ tát Tara. Tên chữ Phạn của ngài là TARA, Tây Tạng dịch là Dolma, nghĩa là đấng cứu độ [Hoa văn dịch là Độ Mẫu]. TUTTARE là sự giải thoát to lớn hơn nữa. SVAHA là an trú.

 

Chú tiếng Phạn gọi là mantra, phân tích ra thành chữ mana, nghĩa là tâm, và chữ tra, nghĩa là bảo vệ. Vậy mantra mang ý nghĩa hộ trì tâm thức. Trong mật tông Đại thừa, chú có nghĩa là giữ gìn không để tâm hiện tướng chúng sinh, cũng không để tâm chấp bám vào tự tánh của sự vật.

Khi tu theo pháp tu quán tưởng Bổn tôn Du Già, người tu cố gắng nuôi dưỡng cảm giác mình là đấng Bổn tôn. Khi thiền định chú tâm vào đấng Bổn tôn, mặc dù mắt, tai… vẫn nghe thấy mọi việc như bình thường, nhưng trên lãnh vực ý thức, phải thu nhiếp tất cả mọi nhận thức hay tướng hiện nào thuận theo vô minh chấp có tự tánh, để tâm thức an trú trong trạng thái thanh tịnh nhiệm mầu. Nhờ tu theo phương pháp này, tâm người tu sẽ không rơi vào niệm chúng sinh chấp có tự tánh. Ðó là ý nghĩa của chữ “mantra”.

Phật giáo phân biệt nhiều loại chú (mantra), như là thần chú “thế gian”, minh chú “xuất thế”, minh chú “gốc”, minh chú “tinh túy” hay “tâm chú”, và minh chú “gần như tinh túy”. Ðó là bốn loại chú. Có loại bắt đầu bằng Om nhưng không có Svaha phía sau. Có loại có Svaha phía sau, lại có loại có cả hai, hoặc không có cái nào cả.

Chúng ta chủ yếu là tụng minh chú của Phật, Om Muni Muni Maha Muniye Svaha.

Phật là đấng đạo sư, bốn vị đại Bồ tát vây quanh là hiện thân của Phật, hiện ra vì một lý do nhất định. Ví dụ muốn chuyên chú phát triển lòng từ bi thì nên tụng chú của đức Quan Tự Tại là Om Mani Padme Hum. Chú này cũng thường được tụng cho người đã mất. Khi mẹ tôi qua đời, anh chị tôi và nhiều người khác kể cả tôi đều tụng Om Mani Padme Hum một trăm ngàn lần hay nhiều hơn. Tụng như vậy rất tốt cho sự chuyển hóa tâm thức trên lãnh vực phương tiện. Chúng tôi thường vẫn làm như vậy.

OM WAGI SHVARI MUM là minh chú của Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, rất tốt cho sinh viên học sinh. Tụng chú này tăng trí thông minh, giúp đầu óc bén nhạy. Nhiều lúc chúng tôi tụng DHIH DHIH DHIH DHIH một trăm lẻ tám lần liên tục hay nhiều hơn, trong cùng một hơi thở. Lấy một hơi thật dài, rồi tụng một mạch DHIH DHIH DHIH DHIH… làm như vậy trí nhớ sẽ gia tăng.

OM VAJRA PANI HUM là minh chú của Bồ tát Kim Cang Thủ, giúp phá tan mọi chướng ngại vô hình. Ðương nhiên là không nên mê tín dị đoan, nhưng nếu không vì lý do gì lại liên tục xảy ra nhiều điều quái lạ, như vậy cũng có khi là vì gặp phải chướng ngại vô hình. Tụng chú này có thể giúp làm tan biến loại chướng ngại này.

OM TARE TUTTARE TURE SVAHA là minh chú của Bồ tát Tara. Chú này giúp tăng tuổi thọ, rất lợi ích khi gặp bệnh nặng cần điều trị. Chú này cũng giúp cho công việc làm ăn được thuận tiện.

Căn bản công phu tụng chú là tâm bồ đề: cầu thành Phật vì lợi ích chúng sinh. Khi đang cố gắng thực hiện mục tiêu tối hậu này, có khi cần thành tựu một vài mục tiêu ngắn hạn trước mắt, như sống lâu, thành công, thêm trí tuệ, hay đạt thành tựu. Trên căn bản vị tha này, tụng chú có thể mang lại nhiều hiệu quả.

Phương pháp tu mật cũng được dùng để thực hiện nhiều việc làm như hàng phục, tăng trưởng, năng lực hay oai thần. Ðể minh chú có năng lực, trước tiên cần phải thành tựu tánh không và tâm bồ đề.

D. Quán tánh không

Muốn thấy tất cả mọi hiện tượng hư vọng đều như nhau trong tánh không, cần thiền quán về tánh không. Bao giờ tu thiền chỉ và phát tâm bồ đề đã có tiến bộ, khi ấy có thể bắt đầu thiền quán tánh không.

Thông thường người tu không cần phải thu nhiếp tướng hiện của sự vật khi thiền quán về tánh không, nhưng ở đây vì tu theo phương pháp mật tông nên tướng hiện của sự vật cần được thu nhiếp.

Phương pháp này có thể bắt đầu bằng hai cách, tác dụng giống nhau: hoặc thu nhiếp mọi tướng hiện trước, quán tánh không sau, hoặc quán tánh không trước rồi thu nhiếp tướng hiện của sự vật sau.

Bây giờ thử giải thích sơ lược về nội dung thiền quán tánh không. Ở đây, quan trọng nhất là phải nhận diện cho chính xác đâu là đối tượng cần được phủ định.

Nói chung, những tông phái lớn trong Phật giáo đều công nhận cái gọi là bốn dấu ấn Phật giáo [Tứ Pháp Ấn]:

Mọi hiện tượng do yếu tố kết hợp đều vô thường

Mọi hiện tượng ô nhiễm đều là khổ

Mọi hiện tượng đều vô ngã và đều là không

Chỉ có niết bàn là an lạc chân chính[37]

Vô ngã nói ở đây ứng với nghĩa “không có cái ngã của con người” (nhân vô ngã). Còn vô ngã của sự vật (pháp vô ngã) chỉ thấy nói trong hai tông phái Đại thừa là Duy thức tông và Trung quán tông.

Trong kinh Giải Thâm Mật, Duy thức tông nói về hai loại tánh không. Loại tánh không thứ nhất như sau: dù sắc là đối tượng của ý, nhưng lại không phải là đối tượng của nhận thức tin sắc có tự tánh. Sắc chỉ là tên gọi, là giả danh, do ý chủ động gán tên. Vậy khi nói không có sắc làm nền tảng cho cái tên, đây là một loại tánh không.

Ngoài ra, Duy thức tông còn nói về một loại tánh không thứ hai: thế giới khách quan không thể có ngoài tâm thức. Duy thức tông cho rằng thế giới khách quan hoàn toàn không hiện hữu, tất cả đều do tâm phóng hiện. Tánh Không của Duy thức tông không giống với tánh không trong Trung quán. Duy thức tông tuy phủ nhận tự tánh của thế giới hiện tượng khách quan bên ngoài, nhưng lại tin vào tự tánh của tâm.

Xét theo quan điểm Trung quán tông sẽ thấy Duy thức tông thật ra vướng vào cả hai cực đoan, là thường kiến và đoạn kiến. Cho rằng thế giới ngoại cảnh không có thật, như vậy là đoạn kiến. Lại tin rằng thế giới tâm thức có tự tánh, như vậy là thường kiến.

Quan điểm Trung Quán tông cho rằng cả hai thế giới nội tâm và ngoại cảnh đều không có tự tánh, tuy vậy vẫn hiện hữu trên lãnh vực tương đối.

Trung quán tông chia thành hai hệ phái khác nhau. Hệ phái đầu nói rằng thế giới hiện tượng khách quan không hiện hữu, vì không phải là đối cảnh của tuệ giác trực ngộ chân tánh, tuy vậy sự vật vẫn có một cái gì, một tính chất sẵn có nào đó, khiến chúng có khả năng hiện hữu trong lãnh vực tương đối. Ví dụ khi tìm về cái tôi, hệ phái này nói rằng “tâm thức là chân tướng của con người”, hay những điều đại loại. Nói chung hệ phái này vẫn thấy có một điều gì đó có thật ngay từ trong đối cảnh.

Còn hệ phái thứ hai cũng nói rằng sự vật không hiện hữu vì không phải là đối cảnh của tuệ giác trực ngộ chân tánh, tuy vậy, nếu dùng lý luận truy tìm bản thân của chính sự vật, cũng sẽ không thể tìm ra gì cả. Ðó là kiến giải của hệ phái thứ hai. Kiến giải này thâm sâu hơn, vì không dẫn đến những kết quả phi lý. Còn kiến giải của những tông phái khác khi phân tích kỹ sẽ tìm ra nhiều kết quả phi lý.

Các nhà luận giải Trung quán tông khi đưa ra thuyết tánh không, đã áp dụng nhiều phương pháp luận lý. Một trong những phương pháp được áp dụng là phân tích quá trình chuyển biến của sự vật, phương pháp này được gọi là “luận lý kim cương đoạn”[38], là phương pháp nhìn vào hậu quả của sự việc. Lại có phương pháp phân tích cả hai khía cạnh nhân và quả. Lại có phương pháp gọi là “luận lý vương”[39], xét về nhân duyên. Còn một phương pháp nữa, nhìn vào chính sự vật mà phân tích để quan sát sự không có tính chất đồng nhất hay dị biệt. Loại luận lý này có hai cách quan sát khác nhau.

Bây giờ tôi xin giải thích ngắn gọn về thiền quán tánh không theo phương pháp quan sát sự không có tính chất đồng nhất hay dị biệt[40].

Muốn thiền quán về tánh không, trước hết phải biết tánh không mình đang quán là gì. Nếu không biết đối tượng cần phủ định là gì, sẽ không làm sao có thể thấy được sự vắng mặt của đối tượng ấy.

Ðể nhận diện tánh không, dễ nhất là quan sát cái ngã của chính mình. Nhìn lại những cảm giác rất tự nhiên như là “tôi đi, tôi ăn, tôi ở”, thử quan sát xem “cái tôi” đó hiện ra trong trí mình ra sao. Rồi thử áp dụng vài phương pháp khác nhau, ví dụ như nhớ lại những lúc thật bực mình, hay bị hàm oan, hay thật sảng khoái, hay đang được khen… Vào những lúc ấy, tâm trí chao động mạnh, quí vị sẽ cảm nhận được cái ngã của mình một cách rõ rệt.

Khi cái tôi hiện ra rõ ràng như vậy trong tâm trí, thử nhìn lại xem có phải quí vị thấy cái tôi nằm ngoài thân tâm, như một chủ thể độc lập? Cái tôi hiện ra rõ ràng đến độ tưởng như có thể dí tay lên đó, một cái tôi hoàn toàn không thuộc về thân tâm: đây chính là cái thấy hư vọng nhất của tâm, là đối tượng cần được phủ định.

Ðiểm quan trọng đầu tiên là phải biết nhận diện đối tượng phủ định. Ðiểm quan trọng thứ hai là xét xem nếu “cái tôi”  có thật thì “cái tôi” này có phải là một với thân tâm, hay tách lìa khỏi thân tâm, hay còn một cách hiện hữu thứ ba nào khác.

Xét tất cả những trường hợp có thể xảy ra, sẽ thấy nếu cái tôi là một chủ thể độc lập có tự tánh thì bắt buộc phải hoặc đồng nhất với năm hợp thể[41], hoặc dị biệt tách lìa khỏi năm hợp thể, không thể có trường hợp thứ ba. Ðó là điểm quan trọng thứ hai. Chỉ có hai trường hợp, hoặc là một với năm hợp thể, hoặc hoàn toàn khác với năm hợp thể.

Bây giờ thử suy nghĩ nếu cái tôi này đồng nhất với năm hợp thể thì vì cái tôi chỉ có một nên hợp thể thân và tâm cũng phải là một. Còn nếu cái tôi là dị biệt thì vì hợp thể có nhiều hơn một nên cái tôi cũng phải nhiều hơn một. Rồi bây giờ thử suy nghĩ, nếu cái tôi biệt lập này là một thực thể nằm ngoài năm hợp thể, vậy lẽ ra cho dù năm hợp thể có biến mất, cái tôi cũng vẫn còn. Nhưng sự thật lại không như vậy.

Theo đó cái tôi không thể là một với năm hợp thể. Cái tôi hiện ra trong tâm trí quí vị đó, thật ra chỉ là một khái niệm hư vọng, chỉ là ảo tượng. Cái tôi đó thật ra không có.

Ví dụ khi trời nhá nhem, có người nhìn cuộn dây thừng mà thấy ra là rắn. Ðối cảnh là cuộn dây thừng, hoàn toàn không có rắn, hình ảnh rắn chỉ hiện ra trong nhận thức của người nhìn lầm. Năm hợp thể cũng vậy. Khi nhìn năm hợp thể mà thấy cái tôi, mặc dù cái tôi đó có vẻ như nằm trong năm hợp thể, nhưng thật sự năm hợp thể không có chút gì có thể được xem là cái tôi cả. Tựa như nhìn dây thừng mà thấy rắn, đó chỉ là cái thấy hư vọng không thật.

Tương tự như vậy, khi thấy có cái tôi khác với năm hơp thể, xét từ phía năm hợp thể không có cái gì là cái tôi cả, chỉ một cái tên gán lên tổ hợp của năm hợp thể. Vì đối cảnh tự nó không có thực thể, nên cả hai trường hợp đều như nhau.

Nói riêng về phía đối cảnh thì hoàn toàn không có gì khác biệt. Sự khác biệt phải đến từ nhận thức. Lấy cuộn dây thừng mà gọi là rắn, đó là thực tại qui ước sai lệch. Sau đó mặt trời mọc, cảnh tượng sáng tỏ, nhìn dây không còn thấy rắn nữa, khi ấy nhận thức sai lầm bị nhận thức đúng đắn xua tan.

Nhìn dây mà thấy rắn, lầm lẫn như vậy có khi rất tai hại. Tuy vậy trong trường hợp của “cái tôi”, mặc dù cũng không có chủ thể khách quan, nhưng nếu lấy năm hợp thể làm nền tảng để gọi làm cái tôi, thì tên gọi này vẫn rất hữu dụng trên lãnh vực qui ước, không có loại nhận thức nào có thể xua tan.

Còn nếu nghe vậy rồi kết luận rằng không có ai hiện hữu cả, thì kinh nghiệm bản thân sẽ cho thấy kết luận này sai lầm. Do đó, hiện hữu của con người chỉ có thể biết được nhờ phần tâm thức chủ động đặt tên. Vì vậy mà nói sự vật chỉ là giả danh, không có chủ thể khách quan.

E. Hỏi đáp

Hỏi. Nói về pháp quán hơi thở, thân đi vào quá trình tan rã là vì tính chất của thân là biến chuyển, đến một lúc nào đó người tu chứng được cảnh luân chuyển liên tục của mọi sự. Pháp quán Phật giáo mật tông nói sao về việc này?

Ðáp. Quán có hai loại, một là quán về hiện tượng qui ước, hai là quán về tánh không. Trong số những pháp quán hiện tượng qui ước, có nơi lấy hơi thở làm đề mục, cũng có nơi quán tưởng thân Phật, hiện ra từ mình rồi tan về lại chính mình. Ngoài ra cũng có những loại thiền quán thế tục, chuyên chú về khuyết điểm cõi dục giới và về ưu điểm cõi sắc giới và vô sắc giới. Ðó là quán bằng sự so sánh. Các pháp quán này có thể áp dụng vào đầu buổi thiền, ngay phần phát nguyện.

Ví dụ khi quán khổ đau luân hồi thì phải quán về thân [thứ nhất trong tứ niệm xứ], chú tâm vào khía cạnh dơ bẩn và tạm bợ của thân người. Tiếp theo phải quán về thọ [thứ nhì trong tứ niệm xứ], rồi quán về tâm [thứ ba trong tứ niệm xứ], rồi ra sẽ có lúc bước đến giai đoạn quán về pháp [thứ tư trong tứ niệm xứ]. Trong suốt quá trình thiền quán tứ niệm xứ, người tu có thể chú tâm vào hơi thở.  Pháp quán hơi thở luôn có chỗ đứng trong bất cứ pháp tu nào.

Ngài Vô Trước, một vị cao tăng Ấn Độ, giải thích quán là quan sát quán chiếu cho đến khi đạt đến một trạng thái tâm thức vi tế. Dùng tâm định để phân tích quán chiếu thì đạt được trạng thái tâm thức vi tế, tâm trở nên nhu nhuyễn. Trạng thái tâm thức vi tế nhu nhuyễn này được gọi là tì bát xá na, là tuệ. Còn xa-ma-ta là định, là trạng thái tâm thức định tĩnh, có được nhờ thu nhiếp tâm thức khi thiền chỉ.

Nói chung khi người ta nói về quán, tôi nghĩ họ nghĩ đến quá trình phân tích quán chiếu nói trên.

Hỏi. Thưa ngài, ngài có nói về chú và tác dụng của chú. Có loại giúp trí tuệ, có loại giúp định tâm. Tôi tự hỏi làm sao một chuỗi âm thanh lại có thể có được tác dụng như vậy.

Ðáp. Âm thanh lập đi lập lại của chú chỉ là mặt ngoài. Khi đọc chú, cần nhớ ý nghĩa của chú chứ không thể chỉ quan tâm đến âm thanh.

Làm sao minh chú lại có thể tạo tác dụng, điều này rất khó giải thích. Tôi cho rằng tụng minh chú đúng cách sẽ giúp thu thập được nhiều công đức. Ngoài ra, đương nhiên còn năng lực gia trì. Minh chú được truyền lại nhờ một số năng lực nào đó, rồi với thời gian, nhiều người tụng cùng một câu minh chú, qua đó minh chú tích lũy được nhiều năng lực gia trì. Như lúc nãy tôi có nhắc đến, chỗ ngồi thiền tích tụ năng lực gia trì nhờ trước đây có bậc thánh nhân ngồi thiền nơi đó, rồi chỗ ngồi có thể truyền năng lực gia trì này lại người đời sau. Minh chú cũng vậy.

Nếu quí vị tu theo pháp tu vận khí du già, quán tưởng các luồng khí vi tế trong cơ thể, có khi có thể vận dụng mối tương quan chặt chẽ giữa minh chú và công phu vận khí du già. Loại công phu này không phải là chủ đề chính của buổi nói chuyện hôm nay, vì vậy tôi xin miễn đi vào chi tiết. Công phu tụng chú chỉ thật sự có tác dụng khi tu theo Mật tông Tối thượng Du già, ở đó minh chú tác động tới khí vi tế, giọt tinh khí và khí mạch.

Hỏi. Xin ngài nói thêm về niết bàn.

Ðáp. Trước hết, hãy đợi tôi thành tựu niết bàn trước đã (đức Đalai Lama ra dáng ráo riết ngồi thiền, cử tọa ồ cười).

Thật sự là khi đạt tới thành quả cao nhất, thái độ của chúng ta về thế giới hiện tượng sẽ thay đổi hoàn toàn. Hiện giờ tâm chúng ta tràn đầy tham lam, ghét bỏ, sợ sệt, chứa đủ loại tâm lý bất thiện, đủ loại cảm giác, tình cảm. Vì ý nghĩ bất thiện mà chúng ta không thể thấy được chân tướng của thực tại. Tựa như nhận thức bị nhuộm màu, khiến chúng ta không thể đơn giản nhìn vào thật tướng của sự vật.

Vì vô minh chấp có tự tánh, nên tất cả mọi sự hiện ra như một thực tại độc lập. Một cảnh giới sừng sững chắc thật hiện lên cùng với đối tượng của nhận thức, phóng ảnh lên nhận thức.

Khi đạt niết bàn, tất cả mọi trạng thái tâm thức hư vọng méo mó nói trên đều tan biến hết. Ðiều này sẽ khiến thái độ của chúng ta đối với thế giới hiện tượng sẽ hoàn toàn thay đổi.

Hỏi. Nhưng khi ấy có còn giao tiếp với thế giới hiện tượng được không?

Ðáp. Khi ấy tốt xấu, thiện ác, vẫn không đồng, vì vậy chúng ta vẫn sẽ thấy có cái tốt cái xấu.

Giác ngộ có nhiều giai đoạn khác nhau. Cao nhất là thành Phật, ở đó ngay cả hiện tướng của tự tánh cũng không còn. Chúng ta có thể thấy đây là điều có thể thực hiện được. Tâm chúng ta từ thời thơ ấu đến nay đã thay đổi biết bao nhiêu, hiểu biết nhiều hơn, thái độ hành xử cũng theo đó mà thay đổi. Tương tự như vậy, nếu kiên trì thiền quán về tánh không, sau vài năm chúng ta cũng sẽ có thể chứng kiến sự lớn mạnh của tâm thức, giống như sự trưởng thành trong đời sống thế tục. Càng lâu, càng cố gắng, sẽ càng nhiều kinh nghiệm tâm linh, chắc chắn là như vậy.

Có lần, tôi nghĩ vào khoảng những năm 60 hay 70, tôi thiền quán rất miên mật về tánh không. Một hôm tình cờ đọc được một câu của Lama Tông Khách Ba [TsongKhapa] nói rằng: “Năm hợp thể không phải là ngã, mà ngã cũng không phải là sự liên tục của năm hợp thể”. Khi đọc câu này, tôi giật mình.

Ðó là tinh túy của một trong những giáo thuyết của ngài Long Thọ, một vị đại đạo sư Ấn Độ:

Con người không phải là đất
Không phải là nước, lửa, gió.
Ðồng thời cũng không có con người nào
Nằm ngoài bốn thành phần đất nước lửa gió.

Sách còn nói nếu dùng luận lý phân tích tìm xem vật thể là cái gì, chắc chắn sẽ không tìm thấy. Ngay lúc ấy, tôi có được chút chứng ngộ, những ngày tiếp theo tôi để ý thấy tâm mình biến chuyển, cảm giác và thái độ đối với thế giới xung quanh khác trước rất nhiều.

Hỏi. Có thể nào không tu mà có được kinh nghiệm tâm linh? Tôi muốn nói tới trường hợp ít ai biết tới là ông Younghusband. Người này có kinh nghiệm rất sâu về Lhasa, khi mới khoảng 40 tuổi, và hãy còn là vị sĩ quan nhiều triển vọng nhất của quân đội Anh. Ông ta bỏ quân đội, thiết lập một tổ chức tên là Hội Giác Ngộ Tâm Linh, và cống hiến cuộc đời còn lại cho tổ chức này.

Có khi nào vì tâm nguyện riêng hay vì bị chấn động sao đó mà đột nhiên có được khả năng thiền định miên mật, không cần phải trải qua quá trình chuẩn bị sơ khởi?

Ðáp. Ðiều này có thể xảy ra. Nhưng xét theo quan điểm Phật giáo, đây không phải là kết quả của khả năng cá nhân, cũng không phải vì hoàn cảnh bên ngoài, mà bên dưới còn nhiều nguyên do khác. Trọn con đường chuẩn bị sơ khởi đã có sẵn, chỉ đợi yếu tố tác động. Khi yếu tố tác động xảy ra, tự nhiên sẽ trổ quả.

Hỏi. Thưa ngài, thật ra mật tông là gì? mật tông có từ thời của đức Phật hay đến sau?

Ðáp. Có những hệ thống tín ngưỡng cho rằng toàn bộ Đại thừa không phải do Phật dạy. Cũng có nơi cho rằng mật tông là những giáo phái phát triển sau thời Phật.

Nếu không chấp nhận Đại thừa là giáo pháp Phật dạy, vậy chính quả vị Phật cũng thành chuyện đáng ngờ. Vì vậy dù sao vẫn phải thấy rằng Đại thừa là chánh pháp.

Sự khác biệt giữ Đại thừa và Tiểu thừa nằm ở chỗ Phật dạy Đại thừa cho một số đệ tử chọn lọc, không phải là giáo pháp dành cho đại chúng. Trong một thời gian dài, giáo pháp Đại thừa được giữ kín. Mật tông lại càng được giữ gìn kín mật hơn nữa. Tùy vào duyên nghiệp của người cần được giáo hóa, tùy khả năng tu học của cộng đồng Phật tử mà những giáo pháp khác nhau được giữ kín hay quảng bá rộng rãi. Sự xuất hiện của Đại thừa và Mật thừa không chỉ giới hạn ở thời gian đức Phật lịch sử còn tại thế. Ðại thừa nói rằng Phật Thích Ca nhập diệt rồi vẫn như còn tại thế. Có nhiều trường hợp người đời sau vẫn được Phật đích thân giáo hóa. Ðức Phật lịch sử không từng sang Tây Tạng, nhưng có một số Phật tử Tây Tạng có được kinh nghiệm thâm sâu, từ trong thiền định thấy được đức Phật. Họ nhập định, được Phật trực tiếp truyền thọ chánh pháp.

Vì muốn hướng dẫn từng bước đi của chúng sinh trên con đường tu chứng, Phật hóa hiện nhiều sắc tướng khác nhau để giáo hóa đệ tử. Có khi Phật hiện tướng xuất gia, có khi Phật hiện thân Phật Kim Cang Tát Đỏa, có khi lại hiện thành nhiều vị thần và Phật trong các mạn đà la v.v…

Hỏi. Tôi có một câu hỏi liên quan đến thuyết tánh không Trung quán. Có khi nào không cần phải quán mà vẫn trực chứng tánh không?

Ðáp. Muốn phát triển tuệ giác tánh không, thật ra không nhất thiết phải quán, cũng không cần chỉ. Ðây là một vấn đề hoàn toàn khác. Chỉ quán rất hữu ích, nhưng không phải là phương pháp duy nhất.

Kinh nghiệm về tánh không lúc ban đầu, một thứ kinh nghiệm tươi mát về tánh không, phải đến từ lý luận. Không cần phải lý luận giống như những gì tôi giải thích ở đây, nhưng người tu phải đặt câu hỏi, chiêm nghiệm tư duy để có được phần trí tuệ đến từ sự hiểu. Loại trí tuệ này về sau sẽ dẫn vào tuệ giác trực nhận tánh không.

Hỏi. Câu hỏi của tôi cũng cùng một đề tài. Khách quan mà nói, ngài nói rằng vô ngã có thật, nhưng lại nói sắc và chân cảnh giới đều thuộc lãnh vực chủ quan. Tôi cảm thấy như vậy mâu thuẫn, vì kinh nghiệm về ngã vẫn còn. Ngoài ra, tôi cũng xin được hỏi trong trường hợp nào tâm thức trong mơ gặp được cảnh sống thực tế?

Ðáp. Tôi xin trả lời câu hỏi thứ nhì trước.

Nói tới thân và tâm trong giấc mơ là nói tới một loại kinh nghiệm rất khác. Loại thân này hoàn toàn tự chủ tự lập, không dính gì tới thân thô lậu vật lý. Thân vật lý và thân trong giấc mơ thuộc về hai lãnh vực hoạt động hoàn toàn khác nhau. Thân trong mơ có thể thấy được việc xảy ra hàng ngày. Khi là ngày thì thân trong mơ này thấy ngày, khi đêm thì thân này thấy đêm.

Hỏi. Vậy còn những giấc mơ tiên tri?

Ðáp. Ðây không phải là chức năng duy nhất của thân trong mơ. Thân trong mơ có thể tùy ý rời thân vật lý. Vì vậy thân trong mơ có những tính năng rất đặc biệt.

Vài năm trước, tôi có gặp một người có khả năng đặc biệt này, không phải do tu tập mà là do nghiệp báo. Người ấy cảm thấy rất lúng túng, hỏi tôi nên làm gì. Theo lời người ấy nói, trong giấc ngủ người ấy thường du hành khắp mọi nơi, thấy đủ mọi chuyện xảy ra trong đời sống bình thường, có khi là việc xảy ra ở những nơi rất xa.

Trở lại câu hỏi về thiền quán tánh không. Khi nói tới tánh không, chúng ta hoàn toàn không phân biệt chủ thể và khách thể. Cả hai đều không có tự tánh. Nếu tìm kiếm, sẽ không thể tìm ra cái được nhận thức, và cái đang nhận thức. Có thể lấy tâm làm đối cảnh của tâm. Trong trường hợp này, tâm là khách thể. Truy tầm tâm khi tâm là khách thể, cũng sẽ không thể tìm ra gì cả, giống như khi tìm về chủ thể.

Lý do rốt ráo khiến phải phủ nhận tự tánh, là vì khi truy tìm sẽ không thể tìm thấy gì cả. Ðó là ý nghĩa rốt ráo. Vì lý do này, trên phương diện qui ước, chúng ta phải đơn giản chấp nhận sự việc là như vậy. Không thắc mắc gì nhiều, chúng ta chấp nhận đây là cái hoa, kia là người đàn ông; người này Ấn Độ, người kia Tây Tạng v.v… Chúng ta đơn giản chấp nhận hiện tượng qui ước, điều này không có vấn đề gì cả. Nhưng nếu tìm kiếm sâu xa hơn, hỏi “Tôi là ai? Thật sự con người là cái gì? Ngã là cái gì?” nhìn theo khía cạnh này, sẽ không tìm thấy gì cả.

Hỏi. Vậy còn tâm thức?

Ðáp. Tâm thức là gì? Chúng ta cảm thấy có tâm thức, chúng ta có được khái niệm về cái gọi là tâm thức. “Hôm nay tâm tôi trì độn quá”. “Hôm nay tâm tôi thật rõ ràng”. Chúng ta có thể nói như vậy, không thắc mắc gì nhiều, không tìm kiếm sâu xa, và làm vậy mọi việc vẫn ổn thỏa. Nhưng nếu thật sự muốn tìm thấy cái gì đích thật là tâm, sẽ không thể tìm ra.

Ta có thể nói “Đây là ngón tay của tôi, hữu dụng lắm”. Giống như vầy (đức Đalai Lama đưa ngón tay lên khiến mọi người cười ồ). Nói như vậy không ai có thể cãi được. Nhưng “ngón tay” thật ra là cái gì? Là màu sắc? là da, là xương, là máu? Ngón tay là cái gì? Nếu phân tích từng tế bào, từng thành phần cấu tạo của ngón tay, sẽ không thể tìm thấy có cái gì có thể gọi “ngón tay”.

Duy thức tông, một trong những tông pháp Phật giáo, nói rằng trong cuộc truy tìm này, đối tượng bị tìm [ngón tay] là điều không có thật, nhưng tâm thức người tìm lại có thật.

Hỏi. Vì sao đức Tara lại liên quan đến pháp tu trường thọ?

Ðáp. Ðức Quan Tự Tại được xem là hiện thân của lòng từ bi và đức Văn Thù Sư Lợi được xem là hiện thân của trí tuệ, tương tự như vậy, đức Tara được xem là hiện thân của một loại năng lực vi tế, gọi là khí.

Muốn sống lâu quan trọng nhất phải duy trì sự liên tục của nội khí. Tôi nghĩ sống lâu và nội khí có liên hệ mật thiết với nhau, vì có những pháp tu luyện khí để kéo dài tuổi thọ.

Hành trì pháp tu Tara để chữa bệnh, đó là dựa theo chức năng của năm vị đại Bồ tát mà nói như vậy. Còn nói chung về phương pháp tu thiền để trị bệnh thì có đức Phật Dược sư, vì chữa bệnh cho chúng sinh chính là đại nguyện của Phật Dược sư.

Khi quán tưởng ngài Tara, phải tưởng tượng minh chú quay thành vòng tròn nơi tim ngài. Ánh sáng phóng ra từ vòng tròn minh chú đó, tan vào trong thân thể của chúng ta. Rồi tập trung mãnh liệt vào những nơi đang có bệnh. Có thể tùy căn bệnh mà quán ánh sáng nóng hay lạnh.

Hỏi. Có phải có nhiều vị Bồ tát như vậy là để tượng trưng cho nhiều chức năng của Phật?

Ðáp. Ở đây có hai cách hiểu. Một là thấy mỗi vị Bồ tát tượng trưng cho một thiện đức của Phật. Hai là thấy mỗi vị tượng trưng cho một phương pháp tu chứng, đồng thời cũng là thành quả của pháp tu ấy. Tu theo pháp tu nào thì khi giác ngộ sẽ trở thành vị Bổn tôn của pháp tu ấy. Nếu hiểu theo cách này thì Tara hay Quan Tự Tại đều khác với đức Thích Ca Mâu Ni. Còn nếu hiểu theo cách trước thì các vị Bồ tát biểu hiện cho nhiều thiện đức của cùng một vị Phật.

Hỏi. Ngài nói với chúng tôi rằng chữ chú – mantra – có nghĩa là bảo vệ tâm, vậy đây phải là điều tốt lành. Nhưng có khi tôi lại nghe kể về chuyện dùng chú để hại người. Ðiều này có thật không?

Ðáp. Có thể lắm. Mật pháp vốn liên quan đến bốn tác dụng huyền bí là hàng phục, tăng trưởng, quyền năng và oai thần. Bốn điều này có khi bị lạm dụng.

Người tu theo mật tông có rất nhiều loại, chắc chắn là có người thiếu khả năng nhập định, thiếu bồ đề tâm, hay là thiếu trí tuệ tánh không. Có người lại thiếu cả ba. Vì vậy trường hợp sa đọa lạm dụng mật pháp để hại người có khi xảy ra. Nhưng quyền năng của chú trong trường hợp này nói chung rất giới hạn.

Hỏi. Vậy có nên dùng cùng chữ mantra cho trường hợp dùng chú hại người hay không? Gọi như vậy không đánh mất ý nghĩa chính của chữ này hay sao?

Ðáp. Ðương nhiên trong trường hợp này chú không còn mang ý nghĩa bảo vệ tâm.

Chú được dùng trong rất nhiều pháp tu. Có rất nhiều loại chú. Ví dụ có bộ minh chú của Phật Kim Cang Tát Đỏa truyền, được ghi chép trong mật điển, lại có các bộ thần chú do loài người nhận được từ các vị thần linh thuộc cõi luân hồi thế tục.

Nói chung rất khó phân biệt đâu là minh chú Phật giáo đâu là thần chú ngoại đạo. Muốn phân biệt, cần xét xem có yếu tố nào liên quan đến tuệ giác tánh không và tâm bồ đề (nghĩa là cầu thành Phật để cứu độ chúng sinh) hay không. Xét thẳng nơi chú rất khó nhìn ra. Phải xét xem chú ấy dựa trên giáo pháp như thế nào mới có thể biết được. Các loại thần linh, mạn đà la và chú dựa trên nền tảng thuyết hữu ngã đều không phải là Phật giáo. Còn thần linh,  mạn đà la và chú dựa trên thuyết vô ngã, thì mới thuộc về Phật giáo mật tông.

Hỏi. Thưa ngài, tôi thấy thuyết tánh không của Trung Quán thật nguy hiểm. Thuyết này có thể khiến người ta nghĩ rằng “Ở đây thật sự chẳng có cái gì cả, cần gì phải cố gắng!”

Ðáp. Như đã nói, trước hết cần phân biệt rõ ràng cảnh giới không-tự-tánh và cảnh giới qui ước. Thử nói về duyên sinh, có thể sẽ thấy câu trả lời.

Nói chung, duyên sinh mang nghĩa lệ thuộc. Ðể hiểu rõ về vấn đề này, cần hiểu rằng rằng độc lập và lệ thuộc là hai trạng thái đối nghịch trực tiếp. Sự vật chỉ có thể hoặc không lệ thuộc vào cái gì cả, hoặc là lệ thuộc vào điều khác, không thể có trường hợp thứ ba.

Khi nói về hoa và không-phải-hoa, tất cả mọi hiện tượng đều hoặc là hoa, hoặc không phải hoa, ngoài hai trường hợp mâu thuẫn trực tiếp này ra, hoàn toàn không có trường hợp thứ ba. Nhưng nếu nói đến đóa hoa và cái bàn, mặc dù hai hiện tượng này cũng mâu thuẫn, nhưng vẫn có trường hợp thứ ba. Ngoài hoa và cái bàn ra, hãy còn trường hợp chính giữa, không phải hoa cũng không phải cái bàn.

Nói như vậy, lệ thuộc và độc lập là hai cực mâu thuẫn trực tiếp. Hiện tượng nào đã tùy nhân duyên mà sinh ra, thì phải lệ thuộc vào nhân duyên. Ðồng thời, nếu đã là tổng thể, thì phải lệ thuộc vào các thành phần cấu tạo. Hiện tượng vật lý có hình sắc luôn có thành phần phương hướng trong không gian, hiện tượng tâm lý không hình sắc luôn có thành phần phương hướng trong thời gian.

Thử quán sát một hiện tượng gồm những thành phần cấu tạo. Xét trên khía cạnh vật lý, chúng ta có thể phân tích nhỏ ra, cho đến tận các phân tử cực vi không thể nhỏ hơn nữa. Nhưng những thành phần cực vi này vẫn có phương hướng trong không gian. Vì vậy không làm gì có cái gọi là “thành phần bất khả phân”.

Ví như có một thành phần cực nhỏ không có cả phương hướng trong không gian, thành phần như vậy sẽ không thể gom lại thành vật thể lớn hơn. Nếu không có thành phần phương hướng trong không gian thì mặt quay về hướng tây cũng là mặt quay về hướng đông, do đó không làm sao có thể kết tụ lại thành vật thể lớn hơn.

Trung Quán phủ nhận thuyết chấp nhận sự có mặt của những hiện tượng bất khả phân. Ngược lại, Trung quán nói rằng mọi hiện tượng đều hiện hữu qua các thành phần cấu tạo.

Ðó là mức độ thứ nhất của duyên khởi. Ngoài ra, duyên khởi còn nói rằng khi tìm xem vật thể thật sự là cái gì, sẽ không thể tìm ra. Sự vật tùy thuộc vào tánh không.

Nếu hài lòng với sắc tướng qui ước thì tất cả đều ổn thỏa. Nhưng nếu không hài lòng với sắc tướng qui ước mà muốn tìm xem cơ sở của sắc tướng là gì, muốn kiếm tính chất cố định nơi đối cảnh, sẽ không thể tìm thấy.

Một khi hiểu được rằng không thể tìm ra điều gì cả, lúc ấy sẽ dấy lên thắc mắc có phải sự việc vốn rỗng rang không có gì hiện hữu? Nếu cho rằng sự việc không có gì hiện hữu, kết luận như vậy là đi ngược với kinh nghiệm bản thân, vì rõ ràng có một người đi tìm sự vật mà tìm không ra, ngược lại chỉ tìm thấy sự không-thể-tìm-thấy của sự vật. Thấy có người đi tìm sự vật và tìm ra sự không-thể-tìm-thấy, cái thấy như vậy là nhận thức đúng đắn, hoàn toàn trái ngược với câu kết luận sự vật không hiện hữu.

Vậy sự vật tuy có đó, nhưng không thể tìm thấy. Sự vật tuy có thật, nhưng chỉ có tùy theo tên gọi và khái niệm: sự vật là giả danh.

Bất kể nhìn sự vật qua khía cạnh nào cũng chỉ thấy tính chất lệ thuộc của nó. Sự vật tùy thuộc vào nhân duyên, tùy vào thành phần cấu tạo, hay tùy vào khái niệm đặt tên. Ðó là ba mức độ duyên sinh.

Phải quán sát sắc tướng của sự vật. Tự hỏi “hiện tượng này thật sự là cái gì, hiện ra trong nhận thức của tôi như thế nào?” Hỏi rồi lại xét xem sự vật hiện ra trong trí mình có trung thực với thực tại hay không, có khoảng cách nào cách ngăn giữa sự-vật-như-thật và ảnh hiện của vật ấy trong tâm của mình hay không. Rồi sẽ thấy sự-vật-như-thật so với điều mình nhận thấy thật ra cách nhau rất xa.

Tâm thức có hai mặt, thiện và bất thiện. Bất thiện là loại tâm thức đến từ sự khẳng định có tự tánh. Nói cách khác, để khởi hiện, loại tâm này cần dựa trên sự khẳng định của tướng hiện, có thể là bị ảnh hưởng bởi tâm giận dữ hay tham đắm. Ngay thời điểm chúng ta cảm thấy tham đắm hay giận dữ, không những có đối tượng hiện ra rõ ràng mà còn đi kèm với một loại khẳng định: chúng ta tin chắc đối tượng 100% tốt lành vì vậy cảm thấy ưa thích, hoặc là 100% tồi tệ, nên cảm thấy khó ưa.

Nếu kẻ thù 100% là thù, vậy chắc chắn phải là kẻ thù của tất cả mọi người. Nhưng kẻ thù của tôi có khi lại là người bạn tốt nhất của một ai khác. Kẻ thù không hẳn 100% tồi tệ. Ðây chỉ là phóng ảnh của tâm giận dữ ghét bỏ. Mọi tâm lý bất thiện đều cần dựa trên một loại khẳng định tương tự. Trong khi tâm lý thiện lại không cần như vậy.

Tánh Không không thể chỉ nghe giải thích mà hiểu được. Không phải như cái xe, một khi trỏ ra là ai khác cũng có thể thấy biết. Tánh Không là đề tài mà hiểu biết trí thức và kinh nghiệm trực chứng phải đi đôi với nhau.

Vì vậy con đường này đòi hỏi rất nhiều thời gian. Không thể chỉ tu vài ngày vài tuần mà có được kinh nghiệm trực chứng. Phải kiên trì nhiều năm thiền quán chứng nghiệm, họa may mới có kết quả. Dù sao, với thời gian, tánh không sẽ trở nên càng lúc càng rõ ràng hơn.

 

[Hết phần giảng pháp của đức Đalai Lama]


<< Đọc Tiếp >>


Mục lục

 Phụ Lục 1

Pháp Thiền Mật Tông Đơn Giản dành cho Phật Tử Nhập Môn

Tenzin Gyatso, đức Đalai Lama đời thứ 14 biên soạn.

A. Chuẩn bị chỗ thiền

Chỗ ngồi thiền phải là nơi thanh tịnh. Nếu ở trong nhà, quí vị nên chọn nơi yên tĩnh trang nghiêm nhất. Bắt đầu buổi thiền bằng cách chuyên tâm quét dọn chỗ ngồi cho thật sạch.

Bàn thờ nên xếp đặt hình tượng Phật và ba vị đại Bồ tát hiện thân cho ba thiện đức của Phật, là đại Bồ tát Quan Tự Tại (từ bi); đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi (trí); và đại Bồ tát Kim Cang Thủ (dũng), cùng với hình tượng của ngài Tara, thân nữ của Bồ tát Quan Tự Tại, hiện thân cho thiện hạnh của mười phương Phật đà. Tất cả những hình tượng này tượng trưng cho Thân Phật.

Bên phải Phật và chư Bồ tát nên đặt vài cuốn kinh, nhất là kinh thuộc hệ Bát Nhã. Kinh sách tượng trưng cho Miệng Phật. Bên trái Phật và Bồ tát, nên đặt một bảo tháp nhỏ, tượng trưng cho Ý Phật. Nếu tìm không ra kinh sách thuộc hệ Bát nhã, có thể thay thế bằng bất cứ bộ kinh Phật nào khác. Hình tượng cũng vậy, nếu khó kiếm, chỉ một tấm hình hay bức tượng của Phật thôi cũng đủ. Thật ra ngay cả hình tượng Phật cũng không bắt buộc phải có. Ðiều quan trọng nhất là giữ trạng thái tâm thức sao cho thật thích hợp.

Tiếp theo, quí vị nên bày biện phẩm vật cúng dường. Nên cúng nước, hoa, hương, đèn, thực phẩm và âm nhạc. Bày biện phẩm vật sao cho trang nghiêm đẹp đẽ để bày tỏ tấm lòng tôn kính ngưỡng mộ.

Bày biện phẩm vật cúng dường xong, ngồi xuống gối, mặt xoay về hướng Ðông, chân xếp theo tư thế kiết già [hai chân xếp lên đùi, hai lòng bàn chân ngửa lên trên] hay bán kiết già [một chân xếp lên đùi, một chân để dưới]. Nếu cả hai tư thế này đều khó, nên chịu khó ngồi như vậy một lúc, sau đó có thể chuyển sang thế ngồi khác thoải mái hơn.

B. Hành thiền sơ khởi

Bây giờ quí vị suy nghĩ như sau: hành động của thân này là tốt, xấu, hay trung tính, tất cả đều tùy nơi ý. Vậy điều quan trọng nhất là phải thuần hóa tâm thức. Trong hiện tại, chúng ta may mắn được sinh ra làm người, có nhiều quyền năng hơn bất cứ loài chúng sinh nào khác. Nếu chỉ cố gắng đạt đến hạnh phúc của một kiếp này thôi thì thật quá phí phạm.

Nếu cố gắng như vậy mà tìm được niềm an lạc vĩnh cửu thì nhiều người trong thế giới này với biết bao là quyền năng, sức khỏe, bạn bè, chắc chắn đã đạt hạnh phúc vĩnh cửu từ lâu. Nhưng thực tế không phải vậy. Mặc dù trong đời sống vẫn có người sướng kẻ khổ, nhưng nói chung ai cũng phải chịu đủ loại bức bách khổ đau thể xác tinh thần, dù là vua, là dân, là người giàu, kẻ nghèo.

Hãy suy nghiệm cho tận tường, nhìn vào chính mình, tìm thử xem đâu là nguyên nhân mang lại khổ đau, và đâu là nguyên nhân mang lại hạnh phúc. Bao giờ hiểu được rõ hơn về nguyên nhân tạo khổ, sẽ thấy ra chính tâm mình mới thật là thủ phạm gây khổ, đồng thời cũng có nhiều yếu tố phụ làm tăng giảm độ ô nhiễm của tâm. Tính chất ô nhiễm này có thể được gạn bỏ hoàn toàn. Bao giờ tâm định tĩnh vững vàng, chừng đó khả năng tách lìa ô nhiễm sẽ càng lúc càng tăng, tâm chúng sinh nhất định sẽ chuyển thành tâm Phật đà.

Suy nghiệm như vậy một lúc, phát khởi lòng tin, thấy sự việc quả là như vậy.

Khẩn thiết nhất là đoạn diệt mọi nguyên nhân tạo khổ, tích lũy mọi nguyên nhân tạo an lạc. Ðể thực hiện hai việc này, phải biết nguyên nhân tạo khổ đau hay hạnh phúc là gì. Cần tin tưởng tuyệt đối vào Phật pháp, với lòng tin không mù quáng, mà càng lúc càng mãnh liệt hơn, vì lòng tin này dựa trên căn bản của lý trí, dựa trên ánh sáng của quá trình tìm tòi suy nghiệm.

C. Qui y Tam bảo

Tiếp theo khởi tâm qui y, đọc những dòng sau đây:

Nguyện qui y Phật,
là bậc toàn giác / là đại đạo sư
giáo hóa chúng sinh / bằng với chánh pháp
trong sáng chân thật / đến từ trí tuệ
chứng ngộ viên mãn.

Nguyện qui y Pháp,
là đường giải thoát  /  toàn bộ khổ đau
mang lại cội nguồn / an lạc chân chính.
Pháp là giữ gìn / thân miệng và  ý /
nhờ đó đoạn trừ / tất cả chướng ngại /
đồng thời viên thành / tất cả thiện đức.

Nguyện qui y Tăng
Tăng là đoàn thể / những bậc chân tu
đôi chân trụ vững / trên đường giác ngộ.
Tín tâm con đặt / ở nơi Tăng bảo
sẽ không đổi dời / vì đây là chốn
nương dựa chở che / con luôn cần có.

D. Quán tưởng

Ở khoảng không trước mặt, từ trong quán tưởng hiện ra một ngai báu lộng lẫy. Trên đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni,  ngồi xếp chân theo tư thế kiết già. Tay phải Phật bắt ấn “mời đất chứng giám”, lòng bàn tay úp xuống, đầu ngón tay chạm chỗ ngồi. Tay trái Phật để ngang tầm bụng, cầm bình bát chứa nước cam lồ trí tuệ.

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni hiện ra lớn hơn các vị khác một chút. Thân Phật toả ánh sáng vàng tươi chói rạng.

Trước mặt Phật là hai vị đại đệ tử, tôn giả Xá Lợi Phất và tôn giả Mục Kiền Liên. Hai vị tay phải cầm trượng sắt, tay trái cầm bình bát. Phật Thích Ca và hai vị đại đệ tử đều hiện tướng tỷ kheo, mặc áo xuất gia.

Ngồi trên tòa sen bên phải đức Phật là Bồ tát Quan Tự Tại, toàn thân tỏa ánh sáng trắng, hai tay chắp trước ngực ngang tim.

Ngồi trên tòa sen bên trái đức Phật là Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, toàn thân tỏa ánh sáng vàng, tay phải cầm kiếm trí tuệ, tay trái cầm pho kinh.

Ngồi trên tòa sen trước mặt đức Phật là Bồ tát Kim Cang Thủ, toàn thân tỏa ánh sáng xanh đen, tay phải cầm chày kim cang, tay trái bắt ấn “chinh phục”.

Ngồi trên tòa sen sau lưng đức Phật là ngài Tara, toàn thân tỏa ánh sáng ngọc xanh lá, tay phải bắt ấn “truyền năng lực gia trì”, tay trái cầm đóa sen màu xanh dương, hiển lộ ấn “chở che”.

Bốn vị đại Bồ tát trong quán tưởng đều ngồi trên tòa sen, khoác áo lụa thanh thoát với nhiều trang sức quí báu. Thân tỏa đầy năng lực ánh sáng.

Bên phải cảnh vân tập nhiệm mầu này là bồ kinh điển chứa đựng toàn bộ tinh túy của Phật pháp, tượng trưng cho con đường giác ngộ chân chính và sự tận diệt chân chính của khổ đau.

Bên trái cảnh vân tập nhiệm mầu này là tòa bảo tháp huy hoàng, tượng trưng cho trí giác tối thượng của mười phương Phật đà.

Khởi tâm tin tưởng toàn bộ cảnh Phật hiện trong quán tưởng là tinh túy của mọi nẻo qui y.

Bây giờ hãy quán tưởng phía bên trái của mình là người cha đời này, cùng thân quyến, bằng hữu, kể cả những người đã chết, thuộc nam phái; phía bên phải của mình là người mẹ đời này cùng thân quyến, bằng hữu, thuộc nữ  phái. Trước mặt là những người mình thù ghét. Sau lưng là những người mình tôn kính. Vây quanh là chúng sinh trong toàn cõi luân hồi, tất cả đều cùng mang hình dáng loài người.

Trong tâm, thấy toàn thể chúng sinh cùng mình cất tiếng đọc lời qui y.

Quán niệm mọi đức tính tốt lành của Thân Miệng Ý của Phật hiện trong quán tưởng, ánh sáng lớn phóng từ cảnh quán tưởng nhiệm mầu, rót chan hòa xuống mình và tất cả chúng sinh. Khởi tâm tin chắc ánh sáng này đang thanh lọc mọi chướng ngại, mọi ác nghiệp, của mình và của tất cả.

Rồi thành khẩn đọc hai mươi mốt lần, hay càng nhiều càng tốt, câu tụng sau đây:

Nam mô Phật [Namo Buddhaya],
Nam mô Pháp [Namo Dharmaya],
Nam mô Tăng [Namo Sanghaya].

Bây giờ Phật tử hướng tâm về chúng sinh xung quanh, thấy họ cũng như mình, cũng mong được hạnh phúc nhưng lại không biết tích lũy nguyên nhân tạo hạnh phúc, cũng mong rời khổ đau bất tận, nhưng không biết cách vất bỏ nguyên nhân tạo khổ đau.

Hiểu cho thật rõ, rằng khổ đau sẽ không chấm dứt nếu nguyên nhân tạo khổ vẫn còn. Khổ đau sẽ không giảm mà cứ tăng mãi, cho đến bao giờ chính mình chịu xả bỏ toàn bộ nguyên nhân tạo khổ.

Con đường hủy diệt nguyên nhân tạo khổ không dễ tìm ra. Tuy vậy, bây giờ Phật tử đã bắt đầu tiến một bước, biết truy tìm xem điều gì nên giữ, điều gì nên bỏ.

Phật tử phải khéo siêng năng tu tập, khéo tiến bộ, cho đến khi thấy ra trọn vẹn con đường giải thoát, vô cùng cần thiết cho niềm an lạc của chúng sinh, chúng sinh mà Phật tử đã cố gắng luyện cho tâm mình biết quí giá giữ gìn, không phân biệt.

Khởi những luồng sóng suy tưởng như vậy trong biển rộng tâm thức, đọc những dòng sau đây:

Con về nương dựa Phật
nương dựa Pháp và Tăng
cho đến khi giác ngộ.
Với năng lực hành trì
sáu hạnh ba la mật
nguyện trọn thành Phật đạo
vì lợi ích chúng sinh.

Sau đó, hướng tâm về cảnh Phật nhiệm mầu trong quán tưởng trước mặt, là đối tượng của tâm qui y. Thấy Phật và Bồ tát đang hiện diện trước mắt, Phật tử thành tâm cúng dường bảy hạnh nguyện Phổ hiền.

Hạnh nguyện thứ nhất là đảnh lễ tán dương Tam bảo. Ở đây, Phật tử đối trước Tam bảo trong quán tưởng, quì lạy để bày tỏ lòng kính ngưỡng. Có ba cách lạy. Một là trán, hai tay và toàn thân phủ mặt đất; hai là trán, nửa cánh tay từ khủy trở xuống, đầu gối và ngón chân chạm mặt đất; ba là giản dị chắp tay trước ngực. Giữ tâm thấm nhuần an định trong lòng kính ngưỡng, đọc những dòng sau đây:

Ðối trước chư Phật
mười phương ba thời
cùng Pháp và Tăng
con quì đảnh lễ,
thành kính tán dương
bằng trọn tấm lòng
chân thành hoan hỉ.

Hạnh nguyện thứ hai là cúng dường Tam bảo. Quán tưởng các món cúng dường vật chất, cùng mọi cảnh tượng tươi sáng đẹp đẽ trên cõi thế. Mang tất cả về trong tâm, cúng dường lên Tam bảo trong quán tưởng, đọc những dòng sau đây:

Bồ tát Văn Thù
cùng chư Bồ tát
cúng dường chư Phật
mười phương ba thời
với lượng cúng phẩm
không thể nghĩ bàn.
Nay con nguyện làm
đúng theo như vậy,
mang hết cúng phẩm
dâng lên chư Phật
cùng chư Bồ tát.

Hạnh nguyện thứ ba là sám hối. Sám hối là nhìn nhận những việc sai quấy đã làm trong đời này và trong mọi kiếp tái sinh vô lượng về trước.

Hãy suy nghĩ về nguyên nhân tạo khổ, là ác nghiệp và phiền não. Trong hai thứ này, phiền não là kẻ thù đáng sợ hơn, vì phiền não là yếu tố tác động ác nghiệp, từ đó tạo ra biết bao khổ não cho chúng sinh hữu tình. Phiền não nhiễm tâm là nguyên nhân mang lại nhiều tai họa đáng sợ, đây mới đích thật là kẻ thù chân chính của tất cả chúng sinh hữu tình.

Chúng ta đã chịu sự tác động của kẻ thù này từ vô lượng kiếp, chắc chắn đã từng gieo vô số hạt giống ác nghiệp. Nếu không áp dụng phương pháp đối trị, hạt giống ác nghiệp sẽ thành trái đắng khổ đau, vì hạt giống này tự nó không có khả năng thu giảm lại hay tan biến đi.

Bây giờ là lúc đối trước Tam bảo trong quán tưởng, nhìn nhận tất cả những hạt giống ác nghiệp đã gieo, trong kiếp này và trong mọi kiếp đã qua, khởi tâm sám hối, nhất quyết sẽ không tái phạm, dù là trong giấc ngủ.

Nuôi ý nghĩ như vậy, đọc những dòng sau đây:

Từ vô lượng kiếp
tái sinh luân hồi
con gieo ác nghiệp
nhiều không kể xiết
bỏ mặc tâm mình
loạn giữa vô minh
phạm đầy việc ác
mà lòng vui vẻ
thắt ngược mê lầm.
Ngày nay con xin
đối trước Tam bảo
khởi tâm khiêm nhượng
sám hối chân thành.

Hạnh nguyện thứ tư là tùy hỉ công đức. Tùy hỉ công đức có nghĩa là vui với việc thiện công đức của mình và của mọi người.

Nguyên nhân tạo an lạc là tâm địa tốt lành. Tâm địa này vừa đem lại lợi lạc tức thì, vừa gieo nguồn năng lực công đức tạo lợi lạc cho tương lai về sau. Tùy hỉ công đức là nhập vào nguồn năng lực công đức vĩ đại của mình và của tất cả chúng sinh. Năng lực công đức này là người bạn hiền, là chốn chở che chân chính của toàn thể chúng sinh.

Nuôi ý nghĩ như vậy, đọc những dòng sau đây:

Khởi tâm bồ đề
soi rạng chúng sinh
mang hết lợi lạc
về cho tất cả.
Tâm con hoan hỉ
kính ngưỡng sâu dầy
vui với bồ đề
vui cùng chánh pháp
là biển hạnh phúc
tràn đầy an lạc
dành cho chúng sinh.

Hạnh nguyện thứ năm là cầu Phật chuyển bánh xe chánh pháp. Phật tử khẩn cầu các bậc Giác Ngộ thành tựu trí tuệ viên mãn, hãy vì lợi ích của chúng sinh mà chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Khởi tâm như vậy, đọc những dòng sau đây:

Chắp tay khẩn nguyện
mười phương Phật đà
hãy vì chúng sinh
lạc trong biển khổ
mà làm ngọn đèn
chánh pháp tỏa rạng
soi khắp thế gian.

Hạnh nguyện thứ sáu là xin Phật ở đời. Phật tử khẩn cầu đấng đại đạo sư đừng nhập niết bàn, vĩnh viễn lưu lại cõi thế để hướng dẫn chở che cho toàn thể chúng sinh. Khởi tâm như vậy, đọc những dòng sau đây:

Chắp tay khẩn nguyện
mười phương Phật đà
đừng nhập niết bàn
đừng rời cõi thế
cho đời đừng trôi
vào lòng bóng tối.

Hạnh nguyện thứ bảy là hồi hướng công đức. Phật tử nguyện đem công đức đến từ công phu tu tập này, cùng tất cả mọi năng lực công đức của mình và của toàn thể chúng sinh, hướng về tất cả chúng sinh, nguyện tất cả thành tựu giác ngộ viên mãn, đạt niềm an lạc chân chính. Khởi tâm như vậy, đọc những dòng sau đây:

Nguyện đem công đức
từ lời nguyện này
hướng về chúng sinh.
Nguyện giống hữu tình
mau chóng thành tựu
tuệ giác vô thượng
vĩnh viễn trú trong
niềm vui chân chính.

E. Tụng chú

Hướng tâm về đức Phật và cảnh vân tập nhiệm mầu trong quán tưởng, an trụ nơi ấy một lúc. Bao giờ hình ảnh trong quán tưởng hiện lên rõ nét, hãy quán tưởng trong tim mỗi vị một đài ánh sáng, trên mỗi đài có ghi một chủng tự, là hạt giống chân ngôn. Chữ MUM trong tim Phật; chữ HRIH trong tim ngài Quan Tự Tại; chữ DHIH trong tim ngài Văn Thù Sư Lợi; chữ HUM trong tim ngài Kim Cang Thủ; và chữ TAM  trong tim ngài Tara.

Quanh mỗi chủng tự là chuỗi minh chú. Có tất cả năm câu minh chú. Ngang đây, Phật tử tùy ý tụng mỗi câu minh chú bảy lần, hai mươi mốt lần, một trăm lẻ tám lần, hoặc càng nhiều càng tốt.

Minh chú như sau:

Minh chú Phật:
Om muni muni maha muni ye svaha [ôm mâu-ni mâu-ni ma-ha mâu-ni-dê xoa-ha]

Minh chú đức Quan Tự Tại:
Om mani padme hum [ôm ma-ni pê-mê hùm]

Minh chú đức Văn Thù Sư Lợi:
Om wagi shvari mum [ôm wa-ghi soa-ri mâm]

Minh chú đức Kim Cang Thủ:
Om vajra pani hum [ôm vai-ra pa-ni hùm]

Minh chú đức Tara:
Om tare tuttare ture svaha [ôm ta-rê tu-ta-rê tu-rê xoa-ha]

Ðể biểu hiện tánh không của thế giới hiện tượng khách quan, hãy quán tưởng như sau:

Ngài Quan Tự Tại từ từ tan thành ánh sáng, nhập vào đầu của đức Phật. Ngài Văn Thù Sư Lợi tan thành ánh sáng, nhập vào yết hầu (cuống họng) của đức Phật. Ngài Kim Cang Thủ tan nhập vào ngực của đức Phật. Ngài Tara tan nhập vào rốn Phật. Hai vị đại đệ tử nhập vào hai bên thân mình đức Phật.

Giữ lại hình ảnh một mình đức Phật trong quán tưởng cho thật rõ ràng, ráng an định nơi ấy càng lâu càng tốt, đọc những dòng sau đây:

Om muni muni maha muniye svaha        MUM  

Om mani padme hum                                 HRIH

Om wagi shvari mum                                 DHIH

Om vajra pani hum                                     HUM

Om tare tuttare ture svaha                       TAM

Sau đó, đức Phật từ từ tan thành ánh sáng trong suốt, từ trên tan xuống và từ dưới tan lên, rút dần về đài ánh sáng ngay giữa trái tim. Đài ánh sáng này tan vào chuỗi minh chú, minh chú tan vào chủng tự nằm chính giữa.

Rồi chủng tự tan thành ánh sáng, chỉ còn lại chóp nhọn trên đầu chữ. Rồi chóp nhọn cũng tan, chỉ còn lại ánh sáng chân như không hình sắc.

An trú trong tánh không của thế giới hiện tượng ít lâu. Tiếp theo, để thể hiện sự khởi hiện từ tánh không của thế giới hiện tượng, quán tưởng toàn bộ cảnh Phật nhiệm mầu lại hiện ra như trước, nơi khoảng không trước mặt. Kết thúc buổi thiền với tinh thần phấn chấn sảng khoái.

Khi rời chỗ ngồi thiền, bước vào đời sống với công việc hàng ngày, quí vị nên giữ cảnh Phật sống động trong tâm, chứa chan trong từng hành động.

Khi ăn cơm, dành một phần bữa ăn cúng dường Phật và chư Bồ tát để tự nhắc nhở là mình đang bước trên đường tu giác ngộ. Tối trước khi ngủ, tưởng tượng mình an lành đặt đầu vào lòng Phật. Cứ như vậy, bất cứ việc làm nào cũng nhờ Phật chứng giám, luôn mang hết thân, miệng, ý ra sống một cách tích cực và sáng tạo.

Mỗi ngày ngồi thiền như vậy một lần, hai lần (sáng chiều), hay bốn lần (sáng trưa chiều tối). Lúc đầu nên ngồi thiền trong thời gian ngắn. Dần dần định lực mạnh hơn, quí vị sẽ có thể ngồi thiền lâu hơn. Cứ kiên nhẫn hành trì như vậy, chắn chắn sẽ có lúc gặt hái kết quả khả quan.

Sarva Mangalam !

 

[Hết bài Pháp Thiền Mật Tông Đơn Giản dành cho Phật Tử Nhập Môn
do đức Đalai Lama XIV biên soạn]


<< Đọc Tiếp >>


Mục lục

Phụ Lục 2: Chánh Văn – Tám Thi Kệ Chuyển Tâm

Geshe Langri Thangpa (thế kỷ thứ 12)

Bản tiếng Việt

1.      Với quyết tâm thành tựu
Lợi lạc lớn lao nhất
Nhờ tất cả chúng sinh,
Tôi nguyện luôn giữ gìn
Chúng sinh trong đáy tim,
Vì chúng sinh quí hơn
Cả bảo châu như ý.

2.      Khi gặp gỡ tiếp xúc
Với bất kỳ một ai,
Nguyện tôi luôn thấy mình
Là kẻ thấp kém nhất,
Từ đáy lòng chân thật
Luôn tôn kính mọi người
Như kính bậc tối cao.

3.      Nguyện trong từng hành động
Tôi luôn tự xét mình,
Phiền não vừa dấy lên,
Ðe dọa mình và người,
Nguyện tức thì nhận diện,
Và tức thì dẹp tan.

4.      Khi gặp người hiểm ác
Vì bị tâm phiền não
Và ác nghiệp tác động,
Nguyện tôi quí người ấy
Như vừa tìm ra được
Kho tàng trân quí nhất.

5.      Khi gặp người vì lòng
Ganh ghen và đố kỵ
Miệt thị phỉ báng tôi,
Nguyện tôi nhận phần thua,
Nhường đi mọi phần thắng.

6.      Khi gặp người mà tôi
Giúp đỡ, đặt kỳ vọng,
Lại vong ân bội nghĩa
Gây tổn hại cho tôi,
Nguyện tôi xem người ấy
Là một đấng tôn sư.

7.      Tóm lại tôi xin nguyện
Trực tiếp và gián tiếp
Trao tặng mọi lợi lạc
Cho tất cả chúng sinh
Ðều là mẹ của tôi
Từ vô lượng kiếp trước.
Nguyện [không đợi ai cầu
Vẫn] âm thầm gánh chịu
Mọi ác nghiệp khổ não
Thay thế cho chúng sinh

8.      Nguyện những điều nói trên
Không bị vướng ô nhiễm
Bởi tám ngọn gió chướng.
Nguyện tôi thấy mọi sự
Hiện ra trong cõi đời
Ðều chỉ như huyễn mộng
Cho tâm thôi chấp bám
Thoát ràng buộc luân hồi.

Bản tiếng Anh

Eight Verses for Training the Mind

 

1.  With the determination to accomplish
The highest welfare of all sentient beings,
Who excel even the wish-fulfilling jewel,
May I at all times hold them dear.

2.  Whenever I associate with others
May I think of myself as the lowest of all.
And from the depth of my heart
Hold the others as supreme.

3.  In all actions may I search into my mind,
And as soon as delusions arise
That endanger myself and others,
May I firmly face and avert them.

4.  When I see beings of wicked nature,
Oppressed by violent misdeeds and afflictions,
May I hold them dear
As if I had found a rare and precious treasure.

5. When others out of envy treat me badly
With slander, abuse and the like,
May I suffer the loss and
Offer the victory to them.

6. When the one whom I have helped
And benelitted with great hope
Hurts me badly, may I behold him
As my supreme guru.

7. In short, may I directly and indirectly offer
Benefit and happiness to all my mothers.
May 1 secretly take upon myself the harmful actions
And suffering of my mothers.

8. May all this remain undefiled by the stains of
Keeping in view the eight worldly principles.
May I, by perceiving all phenomena as illusory,
Unattached, be delivered from the bondage of samsara.

  • Mọi sai sót là của người dịch
    Mọi công đức xin hồi hướng pháp giới chúng sinh


    Nguyện cho Bồ đề tâm
    Nơi nào chưa phát triển
    Sẽ nảy sinh lớn mạnh.
    Nơi nào đã phát triển
    Sẽ tăng trưởng không ngừng
    Không bao giờ thoái chuyển.


    << Trở Lại Trang Bìa >>


 




Đức Đalai Lama giảng: THẮP SÁNG ĐƯỜNG GIÁC NGỘ

BẢN DỊCH LẠI tháng 01 năm 2022
XIN HOAN HỈ DÙNG RIÊNG, ĐỪNG IN SÁCH

Tựa đề tiếng Anh: Illuminating the Path
Đức Đalai Lama XIV giảng về trình tự đường tu giác ngộ [Lamrim] qua hai bài pháp Ngọn Đèn Soi Đường Giác Ngộ của Thánh Atisa và Lamrim Tiểu Luận: Chứng Đạo Ca của Tổ Tông Khách Ba, USA, 2000, Thupten Jinpa thông dịch Anh ngữ, Rebecca Mcclen Novick biên tập hiệu đính Hồng Như chuyển Việt ngữ (2005, dịch lại 2021)

MỌI NGƯỜI ĐỀU CÓ THỂ ĐỌC VÀ TU THEO, KHÔNG CẦN QUÁN ĐẢNH

MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN | 2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG

Mục Lục

> LỜI MỞ ĐẦU - TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU	
> 1. TỔNG QUAN	
>> 1.1.  Ý NGHĨA PHẬT PHÁP	
>> 1.2. KIẾN THỨC VÀ KINH NGHIỆM	
>> 1.3. NỀN TẢNG CHUYỂN HÓA TÂM	
>> 1.4. TRUY TÌM CHÂN TÁNH THỰC TẠI	
>> 1.5 HỎI ĐÁP	
> 2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM	
>> 2.1. ĐỨC ATISA VÀ NGỌN ĐÈN SOI ĐƯỜNG GIÁC NGỘ	
>>> 2.1.1- Ý Nghĩa Tựa Đề	
>>> 2.1.2- Ðối Tượng Tán Dương	
>>> 2.1.3- Nhị Đế	
>>> 2.1.4- Tứ diệu đế	
>>> 2.1.5- Tam Bảo: Phật Pháp Tăng	
>> 2.2. LAMA TÔNG KHÁCH BA VÀ CHỨNG ĐẠO CA: Xuất Xứ Giáo Pháp Lam-rim	
>>> 2.2.1. Tán Dương Tác Giả Phi Phàm	
>>> 2.2.2. Tán Dương Giáo Pháp Vĩ Đại	
>> 2.3. HỎI ĐÁP	
> 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ	
>> 3.1. PHẨM TÁNH BẬC ĐẠO SƯ	
>> 3.2. CÁCH NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ	
>> 3.3. PHẨM HẠNH CỦA ĐẠO SƯ	
>> 3.4. PHẨM HẠNH CỦA ĐỆ TỬ	
>> 3.5. XÂY DỰNG NỀN TẢNG NƯƠNG THẦY VỮNG CHẮC	
>> 3.6. HỎI ĐÁP	
> 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU	
>> 4.1. CĂN CƠ NGƯỜI CẦU PHÁP	
>> 4.2. KHỞI TÍN TÂM NƠI NGHIỆP	
>> 4.3. BA MỨC ĐỘ QUY Y	
>> 4.4. GIÁ TRỊ VÀ TÁNH CHẤT TẠM BỢ CỦA KIẾP NGƯỜI	
>> 4.5. TU THIỀN LÀ HÀNG PHỤC TÂM MÌNH	
>> 4.6. CHẾT VÀ TÁI SINH	
>> 4.7. MƯỜI HAI DUYÊN KHỞI	
> 5. QUY Y, NGHIỆP, VÀ GIỚI	
>> 5.1. QUY Y	
>> 5.2. QUÁN NHÂN QUẢ	
>> 5.3. TỊNH NGHIỆP VÀ BỐN SÁM LỰC	
>> 5.4. HỎI ĐÁP	
> 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI	
>> 6.1. PHÁT TÂM BUÔNG SINH TỬ	
>> 6.2. HIỂU RÕ THỰC CHẤT CẢNH LUÂN HỒI	
>> 6.3. HỎI ĐÁP	
> 7. TÂM BỒ ÐỀ	
>> 7.1. HUÂN DƯỠNG TÂM BỒ ĐỀ	
>> 7.2. GIÁ TRỊ TÂM BỒ ĐỀ	
> 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ	
>> 8.1. DẪN NHẬP	
>> 8.2. BẢY HẠNH PHỔ HIỀN	
>>> 8.2.1. Ðảnh lễ Phật đà	
>>> 8.2.2. Cúng dường chư Phật	
>>> 8.2.3. Sám hối nghiệp chướng	
>>> 8.2.4. Tùy hỉ công đức	
>>> 8.2.5. Thỉnh Phật chuyển pháp luân	
>>> 8.2.6. Thỉnh Phật trụ thế	
>>> 8.2.7. Hồi hướng công đức	
>> 8.3. NGHI THỨC PHÁT TÂM NGUYỆN BỒ ĐỀ	
> 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT	
>> 9.1. THỌ GIỚI BỒ TÁT	
>> 9.2. NĂM HẠNH BA LA MẬT: Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Định.	
>>> 9.2.1. Hạnh Thí	
>>> 9.2.2. Hạnh Giới	
>>> 9.2.3. Hạnh Nhẫn	
>>> 9.2.4. Hạnh Tấn	
>>> 9.2.5. Hạnh Định	
> 10. HẠNH TUỆ	
>> 10.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA TUỆ BA LA MẬT	
>> 10.2. BẢN CHẤT CỦA TUỆ GIÁC	
>> 10.3. TÁNH KHÔNG QUA CÁC TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO	
>> 10.4. LÝ DUYÊN KHỞI	
>> 10.5. THIẾT LẬP TÁNH KHÔNG QUA LUẬN LÝ	
>> 10.6. THIỀN QUÁN TÁNH KHÔNG	
>> 10.7. TRỰC CHỨNG TÁNH KHÔNG	
>> 10.8. CHỈ QUÁN HỢP NHẤT	
>> 10.9. KIM CANG THỪA	
>> 10.10. HỎI ĐÁP	
> 11. HỒI HƯỚNG	

MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN | 2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI TÂM TU THEO PHẬT PHÁP | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG


> LỜI MỞ ĐẦU – TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU

Kính chào các anh chị. Tôi rất vui mừng được cùng ngồi với các anh chị ở đây hôm nay. Tôi tin rằng con người nói chung ai cũng như ai, tâm thức, cảm xúc, tướng dạng đều tương tự như nhau. Lẽ dĩ nhiên vẫn có những điểm khác biệt nho nhỏ, ví dụ như màu da, nét mặt, nhưng nói chung ai cũng có hai mắt, hai tai, một mũi. Vì vậy tôi luôn cảm thấy vui mừng khi được gặp gỡ trao đổi với quý vị. Như vậy, tôi có cơ hội học hỏi nhiều điều mới, nhất là khi gặp được những câu hỏi về vấn đề tôi không ngờ đến. Thính giả thường có nhiều quan điểm tư duy mới mẻ, nhờ vậy tôi luôn được dịp suy nghĩ phân tích. Rất hữu ích.

Tuy nhiên, xin cho tôi nói rõ một điều, gần như là lời cảnh cáo: quý vị không nên chờ đợi quá nhiều nơi tôi. Không làm gì có phép lạ. Tôi rất nghi ngờ những cái gọi là phép lạ. Người đến nghe pháp không nên nghĩ rằng Đalai Lama có phép thần thông, ví dụ như phép chữa bịnh. Chính tôi cũng không mấy tin nơi những người tự xưng mình có phép chữa bịnh. Trước đây ở Anh quốc, tôi có lần đề cập đến vấn đề này, nói rằng nếu có ai có phép thần thông chữa bịnh, tôi cũng muốn nhờ người ấy chữa dùm tôi chứng ngứa da. Gãi ngứa tuy cũng thú, nhưng một vị cao tăng Ấn độ tên Long-thọ có nói như vầy: “gãi ngứa dù sướng đến đâu cũng không bằng đừng bị ngứa.” Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa gặp được người giúp tôi chữa dứt chứng ngứa da. Nếu quý vị đến đây chỉ vì tò mò thì được. Tôi rất hân hạnh được tiếp chuyện cùng quý vị. Và tôi cũng muốn gửi lời cám ơn đến tất cả những ai đã góp phần tổ chức buổi gặp gỡ này.

Ðiều cơ bản là mọi người ai ai cũng đều muốn sống một cuộc sống thành công hạnh phúc. Ðây không những là mục đích sống mà còn là quyền tự nhiên của con người. Vấn đề đáng nói, là đạt hạnh phúc bằng cách nào đây? Sống trong thế giới hiện đại với nền công nghệ và cơ sở vật chất phát triển vượt bực và luôn sẵn có, chúng ta tự nhiên cho rằng vật chất là yếu tố duy nhất có thể đáp ứng được mọi nhu cầu của mình, là phương tiện tối hậu để toàn thành chí hướng. Chúng ta đặt quá nhiều kỳ vọng vào thế giới vật chất, tin tưởng quá nhiều nơi ấy. Khuynh hướng duy vật này mang lại đầy ảo vọng, hoàn toàn không có cơ sở vững chắc. Kết quả là chúng ta bỏ bê mọi giá trị nội tại, không nhìn nhỏi gì đến cảnh giới nội tâm của chính mình.

Vì chúng ta lấy vật chất làm ý nghĩa của đời sống nên càng lúc càng rời xa giá trị cơ bản của con người. Ðương nhiên tiến bộ vật chất thật sự cần thiết và hữu ích, nhưng chỉ dựa vào phương tiện ngoại tại thì không thể nào giải quyết được mọi vấn đề. Nhưng nếu phối hợp tiến bộ vật chất với tiến bộ tâm linh thì hạnh phúc mong cầu không còn vượt ngoài tầm với. Vì vậy, song song với tiến bộ vật chất, con người cũng cần phải quan tâm đến giá trị tinh thần.

Chữ “giá trị tinh thần” nói ở đây không nhất thiết phải liên quan đến tôn giáo. Giá trị tinh thần có hai loại, hoặc là tin nơi tôn giáo, hoặc không tin nơi tôn giáo. Không tin nơi tôn giáo vẫn có thể sống một đời sống đầy ý nghĩa, nhưng nếu không biết tới giá trị tinh thần cơ bản của con người thì chắc chắn không thể đạt hạnh phúc. Ðã làm người thì không thể quay lưng với vấn đề này.

Vậy thế nào là giá trị tinh thần cơ bản của con người? Giá trị tinh thần có hai mức độ. Mức độ thứ nhất là biết quan tâm đến kẻ khác, chia sẻ dùm bọc lẫn nhau, thấy tất cả đều là anh chị em trong cùng một gia đình nhân loại, luôn tôn trọng, tha thứ lẫn nhau, biết sống có kỷ luật. Ngay như loài vật cũng có thể có được những đức tính này. Tuy vậy, ở mức độ thứ hai, loài người đặc biệt có trí thông minh, hiểu được hậu quả lâu dài của việc mình làm, vì vậy có thể tự tăng cường tánh tốt, hạn chế tánh xấu. Nhìn trên khía cạnh này, khả năng của loài người tinh tế hơn loài vật rất nhiều.

Dù là người hay súc vật, ai ai cũng mang cùng một nguyện vọng là muốn được hạnh phúc. Ðây là nguyện vọng chung của tất cả mọi loài hữu tình. Nhưng con người và súc vật khác nhau ở trí thông minh. Không phải chỉ con người mới biết mong cầu thỏa mãn giác quan; xét trên lãnh vực này, người và súc vật chẳng khác nhau bao nhiêu. Tuy vậy, con người vẫn khác súc vật ở chỗ biết vận dụng trí thông minh thể thực hiện nguyện vọng tự nhiên của mình. Con người có khả năng nhìn vào thái độ và hành động của mình mà đoán được hậu quả trước mắt cũng như hậu quả lâu dài. Ðây mới chính là đặc điểm của loài người. Biết tận dụng khả năng đặc biệt này mới thật sự xứng đáng làm người.

Ngoài ra còn một điểm quan trọng khác: khổ đau và hạnh phúc có hai loại, khổ đau hạnh phúc thể xác, liên quan đến giác quan, và khổ đau hạnh phúc tinh thần. Nếu quý vị chịu khó nhìn lại sự việc xảy ra hàng ngày, sẽ thấy tinh thần quan trọng hơn thể xác. Khi vui vẻ ổn định, chúng ta dễ dàng chịu đựng những bức rức đớn đau thể xác. Khi tâm trí xáo trộn bất an, dù hoàn cảnh bên ngoài có tốt đẹp thuận tiện đến đâu chăng nữa, nhiều bạn, nhiều tiền, nhiều danh vọng… chúng ta vẫn không thấy hạnh phúc. Vậy kinh nghiệm giác quan dù mãnh liệt đến đâu vẫn không thể lấn át kinh nghiệm tâm thức. Chính lãnh vực tâm thức này là nơi mà trí thông minh của con người đặc biệt có tầm vóc ảnh hưởng lớn rộng.

Trí thông minh con người tự nó không tốt không xấu. Ðây chỉ là một dụng cụ, dùng trong mục tiêu xây dựng hay phá hoại đều được. Ví dụ có rất nhiều loại khổ đau sinh ra từ khả năng dự phóng về tương lai, mang lại hoài nghi, hy vọng, thất vọng, sợ hãi. Súc vật không có vấn đề này. Súc vật miễn có miếng ăn nơi ở là hài lòng yên ổn. Con người dù dư miếng ăn, nhiều bạn tốt, vẫn vất vả với biết bao nhiêu kỳ vọng chi li phức tạp, không thể an định. Trí thông minh con người trong trường hợp này là nguyên do tạo lo lắng phiền não. Không thể dùng phương tiện vật chất để hóa giải loại khổ đau phát sinh từ trí tưởng tượng quá độ này. Vì vậy mà nói trí thông minh con người tạo ảnh hưởng rất lớn, có khi tích cực, có khi lại rất tiêu cực. Muốn vận dụng trí thông minh theo chiều hướng tốt đẹp, phải có một thái độ tinh thần tương xứng. Muốn đời sống hạnh phúc – ngày hạnh phúc, đêm cũng hạnh phúc – quan trọng nhất là phải phối hợp trí thông minh với những giá trị tinh thần cơ bản. Nếu trong ngày tâm trí chúng ta an lạc ổn định thì giấc ngủ về đêm cũng sẽ đầy an lạc. Nếu trong ngày tràn đầy sợ hãi bất an, những xáo trộn này sẽ nối tiếp vào giấc ngủ. Muốn một ngày hai mươi bốn tiếng luôn được hạnh phúc, chúng ta phải biết chọn cho mình một thái độ tinh thần thích đáng.

Thay vì từng phút từng giây trong ngày đều nghĩ đến tiền tài vật chất, chúng ta nên dành thời gian để nhìn lại thế giới nội tâm. Có rất nhiều câu hỏi đáng được đặt ra, như “tôi là ai?” “đâu là cái tôi của tôi?” Thông thường chúng ta vẫn thấy cái tôi đương nhiên phải có, cảm thấy bên trong mình có một cái gì đó chắc thật, biệt lập, làm chủ thân tâm này, làm chủ tiền tài sở hữu kia. Rất nên xét lại xem cái tôi quí giá đầy quyền lực ấy thật sự đang ở đâu. Cũng cần xét lại xem “tâm là gì? tâm ở đâu?” vì năng lực phá hoại lớn nhất vốn phát xuất từ tâm phiền não. Phiền não nổi lên là chúng ta lập tức biến thành nô lệ của phiền não, tựa kẻ điên khùng. Vì vậy mỗi khi phiền não phát sinh, phải nên nhìn lại xem “phiền não này từ đâu mà có?”

Giá trị cơ bản của con người là biết quan tâm chia sẻ với nhau. Muốn phát huy giá trị này chỉ có một chìa khóa duy nhất, đó là tình thương yêu gần gũi dành cho nhau. Đức tính này ai cũng sẵn có khi nhập thai mẹ. Nhiều nhà nghiên cứu y học hiện đại nói rằng thai nhi có khả năng nhận biết giọng nói của mẹ. Ðiều này cho thấy trẻ từ trong thai đã có được cảm giác gần gũi thương yêu mẹ. Khi chào đời, trẻ sơ sinh tự nhiên biết tìm sữa mẹ. Người mẹ cũng cảm thấy dạt dào thương yêu con, nhờ vậy dòng sữa tuôn trào. Nếu giữa mẹ và con có một bên thiếu đi tình thương yêu gần gũi, đứa bé sẽ không thể sống sót. Chúng ta ai cũng bắt đầu đời sống như vậy, sẽ không thể sống còn nếu thiếu tình thương yêu. Ngoài ra, y học cũng thường nói đến mối tương quan chặt chẽ giữa tinh thần và sức khỏe. Ví dụ trạng thái sợ hãi hay nóng giận đều gây hại cho sức khỏe. Ngoài ra, nếu phiền não tác động quá mạnh, nhiều bộ phận trong não sẽ bị tắt nghẽn, trí thông minh không thể hoạt động bình thường. Kinh nghiệm hàng ngày cho thấy phiền não có thể khiến căng thẳng khó chịu, gây chứng rối loạn đường ruột hay chứng mất ngủ, khiến nhiều người phải dùng thuốc ngủ, thuốc an thần, hay tệ hơn, đưa đến tình trạng nghiệp ngập.

Hơn nữa, lúc đang phiền não, cơ thể thường bị xáo trộn, dễ gây chứng huyết áp cao cùng nhiều chứng bịnh khác. Có một y học gia trong một buổi thuyết trình đã đưa ra kết quả nghiên cứu như sau: những người hay dùng chữ “tôi” và “của tôi” thường nhiều hy vọng bị chứng đứng tim hơn người khác. Vậy nếu quý vị muốn bị đứng tim, cách hay nhất là niệm mấy chữ đó liên tục như niệm chú: “tôi, tôi, tôi, tôi, tôi, tôi.”

Nếu tự cho mình là cao quí tuyệt vời, tự nhiên tầm nhìn sẽ hạn hẹp, bất cứ vấn đề nhỏ nhoi nào cũng biến thành to lớn khó chấp nhận. Ngược lại, nếu mở rộng tâm trí, nhìn vấn đề từ một tầm nhìn lớn rộng, vấn đề sẽ trở nên bé nhỏ vô nghĩa. Thay vì lo lắng cho riêng mình, tốt hơn nên chuyển thái độ vị kỷ thành thái độ vị tha cho tâm trí thoáng rộng, được như vậy mọi vấn đề riêng tư cá nhân sẽ trở thành việc nhỏ, dễ giải quyết.

Sống một đời sống vị tha thì người đầu tiên hưởng lợi thật ra vẫn là chính mình. Nhiều người tưởng rằng tâm từ bi chỉ mang lợi đến cho người nhận, tưởng đây là nếp sống lý tưởng dành cho những ai chỉ biết sống vì người khác, không thích hợp với người chưa hoàn toàn quên mình, vì mọi lợi lạc đều đổ hết về phía người nhận. Nghĩ như vậy là lầm. Lợi lạc trước tiên vẫn đổ về phía người tu tâm từ bi.

Vì khi tu tâm từ bi, tâm trí của chúng ta sẽ mở ra rộng lớn, sẽ luôn cảm thấy an vui thoải mái trước loài người và niềm vui của kẻ khác, vì vậy khi gặp gỡ tiếp xúc với bất kỳ một ai, ta cũng sẽ thấy như vừa gặp lại anh em, dễ dàng vui vẻ nói chuyện. Ngược lại nếu chỉ biết đến mình, tấm lòng khép chặt, gặp gỡ tiếp xúc với người đồng loại thật là một việc làm vất vả khó khăn.

Khởi tâm tu hạnh từ bi sẽ tức thì có được sức mạnh bình an nội tại. Ðương nhiên người khác cũng sẽ gián tiếp được lợi, nhưng hưởng được nhiều lợi lạc nhất vẫn chính là bản thân người tu. Vì vậy, nếu chúng ta thật sự quan tâm đến tương lai và hạnh phúc của chính mình thì phải sống sao cho tâm từ bi trở thành trọng tâm của đời sống tinh thần. Tôi thường vẫn nói đùa rằng nếu quý vị thật sự ích kỷ, hãy ích kỷ cho thật thông minh, đừng ích kỷ kiểu rồ dại.

Thực tế là như vậy. quý vị cứ hãy suy nghĩ cho kỹ rồi mang ra thí nghiệm thử xem sao. Rồi sẽ có lúc quý vị hiểu rõ hơn những gì tôi đang nói ở đây.

Bây giờ đã là năm 2000. Tôi năm nay đã sáu mươi bốn tuổi [năm 2000], thêm vài ngày nữa là đầy sáu mươi lăm. Cuộc đời tôi không mấy lúc được bình an. Những khó khăn trong cuộc đời của tôi, có lẽ quý vị đã từng nghe nói. Năm mười lăm tuổi, tôi mất tự do. Năm hai mươi bốn tuổi, tôi mất xứ sở. Ðến nay đã bốn mươi mốt năm sống đời lưu vong, tin nào từ đất mẹ gửi ra cũng đều là tin buồn. Tuy vậy, tâm trạng tôi vẫn ổn định. Tin buồn đến rồi đi, không vướng lại trong tâm. Rốt lại, quân bình nội tại vẫn không bị ảnh hưởng.

Ðược như vậy không phải nhờ thành tựu gì đặc biệt. Tôi thường đùa với các bạn người Hoa về chữ “hoạt Phật,” có nghĩa là “Phật sống.” Chữ này tự nó rất nguy hiểm, hoàn toàn sai. Tiếng Tây tạng gọi “lama” [lạt-ma], tiếng Phạn gọi “guru,” hoàn toàn không mang ý nghĩa “Phật sống,” chẳng hiểu làm sao từ hai chữ này mà lại gọi thành “Phật sống.” Nói cho cùng, gọi sao cũng được, là Phật sống, là vua trời, hay ác quỉ, cũng không sao. Sự thật tôi chỉ là một con người, một người xuất gia đơn giản vậy thôi. Giữa quý vị và tôi không có gì khác cả. Nhìn vào kinh nghiệm bản thân, tôi thấy nếu chịu khó quan tâm đến thế giới của tâm thức, đời sống sẽ an lạc hơn, hạnh phúc hơn. Xã hội vật chất tân tiến mang đến cho quý vị nhiều điều hay, và sẽ còn phong phú mỹ mãn hơn nhiều nếu, thêm vào đó, quý vị biết quan tâm đến đời sống tinh thần.

Trên thế giới có nhiều nơi đến cả nhu cầu vật chất tối thiểu cũng khó mà có được. Ngày nào cũng đều phải tranh đấu cật lực cho sự sống còn, bao nhiêu tâm trí sức lực dồn hết vào đó, không còn chỗ cho lo âu khủng khoảng tâm lý trồi lên. Ngược lại, những quốc gia giàu mạnh phía Bắc đạt trình độ phát triển vật chất cao, con người sống thoải mái hơn nhiều. Nhưng cũng vì vậy mà con người ở đây có nhiều cơ hội chú ý đến những vấn đề thuộc phạm vi của cảm xúc và tinh thần hơn.

Tâm thuần thì yên. Tâm yên thì xây dựng được gia đình bình yên và nhân loại bình yên. Đây chính là nền tảng của nền hòa bình nhân loại. Với sức mạnh nội tại, chúng ta có thể đối đầu với những vấn đề thuộc phạm vi gia đình, xã hội, hay của toàn thế giới một cách thực tế hơn. Bất bạo động không đồng nghĩa với thụ động. Phải biết đối thoại trong tinh thần hòa giải để giải quyết vấn đề. Ðây mới chính là ý nghĩa của tinh thần bất bạo động, và là suối nguồn hòa bình cho nhân loại.

Thái độ này cũng rất hữu ích khi đối diện với vấn đề môi sinh. Chúng ta luôn nghe nói về những việc như là bảo vệ môi sinh, hòa bình nhân loại, tinh thần bất bạo động, v.v.  nhưng những mục tiêu này không thể đạt đến bằng chính sách quốc gia hay giải pháp Liên hiệp quốc, mà phải dựa vào sự chuyển hóa của cá nhân từng người. Chỉ khi nào xây dựng được một xã hội hòa bình, giải quyết vấn đề bằng cách đối thoại, thì mới có thể thật sự nói đến chuyện giải trừ vũ khí – bắt đầu từ phạm vi từng quốc gia, rồi đến từng khu vực quốc tế, rồi cuối cùng là toàn cầu. Những điều này sẽ khó lòng thực hiện nếu cá nhân từng người không cố gắng chuyển hóa tâm thức của chính mình.

Hỏi. Người Mỹ có thể làm gì để chống tình trạng bạo lực đang quá phổ biến trong xã hội Mỹ?

Đáp. Tôi nghĩ tôi vừa mới trả lời xong câu hỏi này, không có câu trả lời nào khác. Tự chuyển hóa tâm thức là việc chính cần phải làm. Chuyển hóa bằng cách nào? Làm sao đưa việc này vào gia đình và trường học? Ở đây, giải pháp nằm ở phạm vi giáo dục. Không thể nhờ cầu nguyện hay thiền quán mà phải dựa vào một hệ thống giáo dục hữu hiệu. Cơ sở giáo dục trên mọi tầng lớp, mọi trình độ, đều phải giữ vai trò chính yếu trong việc cổ động phát huy giá trị tinh thần nhân loại, dưới dạng đạo đức phi tôn giáo. Tôi không phải là nhà giáo dục, nhưng con người thật sự cần bàn luận nghiêm túc hơn về việc cải tiến và mở rộng cho chương trình giáo dục được đầy đủ hơn. Báo chí phim ảnh cũng có khả năng đóng góp quan trọng trong việc đề cao giá trị con người. Ngoài ra, tôi không rõ còn việc gì khác có thể làm được.

Hỏi. Sống trong xã hội tiêu thụ này, làm sao có thể chế ngự được những ham muốn ràng buộc vật chất ?

Đáp. Nói về công phu thiểu dục tri túc [ít muốn biết đủ], xét trên một khía cạnh nào đó có thể nói rằng sống trong xã hội vật chất lại dễ tu hơn. Ở xã hội thiếu kém, con người không có cơ hội nhìn ra giới hạn của vật chất, ngược lại sống trong xã hội vật chất dư thừa con người có thể hiểu được một cách dễ dàng rằng vật chất thật ra không đủ khả năng mang lại hạnh phúc cho con người. Vì vậy tôi nghĩ  sống trong xã hội sung túc lại dễ tu hơn. Ðương nhiên việc này hãy còn tùy vào cách suy nghĩ riêng của từng người.

Ngoài ra, nói rằng nền văn hóa Tây phương là nền văn hóa tiêu thụ, nói như vậy có khi chỉ là do tưởng tượng. Người ta dựng đứng sự khác biệt giữa hai nền văn hóa Ðông – Tây, rồi người Tây phương quý vị lại cứ tin vào đó. quý vị cho rằng đời sống của mình bị giá trị vật chất chi phối, gán hình ảnh này lên nền văn hóa của chính mình, biến thành định kiến.

Trong số những người bạn Tây phương của tôi, có nhiều người chuyên tâm nỗ lực tu hành theo Phật pháp. Họ đạt nhiều kinh nghiệm thâm sâu, kiên trì chỉ quán, và luôn sống đúng theo kinh nghiệm có được qua thiền định. Những người như vậy Ðông Tây đều có. tính chất cơ bản con người ở đâu cũng đều giống như nhau.

Hỏi. Gần đây có nhiều người Mỹ sống nhờ thuốc an thần. Có người vì vấn đề sức khỏe trầm trọng, có người chỉ vì muốn giải quyết vấn đề cho mau chóng. Xin ngài cho biết ý kiến về việc này.

Đáp. Nói về những loại thuốc như thuốc an thần, đương nhiên phải xét từng hoàn cảnh khác nhau. Có trường hợp khủng hoảng vì thiếu quân bình vật lý hay sinh lý trong cơ thể. Gặp trường hợp này, thuốc an thần có thể giúp ích cho người bịnh, đây là phương pháp trị liệu có hiệu quả. Tuy vậy cũng có nhiều trường hợp khủng hoảng không vì nguyên nhân sinh lý mà vì tâm lý. Nếu là như vậy, áp dụng phương pháp thiền quán, luyện tâm, sẽ hữu hiệu hơn là dùng thuốc an thần.

Riêng những người dùng thuốc an thần chỉ để tìm cảm giác thoải mái, tìm lối thoát dễ dàng, rõ ràng đây là trường hợp lạm dụng thuốc. Lấy thuốc làm lối thoát, sẽ  chẳng thoát được bao lâu. Thuốc còn trong cơ thể thì còn thấy thoải mái, đến khi thuốc tan hết lại rơi về trạng thái trước đây. Áp dụng phương pháp luyện tâm hữu hiệu hơn nhiều. Trạng thái an lạc đến từ thiền định luôn kéo dài lâu hơn, khi qua rồi vẫn có thể nhớ lại được, vẫn còn tạo tác dụng.

Hỏi. Nếu người xứ Mỹ muốn tu theo Phật giáo nhưng lại không muốn sống theo nền văn hóa Tây tạng, ngài thấy làm như vậy có được không?

Đáp. Đương nhiên là được. Ví dụ như Tứ Diệu Ðế, chẳng có gì là của riêng nền văn hóa Tây tạng cả. Phật giáo không phân biệt Tây tạng hay Ấn độ, Ðông phương hay Tây phương.

Hỏi. Khi chết, cư sĩ tại gia làm cách nào để trú trong an lạc, thoát mọi xao xuyến sợ hãi?

Đáp. Như lúc nãy tôi có nói, nếu ban ngày tâm trí an định thì khi ngủ giấc mơ cũng sẽ an định. Từ đó suy ra, nếu trong đời sống hàng ngày tâm trí an định thân thiện, thì khi chết cũng sẽ được như vậy. Ðây là cách tốt nhất để chuẩn bị một cái chết bình an. Nếu lúc sống chỉ biết lo âu hận thù, đầy tâm lý ác hiểm, khi chết sẽ khó mà thấy được sự bình an.

Là một tỷ kheo tu theo Phật giáo, tôi tin có đời sau. Nhất là Phật giáo mật tông có rất nhiều pháp tu đặc biệt dành để chuẩn bị cho cái chết. Điều quan trọng là phải tập luyện sao cho thật quen thuộc thuần thục, để khi chết có thể thực sự mang ra thực hành. Vì vậy trong công phu hàng ngày tôi nhiều lần thiền về quá trình chết và tái sinh của chính mình. Làm vậy tuy nói là để chuẩn bị cho lúc chết, nhưng tôi vẫn không thể biết chắc khi thật sự đối diện với cái chết tôi sẽ như thế nào. Nhiều lúc tôi cảm thấy khi cái chết đến tôi sẽ rất nôn nao, không biết mình đã đủ khả năng thực hành những gì đã học hay chưa.

Hỏi. […] Xin hỏi có cách nào khác để kiểm soát khoảng cách ngày càng tăng giữa giàu và nghèo?

Đáp. Ðây là câu hỏi rất quan trọng. Ai cũng thấy thế giới ngày nay có một khoảng cách rất lớn giữa những quốc gia giàu mạnh và những quốc gia chậm phát triển. Rồi giữa những người sống chung trong cùng một quốc gia, khoảng cách giữa giàu và nghèo cũng rất lớn. Ở Mỹ, ví dụ vậy, con số những nhà tỷ phú càng lúc càng tăng, trong khi người nghèo lại càng thêm nghèo. Hôm nọ tôi có gặp một người bạn cũ, kể tôi nghe công việc cô ấy làm ở thành phố Washington. Cô ấy theo công việc thường phải viếng thăm nhiều gia đình, có những nơi hoàn cảnh sống tồi tàn quá mức tưởng tượng,  không thể là nơi chốn dành người ta ở. Cô ấy kể lại mà nước mắt chảy quanh, tôi nghe cũng rất xúc động.

Sự cách biệt quá lớn giữa giàu và nghèo không những trái đạo đức, mà còn rất bất tiện. Chúng ta cần suy nghĩ nhiều hơn về vấn đề này. Tôi nghe nói ngày nay có nhiều đại gia tộc sẵn sàng san sẻ một phần gia sản của họ. Năm ngoái, vài người bạn ở Chicago cho biết có vài gia đình giàu có biết can đảm san sẻ. Ðây là điều rất tốt. Thái độ từ bi như vậy càng phát triển thì hố ngăn giữa giàu và nghèo sẽ càng giảm thiểu.

Tuy vậy, nếu xét trên lãnh vực quốc tế, tôi nghĩ các quốc gia nghèo phải đóng vai chủ động, đặc biệt là trên phương diện giáo dục. Gần đây khi đi qua các nước vùng Nam Phi và các nước khác ở Châu Phi, tôi nhận thấy có sự cách ngăn quá lớn giữa giới trí thức và quần chúng. Người nghèo phần lớn không có chút tự tin nào cả. Phải dựa vào giáo dục để thay đổi thái độ mặc cảm của người nghèo. Trong trường hợp này, người giàu  có thể giúp kẻ nghèo bằng cách chu cấp phương tiện và dụng cụ giáo dục đào tạo.

Vấn đề này tự nhiên dẫn đến vấn đề nhân số. Hiện nay trái đất có trên sáu tỉ người. Ðây là vấn đề cực kỳ nghiêm trọng. Nếu chúng ta nâng cao mức sống của người nghèo ở xứ nghèo lên cho bằng với mức sống của người giàu ở các nước phía Bắc Mỹ, chắc chắn tài nguyên của trái đất sẽ không đủ cung cấp cho tất cả mọi người. Những vấn đề như vậy đến từ sự thiếu ý thức, vì con người không biết dùng trí thông minh của mình cho đúng cách. Tất cả mọi quốc gia, đặc biệt là những quốc gia nghèo, thường có khuynh hướng nhìn vào tương lai ngắn hạn thay vì quan tâm đến chuyện về lâu về dài. Tuy nhiên, nhờ giáo dục, có thể là vẫn có giải pháp.

Hỏi. Thưa đức Đalai Lama, đã có rất nhiều cuộc chiến tranh nhân danh tôn giáo, ngài có thể giải thích vì sao Tây tạng lại không chọn một giải pháp dứt khoát hơn để dành lại tự do?

Đáp. Thứ nhất, tôi tin rằng bản chất con người vốn tốt và lành, vì vậy phương pháp bạo động đi ngược với tính chất cơ bản của con người. Thứ hai, nhìn vào lịch sử của nhân loại sẽ thấy vũ trang quân lực rất khó mang lại hòa bình lâu dài. Hơn nữa, ngày nay mọi quốc gia trên thế giới đều liên hệ chặt chẽ với nhau, ranh giới càng lúc càng mỏng đi. Nói về kinh tế thì ranh giới giữa các quốc gia nói chung là không có. Thêm vào đó, tiến bộ truyền thông và phát triển du lịch đã khiến cho thế giới này biến thành một cộng đồng nhân loại duy nhất. Vì vậy ngày nay khái niệm về độc lập không còn nhiều ý nghĩa.

Ví dụ trường hợp của Kosovo. Sự can thiệp quân lực của Mỹ được xem như một loại giải phóng nhân quyền, dựa vào vũ lực. Có thể là động cơ đầy thiện chí, mục tiêu cũng chính đáng, nhưng vì dùng phương tiện bạo động nên thù hận thay vì lắng xuống lại tăng thêm. Ngay từ đầu tôi đã rất ngần ngại trước giải pháp bạo động. Nói chung bạo động là giải pháp quá thời, không thích hợp với hoàn cảnh  của thế giới hiện nay.

Trong trường hợp Tây tạng, dù muốn dù không chúng tôi vẫn phải sống cạnh các anh chị em Trung quốc. Tây tạng tiếp xúc với Trung quốc từ hơn hai ngàn năm nay. Mối giao thiệp này có khi vui, có khi không mấy vui, nhưng dù sao chăng nữa, Tây tạng và Trung quốc vẫn luôn là hai nước láng giềng. Vì vậy muốn giữ lại tình hữu nghị hòa bình giữa hai nước, điều quan trọng hàng đầu là phải để ý khi tranh đấu cho tự do, nhất thiết không dùng tới giải pháp bạo động.

Ngoài ra, để giải quyết vấn đề mâu thuẫn giữa Tây tạng và Trung quốc, điều tối quan trọng là phải được sự ủng hộ của người dân Trung quốc. Sự ủng hộ này càng lúc càng tăng, đây là điều rất đáng mừng. Nếu bây giờ Tây tạng dùng phương pháp bạo động, gây đổ máu cho người dân Trung quốc, thì tầng lớp trí thức Trung Hoa dù có công nhận công cuộc tranh đấu dành tự do của người Tây tạng là đúng, dù thấy được nỗi khổ của người Tây tạng trong thời gian gọi là “giải phóng hòa bình,” họ  vẫn sẽ không thể ủng hộ, vì đồng bào của họ đang khổ vì bị người Tây tạng thảm sát. Vì vậy, dùng phương pháp bất bạo động trong quá trình tranh đấu cho tự do là điều tối quan trọng.

Hỏi. Làm sao có thể vừa sống trong thế giới bận rộn này, vừa có thể phát huy đời sống tinh thần? Có câu thần chú ngắn gọn đơn giản nào có thể đọc khi thức dậy buổi sáng và trong ngày nhiếp tâm theo đó để giữ bình an?

Đáp. Ðiều này có thể làm được nhờ huấn luyện tâm thức. Bắt đầu bằng cách thức dậy thật sớm. Thomas Merton, một vị tu sĩ dòng tu Luyện tâm [Trappist], thức dậy lúc 2:30 sáng, đi ngủ lúc 7:30. Thời khóa biểu của tôi trễ hơn một tiếng, tôi thức dậy lúc 3:30 sáng, và đi ngủ lúc 8:30. Phật tử tại gia phải cố gắng hy sinh sinh hoạt giải trí buổi tối, đi ngủ cho sớm. Nếu thật sự thích giải trí buổi tối, có thể tự cho phép mình mỗi tháng thức khuya một lần.

Ngủ sớm buổi tối, rồi buổi sáng thức dậy cho thật sớm, thử quán sát đời sống của mình và chính mình, như tôi có đã nói qua. Quán sát, phân tích. Phải nên như vậy. Tôi không biết có cách tu nào đơn giản hơn. Hơn nữa, tôi rất nghi ngờ khi có người cho rằng chỉ cần nhắm mắt lại là vấn đề sẽ tức khắc tự giải quyết. Vấn đề chỉ có thể được giải quyết nhờ thuần dưỡng một thái độ tâm thức thích đáng. Việc như vậy đòi hỏi rất nhiều thời gian và công khó.

Hỏi. Ngài bỏ rất nhiều thì giờ lo cho người khác. Nếu ngài có thời gian dành cho chính mình, ngài sẽ làm gì?

Đáp. Tôi sẽ ngủ một giấc thật dài. Hôm trước tôi từ Ấn độ bay qua Nữu ước. Ðường bay rất dài, tôi mệt lã. Tôi vào giường lúc 5giờ 30 tối và thức dậy vào lúc 4 giờ 30 sáng hôm sau, ngủ suốt 11 tiếng đồng hồ. Nếu tôi có thì giờ dành riêng cho mình, tôi sẽ ngủ một mạch 10 tiếng. Ngoài ra, đương nhiên trong cuộc sống hàng ngày, thiền định cũng là một phương pháp rất hữu hiệu để nghỉ ngơi. Khi ngồi thiền, người tu quán tâm và quán ngã. Nếu quán đúng cách, sẽ cảm thấy rất thoải mái. Nhưng nếu làm không đúng cách, sẽ cảm thấy mệt hơn.

Hỏi. Ðâu là hành động duy nhất mỗi người trong chúng ta đều có thể làm theo trong tinh thần gánh vác trách nhiệm toàn cầu?

Đáp. Ðiều mà cá nhân mỗi người có thể làm, là quan tâm đến vấn đề môi sinh trong đời sống hàng ngày. Bản thân tôi không bao giờ xả nước trong bồn để tắm, chỉ tắm vòi sen. Tắm bồn tốn rất nhiều nước, trong khi đó có nhiều nơi trên thế giới không đủ nước để uống. Ðiện cũng rất quan trọng. Tôi luôn tắt đèn khi ra khỏi phòng. Những việc như vậy trở thành chuyện tự nhiên trong đời sống hàng ngày, tôi chỉ làm theo phản xạ, không cần phải suy nghĩ. Đó là những đóng góp nhỏ của tôi cho môi trường sống.


| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN 2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬ | 11.  HỒI HƯỚNG |


> CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

Có khi tôi cảm thấy ngần ngại khi giảng pháp cho người Tây phương, vì tôi cho rằng đi theo truyền thống tôn giáo của mình dù sao vẫn tốt và an toàn hơn. Tuy vậy, trong số hàng triệu người sống tại các nước Tây phương, tự nhiên sẽ có một số ít thấy Phật giáo thích hợp với họ. Như Tây tạng cũng có một số người không theo Phật giáo mà theo Hồi giáo. Nếu chọn Phật giáo làm tôn giáo của mình, quý vị vẫn nên giữ ý thức về giá trị của những tôn giáo lớn khác trong nhân loại. Dù không thích hợp với mình cũng vẫn thích hợp với người khác, vẫn mang lợi lạc đến cho hàng triệu người trong quá khứ và còn sẽ tiếp tục mang lợi lạc cho loài người trong tương lai. Vì vậy phải luôn giữ lòng tôn trọng.

Giáo pháp được giảng ở đây đến từ hai bài pháp: Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ của vị thánh tăng Ấn độ tên là đức Atisa (Atisha Dipamkara Shrijnana), và Chứng Đạo Ca của Lama Tông Khách Ba (Lama Tông Khách Ba).

Phật Thích Ca Mâu Ni từ bi thiện xảo, giảng Phật pháp qua 84 ngàn giáo pháp khác nhau, phù hợp với căn tính của đủ loại chúng sinh. Thánh tăng đức Atisa mang tinh túy của tất cả 84 ngàn giáo pháp này gom vào trong giáo pháp Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ, nói về trình tự của đường tu dẫn đến giác ngộ.

Dựa trên giáo pháp này của đức Atisa, Lama Tông Khách Ba soạn ba bộ luận, bộ dài nhất là Lam-rim Ðại luận, bộ dài trung bình là Lam-rim Trung Luận. Ngắn nhất là bộ luận sẽ được giảng ở đây: Lam-rim Tiểu Luận, còn có tên là Chứng Đạo Ca.

Mặc dù tôi là người thuyết giảng hai bài pháp này, nhưng quý vị không bắt buộc phải xem tôi là đạo sư. Quý vị có thể chỉ giản dị mang trái tim ra nghe lời tôi nói, xem tôi như một người bạn đạo, một thiện tri thức. Ngoài ra, không bao giờ nên nhắm mắt tin hết tất cả những gì tôi nói, chỉ nên dựa vào đó để chiêm nghiệm suy nghĩ, rồi nhờ chiêm nghiệm suy nghĩ mà thâm nhập được sâu hơn ý nghĩa của Phật Pháp.

Mỗi khi bắt đầu giảng, học, hay nghe Phật pháp, quan trọng nhất là phải giữ tâm nguyện động cơ cho thật trong sáng, nên bây giờ chúng ta sẽ điều chỉnh lại tâm nguyện động cơ của mình bằng cách quy y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) và phát tâm bồ đề qua ba lần tụng niệm câu kệ sau đây:

Nơi Phật, nơi Pháp / và Tăng tôn quý
Cho đến bồ đề / xin về quy y
Nhờ công đức tu / sáu hạnh toàn hảo
Nguyện vì chúng sinh / quyết thành Phật đạo.

Ngoài ra, truyền thống Tây tạng cũng thường bắt đầu buổi giảng pháp bằng câu tán dương đức Phật, tương tự như trong Trung Quán Luận của ngài Long Thọ. Cuối bộ luận này có câu kệ:

“Con xin đảnh lễ / đức Phật từ bi
Người đã khai mở / con đường diệt khổ.”

Ðức Phật nói về con đường diệt khổ như sau: Khổ đau mà chúng ta muốn tránh đến từ cái nhìn ngay từ cơ bản đã sai lệch về thế giới này, vì vậy muốn diệt khổ thì phải thấy biết chính xác về bản chất của thực tại. Nên đức Long-thọ tán dương đức Phật là người đã khai đường chỉ lối cho chúng ta biết cách trau dồi cái nhìn chính xác về bản chất của thực tại.

>> 1.1.  Ý NGHĨA PHẬT PHÁP

Ý nghĩa của Phật Pháp là gì? Cũng như mọi truyền thống tâm linh khác, Phật Pháp là dụng cụ luyện tâm, thứ được dùng để giải quyết những vấn đề tinh thần mà mọi người cũng đều phải đi qua. Tâm lý bất thiện sẽ dẫn đến trạng thái bất an, như là buồn phiền, sợ hãi, hoài nghi, bức xúc v.v. Rồi vì những trạng thái phiền não này thúc đẩy mà gây điều bất thiện, rồi vì làm điều bất thiện mà gánh về thêm lắm nỗi phiền não khổ đau. Tu theo Phật Pháp là để giải quyết những vấn đề như vậy, dù là vấn đề dài hạn hay nhất thời. Nói cách khác, Phật Pháp che chở chúng ta thoát cảnh khổ đau không cầu.

Phật Pháp có nghĩa là làm cho tâm an định và thuần thục. Vì vậy khi nói đến việc chuyển tâm và phát huy những tánh đức nội tại thì cách duy nhất để thực hiện điều này là dùng ngay chính cái tâm của mình, không thể dùng bất cứ thứ gì khác.

Cần thấy ra rằng phần lớn những điều mình không mong cầu, ví dụ như việc bất như ý, khổ não, đớn đau… đều được đúc kết từ cái nhìn hư vọng về thực tại, và những ý nghĩ cảm xúc mang tánh chất phá hoại. Tâm lý tiêu cực mang lại đủ loại khổ đau trong hiện tại và cả tương lai lâu dài về sau.

Bên dưới tất cả là vô minh căn bản, là nhận thức ngay từ cơ bản đã sai về thực tại. Phật giáo gọi vô minh này là “chấp ngã,” hay là “chấp có tự tánh.” Đã là như vậy, muốn phá vỡ loại tâm tiêu cực này cùng mọi khổ não từ đó phát sinh thì phải nhận diện được tính chất hư vọng của chúng và phải thuần dưỡng loại tâm đối nghịch, là tuệ giác thấu suốt chân tánh của thực tại. Trau dồi tuệ giác này, lấy đó làm thuốc hóa giải, từ từ sẽ có khả năng xua tan khổ đau cùng mọi việc bất như ý xảy ra trong đời.

Muốn được như vậy, trước tiên phải có khả năng nhận diện phân biệt rõ ràng hai khía cạnh tích cực và tiêu cực khác nhau của tâm. Một khi hiểu rõ khía cạnh tiêu cực và khả năng phá hoại của tâm, tự nhiên sẽ cảm thấy muốn xa lánh khía cạnh này. Tương tự như vậy, hiểu rõ khía cạnh tích cực và khả năng lợi ích của tâm, tự nhiên sẽ muốn phát huy khả năng ấy. Không sức mạnh nào ở bên ngoài có thể khiến ta chuyển tâm, việc này chỉ có thể xảy ra nhờ ý thức rõ ràng về lợi ích sẽ đạt được nên tự nguyện chấp nhận và hăng hái hành trì.

Thời gian tuôn chảy không ngừng. Từng phút, từng giây, đời sống cứ trôi đi, không ai có thể níu giữ. Tuy vậy, có một điều vẫn nằm trong quyền chọn lựa của mỗi người, đó là chọn làm gì với phần thời gian dành cho mình, tận dụng hay phí bỏ, làm những việc có tính chất xây dựng hay phá hoại. Thời gian không thiên vị ai, đối với ai cũng trôi cùng một vận tốc, bình đẳng với mọi người. Có khác nhau chăng, chỉ ở thái độ và động cơ hành động.

Muốn có được động cơ đúng đắn khi hành động không phải chỉ cần biết động cơ nào đúng động cơ nào sai là đủ. Hiểu biết lý trí tự nó không thay đổi được động cơ, phải nhiều nỗ lực. Nỗ lực đúng cách thì đạt được kết quả khả quan như ý. Nỗ lực không đúng cách chỉ giống như tự hành hạ chính mình. Vì vậy cần phải biết rõ phải nỗ lực thế nào mới là đúng cách.

Đây là vấn đề hệ trọng. Ngay như khi thực hiện một công trình xây dựng ở bên ngoài, ví dụ như khi xây dựng một tòa nhà, cũng đòi hỏi nhiều công lao, tâm sức. Phải xét kỹ đất đai, môi trường, phong cảnh, khí hậu, v.v… biết rõ mọi chi tiết rồi mới có thể chọn một cấu trúc vững chắc thích hợp.

Muốn ra sức trong lãnh vực tâm linh cũng vậy, điều quan trọng là ngay từ đầu phải có chút hiểu biết cơ bản về bản chất của tâm thức, của ý nghĩ, cảm xúc, đồng thời phải cũng phải quan tâm đến vấn đề sinh lý phức tạp của con người cũng như mối tương quan chằn chịt với môi trường xung quanh.

Vì vậy, điều quan trọng là phải có trí hiểu biết sâu rộng và toàn diện, đừng chỉ vì một góc nhìn nhỏ hẹp mà dốc sức theo đuổi mục tiêu một cách mù quáng. Làm như vậy không phải là cách của người thông minh, không phải là cách của bậc hiền thánh. Bậc hiền thánh khi ra sức hành động luôn dựa trên tầm nhìn lớn rộng hơn nhiều.

Truyền thống Phật giáo Tây tạng có hơn một trăm bộ kinh ghi lại lời Phật  dạy [Kangyur], hơn hai trăm bộ luận [Tengyur] do các đại thánh tăng Ấn độ như ngài Long Thọ, Vô Trước soạn tác. Nếu quý vị chịu khó chắt lọc ý nghĩa của hết thảy các bộ kinh luận này, đưa vào công phu tu tập của mình, tự nhiên sẽ có được những bước tiến và thành tựu tâm linh vượt bực. Nhưng nếu quý vị xem kho tàng kinh luận vĩ đại này chỉ đơn giản là chỗ để tôn thờ, thay vào đó, chọn một bài pháp nho nhỏ để tu, làm như vậy dù vẫn sẽ được đôi chút lợi ích, nhưng khó lòng có thể tiến xa trên bước đường tu.

>> 1.2. KIẾN THỨC VÀ KINH NGHIỆM

Điều quan trọng là phải có khả năng phân biệt giữa hai mức độ hiểu biết. Một là loại hiểu biết bề mặt, thuộc lãnh vực kiến thức, nhờ đọc sách, học hỏi, nghe giảng mà phân biệt được hai mặt tích cực và tiêu cực của tâm, biết được bản chất và gốc rễ của tâm. Ngoài ra còn một loại hiểu biết khác, thâm sâu hơn, thuộc lãnh vực kinh nghiệm tu chứng, là nơi huân dưỡng và phát khởi những tánh đức thuần thiện của tâm.

Mặc dù có được hiểu biết kiến thức về một số đề tài không phải là việc dễ, nhưng loại hiểu biết này nói chung vẫn tương đối dễ có hơn, là vì chỉ cần nghe hay đọc là có được. Hiểu biết đến từ kinh nghiệm tu khó hơn rất nhiều, vì đây phải là thành quả của cả một quá trình bền bỉ tu tập. Trong cảnh giới kinh nghiệm tu chứng này, hiểu biết luôn đi liền với cảm xúc mãnh liệt. Nói cho đúng, hiểu biết này chính là kinh nghiệm của cảm xúc.

Hiểu biết tu chứng luôn đi liền với cảm xúc mãnh liệt, điều này cho thấy mặc dù loại cảm xúc phá hoại tiêu cực có nhiều, nhưng cũng có nhiều loại cảm xúc tốt lành tích cực khác. Thật ra con người không thể sống thiếu cảm xúc. Làm người thì phải có cảm xúc. Tách lìa cảm xúc, sự sống sẽ mất cơ sở tồn tại. Nhưng chúng ta cũng hiểu được rằng cảm xúc dữ dội sẽ khiến mình vướng phải biết bao nhiêu là vấn đề tranh chấp, mâu thuẫn. Có những loại cảm xúc vừa dấy lên đã lập tức gây xáo trộn. Không chỉ trước mắt mà có khi còn tạo hậu quả tai hại cho lâu dài về sau, đặc biệt là đối với những mối tương quan giao tiếp giữa người và người. Cảm xúc tiêu cực có khi còn hủy hoại cả sức khỏe của chúng ta.

Ngược lại, loại cảm xúc tích cực hễ dấy lên là lập tức mang đến nguồn nghị lực, tạo không khí tích cực, dẫn đến nhiều kết quả tốt đẹp cho lâu dài về sau, kể cả trên phương diện sức khỏe. Tạm thời khoan nói đến khía cạnh tôn giáo, chỉ xét trên lãnh vực thế tục của đời sống hàng ngày cũng có thể thấy được rằng có những loại cảm xúc phá hoại, cũng có những loại cảm xúc tích cực.

“Pháp” Tạng ngữ gọi là chö, có nghĩa là “thay đổi,” là “chuyển hóa.” Khi nói về việc chuyển hóa tâm thức, người Tây tạng chúng tôi chủ yếu muốn nói đến việc làm giảm sức mạnh của loại ý nghĩ và cảm xúc tiêu cực và làm tăng sức mạnh của loại ý nghĩ và cảm xúc tích cực. Làm như vậy, nhờ tu theo Phật Pháp, chúng ta sẽ thuần phục được tâm mình, sẽ chuyển tâm vô kỷ luật của mình thành tâm có kỷ luật.

>> 1.3. NỀN TẢNG CHUYỂN HÓA TÂM

Làm sao có thể biết chắc tâm này là điều có thể chuyển hóa? Nhờ vào hai điều căn bản sau đây. Một là luật vô thường, đây là luật căn bản tự nhiên, rằng tất cả mọi sự đều biến chuyển thay đổi. Nhìn kỹ sẽ thấy sự vật trong đời biến chuyển liên tục trong từng khoảnh khắc. Cho dù chúng ta thường cho rằng người này ngày hôm nay không khác với ngày hôm qua, nhưng nói chung vẫn có thể ý thức được khía cạnh biến chuyển thô lậu nhất của luật vô thường, vẫn chấp nhận là, nói ví dụ, quả địa cầu này rồi sẽ có ngày tận diệt.

Nếu không tin rằng sự vật thay đổi liên tục trong từng khoảnh khắc, sẽ không thể giải thích sự biến chuyển của sự vật trong thời gian. Rút ngắn đơn vị thời gian dài thành từng đơn vị chớp nhoáng, sẽ thấy sự vật thật ra biến chuyển theo từng sát-na [gọi là sát na vô thường]. Kỹ thuật hiện đại sẽ giúp chúng ta quan sát một vài biến chuyển như vậy, ví dụ sự sinh sôi nảy nở của các loại vi khuẩn qua ống kính hiển vi. Ðồng thời, xét trên phương diện lý thuyết, có những quan sát cho thấy tính chất cực kỳ năng động của thế giới vật lý. Luật vô thường mang lại cho chúng ta khả năng chuyển biến, phát triển và tiến bộ.

Vô thường không có nghĩa là sự vật sinh ra, tồn tại, rồi tận diệt. Ðó không phải là nghĩa vi tế nhất của vô thường. Vô thường vi tế có nghĩa là sự vật sinh ra là đã vô thường. Ngay từ lúc sinh ra là đã bắt đầu đi vào quá trình hoại diệt. Thứ gì đã do nhân duyên mà có thì vốn sẵn trong mình mầm mống hoại diệt, không cần phải đợi về sau mới có một nguyên nhân hoàn cảnh nào khác làm cho hư hoại, vì như vậy không đúng với nghĩa vô thường. Vô thường có nghĩa là ngay từ lúc sinh ra là đã bắt đầu hoại diệt.

Nếu chỉ dựa vào dòng tương tục của sự vật để hiểu về vô thường thì quý vị sẽ chỉ thấy được nghĩa thô lậu. Quý vị sẽ cảm thấy rằng sự vật sinh ra là do sự hội tụ của một số nhân duyên nào đó, yếu tố duy trì vẫn còn thì sự vật ấy vẫn sẽ tồn tại y nguyên, chỉ bắt đầu tan rã khi gặp phải yếu tố bất lợi. Ðây là nghĩa thô lậu của vô thường.

Ngược lại, nếu hiểu sâu hơn, tiếp cận vô thường ở mức độ vi tế hơn, biến chuyển thay đổi trong từng khoảnh khắc, quý vị sẽ biết được rằng sự vật ngay lúc sinh ra là đã bắt đầu hoại diệt.

Mới đầu quý vị có thể cảm thấy sinh và diệt là hai quá trình tương phản, nhưng hiểu sâu hơn về vô thường quý vị sẽ nhận ra rằng, hiểu trên một mức độ nào đó, sinh và diệt xảy ra cùng một lúc. Vì vậy luật vô thường là cơ sở thứ nhất cho thấy tâm thức là điều có khả năng chuyển hóa.

Cơ sở thứ hai cũng là điều có thể quan sát được từ thế giới vật lý bên ngoài, qua những cực đối nghịch mâu thuẫn với nhau. Ví dụ nóng và lạnh, tối và sáng v.v., đều là những cực đối kháng, bên này tăng thì bên kia giảm, có khi từ từ, có khi tức thì. Ví dụ như khi mở ngọn đèn, bóng tối trong phòng lập tức biến mất.

Nhìn vào thế giới của ý nghĩ và cảm xúc trong tâm, quý vị cũng sẽ thấy có nhiều phạm trù đối kháng tương tự. Một loại cảm xúc tăng thì tự nhiên những loại cảm xúc đối nghịch liền  giảm. Tính chất tự nhiên này của tâm chính là cơ sở thứ hai cho thấy việc biến chuyển thay đổi là điều có thể thực hiện.

Khi đối diện với hai loại ý nghĩ hoặc cảm xúc đối nghịch nhau, câu hỏi đặt ra đó là làm sao phân biệt được loại nào đúng với thực trạng của sự việc, loại nào không đúng? Câu trả lời như sau: ý nghĩ cảm xúc nào xuất phát từ cơ sở vững chắc của kinh nghiệm và lý trí thì đúng với chân lý, còn ý nghĩ cảm xúc nào đi ngược với thực trạng của sự vật thì dù trong nhất thời có mạnh mẽ đến đâu cũng đều không ổn. Không được bắt nguồn từ kinh nghiệm và lý trí, chúng hoàn toàn không có điểm dựa vững chắc.

Ngoài ra, so sánh hai loại cảm xúc trực tiếp mâu thuẫn với nhau sẽ thấy còn một điểm khác biệt nữa, đó là tầm tác động về lâu về dài.

Có những loại cảm xúc tuy mang đến cho ta cảm giác thỏa mãn nhất thời, nhưng nếu dùng lý trí để soi, – loại lý trí có khả năng đánh giá tốt xấu nhất thời và dài lâu – thì lại thấy loại cảm xúc này về lâu về dài sẽ gây tàn phá, tổn hại, không được lý trí, hay trí tuệ chống đỡ. Những loại cảm xúc tiêu cực này, ánh sáng trí tuệ soi đến là chúng lập tức mất hết cơ sở tồn tại.

Lại có những loại cảm xúc trong lúc nhất thời có vẻ như gây xáo trộn bất ổn, nhưng về lâu về dài thì chỉ có ích chứ không gây hại và, vì vậy, được sự chống đỡ của lý trí và trí tuệ.

Theo đó thì loại cảm xúc tích cực bao giờ cũng vững mạnh hơn loại cảm xúc tiêu cực, vì có nhiều tiềm năng phát triển hơn.

Luật vô thường và luật mâu thuẫn đối kháng là hai cơ sở cho chúng ta thấy sự chuyển hóa tâm là điều chúng ta có thể thực hiện được.

>> 1.4. TRUY TÌM CHÂN TÁNH THỰC TẠI

Tất cả những điều này cho thấy tầm quan trọng của việc tìm hiểu sâu xa về bản chất của tâm, về sắc thái và chức năng của tâm nói chung, cũng như bản chất và mức độ phức tạp của cảm xúc nói riêng. Ngoài ra, mọi vấn đề trong cuộc sống đều phát xuất từ sự sai lầm cố hữu trong cách chúng ta nhận thức và tiếp xúc thực tại, nên điều quan trọng là phải có khả năng kiểm soát nhận thức của mình xem có phù hợp với thật tánh của thực tại hay không. Hiểu đúng thật tánh của thực tại là điểm then chốt, vì nhận thức về thực tại luôn nằm ở trọng tâm của mọi mối tương giao giữa mình và ngoại cảnh. Tuy vậy, cái gọi là thực tại ở đây không phải chỉ là những việc xảy ra liền liền trước mắt trong nội tâm hay ngoại cảnh, mà là trọn vẹn  cảnh giới thực tại, vì có rất nhiều loại ý nghĩ và cảm xúc không chỉ phát xuất từ thế giới vật lý trước mắt mà còn phát xuất từ thế giới của  ý tưởng trừu tượng.

Đó là lý do vì sao Phật pháp nói nhiều về bản chất của thực tại qua mười tám giới, mười hai xứ, năm hợp thể v.v., liên quan đến việc cầu quả giác ngộ như thế nào. Nếu chỉ cần lòng tin và tín ngưỡng nơi đấng giáo chủ là đủ thì Phật đã chẳng phải phí công giải thích tỉ mỉ phức tạp về chân tánh của thực tại làm gì. Nhìn trên khía cạnh này, có thể nói Phật Pháp là một cuộc du hành vào cảnh giới chân thật của thực tại.

Khoa học luôn đòi hỏi thái độ khách quan nơi các nhà chuyên gia. Phật giáo cũng vậy, đòi hỏi người tu phải quan sát bản chất của thực tại bằng tinh thần khách quan. Không thể tùy tiện dựa vào định kiến trong ý tưởng hay cảm xúc của mình để mà đánh giá thực tại. Nếu chỉ biết nhìn thực tại bằng óc tưởng tượng hay bằng sự phỏng đoán thì sẽ không bao giờ có khả năng mở rộng tầm nhìn của mình đến vô tận.

Khi dấn thân vào con đường khám phá bản chất của thực tại theo Phật giáo, quý vị chủ yếu cần vận dụng hai loại chức năng của tâm. Một là khả năng quán xét, lấy thực tại làm đối tượng phân tích. Phật giáo gọi khả năng này là “trí tuệ” hay “tuệ quán.” Hai là khả năng được gọi là “phương tiện,” hay là “phương tiện thiện xảo.” Đây là khả năng giúp ta huân dưỡng cho lòng can đảm và độ lượng càng thêm sâu rộng, tạo nguồn động cơ chống đỡ cho người tu trên suốt con đường cầu đạo.

>> 1.5 HỎI ĐÁP

Hỏi. Kính thưa đức Đalai Lama, ngài dạy rằng mọi hiện tượng đều vô thường. Vậy thì bản tánh trong sáng không ngăn ngại của tâm có phải cũng vô thường? Có phải là cũng có sinh có diệt?

Đáp. Khi nói về bản chất của tâm theo quan niệm Phật giáo, cần hiểu rằng tâm này có thể chứng biết qua hai mức độ khác nhau. Một là thực tại chân thật, trong cảnh giới đúng như sự thật này, bản chất của tâm là tánh không không có tự tánh. Hai là thực tại tương đối, trong cảnh giới danh ngôn thế tục này, bản chất của tâm ứng với tánh sáng và tánh biết.

Nếu quý vị hỏi về bản chất của tâm trên phương diện danh ngôn thế tục thì câu trả lời là như sau: vì tâm luân chuyển không ngừng nên bản chất của tâm cũng luân chuyển không ngừng. Điều này cho thấy bản chất của tâm là một hiện tượng vô thường. Tuy vậy, nếu câu hỏi ứng vào tánh không của tâm thì cần phải xét rằng tuy tánh không của tâm không phải là một hiện tượng sinh diệt –nói cách khác, tánh không thì không tùy thuộc vào nhân và duyên– nhưng tánh không cũng không thể tồn tại nếu thiếu đi cái thứ mà tánh không ứng vào. Nói cách khác, tánh không của tâm không thể tồn tại biệt lập với tâm. Tánh không của tâm chỉ đơn giản là trạng thái vắng bặt sự tồn tại có tự tánh của tâm chứ không là gì khác. Vì thế khi tâm chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác thì mỗi trạng thái tâm ấy đều tương ứng với một tánh không của mình.

| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN 2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |



| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN | 2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |


> CHƯƠNG 2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM

>> 2.1. ĐỨC ATISA VÀ NGỌN ĐÈN SOI ĐƯỜNG GIÁC NGỘ

Nay tôi xin nói về dòng truyền thừa của hai bài pháp đọc trong buổi giảng hôm nay. Tôi thọ nhận bài pháp Chứng Đạo Ca của Lama Tông Khách Ba từ thầy Tathag Rinpoche, lúc ấy tôi còn rất nhỏ. Về sau lại được truyền thừa bài pháp này từ hai vị sư phụ vô vàn kính yêu là thầy Kyabje Ling Rinpoche (cũng là sư phụ truyền giới tỷ kheo cho tôi), và thầy Kyabje Trijang Rinpoche.

Bài pháp Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ của đức Atisa có một dạo rất khó tìm. Tôi thọ nhận giáo pháp này từ  thầy Rigzin Tenpa nay đã quá vãng; Thầy tiếp dòng truyền thừa từ Khangsar Dorje Chang. Về sau tôi được cố đại sư Serkong Tsenshab Rinpoche giảng về giáo pháp này và truyền cho luận giải của Panchen Losang Chögyen. Luận giải này Thầy Serkong Tsenshab Rinpoche thuộc nằm lòng.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 1

Con xin đảnh lễ Bồ tát Văn Thù Đồng Tử.

| ND-1. Với lòng tôn kính / con xin tán dương: // Phật, là những đấng / đại hùng của khắp / mười phương ba thời; // Pháp, là giáo pháp / do Phật truyền lại; // Tăng là những vị / Bước theo Phật Pháp. // Đáp lời thỉnh cầu / đệ tử cao trọng / tên Jangchub O, // con xin thắp sáng  / ngọn đèn soi đường  / dẫn đến giác ngộ.

Hàng đầu “Con xin đảnh lễ Bồ tát Văn Thù Đồng Tử” là câu tán dương của người dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Tạng. Tiếp theo, tác giả nói về nhân duyên của bài pháp này.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ do vị thánh tăng Ấn độ tên là đức Atisa Dipamkara Shrijnana viết tại Tây tạng. Thời ấy, quốc vương Lhalama Yeshe Ö, xứ Ngari, cùng người cháu tên Jangchub Ö, đã hết lòng mời đức Atisa từ Ấn sang Tây tạng. Vì sự cố gắng này mà quốc vương Lhalama Yeshe Ö bị vua nước láng giềng ghét Phật pháp bắt giữ và giết hại, nhưng Jangchub Ö vẫn kiên trì, nhờ vậy ước nguyện mời đức Atisa sang Tây tạng cuối cùng thành sự thật. Khi đón đức Atisa vào Tây tạng, Jangchub Ö thỉnh ngài một bài pháp có khả năng mang lợi lạc về cho toàn thể người dân Tây tạng. Ðáp lời thỉnh nguyện này, đức Atisa viết ra bài pháp Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ. Bài pháp này có một không hai, là vì tuy do một vị đại đạo sư xứ Ấn viết ra, nhưng lại là viết trên đất Tây tạng, cho người dân Tây tạng.

>>> 2.1.1- Ý Nghĩa Tựa Đề

Tựa đề Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ có ý nghĩa rất thâm sâu.

Tạng ngữ gọi “giác ngộ” là jang-chub. Hai âm trong chữ này tương ứng với hai tánh đức của đấng giác ngộ. Jang có nghĩa là dẹp tan chướng ngại, ô nhiễm, giới hạn. Chub nguyên nghĩa là “hiện thân của trí toàn giác,” ứng với trí tuệ và thành tựu của Phật.

Vậy jang-chub vừa là tách lìa, dẹp tan chướng ngại (ứng với nghĩa trong sáng), vừa là trí giác toàn hảo (ứng với nghĩa thành tựu). Jang-chub chen-po, “đại giác ngộ,” cũng là chữ dùng để gọi quả vị Phật. Tựa đề Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ cho thấy bài pháp này sẽ nói về phương pháp, về quy trình, dẫn đến quả đại giác ngộ.

Nói đến giác ngộ và đường tu giác ngộ tất nhiên là nói đến phẩm chất của tâm, trạng thái của tâm. Phân tích rốt lại thì giác ngộ chỉ là cái tâm ở trong trạng thái toàn hảo nhất chứ không là gì khác.

Không nên hiểu giác ngộ là một nơi chốn cụ thể nào đó để đến, hay một địa vị nào đó được ban cho. Giác ngộ chính là cái tâm khi đã lìa mọi chướng ngại, đạt mọi tánh đức.

Vì mục tiêu tối hậu là một trạng thái của tâm nên con đường dẫn đến mục tiêu ấy cũng phải là những trạng thái của tâm. Giác ngộ không đến từ yếu tố bên ngoài mà chỉ có thể đến từ những biến chuyển tâm thức bên trong.

Tâm thức càng chuyển biến, càng tiến triển, thì trí tuệ và thành tựu sẽ càng tăng trưởng, cho đến khi chúng ta đạt đến chót đỉnh là giác ngộ viên mãn.

Tựa đề lấy ngọn đèn làm phép hoán dụ, vì đèn có khả năng xua tan bóng tối, giáo pháp này cũng vậy, có khả năng xua tan những kiến thức sai lầm về đường tu giác ngộ ; đèn có khả năng soi sáng, giáo pháp này cũng vậy, soi sáng mọi chi tiết chi li trên con đường dẫn đến vô thượng bồ đề.

>>> 2.1.2- Ðối Tượng Tán Dương

Đối tượng tán dương trong câu “những đấng / đại hùng của khắp / mười phương ba thời…” là Tam Bảo. Khi tán dương Phật, điều quan trọng là đừng nên chỉ xem Phật như một đối tượng mầu nhiệm đáng tôn kính, mà phải tán dương trong nghĩa jang-chup. Jang-chub tiếng Phạn gọi là bodhi [tiếng Việt là bồ đề], có nghĩa là “giác,” là trạng thái mà sự biết và sự chứng đều đã viên mãn. Vì vậy chữ giác, hay chữ bồ đề, có thể được giải thích bằng cả hai nghĩa: vừa là đạo, nghĩa là quá trình thực hiện giác ngộ, vừa là quả, là trạng thái của chính sự giác ngộ ấy. Nói cách khác, là phương tiện, và kết quả.

Nói bồ đề là quả là chủ yếu nói đến tánh tịnh bồ đề, có nghĩa là trạng thái toàn hảo khi mà mọi cấu nhiễm che chướng đều đã tịnh sạch. Sự thanh tịnh này còn một đặc điểm khác, đó là bồ đề thì bản lai thanh tịnh. Lý do vì sao bồ đề lại có thể là một trạng thái tối hảo, nơi mà mọi che chướng đều tịnh sạch, đó là vì bồ đề vốn thanh tịnh tự nhiên.

Còn khi nói bồ đề là quá trình, là phương tiện dẫn đến kinh nghiệm giác ngộ thì nói như vậy chủ yếu là nói đến tánh giác bồ đề. Ðây là “trí pháp thân,” còn gọi là “hiện thân của trí Phật.” Chính trí tuệ này là điều mang đến sự toàn hảo và thanh tịnh.

Theo đó có thể hiểu rõ được ý nghĩa của các loại niết bàn nói trong kinh sách. Ví dụ  “tánh tịnh niết bàn,” “hữu dư niết bàn,” “vô dư niết bàn”  hay là “vô trú niết bàn.” Tánh tịnh niết bàn là bản chất của thực tại vốn tự nhiên trong sáng, sự vật vốn không có tự tánh, không hiện hữu độc lập. Ðây là bản thể tự nhiên. Chỉ vì thấy sai về tánh tự nhiên này của thực tại mà phiền não nổi lên, kéo theo đủ loại ý nghĩ và cảm xúc tiêu cực.

Trước mắt cho dù nhận thức sai lệch về thực tại có mạnh mẽ đến đâu chăng nữa, càng xét sẽ càng thấy loại nhận thức này hoàn toàn không có nền tảng vững chắc, dù là trên lãnh vực của luận lý hay trên lãnh vực của kinh nghiệm. Trong khi đó, càng nuôi dưỡng nhận thức đúng về chân tánh của thực tại, nói cách khác, về tánh không, (và thật sự áp dụng vào thực tại), thì lại càng dễ khẳng định và phát triển, vì đây là cái nhìn đúng với sự thật. Cái nhìn hư vọng luôn thiếu mất cơ sở của kinh nghiệm và lý luận, còn tri kiến tánh không luôn đứng vững trên nền tảng của bản thể, kinh nghiệm và luận lý. Vì vậy, rồi chúng ta sẽ hiểu được rằng liều thuốc giải độc hữu hiệu nhất này, tuệ giác tánh không này, là điều có thể phát huy triển khai cho đến mức tối đa viên mãn. “Tánh tịnh niết bàn” là nghĩa này, nhờ vào đó mới có được các loại niết bàn khác.

Cái gọi là “tánh tịnh niết bàn” ấy, nền tảng của mọi thành tựu và mọi trong sáng ấy, thật ra là gì? Dựa vào đâu mà biết bản chất của thực tại đúng thật là như vậy? Nhìn vào kinh nghiệm sống hàng ngày có thể thấy được câu trả lời. Chúng ta ai cũng biết rằng giữa nhận thức và thực tại luôn có một khoảng cách; từ khoảng cách này phát sinh đủ loại vấn đề xáo trộn. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng nhận thức của chúng ta cũng có khi phù hợp chính xác với thực tại.

Tìm hiểu sâu hơn nữa, sẽ thấy thật ra thực tại có hai mức độ. Một là thực tại quy ước, hay là thực tại tương đối, là cảnh giới của những quy ước danh ngôn thế tục, ở đó nhận thức và hiểu biết của chúng ta đều phụ thuộc vào tướng hiện của sự vật. Tuy vậy, nếu thắc mắc về chân tánh của sự vật, tự hỏi không biết sự vật thật sự hiện hữu như thế nào, chừng ấy lại rơi vào một mức độ khác, một cảnh giới khác, cảnh giới của chân thực tại.

>>> 2.1.3- Nhị Đế

Phật giáo nói nhiều về điều thường được gọi là nhị đế, là chân lý của thực tại quy ước thế tục, gọi là tục đế; và chân lý của thực tại chân thật, gọi là chân đế. Nhị đế không phải chỉ có Phật giáo nói tới. Danh từ này thường thấy trong nhiều trường phái triết lý Ấn độ cổ. Ví dụ trường phái Số Luận [Samkhya] cho rằng thực tại có thể phân thành hai mươi lăm loại hiện tượng, trong đó cá nhân [thuật ngữ cũ: bổ đặc đà la; phạn: purusha; tạng: kyebu] và bản thể nguyên sơ [phạn: prakriti; tạng: rang-zhin] được gọi là chân đế, hai mươi ba loại hiện tượng còn lại được xem là do chân đế hóa hiện mà thành.

Tuy vậy, điểm đặc thù của nhị đế trong Phật giáo đại thừa, nhất là Trung quán tông [Madhyamaka], đó là chân đế và tục đế không được xem là hai phạm trù biệt lập, mà là hai khía cạnh khác nhau của cùng một cảnh giới.

Trung quán tông trong Phật giáo giải thích chân đế là tánh không của sự vật. Chúng ta có thể căn cứ theo lời dạy của Thánh tăng Ấn độ là ngài Long-thọ để tìm hiểu về ý nghĩa của tánh không. Vị Thầy này mang tất cả mọi ý nghĩa của tánh không gom vào một câu đơn giản, rằng tánh không phải được hiểu theo nghĩa duyên sinh.

Nói tánh không là nói đến sự không có tự tánh của sự vật. Điều này đồng nghĩa với việc sự vật hiện hữu là vì nhân duyên hòa hợp, bất kể khối nhân duyên này chằn chịt rối rắm đến mức độ nào. Nhìn vào những mối tương quan trùng điệp của nhân duyên thì hiểu được mức độ phức tạp đa dạng của thế giới kinh nghiệm.

Thế giới kinh nghiệm thường nhật là cả một thế giới phong phú, bao gồm mọi trải nghiệm vui buồn sướng khổ. Niềm vui hay nỗi buồn gì cũng đều không phải là những kinh nghiệm biệt lập, tất cả đều vì nhân duyên hội tụ mà thành. Không có bất cứ một sự gì, một vật nào, lại có thể hiện hữu một cách biệt lập. Tất cả đều chỉ có thể tồn tại qua những mối tương quan. Sự “không có hiện hữu biệt lập” này chính là ngụ ý của những từ như là “tánh không,” hay là “không có tự tánh.”

>>> 2.1.4- Tứ diệu đế

Chịu khó quán sát sâu hơn nữa về bản chất của thực tại, sẽ thấy trong thế giới phức tạp này đây, có một số sự vật có thể gọi là thường còn, ít ra là trên phương diện tiếp nối liên tục. Ví dụ sự tiếp nối liên tục của dòng tâm thức, hay sự tiếp nối liên tục của tánh trong và tánh sáng của tâm. Sự tồn tại liên tục của dòng tâm thức hay của bản tánh tự nhiên của tâm là điều không gì có thể đe dọa được. Ngược lại, có một số sự vật chỉ hiển hiện ở một thời điểm rồi biến mất khi gặp lực đối nghịch. Loại sự vật này gọi chung là pháp sinh diệt. Phải nhìn vào nền tảng của hai loại hiện tượng thường còn và sinh diệt này mới thấy được ý nghĩa thật sự của Tứ diệu đế.

Quán sát sâu hơn về thế giới phức tạp, đa dạng và cực kỳ linh động mà chúng ta đang sống đây, sẽ thấy thế giới hiện tượng cũng có thể phân thành ba loại: thế giới vật lý khách quan ; thế giới tâm thức chủ quan ; và thế giới khái niệm trừu tượng.

Đầu tiên là thế giới thực tại vật lý khách quan, có thể tiếp cận bằng giác quan, bao gồm những vật cụ thể mang tính chất vật lý.

Thứ hai là thế giới hiện tượng mang tính chất chủ quan, ví dụ nhận thức của chúng ta về thế giới bên ngoài. Như khi nãy vừa nói, chúng ta thường vẫn phải đối diện với sự khác biệt giữa nhận thức về thực tại của mình và thực tại đúng như sự thật. Ðôi khi chúng ta biết nhận thức của mình phù hợp với thực tại, đôi khi chúng ta biết chúng không phù hợp. Ðiều này cho thấy tính chất chủ quan mà chúng sinh ai ai cũng có. Ðây là thế giới của kinh nghiệm, ví dụ như thế giới của cảm xúc buồn vui.

Thứ ba là thế giới của những khái niệm trừu tượng, như là khái niệm thời gian, bao gồm quá khứ, hiện tại, tương lai, hay như khái niệm về ngày, tháng, năm. Loại ý nghĩ trừu tượng này chỉ có ý nghĩa nếu ứng vào một thế giới thực tại cụ thể nào đó, ví dụ thế giới hiện tượng vật lý. Tuy thế giới của khái niệm trừu tượng tự nó không có thực tại riêng, nhưng chúng ta vẫn sống và hoạt động theo đó. Vì thế cho nên kinh điển Phật giáo vẫn phân thực tại ra thành ba loại nói chung như vậy.

Trong thực tại phức tạp mà chúng ta đang sống đây, Tứ Ðế liên quan gì đến kinh nghiệm vui buồn của chúng ta?  Nền tảng của Tứ Ðế là nhận biết được tính chất cơ bản mà ai ai cũng đều có, đó là khuynh hướng tự nhiên muốn được hạnh phúc và không muốn khổ đau. Khổ đau nói ở đây không chỉ là những trải nghiệm nhất thời như là cảm giác đau đớn. Theo quan niệm Phật giáo, chính cái khối hợp thể thân và tâm chịu khổ này, còn được gọi là ngũ uẩn, là năm hợp thể sắc, thọ, tưởng, hành và thức, tự bản thân chúng vốn đã là khổ. Cảnh sống mà ai ai cũng đều có, vốn là cảnh khổ.

Khổ này từ đâu mà có? Vì nhân gì, vì duyên gì mà khổ phát sinh? Hai chân lý đầu trong Tứ diệu đế là khổ đế và tập đế, nói về khổ và nguyên nhân tạo khổ, ứng với chuỗi nhân quả hình thành khổ đau mà ai ai cũng đều muốn tránh. Không muốn khổ thì nhân nào và duyên nào tạo khổ, mình đừng gieo. Nếu đã lỡ gieo nhân thì cũng phải ngăn đừng cho duyên hội tụ đầy đủ, duyên không đủ thì quả báo sẽ không thể chín mùi. Một trong những tính chất cơ bản của luật nhân quả, đó là một khi tất cả nhân và duyên đã hội tụ đầy đủ thì không còn sức mạnh nào trên cõi thế gian này có thể ngăn được quả báo. Hiểu điều này thì sẽ hiểu được mối tương quan cực kỳ linh động giữa khổ đế và tập đế.

Chân lý thứ ba và thứ tư trong Tứ diệu đế là diệt đế và đạo đế, nói về sự chấm dứt khổ đau và con đường dẫn đến sự dứt khổ này, ứng vào với niềm an lạc mà ai ai cũng đều muốn có.  Diệt là tận diệt khổ đau và tận diệt nguyên nhân tạo khổ, ứng vào loại an lạc thù thắng nhất, không phải chỉ là một cảm giác hay một trải nghiệm. Ðạo đế là phương pháp và quá trình diệt khổ, nói cách khác, là nhân của diệt đế. Vì vậy đạo đế và diệt đế liên quan đến tiến trình nhân quả của hạnh phúc.

>>> 2.1.5- Tam Bảo: Phật Pháp Tăng

Khổ có hai nguyên nhân chính: một là nghiệp, hai là phiền não ngấm ngầm làm động cơ thúc đẩy tạo nghiệp. Nhiễm tâm phiền não là gốc rễ mà cũng là động cơ của nghiệp. Đây chính là thủ phạm tạo nên cảnh khổ đau sinh tử luân hồi mà chúng ta phải chịu. Vì vậy đối với người tu, điều quan trọng là cần phải hiểu rõ ba điều sau đây: thứ nhất, phải biết rằng tánh tự nhiên của tâm là tánh trong và tánh sáng [tịnh và chiếu]; thứ hai, phải biết rằng phiền não là điều có thể tịnh sạch, nói cách khác, có thể tách lìa phiền não ra khỏi bản tánh tự nhiên của tâm; thứ ba, có những loại thuốc đối trị hữu hiệu có thể dùng để đối trị nhiễm tâm phiền não.

Quý vị cần dựa vào ba điều này để phát triển cái thấy, rằng khổ đau là điều thật sự có thể diệt. Diệt đế, sự tận diệt của khổ đau, chính là ý nghĩa của Pháp bảo trong Tam bảo. Đồng thời Pháp bảo cũng có nghĩa là con đường dẫn đến sự diệt khổ, nói cách khác, là tuệ giác trực chứng tánh không. Bao giờ có được sự hiểu sâu xa, rằng Pháp bảo là trạng thái diệt khổ và trí tuệ làm khổ tận diệt, quý vị khi ấy cũng sẽ nhận biết được rằng diệt khổ có nhiều mức độ khác nhau. Vào trong kiến đạo, trực chứng tánh không, trở thành bậc thánh thì đạt được mức độ diệt khổ thứ nhất. Rồi càng tiến xa hơn trên con đường tịnh hóa thì càng đạt được những mức độ diệt khổ cao hơn.

Một khi hiểu được Pháp bảo là diệt đế và đạo đế thì sẽ nhận biết được rằng Tăng bảo là điều có thể có, vì đây là hiện thân của tánh đức của diệt và đạo. Rồi một khi hiểu được Tăng bảo là điều có thể có thì sẽ hình dung ra được khả năng có một người nào đó thành tựu được tất cả mọi tánh đức của Pháp bảo. Người như vậy là Phật, là đấng giác ngộ viên mãn.

Cứ như vậy sẽ có được khả năng hiểu sâu hơn về ý nghĩa của Tam Bảo: Phật bảo, Pháp bảo, và Tăng bảo. Không những là như vậy, quý vị rồi sẽ nhận ra được khả năng tự mình đạt được trạng thái toàn hảo này, từ tận sâu thẳm sẽ cảm thấy khát khao sẽ thôi thúc muốn thực hiện điều này. Nhờ vào đó sẽ có khả năng huân dưỡng niềm tin nơi Tam bảo, niềm tin không phải chỉ là lòng kính ngưỡng suông, mà xuất phát từ sự hiểu sâu xa về Tứ diệu đế và về Nhị đế, nhờ đó có thể bắt đầu tập sự bước vào địa vị của Phật, Pháp, Tăng.

Xét trên phương diện thành tựu cá nhân thì Pháp bảo đến trước. Chứng được Pháp bảo thì vào hàng thánh tăng, thành Tăng bảo. Chứng ngộ Pháp bảo càng phát huy thì chứng đạo càng lúc càng cao, đến chót đỉnh là thành Phật, đạt giác ngộ viên mãn. Pháp bảo là chốn quy y chân chính, tiếp theo là Tăng bảo, sau rốt là Phật bảo.

Xét trên phương diện lịch sử thì Phật bảo đến trước. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng hóa thân xuất hiện cõi thế, chuyển pháp luân bằng cách thuyết pháp. Nhờ tu theo pháp Phật thuyết mà một số đệ tử chứng Pháp bảo, thành Tăng bảo. Mặc dù xét trên phương diện lịch sử thì Pháp bảo đến sau Phật bảo, nhưng xét theo quá trình tu tập thì Pháp bảo đến trước nhất.

>> 2.2. LAMA TÔNG KHÁCH BA VÀ CHỨNG ĐẠO CA: Xuất Xứ Giáo Pháp Lam-rim

Chứng Đạo Ca còn được gọi là Tóm Lược Ðiểm Tinh Yếu của Ðường Tu Giác Ngộ. Ðây là luận giải lam-rim ngắn nhất của Lama Tông Khách Ba, giải thích về bài pháp Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ của đức Atisa. Lam-rim có nghĩa là “trình tự đường tu,” hay là “trình tự đường tu giác ngộ.” Kết cấu giáo pháp lam-rim luôn theo đúng trình tự đức Atisa dạy trong Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ. Nhờ sắp xếp theo thứ tự này nên bất cứ một ai, bất kể trình độ cao hay thấp, đều tìm được pháp tu thích hợp. Mọi công đoạn trên đường tu đều được sắp xếp theo trình tự hợp lý, giúp người tu tiến từng bước một, biết rõ hiện tại đang tu những gì và tiếp theo sẽ tu những gì.

Bài pháp này có khi còn được gọi là Chứng Đạo Ca, vì Lama Tông Khách Ba chắt lọc từ mọi kinh nghiệm tu và chứng pháp Lamrim của mình để xuất khẩu thành bài pháp này theo thể loại thi kệ chứng ngộ tâm linh.

Chữ lam-rim có ý nghĩa rất thâm sâu, cho ta thấy ba điều quan trọng như sau:

  • < 1. phải hiểu cho đúng về thực chất của đường tu;
  • < 2. phải tu cho đủ mọi điểm then chốt trên đường tu;
  • < 3. phải tu cho đúng trình tự của đường tu.

Điểm thứ nhất: phải hiểu cho thật chính xác về thực chất của đường tu. Nói ví dụ, tu tâm bồ đề mà hiểu tâm bồ đề chỉ là nguyện vọng muốn mang lợi ích đến cho chúng sinh thì hiểu như vậy vừa thiếu lại vừa sai. Tâm bồ đề thật sự phải là tâm nguyện vị tha có một cách tự nhiên, không ngụy tạo cũng không dụng công. Hiểu không đúng sẽ dễ lầm kiến thức là thành tựu. Vì vậy điều quan trọng là phải có khả năng hiểu cho đúng thực chất của từng chi tiết trên bước đường tu.

Ðiểm thứ hai: mọi điểm then chốt trên đường tu đều phải tu cho đủ, điều này cũng rất quan trọng. Như đã nói qua, khổ đau mà chúng ta phải chịu phần lớn đều phát xuất từ mớ phiền não tâm lý phức tạp. Phiền não đa dạng nên thuốc đối trị cũng đa dạng. Mặc dù xét theo lý lẽ thì vẫn có thể có một thuốc chữa lành mọi bệnh, nhưng xét trên thực tế, thần dược như vậy rất khó tìm, nên vẫn cần nhiều thuốc tương ứng với nhiều loại bệnh khác nhau, thuốc nào chữa bệnh nấy. Ví dụ muốn chế tạo một công trình có cấu trúc phức tạp như chiếc phi thuyền, người ta cần cả một số lượng khổng lồ các loại máy móc thiết bị khác nhau. Cho thế giới kinh nghiệm nội tâm, số lượng phương tiện cần vận dụng lại càng nhiều hơn gấp bội.

Nói về nhiễm tâm và những sai lầm trong cách nhìn và tiếp xúc thực tại, kinh sách Phật giáo có nêu ra bốn cái thấy hư vọng chính yếu, như sau:

  • < 1. Sự vật vô thường mà thấy là thường còn [thường];
  • < 2. Sự việc, bản thân, và thân tâm ngũ uẩn đều không có gì đáng ưa mà thấy là đáng ưa [tịnh];
  • < 3. Khổ mà thấy là sướng [lạc];
  • < 4. Bản thân và thế giới không có gì là tự có, tự lập, mà thấy là tự có tự lập. [ngã]

Muốn hóa giải trọn bốn cái thấy hư vọng này thì phải huân dưỡng đủ mọi yếu tố trên đường tu. Vì vậy mà cần phải tu cho đủ.

Ðiểm thứ ba: chúng ta không phải là đang tích lũy tài vật cất vào trong nhà mà là đang muốn chuyển tâm. Tâm chỉ có thể chuyển theo một quá trình nhất định. Trước tiên hàng phục loại cảm xúc thô lậu, sau đó hàng phục loại cảm xúc vi tế.

Việc thực hành pháp vốn có một trình tự tự nhiên. Như khi tu phát tâm bồ đề, những chứng ngộ dạng thô lậu như là chứng ngộ có dụng công, có cố gắng, sẽ luôn đến trước loại chứng ngộ tự nhiên không cần dụng công. Tương tự như vậy, phải tu để vào thiện đạo, đạt mọi thuận duyên trước, sau đó mới đến quả vô thượng bồ đề.

Cả ba điểm nói trên -hiểu cho đúng, tu cho đủ, theo cho đúng trình tự-  đều nằm trong ý nghĩa của chữ “lam-rim”.

>>> 2.2.1. Tán Dương Tác Giả Phi Phàm

Bài pháp Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ của đức Atisa có rất nhiều luận giải, trong đó có hệ luận giải của chư đạo sư dòng Kadampa là hệ Ten-rim (nghĩa là Trình Bày về Trình Tự Ðường Tu Giác Ngộ), và của Lama Tông Khách Ba là hệ Lamrim (nghĩa là Trình Tự Ðường Tu Giác Ngộ). Tuy được giảng dạy qua những phương tiện thiện xảo khác nhau, nhưng các hệ luận giải này đều phát xuất từ lời dạy của các bậc thánh tăng Ấn độ. Một số thánh tăng thời Ấn độ xưa có nhắc đến điều được gọi là “năm phương tiện giáo hóa thiện xảo.”

Về sau, tại học viện Na-lan-đà có phát triển một truyền thống giáo hóa độc nhất vô nhị, được gọi là “tam tịnh,” hay là “ba yếu tố thanh tịnh:” một là giáo pháp phải thanh tịnh; hai là người giảng phải thanh tịnh; và ba là người nghe phải thanh tịnh.

Người giảng phải thanh tịnh, vì dù giáo pháp có thanh tịnh mà người giảng không đủ phẩm chất hay trình độ thì lời giảng vẫn sẽ thiếu sót. Vì vậy truyền thống trong Phật giáo Tây Tạng đòi hỏi người giảng phải được sư phụ chấp thuận mới có thể thuyết pháp. Còn yếu tố thanh tịnh thứ ba là người nghe thì cho dù giáo pháp và người giảng đều thanh tịnh nhưng nếu tâm người nghe chưa được chuẩn bị đúng mức thì dù thọ giáo pháp chân chính cũng không được lợi ích gì. Vì vậy yếu tố thanh tịnh thứ ba đòi hỏi tâm người nghe phải có được động cơ thanh tịnh trong sáng.

Về sau, khi Phật pháp Na-lan-đà đi vào giai đoạn suy đồi thì Phật pháp vùng Bengal bắt đầu phát triển, đặc biệt là tại tu viện Vikramashila. Tại đây xuất hiện một phương pháp giảng dạy mới. Theo thông lệ, buổi giảng được bắt đầu bằng cách: nói về sự vĩ đại và giá trị của tác giả; nói về sự vĩ đại và giá trị của tác phẩm; và trình bày về phương thức được dùng cho việc giảng và nghe pháp ở đây. Sau ba điểm này rồi mới đến phần thứ tư là giảng về phương thức dẫn dắt người tu trên đường tu giác ngộ.

Vào thời ấy, phần lớn những người chấp trì và hoằng dương Phật pháp tại xứ Ấn, xứ sở của các bậc thánh, đều là những bậc tỷ kheo thuộc các đại học viện như Na-lan-đà hay Vikramashila. Nhìn vào các bậc Thầy tại các học viện này thì hiểu được chư vị chấp trì Phật pháp như thế nào. Không những chỉ là hành giả Bồ tát thừa, thọ bồ tát giới, chư vị còn là hành giả Kim cang thừa. Dù vậy, trong đời sống hàng ngày chư vị vẫn luôn lấy luật tạng làm gốc. Luật tạng là giáo pháp Phật dạy về giới luật cho người xuất gia. Các đại học viện Phật giáo được thiết lập và bảo tồn dựa trên nền tảng của giới luật. Hai mẫu chuyện dưới đây là ví dụ điển hình cho thấy các đại học viện này xem trọng giới luật như thế nào.

Ngài Hộ Pháp [Dharmapala] là bậc đại học giả thuộc hệ tri kiến Duy Thức Du Già tông và cũng là đại hành giả với chứng ngộ tuyệt cao. Ngài là sơ tổ của hệ giáo pháp Lamdre [Đạo Quả] dòng Sakya, khi ấy tu tại học viện Na-lan-đà. Ngoài việc xuất gia, Ngài còn là đại hành giả Kim cang thừa, về sau thành bậc đại thành tựu giả Vi-ru-pa [Mahasiddha Virupa] lừng danh. Một hôm trong lúc đi tuần,  vị thầy-luật-nghi của học viện đi ngang trước cửa phòng của Ngài, thấy bên trong đầy cả phụ nữ. Thật ra đó là những vị không hành nữ [dakini] do chính vị đại đạo sư mật thừa này hóa hiện, nhưng phòng người xuất gia thì không được phép có phụ nữ, vì vậy Ngài bị trục xuất khỏi tu viện. Dù có là biểu hiện của chứng ngộ mật thừa trình độ cao, phạm giới vẫn là phạm giới, nên Ngài phải đi.

Bậc Thầy vĩ đại xứ Ấn là đức Long-thọ cũng có một câu chuyện tương tự. Ngài là sơ tổ Trung quán tông và là bậc đại thánh tăng được mọi Phật tử Đại thừa kính ngưỡng. Có một lần toàn bộ khu vực Na-lan-đà gặp trận hạn hán khủng khiếp, mọi người đều đói khát kiệt quệ. Đức Long-thọ đã dùng thuật giả kim để hóa sắt thành vàng, giúp mọi người vượt khó. Nhưng dùng thuật giả kim là phá giới, vì vậy đức Long-thọ cũng bị trục xuất khỏi tu viện.

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 1

| CDC-1. Thân sinh ra từ  //  muôn vạn thiện lành; / Lời nói toàn thành  //  nguyện ước chúng sinh; / Ý thấy khắp cả  //  đúng như sự thật: / Trước bậc đứng đầu / dòng họ Thích ca / con xin đảnh lễ.

Như khi nãy có nói, theo truyền thống, trước tiên phải nói về sự vĩ đại của tác giả để thấy giá trị chân truyền của giáo pháp và của dòng truyền thừa. Do đó Lama Tông Khách Ba đã bắt đầu Chứng Đạo Ca bằng lời tán dương đức Phật. Tục ngữ Tây tạng có câu “suối nước tinh khiết phải được bắt nguồn từ đỉnh núi tuyết tinh khiết, giáo pháp chân truyền phải được bắt nguồn từ đức Phật Thích Ca.” Đó là lý do vì sao có sự nhấn mạnh như vậy về dòng truyền thừa.

 Ở đây Lama Tông Khách Ba nhớ nghĩ đến những phẩm tánh thân khẩu và ý của Phật. Phẩm tánh của thân Phật được trình bày qua nguyên nhân thù thắng tạo nên thân Phật. Phẩm tánh của khẩu Phật được trình bày qua kết quả thù thắng mà lời Phật dẫn đến, là toàn thành nguyện ước của khắp cả chúng sinh. Phẩm tánh của tâm Phật được trình bày qua bản thể và thuộc tính của tâm giác ngộ viên mãn này.

Đó là cách Lama Tông Khách Ba tán dương đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là người sinh vào dòng họ Thích, là bậc tôn quí nhất trong các loài hai chân. Khi Lama Tông Khách Ba viết “con xin chí thành / đảnh lễ đức Phật,” câu này có nghĩa là “con xin mang đỉnh cao nhất của đầu mình chạm phần thân thể thấp nhất của Phật.”

Một trong những lý do nêu rõ nguyên nhân và phẩm tánh của thân Phật là để thấy rằng của thân Phật không phải đã có từ vô thủy. Thân này không phải ngay từ đầu đã có, mà là thân được tạo ra, đạt đến. Thân Phật không phải không nhân mà có; thân này được sinh ra từ nhân duyên tương ứng với quả giác ngộ hiện tại. Mối tương quan nhân quả giữa các pháp tu khác nhau và thân Phật được ngài Long-thọ giải thích cặn kẽ trong Bảo Hành Vương Chính Luận [Ratnavali].

Câu thứ hai mô tả phẩm tánh của khẩu Phật bằng cách nói về qua khả năng hoàn thành ước nguyện của vô lượng chúng sinh. Điều  này cho thấy mục tiêu đạt giác ngộ là để làm lợi cho chúng sinh. Đạt quả chánh giác rồi thì nhiệm vụ của chúng ta là phụng sự cho chúng sinh, giúp chúng sinh toàn thành mọi ước nguyện. Đấng giác ngộ có muôn vàn phương tiện để phụng sự chúng sinh, ví dụ dùng tâm Phật để nhìn thấu suốt mọi nhu cầu đa dạng của chúng sinh và để thi triển thần lực, dù vậy phương tiện chính được dùng để toàn thành nguyện ước cho chúng sinh vẫn là âm thanh lời nói. Cụm từ “vô lượng chúng sinh” cho thấy đức Phật vận dụng lời nói của mình qua vô lượng phương tiện thiện xảo.

Giáo pháp Phật dạy cũng vậy, luôn thích ứng với nhu cầu đa dạng của chúng sinh. Nói ví dụ, vì tâm nguyện, dũng khí và đạo lý của chúng sinh có nhiều loại khác nhau nên Phật dạy ba cỗ xe: thanh văn thừa, duyên giác thừa, và bồ tát thừa. Rồi vì khuynh hướng đạo lý của chúng sinh có nhiều loại khác nhau nên Phật thuyết bốn tông phái, Hữu bộ [Vaibhashika], Kinh lượng bộ [Sautrantika], Duy thức tông [Cittamatra] và Trung quán tông [Madhyamaka].

Theo kinh điển Ðại thừa, chúng ta có thể hiểu giáo pháp Phật dạy qua “ba thời kỳ chuyển pháp luân”. Thời kỳ chuyển pháp luân thứ nhất là ra ở Sarnath, gần Varanasi. Đây là lần đầu tiên Phật thuyết pháp cho đại chúng. Nội dung chính của thời kỳ thuyết pháp này là Tứ diệu đế,  dựng sườn lót nền cho toàn bộ Phật pháp và trọn đường tu giác ngộ.

Thời kỳ chuyển pháp luân thứ hai là ở trên đỉnh Linh thứu, gần Rajgir, nay là tỉnh Bihar. Nội dung chính của thời kỳ thuyết pháp này là tuệ giác toàn hảo, [thường gọi là bát nhã ba la mật]. Kinh sách thuộc hệ Bát nhã giải thích sâu rộng về đế thứ ba trong Tứ diệu đế, là Diệt đế, có nghĩa là sự diệt tận chân chính. Bát nhã là chìa khóa giúp Phật tử hiểu được Diệt đế một cách tường tận, nhất là giúp Phật tử thấy được tính chất trong sáng và khả năng tách lìa phiền não của tâm. Chủ đề hiển nghĩa của hệ kinh Bát nhã là thuyết tánh không. Rồi để lót nền móng cho thuyết tánh không này, hệ kinh Bát nhã trình bày trọn vẹn đường tu trong phần được gọi là ẩn nghĩa. Chi tiết phần ẩn nghĩa này được trình bày sâu rộng có hệ thống trong bộ luận Hiện Quán Trang Nghiêm [Abhisamayalamkara] của đức Di Lạc.

Thời kỳ chuyển pháp luân thứ ba bao gồm nhiều giáo pháp Phật thuyết giảng ở nhiều nơi trong quá khứ. Bộ luận Uttaratantra của đức Di Lạc là để giải thích nội dung kinh sách thuộc thời kỳ thứ ba. Hệ kinh thời kỳ thứ ba không những nói về thuyết tánh không, mà còn nói về tánh đức của kinh nghiệm nội tại. Mặc dù hệ kinh này không nhắc đến những tầng lớp vi tế của tâm, nhưng vẫn nói đến tánh đức nội tại của trí giác và nói về những giai đoạn khai mở trí giác. Hệ kinh này gọi chung là hệ Như lai tạng, có nghĩa là cốt tủy của quả vị Phật. Ngài Long-thọ viết rất nhiều tác phẩm, trong số đó có nhiều bài thi kệ tán dương cùng nhiều bộ luận như Trung Quán Luận. Luận của ngài Long-thọ chuyên nói về phần tánh không của hệ kinh Bát nhã, còn thi kệ tán dương thì nghiêng về hệ Như lai tạng.

Câu chót của bài kệ, “Ý Phật nhiệm mầu / biết hết khắp cả / đúng như sự thật,” diễn tả chức năng của tâm giác ngộ. “Biết hết khắp cả” có nghĩa là biết tất cả những gì có thể biết được, bao gồm toàn bộ mọi cảnh giới thuộc cả hai lãnh vực chân đế và tục đế. Khả năng đồng thời thấy biết cả chân đế lẫn tục đế này chỉ Phật mới có, và có được là nhờ tận diệt tất cả mọi phiền não cùng tập khí của phiền não.

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 2

| CDC-2. Là trưởng tử của / bậc Thầy vô song, // Đảm đương việc làm / của khắp chư Phật, // Du hí thị hiện / hằng sa cõi giới: // Di Lạc, Văn Thù / con xin kính lễ.

Trong câu kệ này, Lama Tông Khách Ba tán dương hai đức ngài Di lạc và Văn thù, là hai vị đệ tử cao trọng bậc nhất của đức Phật Thích Ca. Theo kinh sách Ðại thừa, đức Di lạc và Văn Thù là hai vị đệ tử bồ tát có mặt trong thời Phật thuyết Ðại thừa. Kinh sách nói đệ tử bồ tát của Phật Thích Ca có tám vị. Nói vậy không có nghĩa là tám vị đại bồ tát này có mặt bằng xương bằng thịt tại pháp hội của Phật. Các ngài chỉ có mặt trong một cảnh giới thực tại rất vi tế. Vì sao Lama Tông Khách Ba lại đặc biệt tán dương hai đại bồ tát Di lạc và Văn thù? Ðó là vì theo Ðại thừa, đức Di lạc là vị đại bồ tát giữ gìn dòng pháp Phương Tiện Quảng Đại, còn đức Văn thù là vị đại bồ tát giữ gìn dòng pháp Trí Tuệ Thâm Sâu.

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 3

| CDC-3. Dù nghĩa Phật mẫu / thậm thâm khó lường, // Vẫn giảng đúng như / ý thật của Phật: // Long thọ, Vô trước, / ba cõi danh lừng, // Đê đầu dưới chân / con xin kính lễ.

Trong câu kệ này, tác giả tán dương Long thọ và Vô trước là hai bậc đệ tử hộ pháp giữ gìn hai phần giáo pháp của Phật: ngài Vô Trước giữ phần Phương Tiện Quảng Đại, và ngài Long-thọ giữ phần Trí Tuệ Thâm Sâu. Vì hai ngài sống ở hai thời kỳ cách nhau rất xa nên câu hỏi đầu tiên phải hỏi, đó là vấn đề truyền thừa giữa Phật và Ngài Long-thọ, và ngài Vô Trước.

Sự liên tục của giáo pháp Phật dạy có thể được hiểu qua chuỗi tiếp nối không gián đoạn của chư đạo sư mang thân người, ví dụ như dòng truyền thừa của Luật tạng. Nhưng dòng truyền thừa còn có thể được hiểu qua một mức độ vi tế hơn, ví dụ như linh kiến đức Văn thù có mối liên hệ đặc biệt với ngài Long thọ, và đức Di lạc có mối liên hệ đặc biệt với ngài Vô trước. Vậy chư đại bồ tát cũng có khi trực tiếp truyền lại dòng truyền thừa.

Nói về sự truyền thừa trong Phật giáo là như vậy thì tự nhiên sẽ nảy thắc mắc về vai trò của đức Phật lịch sử. Nói chung Phật giáo có hai quan điểm về đức Phật lịch sử. Một là nhìn đức Phật Thích Ca Mâu Ni qua khía cạch quy ước thế tục: Phật bắt đầu là một người bình thường, nhờ tu mà đạt quả giác ngộ dưới cội bồ đề. Vậy trước khi giác ngộ, Phật chỉ là một chúng sinh vô minh.

Quan điểm thứ hai được trình bày trong luận Uttaratantra của đức Di Lạc. Quan điểm này cho rằng mười hai công hạnh Phật làm đều là việc làm của bậc chánh đẳng giác, và đức Phật lịch sử là hóa thân của Phật. Hóa thân (nirmanakaya) là thân thị hiện của Phật. Thân này hiện ra từ một loại thân vi tế hơn, gọi là báo thân (sambhogakaya), là thân thọ dụng toàn hảo của Phật. Hai loại thân có hình sắc này (rupakaya) đều từ pháp thân hiện ra. Pháp thân (dharmakaya) là cảnh giới chân thật của thực tại. Trí pháp thân [jnanakaya] có được là nhờ nền tảng của thực tại cơ bản là tự tánh thanh tịnh, như trước đây có đã nhắc đến. Vì vậy Phật giáo có khi nói đến tự tánh thân [svabhavakaya] [>> natural buddha-body>> ]. Giáo pháp Ðại thừa hiểu về quả vị Phật qua bốn thân Phật nói trên.

Ðức Di Lạc giải thích rằng Phật an trú bất động trong cảnh giới Pháp thân và thị hiện đủ loại sắc thân. Tất cả mọi công hạnh Phật đã làm như là nhập thai, xuất thế, v.v., đều là việc làm của đấng giác ngộ. Có vậy mới có thể hiểu thấu được mối liên quan giữa chư vị đạo sư tiếp giữ dòng truyền thừa của kinh sách Ðại thừa.

Mối luân chuyển của dòng truyền thừa rất phức tạp, vì vậy sinh ra nhiều nghi vấn về sự chính thống của Ðại thừa. Nghi vấn này từ thời đức Long-thọ đã có. Trong Bảo Hành Vương Chính Luận, đức Long-thọ dành hẳn một chương để trình bày lý lẽ chứng minh Ðại thừa là do Phật thuyết. Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận  (Mahayanasutralamkara) của đức Di Lạc cũng có một chương xác định sự chính thống của giáo pháp Ðại thừa. Nhiều đạo sư Ðại thừa về sau cũng bảo vệ sự chính thống của kinh điển Ðại thừa qua nhiều tác phẩm khác nhau.

Một trong những lý do tranh cãi về vấn đề chính thống của kinh điển Đại thừa đó là vì xét theo sự kiện lịch sử thì trong đợt kiết tập kinh điển đầu tiên không có kinh đại thừa. Ðiều này cho thấy kinh đại thừa ví dụ như hệ kinh Bát nhã, không phải là kinh Phật dạy cho đại chúng trong cảnh giới phàm phu thế tục, mà là dạy cho một số hành giả chọn lọc trong một thực tại siêu phàm hơn, thanh tịnh hơn. Hơn nữa, mặc dù có một số trường hợp Phật dùng sắc tướng tỷ kheo để dạy mật pháp, nhưng phần lớn Phật dạy mật pháp dưới sắc tướng của đấng bổn tôn pháp chủ mạn đà la, ví dụ như Phật thị hiện sắc tướng bổn tôn Guhyasamaja để dạy mật pháp Guhyasamaja. Do đó không lý do gì bắt buộc những mật pháp này phải được thuyết ngay trong thời đức Phật lịch sử còn tại thế.

Để hiểu rõ những vấn đề đại loại từ cái nhìn của Đại thừa, điều quan trọng là phải hiểu về Phật quả qua bốn thân Phật. Nói ví dụ, Lama Tông Khách Ba chào đời 300 năm sau khi đức Atisa viên tịch. Có một dạo Lama Tông Khách Ba trú tại tu viện Retreng, là tu viện của đại đệ tử đức Atisa là ngài Dromtonpa, dấn thân miên mật tu học và và hành trì giáo pháp Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ của đức Atisa. Theo tiểu sử ghi lại, Lama Tông Khách Ba trong thời gian ấy đã từng được gặp gỡ đức Atisa cùng hai đại đệ tử, hiển hiện như đang ở trước mặt. Việc này xảy ra không chỉ một hai lần mà rất nhiều lần, trong nhiều tháng. Đây là khoảng thời gian mà Lama Tông Khách Ba đã sáng tác nhiều thi kệ về chư tổ truyền thừa của dòng pháp Lam-rim.

Thường có câu nói rằng người nào túc duyên đầy đủ, tâm trí sẵn sàng cũng đều có khả năng gặp được chư giác giả của thời quá khứ bởi vì mặc dù thân tứ đại của chư vị đã tan nhưng thân trí tuệ vẫn còn. Ngay như thời buổi bây giờ cũng vẫn còn những bậc hành giả có những cuộc hạnh ngộ huyền diệu cùng chư đạo sư thời quá khứ. Phải hiểu bản chất của Phật quả qua bốn thân Phật rồi mới có thể hiểu thấu nghĩa lý của những vấn đề phức tạp này.

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 4

| CDC-4. Là người tiếp giữ / mọi điểm tinh yếu / kho tàng khai thị / đầy đủ không sai // Của hai đường tu / tri kiến thâm sâu, / thiện hạnh quảng đại, // Được truyền xuống từ / nhị đại tổ sư. // Đức Atisa (Di-pam-ka-ra), con xin kính lễ.

Trong câu này, Lama Tông Khách Ba đảnh lễ tán dương đức Atisha Dipamkara Shrijnana. Đức Atisa là bậc cao tăng Ấn độ đến từ vùng Bengal, ngày nay là Dhaka tại Bangladesh. Ngài có nhiều sư phụ, nhưng sư phụ chính của Ngài là đức Serlingpa đến từ đảo Serling, có nghĩa là “Xứ Vàng.” Miền Nam Thái Lan ngày nay cũng có vùng đất cùng tên, nhưng dựa theo sách Tây tạng thì đức Atisa đã phải từ Ấn độ đi thuyền hết 18 tháng mới tới được đảo Serling, nói vậy đảo này chắc phải xa hơn Thái lan rất nhiều. Có vẻ như có rất nhiều bằng chứng cho thấy đảo Serling nằm đâu đó trên đất Indonesia, có lẽ quanh vùng Java. Thật ra cũng có nhiều điều liên quan đến thầy Serlingpa được tìm thấy ở khu vực này.

Đức Atisa được đức Serlingka truyền cho pháp khai thị phát tâm bồ đề. Sau đó Ngài nhận được nhiều giáo pháp về tri kiến thâm sâu từ một đạo sư khác, tên Rigpa’i Khuchug (còn có tên là Vidyakokila the younger, hay là Avadhutipa). Có thể nói là trước thời đức Atisa, hai dòng truyền thừa quảng và thâm (của phương tiện bồ đề và trí tuệ tánh không) được truyền riêng lẻ mặc dù vẫn hành trì chung. Đức Atisa chính là người hợp nhất hai dòng truyền thừa này. Từ đó về sau, hai dòng tu quảng thâm được truyền cùng lúc.

Đại đệ tử tiếp giữ giáo pháp của đức Atisa là đức Dromtonpa. Từ đức Dromtonpa chẻ ra ba nhánh, thành ba bộ phái dòng Kadam. Một là Kadam Shungpawa, nghĩa là “người tu theo luận,” khởi phát từ đệ tử của đức Dromtonpa là ngài Potowa. Bộ phái này nhấn mạnh vào việc tu học các bộ kinh luận trọng yếu của xứ Ấn. Hai là Kadam Lamrimpa, có nghĩa là “người tu theo trình tự đường tu giác ngộ.” Bộ phái này nhấn mạnh vào cách tiếp cận đường tu qua quá trình tuần tự, dựa theo các bộ luận cỡ trung bình hơn là những bộ luận cỡ lớn. Ba là Kadam Mengagpa, có nghĩa là “người tu theo lời khai thị.” Bộ phái này chủ yếu dựa vào lời trực chỉ khai thị của đạo sư, nhấn mạnh vào pháp tu chỉ quán trực chỉ.

Ðại đệ tử của đức Potawa là đức Sharawa, bậc Thầy được mọi người vô cùng kính trọng nhờ trí uyên thâm các bộ luận vĩ đại. Cùng thời với đức Sharawa có vị đại dịch giả tên Patsab Lotsawa, dịch sách của ngài Nguyệt Xứng (Chandrakirti) từ Phạn ngữ sang Tạng ngữ. Nghe nói trước thời của Patsab Lotsawa, sách của Nguyệt Xứng chưa được dịch sang tiếng Tây tạng. Đức Atisa khi sang Tây tạng giảng về  Trung quán đã phải dùng bộ sách của ngài Thanh Biện (Bhavaviveka) như bộ Tinh Túy Trung Đạo và Luận Lý Rực Lửa. Ðến thời đức Sharawa thì có Patsab Lotsawa khởi dịch bộ Bổ Xung Trung Đạo của ngài Nguyệt Xứng.

Truyện kể Patsab Lotsawa dịch xong bản thảo có trao lại cho đức Sharawa xin góp ý. Mặc dù không biết tiếng Phạn, đức Sharawa vẫn vạch ra nhiều điểm trọng yếu trong bài dịch, ghi lại một số góp ý và sửa chữa. Patsab Lotsawa so sánh lời góp ý này với nguyên bản tiếng Phạn, thấy đức Sharawa đã vạch đúng những chỗ cần xét lại. Patsab Lotsawa đã xúc động đến nỗi phải tán dương trí tuệ uyên thâm về Trung đạo của đức Sharawa.

Về sau, sau khi nhận đuợc bản dịch Bổ Xung Trung Đạo đã chỉnh sửa, đức  Sharawa trước đại chúng thường luôn hết lời tán dương đóng góp vô giá này của Patsab Lotsawa. Có lần trong buổi thuyết pháp, có một vị đệ tử cúng dường cho mỗi người một miếng đường nâu. Nghe nói đức Sharawa đã vốc đầy một nắm tay, tung lên không trung và nói rằng, “Nguyện cúng phẩm này dành cho đại dịch giả Patsab, người với công đức đóng góp vô hạn đưa tác phẩm của Nguyệt Xứng về cho người dân Tây tạng.”

Dường như các nhà dịch giả Tây tạng làm việc từ nguồn tiếng Phạn thường là những vị học vấn uyên thâm, giàu lòng can đảm. Họ cực kỳ trung thành với nguyên văn tiếng Phạn. Ðến nỗi cho đến ngày nay sách dịch của họ vẫn luôn được các nhà học giả hiện đại ca tụng là chính xác. Dù dân số Tây tạng rất ít, Phật giáo vẫn hưng thịnh hơn 1,500 năm, và trong khoảng thời này có rất nhiều bậc đạo sư Tây tạng cực kỳ thông tuệ đã viết ra những bộ sách quí, không chỉ các bậc xuất gia mà cả những bậc cư sĩ tại gia.

Bộ Tengyur vốn là kho sách bao gồm những bộ luận Ấn độ được dịch sang Tạng ngữ. Trong Tengyur có một sớ giải Kinh Bát Nhã Bách Thiên Tụng. Khi xem xét văn bản bộ sớ giải này, Lama Tông Khách Ba tìm thấy quá nhiều thành ngữ, quá nhiều lối trình bày đặc thù của người Tây tạng, vì vậy kết luận đây không thể là bộ luận do các cao tăng Ấn độ trước tác, mà phải là một tác phẩm nguyên bản Tây tạng. Về sau Ngài tìm được một danh mục liệt kê văn bản này là do quốc vương Tây tạng thế kỷ thứ tám tên là Trisong Detsen soạn tác.

Trong lời tán dương ở câu kệ thứ tư, Lama Tông Khách Ba gọi đức Atisa là “người tiếp giữ kho tàng khai thị,” ngụ ý nhắc đến tác phẩm Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ của đức Atisa. Bài pháp này dù ngắn nhưng nội dung cực kỳ đầy đủ, chuyên chở lời khai thị rất thâm sâu. Theo các truyền thống luận giải Tây tạng, tác phẩm này thường được xem là lời khai thị luận Hiện Quán Trang Nghiêm của đức Di Lạc, trong thể dạng tinh yếu nhất.

Ngọn Ðèn của đức Atisa lấy nguồn chính từ một đoạn nằm trong chương hai của bộ luận của đức Di Lạc. Khi giảng về trình tự của đường tu và pháp tu, đức Di Lạc có nói về việc khởi tín tâm nơi Tam Bảo, nơi tâm bồ đề. Rồi ngài nói tiếp đến việc thọ bồ tác giới, dấn thân vào đường tu của bồ tát qua sáu hạnh ba la mật ba của bồ tát. Rồi ngài lại giải thích làm cách nào để dấn thân huân dưỡng trí tuệ chỉ (shamatha) quán (vipashyana) hợp nhất. Đây là cách hiểu của Phật giáo Tây Tạng về xuất xứ của Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ của đức Atisa.

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 5

| CDC-5. Ân sư là mắt / cho chúng con nhìn / muôn trùng kinh điển; // Là lòng sông cạn / đưa kẻ thiện duyên / sang bờ giải thoát; // Từ bi vận dụng / mọi thiện phương tiện, / soi tỏ lối đường: // Kính khắp Ân sư / con xin đảnh lễ.

Trong câu này, Lama Tông Khách Ba tán dương chư tổ dòng truyền thừa Lam-rim. Có một câu nói thường được cho là của vị thầy dòng Kadampa: “Khi tôi giảng lam-rim là toàn bộ kinh điển đều rúng chuyển nói rằng, ‘ông sư già này đang moi tim của chúng ta.’”

Lama Tông Khách Ba viên tịch từ 600 năm về trước. Trong ba bộ luận giải lam-rim Ngài viết ra, bộ Lam-rim Đại Luận là quan trọng nhất, nhưng cả ba đều trình bày đầy đủ mọi yếu tố trên đường tu giác ngộ – tri kiến thâm sâu của tánh không và pháp hành quảng đại của phương tiện thiện xảo – qua nhiều mức độ dài ngắn khác nhau, một cách có hệ thống, đến nỗi đến cả ngày này chúng ta vẫn có thể theo đó để mà học hỏi, tư duy và áp dụng hành thiền.

Dù gọi là lam-rim hay gọi là “trình tự đường tu giác ngộ,” mọi tông phái trong Phật giáo Tây tạng, kể cả dòng cựu phái Nyingma hay như các dòng tân phái Sakya, Kagyu v.v… đều có những giáo pháp tương đương, nhấn mạnh vào nền tảng của pháp hành. Hơn nữa, mọi giáo pháp của cả bốn tông phái Phật giáo Tây tạng đều có thể kiểm chứng bằng cách truy ngược về tận bản gốc các bộ luận văn do chư đại đạo sư xứ Ấn đích thật viết ra.

Ví dụ như dòng Nyingma của Phật giáo Tây tạng có một hệ giáo pháp được gọi terma, có nghĩa là “giáo pháp mặc khải,” và một hệ khác được gọi là kama, nghĩa là “giáo pháp kinh văn.” Tuy vậy, ngay như hệ giáo pháp mặc khải cũng vẫn phải bắt nguồn từ hệ giáo pháp kinh văn. Dòng Nyingma nói rằng giáo pháp hệ mặc khải chỉ đơn giản là phương tiện dẫn dắt sự chú tâm của người tu, giúp công phu người tu bén nhạy hơn.

>>> 2.2.2. Tán Dương Giáo Pháp Vĩ Đại

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 6 & 7

| CDC-6. Là ngọc trang nghiêm / trên đỉnh bậc trí / cõi Diêm phù đề; // Tràng phang danh xưng / lẫy lừng khắp chúng; // Pháp chân truyền từ / Long thọ, Vô trước // Là Trình Tự Đường / Dẫn Đến Giác Ngộ.

| CDC-7. Vì bởi pháp này / làm tròn nguyện ước / chín loại chúng sinh // Nên đây chính là / vua của vua pháp, // Là lòng biển rộng / rạng ngời khéo giảng, // Nơi ngàn dòng suối / luận văn đổ về. // Giúp người tu hiểu / trăm vạn pháp môn / vốn không mâu thuẫn; // Giúp trọn pháp Phật / tỏa rạng thành lời / trực chỉ khai thị / trong trí người tu; // Giúp cho dễ dàng / hiểu được ý Phật; // Giúp giữ người tu / thoát khỏi hố thẳm / của đại ác hạnh. // Vì vậy nhiều bậc / thiện duyên Ấn-Tạng // Dốc tâm nương vào / diệu pháp này đây. // Trình tự đường tu / ba căn cơ này, // Kẻ trí không ai / không bị cuốn hút.

Hai bài kệ trên dành để trình bày về sự vĩ đại và phẩm tánh phi phàm của giáo pháp lam-rim. Bài kệ thứ 6 nói về nội dung và dòng truyền thừa Lam-rim, còn bài kệ thứ 7 nói về lợi ích của giáo pháp này.

>>>> 1. Giúp thấy Phật pháp không mâu thuẫn

Một trong những điểm vĩ đại của giáo pháp lam-rim đó là giáo pháp này giúp người tu thấy ra rằng thật sự không có bất cứ sự mâu thuẫn trong giáo pháp Phật dạy. Nhìn lại các pháp hành đa dạng phong phú trong kinh điển đại thừa, quý vị sẽ thấy có những điều khi thì cấm, khi thì khuyến khích. Tuy vậy, nếu hiểu được ý nghĩa của sự đa dạng này, quý vị sẽ hiểu rằng giáo pháp Phật dạy luôn thích ứng với nhiều loại trình độ căn cơ khác nhau của người nhận pháp. Đức Atisa mang tất cả giáo pháp Phật dạy sắp xếp lại thành ba loại “căn cơ,” tùy vào khả năng trình độ khác nhau của người tu.”

Vì vậy mà có những pháp với người này thì cản, với người kia lại khuyến khích. Không ghi nhớ điểm này quý vị sẽ dễ phát sinh quan niệm sai lầm. Điều này thỉnh thoảng xảy ra ở Tây tạng.

Tây tạng một thời có những người vì sùng bái luật tạng nên phỉ báng chối bỏ Kim cang thừa, lại có những người vì quá ngưỡng mộ nhiệt tình với Kim cang thừa mà bỏ bê giới luật. Nếu hiểu được lời dạy của đức Atisa, rằng giáo pháp Phật dạy được sắp xếp theo căn cơ người tu, quý vị sẽ có thể tự bảo vệ mình không vướng lỗi nghiêm trọng tương tự.

>>>> 2. Trực chỉ khai thị

< 2. Lợi ích vĩ đại thứ hai của lam-rim đó là toàn bộ giáo pháp Phật dạy sẽ “tỏa rạng thành lời / trực chỉ khai thị / trong trí người tu.” Với một vài hiểu biết hạn hẹp về Phật pháp, quý vị sẽ dễ sinh tâm phân biệt bài bác kinh Phật, thấy kinh này mới cần cho đường tu, kinh kia chỉ để trau dồi kiến thức. Hiểu sâu hơn sẽ thấy ra rằng người có trí luôn có cái nhìn tổng quát về trọn vẹn đường tu. Được vậy mới có thể đánh giá giáo pháp nào phù hợp với giai đoạn nào trên đường tu, giáo pháp nào không hợp, và đồng thời hiểu được rằng kinh nào Phật dạy rốt lại cũng cũng đều liên quan đến một giai đoạn nào đó trên đường tu của chính mình.

>>>> 3. Giúp dễ hiểu ý Phật.

Lợi ích lớn lao thứ ba là pháp Lamrim sẽ giúp quý vị dễ dàng chứng được ý thật của Phật; mọi giáo pháp Phật dạy đều sẽ về hội tụ nơi công phu hành trì của quý vị. Nhờ đó, quý vị sẽ toàn thành mọi tâm nguyện, bất kể là tâm nguyện gì – tái sinh cõi lành, giải thoát luân hồi, hay đạt chánh đẳng giác.

>>>> 4. Giúp thoát đại ác hạnh.

Lợi ích lớn lao thứ tư là pháp Lam-rim này hộ trì cho quý vị khỏi rơi vào “hố thẳm của đại ác hạnh,” có nghĩa là lỗi lầm lớn của việc từ bỏ chánh pháp. Biết kinh nào Phật dạy cũng đều liên quan đến đường tu của chính mình nên không bỏ pháp này lấy pháp kia, vì biết pháp nào mình cũng cần. Vì vậy sẽ không bỏ bất cứ pháp nào Phật dạy.

Điểm này cũng liên quan đến vấn đề phân biệt bộ phái. Vì có sự khác biệt giữa bốn dòng tu trong Phật giáo Tây tạng nên người tu nhiều khi sinh tâm kỳ thị bộ phái. Nếu hiểu được đặc điểm trong cách tiếp cận, giảng dạy, và hành trì của từng dòng pháp, quý vị sẽ hiểu được giá trị và tầm quan trọng của sự đa dạng này. Nói cho đúng, phối hợp tất cả mọi giáo pháp đa dạng này vào trong pháp hành của một người tu không phải là điều không thể xảy ra. Một vị thầy Kadampa từng nói: “người tu cần biết cách chấp trì làm toàn bộ giáo pháp của Phật, như đồng loạt nhấc bổng cả miếng vải vuông.”

Có một số hành giả Ðại thừa sinh tâm phân biệt Tiểu thừa, Đại thừa, có khuynh hướng xem rẻ Tiểu thừa, nhất là Nguyên Thủy. Một trong những hậu quả của thái độ này là khiến đệ tử Tiểu thừa đặt lại vấn đề chính thống của Ðại thừa. Thật ra đệ tử Đại thừa phải hiểu rằng giáo lý Nguyên thủy đến từ hệ kinh Pali cũng chính là cội rễ của Ðại thừa, nhất là giáo pháp Tứ Ðế và 37 Phẩm Trợ Đạo.

Đây đích thật là cơ sở, là nền tảng của Phật pháp. Thêm vào đó sáu hạnh ba la mật v.v. để tinh lọc một số khía cạnh của pháp hành nền tảng này, rồi cuối cùng bổ xung thêm pháp tu Kim cang thừa. Vì vậy, dù có thể thêm vào đó giáo pháp Bồ tát thừa và Kim cang thừa, nhưng ngay chính bản thân hệ kinh Pali đã là một hệ giáo pháp hoàn chỉnh. Còn nếu không có nền tảng của giáo pháp Nguyên thủy thì Bồ tát thừa và Kim cang thừa trở nên thiết sót, vì thiếu mất phần cơ bản.

>> 2.3. HỎI ĐÁP

Hỏi. Đã có tự tánh niết bàn, lại có bản tánh tự nhiên thanh tịnh trong sáng, vậy điều gì là nguyên nhân đầu tiên khiến ta lạc mất bản tánh thanh tịnh trong sáng ấy để phải chịu khổ vì nghiệp, nhiễm tâm, chướng  ngại và phiền não? Vì lý do gì lại không giữ được tự tánh niết bàn trong sáng tự nhiên khi đi qua sinh tử?

Đáp. Khi Phật giáo nói về bản tánh thanh tịnh và trong sáng tự nhiên của tâm, nói như vậy để thấy rằng ô nhiễm và phiền não vốn không thuộc về bản tánh của tâm, chứ không phải để nói rằng ban đầu có một trạng thái trong sáng và thanh tịnh, sau đó biến thành ô nhiễm. Thực tế là dòng tâm thức không có khởi điểm thì vọng tâm cũng vậy, không có khởi điểm. Dòng tâm thức có từ bao lâu thì dòng nhiễm tâm vọng tưởng chấp có tự tánh cũng có từ bấy lâu. Hạt giống hư vọng luôn hiện diện cùng lúc với dòng tâm thức.

Vì vậy mà kinh điển Phật giáo đôi khi nói đến vô minh bẩm sinh, hay vô minh căn bản, là loại vô minh luôn tự nhiên đi cùng với dòng tâm thức của mỗi người. Phải áp dụng thuốc giải cùng với pháp tu thiền mới quét được vọng tâm này ra khỏi bản tâm. Nghĩa của tự tánh thanh tịnh là như vậy.

Nếu quán xét bản chất của tâm, quý vị sẽ thấy rằng mọi thành phần ô nhiễm, như là phiền não và ý tưởng, đều bắt rễ từ cái thấy sai lệch về thực tại nên luôn chênh vênh không vững. Phiền não dù mạnh đến đâu, khi có được trí tuệ trực chứng chân tánh của thực tại làm thuốc giải, dòng liên tục của phiền não sẽ bị sức mạnh của thuốc giải này làm cho đoạn lìa, phiền não sẽ tan biến không dấu tích. Ngược lại, không gì có thể làm gián đoạn dòng liên tục của tâm thức. Sự tồn tại của thế giới kinh nghiệm nội tại và của tâm thức là một sự thật đương nhiên. Thức luôn có đó. Tâm luôn có đó. Không một sức mạnh nào có thể làm đoạn diệt  dòng tâm thức của quý vị.

Chúng ta có thể thấy sự tương đồng với những điều này trong thế giới vật chất. Theo Phật giáo, thế giới vỹ mô của thực tại vật lý thiên hình vạn trạng này được cấu thành từ những thành phần cực vi gọi là “phân tử không gian” [space particles]. Từ sự tương tục của những phân tử cực vi này, chúng ta có thể lý giải được quá trình tiến hóa của vũ trụ. Từ mức độ cực vi này của thực tại vật lý mà vũ trụ hình thành, tồn tại trong một khoảng thời gian nào đó, rồi tan rã. Trọn quá trình hình thành và hoại diệt này đều xuất phát từ mức độ vi tế nhất của thực tại vật lý.

Ở đây đang nói về thế giới của thực tại vật lý hữu hình mà chúng ta có thể trực tiếp cảm nhận. Tất nhiên là trong thực tại của đời sống cụ thể hàng ngày, sẽ có những nguồn năng lực có khả năng hủy diệt một hiện tượng vật lý. Tuy vậy, thực tại vật lý ở mức độ vi tế nhất được xem là một điều gì đó tiếp nối liên tục, không khởi đầu, không kết thúc. Xét theo quan điểm của Phật giáo thì không gì có thể chấm dứt dòng liên tục của thực tại vật lý cực vi này.

Tương tự như vậy, tâm thức có nhiều biểu hiện phong phú. Trong đó có những tầng tâm thức thô lậu của ý nghĩ, cảm xúc, và giác quan. Những loại tâm thức thô lậu này luôn tồn tại tùy vào một thực tại vật lý này đó, ví dụ như tùy vào môi trường, hay tùy vào thời gian. Nhưng dòng tâm thức cơ bản, nơi xuất ra những loại tâm thức thô lậu, thì lại không có khởi đầu cũng không có kết thúc. Dòng liên tục của bản tâm này vẫn sẽ luôn tồn tại, không gì có thể khiến làm cho đoạn diệt.

Nếu nhiễm tâm có điểm khởi đầu thì sẽ phải thắc mắc không biết nhiễm tâm này từ đâu mà có. Tương tự như vậy, Phật giáo không chấp nhận tâm thức có điểm khởi đầu, vì nếu vậy sẽ phải đặt ra thêm nhiều câu hỏi, cái gì sinh ra tâm? Còn đối với câu hỏi vì sao tâm thức không có khởi điểm, người ta có thể tranh luận bằng cách dựa trên cơ sở của dòng tâm thường trụ (ever-present continuum). Tuy vậy, luận cứ thật sự thì phải dựa vào quá trình phủ định, vì nếu khẳng định tâm thức có khởi điểm thì khởi điểm này là khởi  điểm gì, cái gì là nguyên nhân tạo ra khởi điểm ấy? Lập luận khẳng định tâm thức có khởi điểm sẽ phá đi niềm tin cơ bản của Phật giáo về luận nhân quả.

Mặc dù một số kinh điển Phật giáo có nhắc đến đức Phật Phổ Hiền [Samantabhadra], đức Phật bản lai luôn hiền, luôn tịnh. Nhưng ở đây cần hiểu khái niệm “bản lai” theo đúng bối cảnh. Theo cách hiểu ở đây, tâm bản giác quang minh được xem là nguồn gốc phát sinh toàn bộ thế giới vỹ mô mà chúng ta đang sống. Khi nói về quá trình tiến hóa, hệ kinh Kim cang thừa thường nhắc đến chu kỳ ngược và chu kỳ xuôi.

Trong cả hai trường hợp, thế giới đa dạng của đủ loại tâm thức và ý niệm đều sinh ra từ tâm quang minh vi tế, qua ba giai đoạn gọi là “ba khởi hiện.” Xuyên qua quá trình này, có thể nói rằng mọi sự đều từ bản tánh tự nhiên của tâm quang minh này mà sinh ra, rồi tan về lại nơi đó. Thành ra ở đây cũng vậy, nói khởi điểm chỉ là khởi điểm của từng trường hợp riêng lẻ chứ không phải là thứ khởi chung nào đó.

Hỏi. Thưa đức Ðalai Lama, Ngài có nói rằng các đại học viện như Vakramashila luôn giữ giới luật rất nghiêm, cả những hành giả chứng ngộ cao cũng có thể bị trục xuất vì phạm giới. Ngày nay nhiều Rinpoche và nhiều đạo sư cao trọng vẫn không ngừng dính líu đến các vụ tai tiếng đủ loại. Làm thế nào mà giới luật ngày nay lại khác xưa?

Đáp. Có một điều cần hiểu rõ, đó là những cá nhân người mà quý vị nói đến đã không còn thuộc về tăng đoàn. Người nào phá giới, nhất là bốn trọng giới—mạo nhận chứng ngộ; giết người, trộm cướp, có quan hệ tình dục— là tự động sẽ bị trục xuất khỏi tăng đoàn. Chỉ cần có cơ sở vững chắc cho sự nghi ngờ phá giới là bị trục xuất. Xưa vẫn vậy, nay vẫn vậy, không có gì thay đổi. Tuy vậy, một số người pháp giới rồi vẫn tìm ra được đủ cách lương lẹo khéo léo để giữ địa vị của mình.

Tôi luôn nhắc nhở quí tăng ni rằng đã phá giới thì đừng tiếp tục mặc lớp áo xuất gia.  Ðiều này đúng cho cả bốn tông phái Tây tạng Nyingma, Sakya, Kagyu và Geluk. Tuy nhiên phải biết rằng truyền thống Phật giáo Tây tạng có hai hàng tu sĩ, một là tăng ni xuất gia, thọ giới xuất gia; và hai là cư sĩ tại gia, áo tu màu khác, không xuống tóc và chỉ thọ giới cư sĩ.

| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |



| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |


> CHƯƠNG 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ

>> 3.1. PHẨM TÁNH BẬC ĐẠO SƯ

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 8

| CDC-8. Pháp này thu nhiếp / trọn lời Phật dạy, // Nên giảng hay nghe / dù chỉ một lần, // Đều như giảng, nghe / toàn bộ diệu Pháp, // Lợi ích nhất định / sẽ như sóng cả, / vì vậy hãy nên / chuyên chú tư duy.

Chứng Đạo Ca của Lama Tông Khách Ba là chìa khóa mở ra mối liên hệ giữa các loại khế kinh. Câu kệ thứ 8 giải thích đạo sư phải giảng pháp như thế nào và đệ tử phải nghe pháp ra làm sao cho việc giảng và việc nghe được thành công, hiệu quả. Điều quan trọng là người thuyết pháp cần phải có động cơ và thái độ đúng đắn khi thuyết pháp. Đạo sư nào thuyết pháp vì những mục tiêu thế tục, ví dụ muốn người khác thấy mình uyên bác, muốn được trọng vọng, muốn lôi kéo tài vật cúng dường, hay để thao túng lợi dụng người khác, thì động cơ của vị đạo sư ấy chắc chắn là ô nhiễm.

Ðiều thật sự rất quan trọng, đó là động cơ thúc đẩy thuyết pháp phải là tâm nguyện vị tha trong sáng, muốn làm lợi cho người. Theo truyền thống Phật giáo Tây tạng, không những động cơ thuyết pháp phải trong sáng, mà cả thái độ thuyết pháp cũng không được vướng lỗi. Thuyết pháp mà vướng lỗi thì giống như người già nhai cơm, miếng mềm thì nhai, miếng cứng bỏ lại. Tương tự như vậy, người thuyết pháp không được lựa phần dễ, bỏ phần khó. Lại có câu nói rằng không nên giảng pháp như quạ xây tổ. Quạ khi xây tổ cứ chất bừa bãi, không thứ tự lớp lang gì. Thuyết pháp không thể thuyết một cách bừa bãi hỗn loạn mà phải trình bày theo hệ thống chính xác, mạch lạc, lợi ích cho người nghe.

Ngoài ra còn một phẩm hạnh mà bậc chân sư cần phải có, đó là kinh nghiệm tu chứng về chủ đề đang giảng [tu tuệ]. Nếu điều này không thể, vậy thì phải quen thuộc thuần thục trong việc thực hành chủ đề đang giảng [tư tuệ]. Nếu điều này cũng không thể, vậy thì tối thiểu phải có được kiến thức sâu rộng tận tường về chủ đề mình đang giảng [văn tuệ]. Ngài Pháp xứng có nói, điều gì tự mình không biết thì không làm sao có thể dạy lại cho người khác.

Tôi có một người bạn là một vị thầy vĩ đại và cũng là một hành giả Ấn độ giáo uyên thâm. Có lần chúng tôi trao đổi với nhau về vấn đề hòa hợp tôn giáo và nhu cầu mở rộng hơn sự giao tiếp giữa các tín ngưỡng. Tôi nhận thấy mình hoàn toàn không biết gì về những vấn đề hồi giáo, và không nhiều tiếp xúc với thế giới Hồi giáo. Người bạn này bảo với tôi rằng, “không khó gì đâu. Cứ học cách trích dẫn một vài câu kinh Koran, rồi bình luận vài câu ở đây, vài câu ở kia. Vậy là đủ rồi. Không cần biết nhiều hơn.”

Ðể nêu lên một ví dụ nghiêm trọng hơn, có một nhà học giả người Ðức đến dự buổi thuyết pháp của một vị thầy Tây tạng. Trong buổi giảng, anh ta nghe được một số điều trái với dạy cơ bản của Phật, vì vậy cuối buổi anh lên tìm vị thầy thuyết pháp để thưa rằng hình như thầy có nói sai vài nơi. Thay vì nhìn nhận mình sai, vị thầy Tây tạng lại bảo rằng “Ôi, có làm sao đâu. Cứ nói như vậy cũng được mà.” Quá sai. Làm người giảng pháp thì phải luôn cẩn trọng.

Ngay như tác phong khi ngồi trên pháp tòa thuyết pháp cũng rất quan trọng. Trước khi ngồi xuống, phải quì lạy pháp tòa ba lạy. Làm như vậy để tự nhắc nhở rằng ngồi tòa cao thuyết pháp không phải vì bản thân mình siêu phàm gì cả, chỉ vì giáo pháp sắp dạy đáng được tôn vinh. Theo truyền thống Đại thừa, khi thuyết Bát-nhã ba la mật Phật tự tay dựng một pháp tòa cao để tỏ lòng tôn kính hệ Kinh Bát nhã, được xem là mẹ đẻ, là cội nguồn, của mọi bậc giác, dù là hàng thanh văn, độc giác, hay Phật đà.

Khi kiết tập kinh Phật, trước là do chư vị A-la-hán và sau là những đệ tử khác của Phật, có những lúc mọi thành viên tham dự đều cởi áo cà sa khoác ngoài, bậc thượng thủ kiết tập thâu lại, xếp thành đống để dựng pháp tòa, rồi thượng lên pháp tòa này để kiết tập kinh điển. Tất cả những việc làm này cho thấy lòng tôn kính tuyệt bậc đối với giáo pháp Phật dạy.

Theo truyền thống Tây tạng, sau khi ngồi xuống pháp tòa, người thuyết pháp sẽ tụng một câu kinh quán vô thường để giữ động cơ trong sáng và quét sạch mọi khuynh hướng tự cao tự đại có thể nảy sinh trong tâm. Cần làm như vậy để bảo đảm cho sự thanh tịnh từ phía đạo sư, là vì ngồi lên tòa cao, nghe người khác tán dương ca tụng thật sự là rất nguy hiểm, rất dễ nổi tâm kiêu mạn. Nên người thuyết pháp phải luôn giữ trong tâm lời dạy của đạo sư Tây tạng Dromtonpa, rằng “dù cả thế giới đều tôn kính đặt ông lên đỉnh đầu của họ, ông vẫn hãy nên ngồi chỗ càng thấp càng tốt, giữ lòng khiêm cung.” Trong Bảo Hành Vương Chính Luận (Precious Garland), đức Long-thọ có lời nguyện xin được làm đất nước lửa gió để chúng sinh tùy ý hưởng dụng. Nếu thật sự nghiêm chỉnh lấy lời nguyện này làm tâm nguyện của mình, quý vị sẽ không bao giờ thấy rằng mình tốt hơn người khác, cũng không bao giờ nuôi tâm thao túng lợi dụng bất kỳ một ai.

Đối với người nghe thì quan trọng nhất là phải giữ động cơ trong sáng khi nghe pháp; phải hội đủ ba phẩm tính của hàng đệ tử chân chính, đó là giữ tâm khách quan; giữ trí sáng suốt; và giữ lòng thích thú khát khao đối với pháp được nghe; và cũng phải giữ thái độ thích đáng khi nghe pháp. Có vậy mới trở thành chiếc bình chứa xứng đáng hứng dòng chánh pháp. Quý vị phải lấy chánh pháp làm gương soi, để cho mọi hoạt động thân khẩu ý của mình hiện trên mặt gương ấy, không ngừng canh chừng và liên tục cố gắng sửa chữa hành vi của chính mình.

Một trong những đặc điểm của Phật pháp, đó là quán chiếu với nội dung càng phong phú thì sự hiểu và sự chứng càng hiệu quả, niềm tin càng thâm sâu. Vì vậy quý vị nhất định phải tiếp cận pháp hành một cách toàn diện, học và hiểu cho thật rộng thật sâu. Đồng thời cũng phải quyết tâm đừng để sự học của mình ngừng ở lãnh vực kiến thức suông. Ngay từ bước khởi đầu phải nỗ lực hướng hết việc học vào mục tiêu tu tập. Học mà không muốn kết nối việc học vào thực tại bằng pháp tu thì sẽ có nguy cơ biến thành người chai cứng, lãnh đạm.

Chư đại đạo sư dòng Kadampa thường nói rằng nếu khoảng cách giữa Phật pháp và tâm quý vị rộng đến nỗi một người có thể qua lọt thì quý vị đã thất bại trong pháp hành. Phải làm sao cho tâm mình và Phật pháp hoàn toàn không có chút khe hở nào cả. Tâm phải hòa với chánh pháp, trở thành một. Tây tạng có một câu thành ngữ nói rằng da cứng có thể dùng bơ để thuộc cho mềm, nhưng nếu vì chứa bơ lâu ngày mà bị cứng thì dù cố gắng đến đâu cũng không có gì có thể làm cho da mềm lại. Tây phương không dùng hủ da để chứa bơ nên câu thành ngữ này chắc không có ý nghĩa  đối với quý vị, nhưng quý vị có thể nắm ý chính.

Chư đạo sư Kadampa cũng thường nói rằng nước chánh pháp có thể thấm vào tâm mới mẻ nhiệt thành của người mới tu học, dù tâm ấy khó thuần đến đâu, nhưng không thể thấm vào tâm của người đã bị kiến thức làm cho khô cằn.

Vì vậy đừng để sự học và sự hiểu lấn át nhiệt tâm tu, cũng đừng để sự tận tâm tu cản trở nhiệm vụ học. Thêm vào đó, cả việc học hay việc tu gì cũng gì đều phải được bắt nguồn từ trái tim thương yêu ấm áp. Ba phẩm chất này, uyên bác trong hiểu biết, tận tâm trong pháp hành, và tấm lòng từ bi, cần được phối hợp.

Nếu sư phụ và đệ tử đều chuẩn bị tâm mình được như vừa nói thì đệ tử có thể có được kinh nghiệm chuyển hóa, có khi là ngay trong lúc đang ngồi nghe pháp. Cuối cùng để chấm dứt buổi thuyết pháp, đệ tử và sư phụ phải hồi hướng công đức cho chúng sinh đạt quả vô thượng bồ đề.

Truyền thống Tây tạng có hai phương pháp giảng dạy chính. Một là dạy với mục tiêu giúp đệ tử hiểu rõ hơn về các kiến giải khác nhau trong Phật pháp. Hai là chú trọng dạy từng công phu tu riêng biệt cụ thể để giúp đệ tử giải quyết những vấn đề gặp phải trên đường tu.

Nói chung, khi giảng dạy về các bộ đại luận như năm bộ luận trọng yếu về tri kiến Trung đạo của chư thánh tăng Ấn độ thì chủ yếu là để giúp Phật tử hiểu sâu và rõ hơn. Còn khi giảng dạy về các giáo pháp như là Lamrim thì chủ yếu là để nhấn mạnh vào phần áp dụng thực hành, hướng dẫn theo trình tự từng bước một.

Ngoài ra hãy còn một phương pháp giảng dạy độc đáo khác, được gọi là “luận giải kinh nghiệm.” Theo phương pháp này, sư phụ mỗi lần chỉ dạy cho đệ tử một đề tài nhất định, đệ tử nghe rồi về hành trì một thời gian dài, bao giờ đạt được chút kinh nghiệm thực chứng rồi sư phụ mới dẫn vào bước tiếp theo. Theo phương pháp này, sư phụ hướng dẫn đệ tử hiểu từng chủ đề bằng kinh nghiệm trực chứng.

Đức Dromtönpa tóm tắt phẩm đức của bậc chân sư thuyết Đại thừa như sau: là nguồn hiểu biết chánh pháp uyên thâm đủ mọi mặt, đủ khả năng trích dẫn từ cả hiển kinh lẫn mật kinh để giải thích về mối tương quan giữa nhiều loại ý tưởng đến từ nhiều hệ tri kiến khác nhau; có khả năng thấy rõ điều gì thích hợp và hiệu quả nhất đối với từng đệ tử, trong từng thời điểm riêng biệt; có khả năng nhìn ra đâu là cách tiếp cận phù hợp nhất với từng đệ tử.

>> 3.2. CÁCH NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ

    Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 9

| CDC-9. Rồi sẽ thấy ra / gốc rễ duyên lành // Cho mọi thiện lành / đời này kiếp sau // Nằm ở nỗ lực / mang tâm và hạnh / nương dựa đúng cách // Nơi đấng đạo sư, / là người chỉ cho / đường tu giác ngộ. // Thấy điều này rồi / cho dù mất mạng / cũng không từ bỏ, // Phải gắng làm cho / đạo sư hoan hỉ / bằng cách tu theo / lời của đạo sư. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy, // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Từ câu thứ 9 trở đi là phần nói về cách dẫn dắt đệ tử qua nội dung chính của trình tự đường tu. Phần này có hai, một là phải cách nương dựa đạo sư, gốc rễ của đường tu; và hai là nương dựa đạo sư rồi, phải tu theo trình tự như thế nào.

Nói về phần thứ nhất, câu kệ số 9 giải thích cách nương đạo sư cho đúng [Skt: kalyanamitra; Tib: ge-wai she-nyen; việt: Thiện tri thức]. Bạn có bạn xấu bạn tốt. Đạo sư cũng vậy, có đạo sư bất xứng và có bậc chân sư.

Đối với loại kiến thức thế gian, mặc dù nói cho cùng những gì học được đều do chính mình bỏ công trau dồi mở mang tư duy, nhưng lúc mới đầu vẫn cần có người dạy cho bước vỡ lòng, chỉ lối đi. Lãnh vực chuyển tâm cũng tương tự. Mặc dù kinh nghiệm thực chứng đến từ sự triển khai trí tuệ và pháp hành của chính mình nhưng vẫn cần bậc đạo sư có kinh nghiệm chỉ cho thấy đường tu giác ngộ.

Bậc chân sư là yếu tố cực kỳ quan trọng trên bước đường tu, vì vậy Lama Tông Khách Ba trong Lamrim Ðại Luận giải thích thật cặn kẽ về vấn đề này qua ba tiêu đề: phẩm hạnh bậc chân sư; phẩm hạnh chân đệ tử; và mối quan hệ đúng đắn giữa sư phụ và đệ tử.

>> 3.3. PHẨM HẠNH CỦA ĐẠO SƯ

Bậc chân sư cần phải có những phẩm hạnh nào, điều này được dạy trong nhiều kinh điển, từ luật tạng cho đến tận mật kinh kim cang thừa. Ở đây chúng ta đang nói về Đại thừa nói chung, vì vậy sẽ xem về mười phẩm hạnh của bậc chân sư như trong bộ Ðại thừa Trang Nghiêm Kinh Luận của đức Di Lạc đã dạy:

  • < 1. Tự chế (thành tựu môn học vô lậu đầu tiên là Giới);
  • < 2. An định (thành tựu môn học vô lậu thứ hai là Ðịnh);
  • < 3. Tịch tĩnh (thành tựu môn học vô lậu thứ ba là Tuệ, nhất là Tuệ vô ngã);
  • < 4. Biết nhiều hơn đệ tử trong bất cứ chủ đề nào đang dạy;
  • < 5. Hăng hái nhiệt tình khi dạy đệ tử;
  • < 6. Học vấn uyên thâm, đủ khả năng dựa vào đó để nêu ví dụ, trích dẫn;
  • < 7. Chứng ngộ tánh không. Nếu được thì trực chứng tánh không là tốt nhất. Nếu không, tối thiểu phải có sự quyết tâm tu chứng mãnh liệt, dựa trên nền tảng của niềm tin sâu xa nơi thuyết tánh không;
  • < 8. Có tài hùng biện và thiện xảo trong cách trình bày chánh pháp để lời dạy có hiệu quả;
  • < 9. Tâm từ bi sâu rộng, luôn quan tâm đến sự an nguy của đệ tử thỉnh pháp (có lẽ đây là đức tánh quan trọng nhất);
  • < 10. Có khả năng kiên trì giữ vững nhiệt tình và trách nhiệm đối với đệ tử, dù phải giảng nhiều lần cũng không chán mệt.

Ba phẩm hạnh đầu liên quan đến ba môn vô lậu học là Giới Ðịnh Tuệ. Những phẩm hạnh quan trọng khác là chứng ngộ tánh không là chân tánh của thực tại, và lòng từ bi đối với đệ tử. Ai muốn gánh vác vai trò đạo sư nhất định phải làm sao cho mình có được đầy đủ những phẩm hạnh nói trên.

Khi luận về mười phẩm hạnh này trong Lamrim Đại Luận, Lama Tông Khách Ba  có nhấn mạnh một điểm rất quan trọng, rằng người nào tâm chưa thuần thì không làm gì có thể thuần được tâm của người khác. Vậy bậc đạo sư trước tiên phải tự thuần phục tâm của chính mình. Lama Tông Khách Ba nói tiếp, muốn thành đạo sư thì phải tự thuần tâm của chính mình qua ba môn vô lậu học Giới Ðịnh và Tuệ.

Thêm vào đó, đạo sư không thể chỉ giảng Pháp qua một hai điểm hạn chế, mà phải có khả năng trình bày mỗi pháp tu qua cái nhìn tổng quan, thấu triệt vị trí của pháp tu ấy trong toàn bộ cấu trúc của đường tu giác ngộ.

Trong Lamrim Đại Luận, Lama Tông Khách Ba kết thúc phần này bằng lời nhấn mạnh rằng đệ tử tầm Thầy học đạo phải tự làm quen với mười phẩm hạnh nói trên, muốn phó thác tâm của mình cho người nào thì phải lùng kiếm những phẩm hạnh này nơi người ấy. Khi chọn đạo sư, ngay từ đầu quý vị phải xét xem người ấy có thật sự có được những phẩm hạnh nói trên hay không. Chịu khó làm theo như vậy thì sẽ bớt được hiểm nguy gặp phải vấn đề nghiêm trọng trên bước đường về sau.

Bằng không, quý vị có khi là dựa vào tiêu chuẩn sai lầm để đánh giá đạo sư. Ðiều này đã từng xảy ra ở Tây tạng. Người Tây tạng có thừa tín tâm nơi Phật pháp, nhưng trí tuệ không phải lúc nào cũng bằng được với tín tâm. Thay vì đánh giá đạo sư qua những phẩm hạnh bên trong, họ dựa những yếu tố bên ngoài để đánh giá, ví dụ xem tùy tùng quanh Thầy có được bao nhiêu con ngựa. Nếu Thầy đi giữa một đoàn xe đông đảo, họ sẽ xuýt xoa “chu choa ơi, hẳn phải là một vị thầy cao trọng lắm đây.” Họ cũng có khuynh hướng đánh giá đạo sư qua áo xống, mũ mão, v.v… lấy đó làm dấu chứng của trình độ chứng ngộ cao.

Sách kể rằng khi đức Atisa lần đầu tiên đến xứ Tây tạng, thông dịch viên của ngài là Nagtso Lotsawa cùng với quốc vương xứ Ngary tên Jangchub O đã gửi thư mời tất cả các vị Lama cao trọng trên đất Tây tạng đến cùng đón tiếp vị cao tăng Ấn độ này. Cả một đoàn Lama đông đảo kéo đến, vị nào cũng ngồi trên lưng ngựa cao nên từ xa đã có thể nhìn thấy. Tất cả đều mặc những bộ trang phục rất ấn tượng, đội mũ mão cầu kỳ, ví dụ như mũ hình đầu quạ. Khi thấy họ, đức Atisa lấy khăn che đầu tỏ vẻ sợ hãi, nói rằng “Ối chết! Ma Tây tạng đến rồi !” Phải chờ đến khi chư Lama xuống ngựa, cởi mấy lớp trang phục và gấm thêu ra hết, chỉ giữ lại lớp áo tăng sĩ, tiến đến gần đức Atisa, khi ấy đức Atisa mới thật hài lòng.

Nói về chuyện này cũng có thể nhắc lại câu chuyện cuộc đời của đức Milarepa, sáng như viên ngọc vương đỉnh trong số các bậc hành giả Tây tạng. Một ngày kia, có một vị lama tên là Naro Bönchung vì nghe danh đức Milarepa nên đến cầu kiến. Đến khi gặp được đức Milarepa, vị lama nọ ngạc nhiên sửng sốt, sau đó mách lại với người khác rằng “ông Milarepa này nổi tiếng đến thế, nhưng gặp rồi mới biết nhìn thật chẳng khác tên ăn mày.”

Ðiều này khiến tôi nhớ đến đức khiêm cung một vị lama cao trọng khác là đức Dromtönpa dòng Kadampa. Chuyện kể có lần Dromtönpa đi trên đường, tình cờ gặp một nhà sư Tây tạng. Nhà sư này đi bộ đã một lúc khá lâu nên rất mệt, chân bị đau nên cởi đôi ủng ra. Thấy Dromtönpa giống như một người cư sĩ tầm thường, vị sự nọ đưa giày nhờ cầm hộ. Dromtönpa lẳng lặng đón lấy đôi ủng nặng nề, vác lên vai. Ði được một quảng, đến ngang một tu viện, nhà sư nhìn thấy bao nhiêu tăng sĩ đều kéo ra xếp hàng dọc hai bên đường, rõ ràng là đang chờ để nghênh tiếp một người nào đó. Nhà sư nghĩ bụng “họ đâu biết mình sẽ đến, huống chi trang nghiêm đến như vậy, chắc không phải để đón mình.” Sư bèn quay qua hỏi Dromtönpa, “sự nghênh tiếp này rõ ràng là dành cho một người rất quan trọng. Ông có biết là ai không?” Dromtönpa trả lời, “có thể là tôi.” Nhà sư sửng sốt nhìn Dromtompa, nhận ra lỗi lầm của mình, quay lưng chạy tuốt, quên cả đôi giày.

Lại có một  ví dụ gần đây hơn nhiều. Vào khoảng đầu thế kỷ hai mươi, có một đại hành giả tên Dza Patrul Rinpoche. Ngài thật sự là bậc bồ tát cao trọng, là hiện thân của giáo pháp Nhập Bồ Đề Hạnh Luận của ngài Tịch Thiên (Shantideva). Dza Patrul Rinpoch có nhiều đệ tử, nhưng vẫn thường sống cuộc đời của hành giả lang thang. Bao giờ dừng chân ở một nơi, Ngài lại bắt đầu có đệ tử và thí chủ. Ðược một lúc sẽ cảm thấy quá nhiều nên lại cất bước lang thang tìm nơi hoang tịch.

Có một lần trong lúc lang thang như vậy, Dza Patrul Rinpoche đến tá túc ở nhà một bà lão, làm người giúp việc trong khi theo đuổi việc tu. Một hôm, nhằm lúc Ngài đang ra ngoài đổ chậu phân cho bà cụ, có mấy vị lama ghé vào nói với bà cụ rằng họ nghe nói sư phụ của họ hình như đang đâu đó quanh đây, không biết bà cụ có gặp không. Bà cụ hỏi hình dáng sư phụ của quí thầy như thế nào. Mấy vị lama mới tả lại cho bà cụ nghe sư phụ của họ tướng mạo ra sao, áo quần hay mặc như thế nào v.v., bà cụ giật mình hiểu ra người đang đổ chậu phân cho mình ngoài kia chính là vị đại hành giả Dza Patrul Rinpoche. Bà cụ xấu hổ đến mức chỉ còn biết bỏ chạy giống như vị sư trong câu truyện trước. Chuyện này do Khunu Lama Tenzin Gyaltsen khi còn sinh tiền kể lại cho tôi nghe.

Tất cả những câu truyện trên đây đều chỉ nói lên một điều, đó là bậc chân sư Đại thừa phải là người ưa thích sự đơn giản, khát khao được sống vô danh và, như người Tây tạng thường nói, trốn trong cảnh đơn độc như một con thú bị thương. Truyền thống Tây tạng nói rằng bậc đạo sư Đại thừa phải có ít nhất là hai đức tính cơ bản. Một là từ tận đáy lòng phải thấy kiếp sau quan trọng hơn kiếp hiện tại, vì nếu không thì làm gì cũng không thành Phật pháp. Hai là phải thấy sự an nguy của người khác quan trọng hơn của chính mình, vì nếu không thì làm gì cũng không thành pháp Đại thừa.

>> 3.4. PHẨM HẠNH CỦA ĐỆ TỬ

Trong Lamrim Ðại Luận, Lama Tông Khách Ba nói tiếp theo về ba phẩm hạnh chính yếu của hàng chân đệ tử:

  • < 1. có tâm địa khách quan phóng khoáng;
  • < 2. có trí thông minh biết phân biệt phải trái, đúng sai;
  • < 3. có tấm lòng nhiệt tình và khát khao Phật pháp.

Tinh thần khách quan phóng khoáng luôn là yếu tố then chốt, bất kể muốn học gì. Định kiến thiên vị là chướng ngại của trí tuệ. Tinh thần khách quan sẽ giúp quý vị bước chánh đạo, giữ được tâm nguyện động cơ đúng đắn. Kinh của Phật và Bảo Hành Vương Chính Luận (Precious Garland) của ngài Long-thọ đều có nhấn mạnh về điều này, nêu ra bốn sai lầm khi dấn thân hành trì Phật pháp, như sau:

  • < 1. Tu vì luyến chấp một tông phái hay một tập quán riêng lẻ nào đó;
  • < 2. Tu vì hận thù, hay vì chống đối;
  • < 3. Tu để tạm lánh tai nạn đang xảy ra, hay thấy sắp xảy ra;
  • < 4. Tu vì ngu muội.

Nói về điểm thứ nhì, có khi người ta vì quá ghét một điều gì đó nên chọn bất cứ thứ gì đối nghịch. Ví dụ ở Ấn độ có người vì phản kháng chế độ xã hội giai cấp nên chọn Phật giáo. Họ chọn Phật giáo chỉ vì có ác cảm với truyền thống tôn giáo cổ truyền của họ.

Phẩm hạnh thứ hai chân đệ tử cần phải có là trí thông minh. Điều này cũng rất quan trọng vì phải có trí thông minh mới có được khả năng phân biệt đúng sai v.v…

Khi giảng về phẩm hạnh này và về thái độ cung cách mà đệ tử phải có khi đối trước đạo sư, Lama Tông Khách Ba dạy rằng đệ tử đối với sư phụ phải như người con hiếu thảo đối với cha mẹ. Nói vậy không có nghĩa phải đưa mũi của mình cho người nào xỏ dắt đi cũng được, mà chỉ tin nơi người có đủ khả năng phẩm cách dẫn đạo. Lama Tông Khách Ba trích luật tạng để giải thích thêm về điểm này, nói rằng nếu sư phụ nói điều gì mâu thuẫn với chánh pháp thì đệ tử không được nghe theo. Một đoạn khác nói rằng nếu sư phụ nói điều gì nghịch với khuôn khổ chung của Phật pháp, đệ tử phải trỏ ra điểm sai lầm này với sư phụ.

Việc này làm tôi nhớ đến một câu chuyện. Geshe Sherab Gyatso là một đạo sư Tây tạng, và cũng là một học giả uyên bác. Ngài thường dự các buổi thuyết pháp của sư phụ mình là Muchog Rinpoche. Mỗi khi Muchog Rinpoche nói điều gì hay, Geshe Sherab liền lập tức cất lời khen ngợi, rằng: “Ðúng rồi, lời giảng đầy uy lực, tạo cảm hứng sâu xa!” Tuy vậy nếu Muchog Rinpoche nói điều gì mâu thuẫn với lời Phật dạy, Geshe Sherab lập tức phản đối, nói rằng “không được, không được, không ai có thể nói lời như vậy được.”

Phẩm hạnh thứ ba là lòng nhiệt tình khát khao Phật pháp. Mở đầu Lamrim Ðại Luận, Lama Tông Khách Ba có nói về tâm nguyện của mình khi soạn bộ luận này, dành cho người có tâm địa phóng khoáng khách quan, có trí thông minh, và có lòng khát khao muốn làm sao cho kiếp làm người của mình trở nên có ý nghĩa. Ðể kiếp người trở nên có ý nghĩa, quý vị cần phải có tấm lòng chân thành khát khao Phật pháp, nếu không thì học gì cũng chỉ như vẽ một ngọn đèn, không thể chiếu sáng được gì, hiểu biết của quý vị vĩnh viễn sẽ chỉ là kiến thức suông mà thôi.

Chúng ta có thể gặp những lời khuyến khích tương tự khi đọc các tác phẩm của chư cao tăng xứ Ấn. Ngài Sư tử hiền (Haribhadra) khi viết sớ giải bộ luận Hiện Quán Trang Nghiêm của đức Di Lạc, trong câu kệ tán dương Ngài có nhắc đến câu chuyện của sư phụ mình là đức Vimuktisena, người đã viết bộ luận giải hệ kinh Bát Nhã. Sư phụ của Vimuktisena là Vasubandhu cũng có viết luận giải về hệ kinh Bát Nhã, nhưng giải thích ý nghĩa cứu cánh của hệ kinh này thuận theo quan điểm của Duy thức tông. Vimuktisena nhận thấy sư phụ của mình, Vasubandhu, đã không nắm được ý nghĩa rốt ráo của hệ kinh này, nên soạn một bộ luận để sửa sai. Ðiều này cho thấy dù tôn kính Thầy rất mực, đệ tử vẫn phải đủ trí thông minh để nhìn thấy bất cứ điểm sai nào Thầy mình đã phạm.

Một ví dụ khác là câu chuyện của đại sư xứ Ấn tên là Pháp Xứng [Dharmakirti]. Sư phụ của ngài là đệ tử của bậc đại hiền thánh thế kỷ thứ bảy tên là Trần Na [Dignana]. Ngài Pháp Xứng thường dùng sách của ngài Trần Na để học về nhận thức luận. Khi cùng đọc sách chung với sư phụ, ngài Pháp Xứng chợt nhận ra rằng ngay đến sư phụ của mình cũng không hiểu hiết ý của ngài Trần Na. Khi ngài thưa điều này với sư phụ thì sư phụ gợi ý bảo ngài viết một luận giải, lấy kiến giải của sư phụ làm đối tượng phê bình.

Tất cả những ví dụ này đều cho thấy rõ ràng rằng chư đại đạo sư luôn giữ trong tim lời của chính đức Phật dạy cho đệ tử, rằng đừng vì kính ngưỡng mà tin Phật, hãy mang lời Phật dạy ra phân tích mổ xẻ như thợ vàng thử vàng, phân tích kỹ rồi thấy đáng tin cậy thì mới nên tin.

Ðại thừa có cả một truyền thống lâu đời lấy lời Phật ra phân tích mổ xẻ, diễn giải để xét xem kinh nào mang nghĩa thật (liễu nghĩa) có thể hiểu theo nghĩa đen, kinh nào mang nghĩa tạm (bất liễu nghĩa) cần được giải thích thêm. Ðây là việc làm cần thiết, vì có một số kinh Phật nếu hiểu theo nghĩa đen sẽ dẫn đến nhiều nghịch lý, ngược với kinh nghiệm thực chứng. Sự diễn giải này đến từ chư hành giả và đạo sư Ðại thừa với lòng tin kiên định chuyên nhất nơi đức Phật, có khi sẵn sàng vì chánh pháp mà xả bỏ tánh mạng. Ngay cả những bậc đạo sư tận tụy như vậy cũng vẫn thường mang lời Phật ra phân tích.

>> 3.5. XÂY DỰNG NỀN TẢNG NƯƠNG THẦY VỮNG CHẮC

Trong Lamrim Ðại Luận, Lama Tông Khách Ba tiếp tục giải thích phải làm gì để gầy dựng bồi đắp tâm nương dựa đúng cách nơi đấng đạo sư. Ngài viết  như sau “Nương dựa đạo sư là gốc rễ của đường tu, vì đạo sư cội nguồn của mọi lợi lạc nhất thời và cứu cánh.”  Câu này có nghĩa là gặp được bậc đạo sư chân chính thì sẽ được đạo sư khai mắt tuệ, dắt vào Phật đạo.

Muốn thật sự tu theo pháp nương dựa đạo sư thì phải tập luyện trên cả hai lãnh vực ý nghĩ và việc làm, nhưng nương dựa trong ý nghĩ mới là then chốt. Muốn nương Thầy từ trong ý nghĩ thì phải huân dưỡng hai phẩm hạnh cần thiết, đó là tin Thầy và kính Thầy. Chúng ta thường thấy trong giáo pháp lam-rim có trích dẫn những câu kinh thuộc hệ Kim cang thừa, dạy đệ tử phải thấy Thầy là Phật. Hiểu cho đúng nghĩa pháp tu này là điều tối quan trọng.

Khuyến khích đệ tử phải tu làm sao để có thể thấy được sư phụ của mình chính là đấng giác ngộ, điều này không có nghĩa là đệ tử nào cũng bắt buộc phải nương dựa đạo sư theo cách này. Nhìn lại cấu trúc toàn bộ giáo pháp lam-rim, giáo pháp Phật dạy được sắp xếp theo trình tự ba loại căn cơ, hàng sơ căn, trung căn [và một phần của thượng căn] được gọi là “pháp tu phổ thông. ” Chữ “phổ thông” cho thấy đây chưa phải là là trọn vẹn đường tu.

Giáo pháp sơ căn nói về nhu cầu cần khởi tâm nguyện muốn sinh vào thiện đạo, gồm những pháp hành liên quan đến tâm nguyện này. Giáo pháp trung căn dạy về ba môn vô lậu học Giới Ðịnh Tuệ, nhưng [cho dù là phần đầu của giáo pháp thượng căn] cũng chưa được dạy hết, vì vẫn thuộc lãnh vực của đại thừa hiển tông. Ý tôi muốn nói, đó là giáo pháp Lam-rim được viết ra với sự mặc định rằng mục tiêu tối hậu của người tu phải là bước vào Kim cang thừa để đạt đại giác ngộ. Vì vậy, mặc dù có nhắc đến việc phải thấy Thầy là Phật, nhưng điều này không có nghĩa là tu pháp nào cũng bắt buộc phải có cái tâm như vậy. Thấy Thầy là Phật chỉ cần thiết khi tu pháp đại thừa mật tông, không cần cho những pháp tu phổ thông.

Muốn thật sự có được cái tâm nương đạo sư thì phải ấp ủ một số tư duy suy nghĩ, đặc biệt là phải cảm nhận được một cách sâu xa tấm lòng từ bi của Thầy, nhờ vậy mà tin Thầy, kính Thầy. Nhưng bấy nhiêu chưa đủ. Mục đích chính của pháp tu  này là để khơi dậy lòng khát khao, siêng năng  tinh tấn hành trì. Nhờ huân dưỡng tấm lòng tôn kính đạo sư, từ từ quý vị sẽ hiểu được sâu hơn Thầy thật ra là hiện thân của những gì, nên đối với pháp hành sẽ tự nhiên thấy thiết tha tận tụy hơn. Không có phẩm cúng dường đạo sư nào quý hơn là tu đúng theo những gì Thầy dạy. Như đức Milarepa từng nói, “Tôi không có tiền tài vật chất gì để cúng dường Ân sư, nhưng vẫn có được cúng phẩm quí giá nhất, đó là sự tu và sự chứng.”

Chư đại đạo sư có câu nói rằng: “dù có thể thắc mắc không rõ thiền chỉ có giúp giải thoát được không, nhưng có một điều không chút hoài nghi, đó là niềm tin tưởng sâu xa nơi Thầy, tấm lòng tận tụy và tôn kính Thầy, nhất định sẽ mang lại giải thoát. Nói như vậy có nghĩa là với Kim cang thừa, nhất tâm tin tưởng sâu xa nơi Thầy thì nhất định sẽ có được sự tinh tấn vượt bực, bước những bước tiến vĩ đại trên đường tu.

Pháp Chakrasamvara có vị đạo sư xứ Ấn tên là Gandapa từng viết rằng chỉ một mình đạo sư có thể dắt bạn sang bờ giải thoát. Lama Tông Khách Ba giải thích rằng chữ “một mình” nói ở đây không phải là loại bỏ gì cả mà chỉ để nhấn mạnh vào tầm quan trọng của tâm tôn kính đạo sư trong Kim cang thừa. Tôn kính đạo sư không có nghĩa là không cần các pháp tu khác, vì chỉ với lòng tôn kính thì không thể giải thoát. Quý vị cần hiểu đúng bối cảnh để xác định ý nghĩa cho đúng. Nếu hiểu biết rộng rãi về trọn pháp tu nương dựa đạo sư, quý vị sẽ có khả năng đương đầu với vô số vấn đề khủng hoảng thường thấy hiện nay liên quan đến pháp tu này.

>> 3.6. HỎI ĐÁP

Hỏi. Nếu tôi hiểu không sai lời Ngài dạy lúc nãy, việc trỏ ra sai lầm của sư phụ là một phần của pháp tu nương dựa đạo sư. Trước tiên, xin hỏi phải nên làm gì khi không thể nào lên tiếng vì những người xung quanh sư phụ đều hết lòng ngăn cản không để cho ai có ý kiến? Thứ hai, khi cái nhìn của đệ tử hoàn toàn trái ngược với lời dạy của sư phụ thì phải làm sao?

Đáp. Khi sư phụ phạm sai lầm cần được trỏ ra, người xung quanh như thị giả hay đệ tử thân gần có thể cố tình bưng bít hoặc ngăn cản không cho người khác nói chạm đến vấn đề này trước mặt sư phụ. Làm như vậy có khi chỉ vì những động cơ rất hồn nhiên, họ có thể chỉ là muốn bảo vệ giúp đỡ cho sư phụ, vì ngu muội hơn là vì cố tình muốn thao túng tình hình, nhưng dù là như vậy cũng vẫn có nguy cơ làm hại sư phụ. Thành ngữ Tây tạng có câu nói rằng đệ tử mà tôn thờ sư phụ quá đáng sẽ có khả năng biến bậc chân sư thành kẻ giả mạo.

Cũng có khi thị giả và đệ tử thân cận làm như vậy vì những động cơ thế tục hơn, ví dụ như vì không muốn công khai việc làm sai quấy của sư phụ, sợ sư phụ mang tiếng xấu. Ðiều này hoàn toàn sai, bạn phải tìm cách bày tỏ mối quan tâm của mình cho sư phụ biết. Tuy vậy, phải bảo đảm là động cơ của mình thật sự trong sáng, điều này cũng rất quan trọng. Không được hành động vì bực bội sư phụ, hay vì chỉ muốn bày tỏ ý bất bình của mình. Giáo pháp đại thừa có dạy, chúng ta phải làm sao cho lời dạy của đạo sư luôn thuận với chánh pháp. Và cũng phải tu theo câu “y pháp bất y nhân.”

Ðể trả lời cho câu hỏi thứ hai, phải nói rằng rất hiếm khi nào có thể bất đồng ý kiến với sư phụ trên tất cả mọi vấn đề. Ðiều này hầu như không thể. Vậy sư phụ dạy lời nào thuận với chánh pháp thì đệ tử phải tiếp nhận hành trì, dạy lời nào không thuận thì bỏ qua.

Hỏi. Muốn giác ngộ có cần phải có đạo sư, hay là chỉ cần học pháp, sống đạo đức, nghe pháp và tu thiền là đủ?

Đáp. Ðương nhiên là có thể tu, học, và sống đạo đức mà không cần tìm đạo sư. Tuy vậy, phải hiểu rằng khi nói đến “giác ngộ,” chúng ta không phải là đang nói đến thứ gì có thể đạt được sau vài ba năm, mà là nói đến loại chí nguyện có khi phải bỏ ra nhiều đời nhiều kiếp. Nếu quý vị không tìm được vị Thầy nào xứng đáng để giao phó tâm linh thì tất nhiên là giao tâm mình cho Phật Pháp chân chính để mà tu thì tốt hơn.

Để tôi kể cho quý vị nghe một câu chuyện liên quan đến việc này. Đức Dromtönpa vốn là một đấng đại đạo sư, hiện thân của pháp tu hoán chuyển ngã tha. Đến cuối đời, Ngài tận tụy chăm lo cho người cùi, sống cùng họ, rồi mất vì chứng bịnh này, nhất là phần ngực, bị hư hỏng rất nhiều.

Khi nằm hấp hối, đức Dromtönpa đặt đầu vào lòng đại đệ tử là ngài Potowa, và thấy đệ tử mình khóc. Đức Potawa khi ấy nói, “Thầy đi rồi, chúng con biết giao phó con đường tu tâm của mình cho ai, biết chọn ai làm đạo sư?”  Đức Dromtönpa trả lời, “Con ơi đừng bận tâm. Thầy đi rồi, các con vẫn hãy còn sư phụ ở cạnh bên mình, đó là tam tạng kinh điển. Hãy giao phó tâm mình cho tam tạng kinh điển. Hãy lấy tam tạng kinh điển làm Thầy.”

Tuy là như vậy, khi chúng ta tiến dần trên đường tu, sẽ có lúc chắc chắn sẽ được diện kiến bậc Thầy xứng đáng và hợp ý.

Hỏi. Nhiều kinh sách nói rằng mục đích tu là để thành Phật. Thế nhưng có một số sư phụ lâu năm người Tây phương dường như có khuynh hướng thiên về những mục tiêu bé nhỏ hơn, như thể tu thành Phật là chuyện không thể thực hiện được. Khuynh hướng mới này chấp nhận tâm luân hồi được xen kẽ với những giai đoạn tâm linh, có lẽ là vì những vị thầy siêng năng này không có khả năng đạt quả giải thoát cho chính mình. Trong giai đoạn đức Phật gọi là thời kỳ đen tối này, mục tiêu một đời thành Phật có còn là mục tiêu khả thi?

Đáp. Nếu hiểu về quá trình thành tựu quả vị Phật theo quan điểm của đại thừa thì nói tu ba thời kỳ vô số để thành Phật là hãy còn là nhanh. Kinh Phật có nơi nói tới bốn mươi thời kỳ vô số! Tuy vậy, theo giáo pháp Kim cang thừa nói chung, hành giả thuộc trình độ chứng ngộ cao có thể kéo dài mạng sống của mình và thành Phật ngay trong đời này. Mật tông tối thượng du già chấp nhận rằng ngay trong một kiếp người ngắn ngủi vẫn có thể tu thành Phật.

Ngoài ra còn có chuyện thành Phật sau ba năm nhập thất, điều này có khác gì mấy câu tuyên truyền biểu ngữ. Tôi nói vậy có phần đùa, nhưng cũng có phần nghiêm chỉnh. Càng chờ đợi tu nhanh bao nhiêu thì nguy cơ thoái chí càng lớn bấy nhiêu. Đâu cần gì phải hỏi tu cần ba thời kỳ vô số hay là bốn mươi thời kỳ vô số mới thành Phật nếu trong tim đã dấy lên cảm xúc sâu thẳm mạnh mẽ như trong lời nguyện này của ngài Tịch thiên Shantideva:

Không gian chưa cùng
Chúng sinh chưa tận
Nguyện tôi còn vẫn
Ở lại chốn này quét  khổ thế gian.

Thời gian dài hay ngắn đâu có là gì khi tâm của quý vị đã đo bằng thước đo vô lượng. Lại nữa, học kinh sách đại thừa dạy về “hạnh nhẫn giáp bào” của bồ tát, thời gian cũng không có nghĩa lý gì. Đây là những cảm xúc dạt dào nguồn cảm hứng, và nghị lực.

***


| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |



| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |


> CHƯƠNG 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU

>> 4.1. CĂN CƠ NGƯỜI CẦU PHÁP

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 2

| ND-2. Căn cơ người tu / vốn có 3 loại / thấp, vừa và cao / vì vậy thầy sẽ / nói rõ căn cơ / của từng loại người.

Trong Lam-rim Ðại luận, sau khi giải thích cách nương dựa đạo sư rồi, Lama Tông Khách Ba giảng tiếp đến quá trình dấn thân vào đường tu giác ngộ. Điều này gồm hai phần: làm sao để khởi tâm hoan hỉ muốn tu; và làm sao để thật sự dấn thân vào đường tu.

Muốn tu có kết quả thì phải có ý chí và nghị lực. Muốn có ý chí và nghị lực thì phải quán niệm về thân người quý giá, qua ba điểm sau đây:”

  • < 1. thấy ra thân người này mang đến cho ta cơ hội quý giá như thế nào;
  • < 2. hiểu cơ hội ấy hiếm hoi như thế nào;
  • < 3. hiểu cơ hội ấy có ý nghĩa lớn lao ra sao.

Có được sự khát khao quyết chí muốn tu rồi, khi ấy phải nhắm đến ba mục tiêu hành trì như sau:

  • < 1. để tái sinh cõi lành;
  • < 2. để giải thoát luân hồi;
  • < 3. để đạt đại giác ngộ.

Dẫn đến ba mục tiêu nói trên là ba con đường. Pháp Lamrim, như đã thấy, trình bày ba đường tu này theo khuôn khổ ba loại căn cơ.

Tâm nguyện của người tu thuộc hàng sơ căn là không đọa sinh cõi dữ, tái sinh cõi lành. Pháp tu chính giúp thực hiện điều này là giữ giới, tránh mười việc ác là giết người; trộm cướp; tà dâm; nói lời không thật; nói lời chia rẽ; nói lời thô ác; nói lời vô ích; tham lam; ác ý; và tà kiến. Đường tu này đòi hỏi người tu phải có ý thức rõ ràng về luật nhân quả. Mười ác nghiệp nói trên bao gồm tất cả mọi biểu hiện tiêu cực của thân khẩu và ý. Biết tự giữ giới không để mình phạm mười việc ác (thập ác) thì đó chính là mười việc thiện (thập thiện). Tu theo như vậy sẽ đủ duyên để kiếp sau tái sinh cõi lành.

Tâm nguyện của người tu thuộc hàng trung căn là thoát sinh tử luân hồi. Để thực hiện điều này, đường tu trung căn chủ yếu dạy cách tu ba môn vô lậu học Giới Ðịnh Tuệ.

Tâm nguyện của người tu thuộc hàng thượng căn là thành tựu đại bồ đề, nói cách khác, thành tựu quả vị Phật. Pháp tu chính giúp thực hiện điều này là sáu hạnh ba la mật, dựa trên nền tảng của tâm bồ đề. Tâm bồ đề là tâm nguyện vị tha, vì lợi ích của chúng sinh mà quyết chí tu cho thành Phật. như vừa nãy có nói.

Mỗi đường tu nói trên đều bao gồm những pháp hành khác nhau, nhằm diệt bỏ những điều khác nhau. Nói ví dụ, đối với mục tiêu đầu tiên trên đường tu là tái sinh thiện đạo thì điểm chính cần diệt bỏ là biểu hiện tiêu cực của phiền não, như mười ác nghiệp thân khẩu ý. Đối với mục tiêu thứ hai là giải thoát luân hồi thì điểm chính cần diệt bỏ là phiền não gốc rễ mọi khổ đau. Đối với mục tiêu thứ ba là đạt quả đại giác ngộ thì điểm chính cần diệt bỏ là tập khí phiền não vi tế còn sót lại, làm che chướng không cho chúng ta đạt trí giác toàn hảo, trí toàn giác, của Phật.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 3

| ND-3. Có người vận dụng / đủ loại phương tiện // để tìm cho mình // lạc thú thế gian. // Những người như vậy / là bậc sơ căn.

Trong câu kệ này, chữ “phương tiện” là để nói đến công phu quy y Tam Bảo, với các pháp quán như là quán cái chết, quán chết là điều đương nhiên, theo luật nhân quả. Tiếp theo, câu kệ định nghĩa đặc điểm của hàng căn cơ nhập môn, gọi là “sơ căn,” ý muốn nói đến những người mang tâm nguyện muốn đạt mục tiêu hành trì thứ nhất là tái sinh vào cõi lành nên ra sức giữ giới, lánh mười ác nghiệp, vì tin tưởng sâu xa nơi nhân quả.

>> 4.2. KHỞI TÍN TÂM NƠI NGHIỆP

Theo quan điểm Phật giáo thì hoạt động vi tế nhất của nghiệp chỉ có trí toàn giác của Phật mới thấy rõ; người phàm phu không làm gì hiểu được mức độ sâu kín nhất của nghiệp. Vì vậy, muốn thâm tín nhân quả thì phải thâm tín giá trị và uy lực của Tam Bảo. Quý vị phải đặt pháp hành của mình trên nền tảng của niềm tin tưởng sâu xa vững chắc nơi Phật Pháp và Tăng.

Chỉ dựa vào lời Phật dạy là không đủ để nuôi cho niềm tin này lớn mạnh. Như đã thấy, việc này còn đòi hỏi chúng ta dựa vào sự phân tính phán đoán của chính mình. Nhìn vào Phật pháp có thể thấy ra được hai loại mục tiêu cơ bản: mục tiêu phụ trước mắt là giúp chúng sinh tái sinh thiện đạo, còn mục tiêu chính rốt ráo là giúp chúng sinh vĩnh viễn thoát khổ đau sinh tử luân hồi.

Nhìn lời Phật dạy về vấn đề phức tạp của phiền não và cách đối phó phiền não, quý vị sẽ thấy toàn là chuyện hiển nhiên. Chúng ta ai nấy đều đã rất quen với phiền não, vì vậy những gì Phật dạy về vấn đề này, chúng ta có thể hiểu bằng kinh nghiệm cá nhân, rồi từ từ sẽ nhận ra sự thật trong lời Phật dạy. Tương tự như vậy, Phật dạy những gì liên quan đến mục tiêu giải thoát luân hồi, ví dụ như pháp tu về vô thường, về Tứ diệu đế, về tánh không vân vân, đều có thể hiểu bằng lý trí phân tính quán xét. Từ đó suy rộng sang phần lãnh vực vi tế của nghiệp, chúng ta có thể kết luận rằng Phật khi giảng về lãnh vực quan trọng nhất là giải thoát luân hồi đã không nói lời điên đảo, vậy tại sao lại nói lời điên đảo khi giảng về luật nhân quả? Từ đó có thể bắt đầu khởi niềm tin vào luật nhân quả. Hay là suy xét thấy không lý do gì Phật lại dùng lời hư ngụy để nói về nghiệp, hay suy xét vì sao mà kinh điển nói về nghiệp đều không hề có sự mâu thuẫn.

Tóm lại, tin tưởng sâu xa nơi lời Phật dạy rồi thì tự nhiên sẽ có được niềm tôn kính tin tưởng Phật. Nhờ đó sẽ nhận ra được giá trị của lời Phật dạy về nghiệp. Lấy đó làm nền tảng, dấn thân hành trì giữ giới, tránh mười ác nghiệp.

>> 4.3. BA MỨC ĐỘ QUY Y

Khi gặp cảnh hung hiểm chúng ta luôn tìm sự chở che. Cũng là như vậy, khi tu theo Phật pháp, sợ cảnh đọa rơi cõi dữ thì tìm sự chở che của Tam Bảo, Phật Pháp và Tăng.

Phật giáo dạy tâm quy y có ba mức. Ở mức thứ nhất, người tu tìm sự chở che vì sợ hiểm họa trước mắt là rơi vào cảnh khổ ác đạo luân hồi. Quá khiếp sợ viễn tượng hãi hùng cảnh khổ ác đạo nên tìm về nương dựa nơi Tam bảo, cầu được sự chở che. Mức độ quy y này phù hợp với người tu thuộc hàng sơ căn, cầu tái sinh thiện đạo.

Khi nghĩ đến khổ đau cõi ác đạo, quý vị đừng nên nghĩ rằng đây là cảnh xa xôi, trong tương lai dịu vợi. Thật ra kiếp này và kiếp sau chỉ cách nhau trong hơi thở. Thở ra không hít vào là kiếp sau đã ở ngay trước mặt. Ðây không phải là chuyện tương lai xa vời, mà liền ngay trước mắt. Ðể cảm nhận đúng tình huống cấp bách này, chúng ta cần quán về vô thường, đặc biệt là quán về cái chết: chết là điều chắc chắn sẽ đến; chết đến lúc nào không thể biết trước; và khi chết đến, đâu mới là điều thật sự có ích cho ta.

Tâm quy y ở mức thứ hai là cái tâm sợ khổ đau phủ khắp thấm đẫm toàn bộ cảnh sinh tử luân hồi [hành khổ], không muốn bị vướng kẹt trong vòng thao túng của nhiễm tâm phiền não nên tìm sự chở che của Tam bảo, vì Tam bảo vốn là hiện thân của thoát khổ luân hồi, đặc biệt là thoát hành khổ. Mức độ quy y này phù hợp với  với người thuộc hàng trung căn, cầu niết bàn giải thoát.

Tâm quy y ở mức thứ ba, mức cao nhất, là tâm quy y của Phật tử Đại thừa. Đây là cái tâm vì muốn thoát hai cực đoan, chấp sinh tử và chấp niết bàn biệt giải thoát, nên cầu quả vị Phật, thành tựu pháp thân và sắc thân để độ sinh. Nhìn tâm quy y theo góc độ này thì hiểu được lời của đức Di Lạc, rằng chỉ một mình Phật là nơi quy y chân chính và cứu cánh, vì chỉ có bậc toàn giác mới là hiện thân của mọi sự toàn hảo này. Ðức Di Lạc nói tiếp, tâm giác ngộ của Phật bao gồm cả Pháp bảo, và cũng biểu hiện cho sự toàn hảo rốt ráo của Tăng bảo.

>> 4.4. GIÁ TRỊ VÀ TÁNH CHẤT TẠM BỢ CỦA KIẾP NGƯỜI

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 10

| CDC-10. Thân người ung dung / quí giá còn hơn / bảo châu như ý // Đến chỉ một lần / cực kỳ khó gặp, // Lại dễ mất như / tia chớp giữa trời. // Thấy rõ kiếp người / chóng vánh như vậy, // Chuyện đời khác gì / trấu lép loạn bay. // Nên ngày lẫn đêm / phải luôn tận dụng / tinh túy thân này. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy, // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Câu kệ này trình bày nội dung pháp quán giúp ta thấy rõ giá trị của thân người mình đang có đây. Trước nhất, phải nhìn cho ra tính chất của đời sống này là gì; thứ hai, cần suy nghĩ xem nó hiếm hoi quý giá đến mức nào; thứ ba, cần ý thức nó phù du ra sao, có thể mất bất cứ lúc nào. Dựa vào ba pháp quán này để chiêm nghiệm về ba sự thật quan trọng sau đây:

  • < 1. chết là điều chắc chắc sẽ đến;
  • < 2. chết đến lúc nào không ai biết trước
  • < 3. khi chết đến, chỉ có pháp hành mới có thể giúp ta.

Phần đông chúng ta đều nghĩ rằng ngày mai mình vẫn hãy còn sống. Trong hiện tại sức khỏe và thể chất vẫn bình thường, không có gì đe dọa mạng sống cả, nên chúng ta có đủ lý do chính đáng để tin hết 99% rằng ngày mai mình sẽ không chết. Nhưng 1% còn lại thì sao? Không ai có thể nói chắc 100%  rằng ngày mai mình vẫn còn sống đây. Nhỡ khi chết đến, tài của nhiều đến đâu cũng chẳng để làm gì; gia đình, thân nhân, bè bạn cũng vậy, có giúp được gì đâu. Ngay cả tấm thân mà ta yêu quý rất mực kia cũng thành vô dụng. Khi giờ chết điểm, không một ai có thể giúp; chúng ta phải tự một mình bước qua cửa ải này.

Bây giờ câu hỏi lớn xuất hiện: sau khi chết, dòng tâm thức này có sẽ biến mất theo? Ðây là câu hỏi hệ trọng,  không mới mẻ gì, đã được giải quyết từ hàng ngàn năm. Thế nhưng khi khi cái chết ập đến việc gì cũng biến thành vô dụng, chỉ thiện đức có được trong tâm nhờ tu theo Phật Pháp mới thật sự giúp ích được cho ta.

>> 4.5. TU THIỀN LÀ HÀNG PHỤC TÂM MÌNH

Muốn phát triển thiện đức trong tâm thì phải siêng năng tu tập và hành thiền. Tu Thiền là huấn luyện tâm, chọn một thứ gì đó làm đề mục rồi tập cho tâm quen dần với đề mục ấy. Vấn đề là trong đời sống hàng ngày, chúng ta luôn để cho phiền não nhiễm tâm thao túng, đủ loại tâm lý bất thiện tràn ngập trong tâm để lại bị cuốn thêm vào biết bao nhiêu là vòng quay mê mờ khổ não.

Tầm đạo là tìm xem có cách nào đảo ngược vòng quay nói trên, làm chủ tâm mình, không để cho tâm rơi vào tầm khống chế của cảm xúc bốc đồng tiêu cực. Muốn được như vậy thì cần phải liên tục huấn luyện tâm, cho quen với đề mục mình chọn, và đề mục này dĩ nhiên phải tích cực. Cứ làm như vậy tâm sẽ có được chút định lực, dựa vào đó để từ từ nhiếp tâm chuyên nhất nơi đề mục. Đây chính là ý nghĩa và mục tiêu của pháp thiền trong Phật giáo.

Quen thuộc với loại ý nghĩ cảm xúc nào thì loại đó sẽ dễ dàng hiện ra trong tâm của chúng ta hơn. Quen với ý nghĩ cảm xúc tiêu cực thì tâm tự nhiên sẽ tiêu cực. Còn quen với ý nghĩ cảm xúc tích cực thì tâm tự nhiên sẽ tích cực.

Ðiều này ai cũng có thể tự xét bằng kinh nghiệm bản thân. Ví dụ như khi học một môn gì, lúc ban đầu thường thấy khó khăn mù mịt, không hiểu gì hết. Nhưng càng học càng sáng, rồi sẽ có lúc chỉ cần nghĩ đến là hiểu rõ. Không phải vì môn học tự nhiên hóa dễ mà chỉ vì sự hiểu của chúng ta trở nên sâu rộng nhờ tiếp cận thường xuyên.

Sự thay đổi xảy ra theo quá trình tuần tự. Cứ ra sức quét cái nhìn hư vọng về thực tại, tự nhiên sẽ từng bước sáng ra. Điều này cũng có thể quan sát qua kinh nghiệm bản thân. Ban đầu có thể là chúng ta cố thủ với cái nhìn hoàn toàn trái ngược với thực tại, nhưng nhờ vận dụng lý trí truy tìm chân tánh thực tại, đến một lúc nào đó vọng tâm sẽ yếu đi, chúng ta chuyển sang giai đoạn hoài nghi, dù vẫn nghiêng về cái thấy hư vọng nhưng sự cố chấp đã nới lỏng được đôi phần.

Tiếp tục vận dụng lý trí tìm hiểu sâu hơn, thái độ hoài nghi từ từ sẽ quân bình, bắt đầu nghiêng về cái thấy đúng với thực tại.

Tiếp tục quán chiếu tìm hiểu sâu hơn nữa, đến một lúc nào đó sẽ có được hiểu biết kiến thức sáng suốt về thực tại, tin chắc sự vật vốn là như vậy, rằng bản tánh của thực tại thật sự là như vậy.

Tiếp tục quán chiếu càng sâu hơn nữa, niềm tin này sẽ càng lúc càng mạnh, trở thành niềm xác quyết đến từ sự tư duy quán chiếu. Đây là điều được gọi là “nhận thức đúng đắn,” là cái nhìn chính xác về thực trạng của sự vật.”

Nếu cứ tiếp tục theo đuổi quá trình này, liên tục đặt  tâm mình nơi đề mục là bản tánh của thực tại, đến một lúc nào đó không những có được trí tuệ đến từ kiến thức và trí tuệ đến từ suy luận, mà còn đạt được một loại trí tuệ đến từ kinh nghiệm tu chứng. Ở bước đầu, chứng ngộ này phần lớn lệ thuộc vào quá trình tư duy suy luận nên gọi loại là “trí tuệ tu chứng có dụng công.”

Tiếp tục quán chiếu sâu hơn, đến một lúc nào đó chỉ cần chú tâm vào đề mục là tự nhiên nhớ lại kinh nghiệm chứng ngộ sâu xa. Đó là lúc đạt được “”trí tuệ tu chứng không dụng công.””

Nói vậy đủ thấy dù chỉ để tìm hiểu một đặc điểm của thực tại, tâm cũng phải chuyển biến theo quá trình tuần tự qua từng mức độ trí tuệ và chứng ngộ càng lúc càng sâu hơn. “

Nhìn từ khía cạnh khác, cũng có thể nói rằng trí tuệ phát triển qua ba giai đoạn. Đầu tiên là trí tuệ có được nhờ học hỏi, nghiên cứu [văn tuệ], ví dụ nhờ nghe và học pháp. Thứ hai là trí tuệ có được không phải có nhờ học mà nhờ tự mình tư duy quán chiếu [tư tuệ]. Thứ ba là trí tuệ đến từ kinh nghiệm chân tu thật chứng [tu tuệ].

Nói về tu thiền, phải biết pháp thiền có hai mặt. Một là “nhiếp tâm,” là “thiền chỉ,” còn có khi gọi là “tịnh chỉ.” Hai là “quán chiếu,”  là “thiền quán,” hay là “tuệ quán.” Hãy thử lấy ví dụ khi chúng ta tu để khởi tâm tôn kính đạo sư, hay là tôn kính Phật.

Ban đầu quý vị có thể, nói ví dụ, liên tục nhớ nghĩ đến đức tính của Thầy mình qua nhiều phương diện khác nhau để nuôi dưỡng niềm tin chân thành, sâu xa và vững chắc nơi sư phụ. Nội dung để phân tích quán xét càng phong phú thì cảm giác gần gũi tin tưởng càng tăng. Đó là thiền quán.

Quán như vậy cho đến khi trong tim dấy lên cảm giác gần gũi, tôn kính, bấy giờ hãy để tâm an trú trong cảm xúc này. Đó là thiền chỉ. Giữ tâm chuyên nhất bất loạn được một lúc, cảm xúc ấy sẽ từ từ bắt đầu giảm độ rõ và sáng. Thấy điều này xảy ra thì siết tâm chặt lại bằng cách quán về đức tính của Thầy.

Khi thiền về vô thường hay vô ngã, quý vị lấy vô thường hay vô ngã làm đề mục, nhiếp tâm vào đó, cố gắng hiểu sâu hơn về đề mục tu thiền của mình. Pháp thiền này cũng vậy, quý vị vận dụng thiền quán, liên tục tư duy về đủ loại lý lẽ cho thấy sự vật đều là vô thường, hay đều không có ngã tánh. Bao giờ đến được với kết luận rằng hết thảy sự vật đều vô thường, hay đều không có ngã tánh, khi ấy hãy nhiếp tâm an trú trong kết luận này. Duy trì trạng thái an định này càng lâu càng tốt.

Ðó là một vài ví dụ cho thấy vì sao phải phối hợp chỉ quán thì tu thiền mới có kết quả.

Nhìn lại chính mình trong đời sống hàng ngày, quý vị sẽ thấy mình lúc nào cũng đang chỉ và quán. Lấy ví dụ, ý tưởng của quý vị luôn bị phiền não tác động, luyến người mình thương, hận người mình ghét. Khi thương ai, quý vị luôn mải mê nhớ đến dáng vẻ đáng yêu dễ mến của người đó, không ngừng biện hộ, bồi đắp, sống mãi trong cảm giác lưu luyến. Khi ghét ai cũng vậy, quý vị luôn viện đủ lý do để tăng bồi cảm giác ghét hận, “nó làm điều này,” “nó làm điều kia,” vân vân, rồi nuôi mãi cảm giác ghét hận. Vậy có khác gì thiền chỉ quán, quý vị vốn đã quá quen với những điều này.

Khi tu, chúng ta nên áp dụng những điều quen thuộc vào lãnh vực xa lạ là lãnh vực tu tập. Nhờ áp dụng chỉ quán chúng ta có thể mang lại những thay đổi cần thiết. Tuy vậy vẫn còn một yếu tố thứ ba cần phải có.

Lấy ví dụ có hai người cùng tu theo sự hướng dẫn của cùng một vị thầy, cùng học và hành thiền qua một khoảng thời gian dài bằng nhau. Một người học đến đâu hiểu đến đó, khi tu thiền, chứng ngộ cũng đến một cách dễ dàng, còn người kia lại thấy khó khăn vô cùng, mặc dù cả hai đều siêng năng cố gắng nhiều bằng nhau.

Phật giáo giải thích vấn đề này bằng lượng công đức và mức độ nghiệp chướng của từng người. Ví dụ những người sinh sống bằng nghề nghiệp bất thiện sẽ tự tạo cho mình nhiều nghiệp chướng hơn người khác. Tôi biết có nhiều vị hành giả xả bỏ việc đời, tu hành miên mật, có vị nói với tôi rằng khi dùng phẩm cúng dường của một số người nào đó, công phu hành trì của họ bị nghẽn không thể tiến bộ trong một thời gian. Những vị này nhờ giới hạnh thuần tịnh nên đối với môi trường xung quanh họ cực kỳ bén nhạy, có thể nhận ra ngay sự vật tác động công phu tu tập của họ ra sao.

Nói tóm lại, có ba yếu tố giúp người tu đạt được pháp thiền:

  • < 1. tu chỉ và quán có kết quả;
  • < 2. đủ phước, sạch nghiệp;
  • < 3. Tu pháp thích hợp với mục tiêu.

Trong ba yếu tố này, yếu tố thứ ba quan trọng hơn cả. Yếu tố này thực hiện ngay trong thời thiền, còn những việc thiện khác như lạy Phật, đi nhiễu vân vân, được thực hiện ngoài thời tu thiền.

Trong lúc tọa thiền, chánh tri [còn gọi là tỉnh giác] sẽ giúp quý vị giữ được chánh niệm, không để ngoại vật làm cho tán loạn. Chánh tri và chánh niệm không những quan trọng khi tọa thiền, mà cũng rất quan trọng trong thời gian ngoài buổi thiền. Hai yếu tố này sẽ giúp quý vị giữ kinh nghiệm thiền luôn linh động sắc bén.

Ngoài ra, giữa hai thời tọa thiền, trong sinh hoạt hàng ngày như là khi ăn, khi ngủ, vân vân, quý vị cũng phải luôn giữ thái độ cho thật thích đáng, phải có chánh niệm và chánh tri. Làm được như vậy thì những gì quý vị làm trong lúc tọa thiền sẽ bồi đắp tăng cường cho pháp hành sau khi tọa thiền, và những gì quý vị làm sau khi tọa thiền sẽ bồi đắp tăng cường cho pháp hành lúc tọa thiền. Nếu có thể duy trì công phu hành thiền của mình hiệu quả như vậy, tác dụng của pháp thiền có thể lan rộng vào trong giấc ngủ, cả khi chiêm bao chánh niệm và chánh tri cũng không ngừng hoạt động. Nói ví dụ trong giấc mơ quý vị có thể khởi lòng tôn kính đạo sư, hay tôn kính Phật, mãnh liệt đến nỗi tỉnh giấc rồi cảm xúc ấy vẫn còn đọng mãi trong tâm.

Cuối cùng, để đảm bảo chất lượng của pháp thiền, quý vị nên chia thành nhiều thời tọa thiền ngắn thay vì một vài thời quá dài, làm như vậy sẽ nhiều kết quả hơn.

>> 4.6. CHẾT VÀ TÁI SINH

Bây giờ nói đến việc nên tu pháp thiền nào. Lấy ví dụ vô thường. Thiền về vô thường và cái chết, mục tiêu không phải để tự hù dọa chính mình. Nếu chỉ để tự làm cho mình sợ cái chết thôi thì đâu có chẳng ích lợi gì. Mục tiêu chính khi thiền về vô thường và cái chết là để nhắc nhở mình đừng quên giá trị và ý nghĩa của kiếp người mà mình đang sống đây. Tự nhắc cho mình nhớ rằng cái chết là điều không thể tránh, rằng chết có thể đến bất cứ lúc nào, và khi chết đến, chỉ có công phu tu tập mới giúp được cho ta. Nhớ như vậy để ý thức mình đang ở trong hoàn cảnh khẩn cấp như thế nào, cảm nhận được thân người mình đang có đây quý giá đến độ nào, với đầy đủ mọi tiềm năng đạt mục tiêu tối thượng. Cảm nhận này có được rồi, quý vị sẽ tự nhiên xem từng ngày sống của mình quý như kho tàng trân quý nhất.

Là người tu theo Phật, điều vô cùng quan trọng là phải liên tục tập cho ý nghĩ và cảm xúc của mình quen với cái chết, để khi cái chết đến mình không thấy bất ngờ. Thái độ này lành mạnh hơn là bịt tai che mắt không muốn nghĩ đến cũng không muốn nói gì đến cái chết. Nhìn lại giáo pháp của Phật, ngay từ buổi thuyết pháp đầu tiên Phật nêu lên mười sáu đặc tính của Tứ diệu đế, trong bốn đặc tính đầu liên quan đến khổ đế thì đặc tính đầu tiên là vô thường. Rồi đến khi Phật nhập diệt, ngay trước lúc nhập niết bàn, giáo pháp cuối cùng Phật dạy cũng là nói về tầm quan trọng của pháp quán vô thường. Nói cách khác, giáo pháp đầu tiên Phật dạy là vô thường, và pháp cuối cùng Phật dạy cũng là vô thường.

Khi nói đến cái chết tự nhiên nảy ra câu hỏi sau đó thì sao, dẫn đến vấn đề tái sinh. Phật giáo giải thích tái sinh sự tiếp nối của dòng tâm thức. Vì vậy một trong những nền tảng của thuyết tái sinh Phật dạy là dòng tương tục của tâm. Trong Lượng Thích Luận, ngài Pháp xứng nói rằng “vật gì bản chất vốn không phải là tâm thức thì sẽ không bao giờ có thể biến thành tâm thức. Nói như vậy có nghĩa là khi xét về bản chất và sự tồn tại của tâm thức, chúng ta có hai chọn lựa, hoặc là nói dòng tâm thức có khởi điểm, hoặc là nói dòng tâm thức không có khởi điểm. Nếu cho rằng dòng tâm thức có khởi điểm, vậy thì khởi điểm ấy có từ bao giờ và từ nơi đâu mà có? Khi ấy lại có hai cách trả lời, hoặc cho rằng khởi điểm của tâm thức không đến từ đâu cả, không có nhân, hoặc là đến từ một nguyên nhân trường tồn và vĩnh cữu.

Theo quan điểm Phật giáo, cả hai cách trả lời đều dẫn đến nhiều nghịch lý. Nếu đã không nhân mà có thì hoặc là phải có luôn luôn, hoặc là không bao giờ có cả. Cả hai trường hợp đều phi lý. Ngược lại, nếu có thứ gì sinh ra từ một cái nhân trường tồn vĩnh cữu bất biến và đơn nhất, thì như vậy là trái với quan niệm cơ bản của Phật giáo về luật nhân quả. Vì vậy, đối với Phật giáo, khái niệm về đấng vạn năng là điều không thể chấp nhận. Nếu chấp nhận có một đấng vạn năng tạo dựng toàn bộ thế giới này, vậy bản chất đấng vạn năng ấy phải là biệt lập, đơn nhất, không nhân, và tự sinh, đều là những điều trái ngược với quan niệm lấy nhân quả làm nguyên lý cơ bản.

Vì vậy Phật giáo không cho rằng dòng tâm thức có khởi điểm mà chỉ giải thích bản chất và sự tồn tại của tâm thức qua lý nhân duyên. Theo quan điểm Phật giáo, đến cả thiên hà, cả vũ trụ cũng phải có nhân duyên. Nói về vũ trụ, phải có mối tương quan giữa chúng sinh hữu tình sống trong môi trường vật lý, và sự tồn tại và tiến hóa của thế giới vật lý.

Phật giáo giải thích điều này như sau. Như đã nói, ở mức độ vi tế nhất của thế giới vật lý có cái gọi dòng vật thể tiếp nối không gián đoạn của các phân tử không gian. Khi dòng vật thể vi tế này tiếp xúc với nghiệp của chúng sinh, nghiệp sẽ là duyên tác động làm phát sinh đủ loại hoán chuyển khác nhau trong cảnh giới vật lý. Rồi từ đó hình thành cả một thế giới vĩ mô thật sự có khả năng tác động trực tiếp lên những kinh nghiệm vui buồn sướng khổ của chúng sinh. Phật giáo giải thích toàn bộ quá trình hình thành và hoại diệt của thế giới này theo hướng này. Đây là điều được giải thích rất rõ trong giáo pháp mười hai chi duyên khởi.

>> 4.7. MƯỜI HAI DUYÊN KHỞI

Vòng xích mười hai duyên khởi tượng trưng cho toàn bộ quá trình biến hóa và tồn tại của chúng sinh trong sinh tử luân hồi. Ở đây không nói đến khái niệm về một đấng sáng tạo vạn năng ở giữa, điều động và phát sinh mọi sự ở xung quanh.

Khi chúng ta chịu quả bước vào một chu kỳ mười hai duyên khởi thì vô minh và hành nghiệp của một chu kỳ khác đã được tác động. Vì vậy, luôn nhiều vòng xích mười hai duyên khởi chằn chịt luân phiên trói chặt chúng ta vào bánh xe luân hồi, không lơi nghỉ. Thuyết mười hai duyên khởi giải thích cho chúng ta thấy mình đã trôi lăn trong cõi luân hồi như thế nào.

Nói cho đúng, đức Phật giảng về mười hai chi duyên khởi qua hai mặt. Một mặt Phật thuyết về quá trình trôi lăn sinh tử,  luân chuyển từ vô minh đến hành, từ hành đến thức vân vân, xuôi theo chu kỳ mười hai duyên khởi. Mặt khác, Phật dạy cùng một chu kỳ nhưng theo chiều ngược lại, giải thích làm sao thoát luân hồi, đạt quả giác ngộ. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, vân vân.

Ngài Vô Trước cao tăng xứ Ấn khi giải nghĩa về giáo pháp này đã nhận diện ba điểm chính như sau:

  • < 1. Mọi sự đều có nhân. Thuyết duyên khởi Phật dạy phủ nhận khái niệm về đấng sáng tạo, sự vật nào được hình thành cũng đều là quả, do nhân duyên sinh ra.
  • < 2. Nhân này đều vô thường. Ngay như cái nhân làm chuyển động cả một chu kỳ sinh tử cũng phải từ nhân duyên sinh ra, và vì vậy, cũng vô thường.
  • < 3. Nhân nào sinh quả nấy. Không phải việc gì sinh ra thứ gì cũng được. Nhân quả phải tương ứng với nhau.

Ngài Vô Trước xác nhận ba điểm này bằng một đoạn trong kinh Phật dạy, rằng “vì điều này có, nên điều nọ có; vì điều này phát sinh, nên điều nọ phát sinh; vì có vô minh nên có hành.”

| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |



| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |


> CHƯƠNG 5. QUY Y, NGHIỆP, VÀ GIỚI

>> 5.1. QUY Y

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 11

| CDC-11. Chết rồi chắc gì / không rơi ác đạo, // Giúp thoát sợ này / chỉ có Tam Bảo. // Vậy tâm quy y / phải giữ cho chắc, // Đừng bao giờ để / phá hạnh quy y. // Muốn được như vậy / phải khéo nghĩ về / nghiệp quả thiện ác, // Để biết chọn việc / nên bỏ, nên làm. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy, // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Để trả lời câu hỏi sau khi chết sẽ đi đâu, chỉnh cú này cho thấy sinh về đâu là tùy vào nghiệp của chính mình, không chỉ là nghiệp của đời này mà còn của những đời quá khứ. Về điểm này, Ngài Thế Thân có viết rằng vì bởi từ đời này qua đời khác chúng ta đã tích tụ cả một khối nghiệp chướng khổng lồ, nên dù là nghiệp đọa sinh ác đạo hay nghiệp thọ sinh thiện đạo, không nghiệp nào là mình không đã sẵn có.

Yếu tố nào quyết định loại nghiệp nào sẽ được tác động trước tiên? Ngài Thế Thân nói rằng loại nghiệp nào mạnh sẽ trổ quả trước. Nếu thiện nghiệp và ác nghiệp mạnh ngang nhau, vậy kế tiếp sẽ là loại nghiệp nào quen thuộc nhất. Nếu mức độ quen thuộc ngang nhau, vậy kế tiếp sẽ là loại nghiệp nào tích tụ trước.

Cứ thế nghiệp quyết định kiếp sau sinh về đâu, có sẽ đọa vào một trong ba cõi ác đạo là địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh hay không. Dù cảnh tượng cõi ác đạo đều được mô tả trong luận tạng, ví dụ như trong luận A-tì-đạt-ma câu xá [Abhidharmakosha] của ngài Thế Thân [Vasubandhu], quý vị vẫn nên kiểm soát lại xem những lời mô tả về địa điểm và tính chất của các cõi này có chính xác đúng theo nghĩa đen hay không.

Chỉnh cú thứ 11 hàng thứ hai nói rằng, “Giúp thoát sợ này / chỉ có Tam Bảo.” Ở đây rõ ràng là muốn nói đến công phu quy y Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng. Muốn quy y phải đủ hai điều kiện, một là sợ đọa sinh ác đạo, và hai là tin Tam bảo có sức bảo vệ chúng ta thoát nỗi sợ này.

Vì vậy, muốn quy y thì phải biết đôi chút về đối tượng quy y.  Là Phật tử, quý vị phải hiểu được rằng một người như đức Phật là điều hoàn toàn có khả năng, và giác ngộ cũng vậy, hoàn toàn có thể xảy ra. Vấn đề then chốt ở đây là phải hiểu về bản chất của Pháp bảo, vì Pháp bảo chính là nơi quy y chân chính. Hiểu được Pháp bảo thì sẽ có thể hiểu được Tăng bảo là điều có thể có, và trạng thái toàn hảo của Tăng bảo là Phật bảo, cũng là điều có thể có.

Nói chung, không ai muốn mình phải chịu cảnh sợ hãi,  úy kỵ, bất an. Tuy vậy sợ là cảm xúc phức tạp, liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau. Có một loại sợ hãi lo âu vô căn cứ, chỉ vì tưởng tượng quá đà, hay vì hoang tưởng, hay vì tâm lý nghi kỵ quá độ. Loại sợ hãi này hoàn toàn vô nghĩa, cần loại bỏ.

Lại có một loại sợ hãi khác, đến từ những hiểm họa có thật. Nếu hiểm họa này vô phương giải quyết, trước sau gì cũng phải đối mặt, thì sợ hãi không phải là biện pháp thích đáng vì chẳng ích lợi gì, chỉ khiến mình thêm tê liệt mà thôi.

Tuy vậy, sợ cảnh hung hiểm cũng có thể thành nguồn động lực thúc đẩy hành động, ví dụ tìm nơi che chở, tìm đường thoát hiểm. Loại sợ hãi này không những là thích đáng mà còn rất tích cực và hữu ích. Ðây là loại sợ hãi quý vị cần phải có để khởi tâm quy y cho đúng. Phải cố tình khơi dậy nỗi sợ đọa sinh ác đạo, để trong tâm cảm thấy thôi thúc muốn tìm nơi chở che để thoát nỗi sợ này.

Bài pháp này lại nói phải giữ “cho chắc” tâm quy y, nói như vậy có nghĩa là tâm quy y phải bền và phải vững. Để có được tâm quy y bền vững, điểm then chốt là phải hiểu rõ về nhân duyên và, ở một mức độ nào đó, phải hiểu về tánh không. Quán nhân duyên và tánh không, sẽ thấy rõ khả năng thành Phật. Làm như vậy sẽ hiểu được sâu xa bản chất của Pháp bảo, nhìn ra được ý nghĩa của Tăng bảo và Phật bảo. Một khi có được niềm tin tuyệt đối, rằng Phật, Pháp và Tăng thật sự có khả năng che chở cho ta thoát khổ ác đạo, quý vị mang trọn đường tu của mình giao phó cho Tam Bảo, tâm quy y trở nên vững bền chắc chắn, quý vị thật sự trở thành người tu theo gót chân Phật.

Bao giờ lòng tin nơi Tam Bảo kém đi, tâm phát sinh nghi ngờ không biết Tam Bảo có thật sự bảo vệ cho mình được hay không, chừng đó quý vị không còn có thể tự cho mình là một Phật tử chân chính.

>> 5.2. QUÁN NHÂN QUẢ

Một khi đã quy y Tam Bảo, trách nghiệm chính của người Phật tử là phải thuận theo nhân quả, tự chế ngự mình không để phạm mười việc ác. Chỉnh cú 11 kết thúc như sau:

Muốn được như vậy / phải khéo nghĩ về / nghiệp quả thiện ác, // Để biết chọn việc / nên bỏ, nên làm. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy, // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Nghiệp có nhiều loại khác nhau, và cũng nhiều cách khác nhau để phân loại nghiệp. Chúng ta ai ai cũng đều có cùng chung một nguyện vọng, đều tự nhiên khát khao muốn được hạnh phúc, không muốn khổ đau. Vì vậy, việc làm nào dẫn đến bình an hạnh phúc thì gọi là việc thiện, việc làm nào dẫn đến khổ đau phiền não thì gọi là việc ác. Xét từ mối tương quan với khổ đau hay hạnh phúc mà nói, thì có thiện nghiệp và ác nghiệp. Còn nếu xét từ nơi xuất phát việc thiện việc ác ấy, thì có thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp.

Nghiệp liên quan đến rất nhiều yếu tố, như là động cơ căn bản thúc đẩy thành hành động, đối tượng của hành động, ngay chính hành động, hay trạng thái tâm thức khi hành động hoàn tất. Hành động tạo ra loại nghiệp nào hãy còn tùy bốn yếu tố nói trên có là thiện, ác, hay trung tính. Có những hành động hoàn toàn là bất thiện, hay hoàn toàn thiện, nhưng cũng có nhiều hành động phần thiện phần ác, và cũng có hành động trung tính.

Nghiệp quả vốn thuộc phạm vi của luật nhân quả. Khác nhau ra sao? Luật nhân quả ứng vào mọi thứ chung chung, còn nghiệp quả là luật nhân quả ứng vào cho chúng sinh hữu tình. Nghiệp quả là cả một đám rối nhân quả chằng chịt, ở đó chúng sinh tạo tác bằng trí thông minh và động cơ. Vì động cơ thúc đẩy thành hành động, hành động dẫn tới nhân và quả tương ứng. Vậy khi nói về nghiệp thì phải tính đến nhiều yếu tố khác nhau như động cơ, hành động vân vân. Những yếu tố này quyết định nghiệp tạo ra là loại nghiệp gì. Khi gieo nghiệp, bất kể là bằng thân, khẩu, hay ý, bản thân của việc làm này chỉ tồn tại cho đến khi việc làm ấy chấm dứt, nhưng hậu quả có thể xảy đến trong một tương lai rất xa về sau. Có loại nghiệp trổ quả ngay trong kiếp hiện tiền, có loại nghiệp kiếp sau trổ quả, phần còn lại nhiều kiếp về sau mới trổ quả. Từ đó nảy ra một câu hỏi rất quan trọng thường thấy trong các bộ luận Phật giáo: Điều gì nối liền giữa nghiệp và quả? Có cách giải thích qua khái niệm về “chủng tử” của nghiệp, hay là “tập khí” của nghiệp, có nghĩa là dù hành động đã chấm dứt nhưng chủng tử, hay tập khí, của nghiệp vẫn còn.

Tập khí nghiệp này được lưu lại ở đâu, đây là điều được tranh luận rất nhiều trong Phật giáo. Có người cho rằng chủng tử của nghiệp được lưu lại và mang theo trong dòng tâm thức. Nhìn lại thuyết mười hai duyên khởi, chúng ta thấy rằng vô minh căn bản dẫn đến hành nghiệp; nghiệp lưu lại dấu ấn trên tâm thức; và tâm thức làm phát sinh những chi duyên khởi tiếp theo. Vậy theo cách nói như vậy thì thức là nơi chuyên chở nghiệp.

Tuy nhiên có những lúc thức hoàn toàn không hoạt động, ví dụ như khi thiền giả nhập định trực chứng tánh không. Khi ấy, hành giả an trú trong trí tuệ vô cấu, nên tâm hoàn toàn không có chút ô nhiễm nào. Vào những lúc như vậy, nghiệp còn có thể lưu dấu ở đâu?

Một trong những câu trả lời thâm sâu nhất về vấn đề này, là tập khí của nghiệp chỉ giản dị được duy trì trên cơ sở của khái niệm về cái tôi đơn thuần vốn có từ bẩm sinh. Cái tôi đơn thuần này làm nền tảng lưu tập khí do nghiệp để lại, là tạo sự kết nối giữa nghiệp lúc mới gieo và quả báo về sau. Vấn đề này được ngài Long-thọ trình bày rất cặn kẽ trong Căn Bản Trung Quán Luận.

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 12

| CDC-12. Thân người đủ mọi / phẩm tướng cần thiết / để theo thắng đạo, // Nếu như thiếu đi / thì đường giác ngộ / không thể bứt phá. // Vậy phải gắng sao / cho có đủ cả. // Vì bởi ba cửa / nhuốm đầy cấu nhiễm / ác nghiệp, rơi đọa, // Khẩn thiết nhất là / tẩy tịnh nghiệp chướng, // Nên bốn sám lực / phải thường trân quí / áp dụng siêng năng. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Như đã nói, khi chúng ta suy nghĩ về tiềm năng và ý nghĩa của thân người này, cho chúng ta cơ hội đạt mục tiêu cao nhất là quả đại giác ngộ, chắc chắn sẽ hiểu được giá trị của kiếp làm người, nhất là kiếp người với đầy đủ mọi điều kiện thuận tiện. Vì vậy chỉnh cú 12 nói rằng, “Thân người đủ mọi / phẩm tướng cần thiết / để theo thắng đạo, // nếu như thiếu đi / thì đường giác ngộ / không thể bứt phá.” Đủ mọi phẩm tướng nói ở đây ứng với  “tám hoàn cảnh thuận tiện,” gồm có sống lâu, tướng hảo, vọng tộc, giàu tài lực và thế lực, lời nói đáng tin, danh tiếng, và thân tâm tráng kiện. Hoàn cảnh thuận tiện thứ tám là sinh làm thân nam, nhưng điều này cần phải hiểu cho đúng nghĩa, vì mục tiêu tối hậu của kiếp người là đạt giác ngộ viên mãn, thành tựu trí toàn giác. Nếu trong một hoàn cảnh xã hội văn hóa mà thân nữ có nhiều cơ hội thuận tiện để tu hơn, thì hoàn cảnh thuận tiện thứ tám này phải là sinh làm thân nữ. Không hiểu như vậy, điểm này dễ bị hiểu lầm là kỳ thị giới tính.

>> 5.3. TỊNH NGHIỆP VÀ BỐN SÁM LỰC

Tiếp theo, “Vì bởi ba cửa / nhuốm đầy cấu nhiễm / ác nghiệp, rơi đọa, // Khẩn thiết nhất là / tẩy tịnh nghiệp chướng, // Nên bốn sám lực / phải thường trân quí / áp dụng siêng năng. ” Quý vị có thể quyết định giữ không cho mình phạm việc bất thiện trong tương lai, nhưng còn việc bất thiện đã lỡ làm trong quá khứ thì sao? Cách duy nhất để hóa giải việc đã làm trong quá khứ, là sám hối để thanh tịnh nghiệp chướng.

Tây tạng có câu tục ngữ nói rằng: nghiệp chướng họa chăng chỉ được một điều hay, đó là đều có thể thanh tịnh được.” Tuy vậy, thanh tịnh nghiệp chướng cũng có nhiều mức độ. Hoặc là tận diệt mọi chủng tử, nghiệp chướng không bao giờ còn có thể chín mùi thành quả. Hai là giảm mức độ trầm trọng của nghiệp, để quả báo được nhẹ hơn. Ba là trì hoãn thời điểm chịu quả báo của loại nghiệp không thể tịnh hết.

Bài pháp nhắc đến bốn năng lực sám hối:

  • < 1. Lực hối cải;
  • < 2. Lực nương dựa;
  • < 3. Lực thiện hạnh;
  • < 4. Lực quyết tâm.

Trong bốn điều này, quan trọng nhất là lực hối cải. Từ tận đáy lòng phải cảm thấy xốn xang hối hận cho việc bất thiện mình đã phạm như thể vừa uống nhầm chất độc.

Sám lực thứ hai là lực nương dựa. Nhìn lại tất cả những việc bất thiện mình đã phạm phải, sẽ thấy phần lớn đều là phạm hoặc với bậc giác ngộ hoặc với đồng bạn chúng sinh. Vì vậy mà quý vị phải quy y tam bảo và phát tâm bồ đề, giữ lòng từ bi đối với khắp cả chúng sinh, nương vào đó để làm sức mạnh sám hối.

Sám lực thứ ba là làm việc thiện với  mục tiêu hàn gán việc bất thiện đã làm. Khi làm việc thiện quý vị có thể hướng mục tiêu của việc thiện mình làm về cho việc sám hối nghiệp chướng. Truyền thống Tây tạng có nhiều pháp tu đặc biệt dành cho việc sám hối, trong đó có sáu sám pháp thường được nhắc đến: niệm danh hiệu Phật, đặc biệt là kinh Sám hồng danh lạy 35 vị Phật; tụng chú, đặc biệt là Kim cang Bách tự chú và chú Kim Cang Akshobhya (Mitukpa); tụng kinh; thiền quán tánh không; cúng dường; tạo hình tượng Phật.

Bốn năng lực sám hối chính là sự quyết tâm không để mình tái phạm trong tương lai, dù có phải mất mạng sống. Trong khi hành trì công phu sám hối, quý vị có thể ý thức được rằng quý vị có thể sẽ không thành công trong việc từ bỏ trọn vẹn mọi việc ác, hay không thể từ bỏ một việc ác đặc biệt nào đó, nhưng trong khi sám hối, quý vị phải phát khởi tâm nguyện mãnh liệt là từ đây về sau quý vị sẽ cố gắng tự chế ngự không thể mình phạm ác nghiệp nữa.

>> 5.4. HỎI ĐÁP

Hỏi. Nếu có người bị bịnh và giết người, vậy có thể làm gì để sám hối ?

Đáp. Nếu “bịnh” ở đây có nghĩa là bị rối loạn thần kinh hay rối loạn tâm lý dẫn đến tình trạng điên loạn mất trí, vì vậy mà giết người. Nếu là như vậy, xét theo quan điểm của Phật giáo thì nghiệp tạo ra trong trường hợp này sẽ nhẹ hơn là giết người với tinh thần sáng suốt biết rõ hậu quả của việc mình làm, và cũng nhẹ hơn là giết người vì bị phiền não tác động. Vì phiền não tác động mà giết người thì Phật giáo gọi đó là nghiệp đã hoàn thành trọn vẹn.

Tuy vậy, bất kể ác nghiệp thuộc loại nào, công phu sám hối thanh tịnh nghiệp chướng vẫn như nhau, vẫn phải hội đủ bốn năng lực sám hối. Khởi năng lực hối hận nghĩ đến chúng sinh đã bị mình hại, vận dụng hết bốn năng lực sám hối, làm việc thiện như thiền quán về tâm bồ đề và tánh không. Cũng có nhiều sám pháp tổng quát có thể áp dụng cho trường hợp này. Nếu không có khả năng vận dụng bốn năng lực sám hối và hành trì sám pháp, còn một cách đơn giản hơn, đó là tụng chú và làm một vài việc thiện với tâm nguyện muốn sám hối nghiệp chướng.

Hỏi. Hiểu về nghiệp và quả báo của việc thiện việc ác, một xã hội Phật giáo sẽ giải quyết như thế nào về vấn đề phạm pháp?

Đáp. Theo quan điểm Phật giáo, cần phân biệt rõ giữa người làm và việc làm. Quý vị có thể triệt để bác bỏ việc ác, nhưng vẫn phải giữ lòng từ bi đối với người làm ác, luôn nhìn nhận khả năng thay đổi và sửa chữa của người làm ác. Xã hội dùng biện pháp gì để sửa đổi thì phải áp dụng biện pháp ấy. Tuy vậy, phải sửa đổi cách nào để giúp cho người phạm pháp thấy được lỗi lầm của mình, biết việc mình làm là sai quấy. Có thấy được như vậy thì mới có thể bắt đầu sửa đổi thật sự.  Vì vậy Phật giáo thì không chấp nhận án tử hình. Ngay cả án tù chung thân cũng đã có vấn đề, vì như vậy là phủ nhận khả năng sửa đổi của người phạm pháp.

| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |



| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |


> CHƯƠNG 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI

>> 6.1. PHÁT TÂM BUÔNG SINH TỬ

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 4

| ND-4. Lại có người vì / an lạc cá nhân / mà từ bỏ hết / lạc thú thế gian, / hết thảy ác nghiệp,  / họ đều không làm. / Những người như vậy / là bậc trung căn.

Nói đến việc quay lưng với lạc thú thế gian, phải hiểu rằng theo quan điểm Phật giáo thì cả những thứ người đời thường xem là hạnh phúc, xét cho kỹ đều chỉ là khổ. Mọi sự trong cảnh luân hồi này đều mang tính chất khổ đau, bất như ý. Khi nói về con đường thoát khổ, Phật không chỉ nói đến cảm nhận khổ đau của thân và tâm [khổ khổ] mà còn gồm luôn cả những thứ mà người đời thường cho là hạnh phúc. Không riêng gì Phật giáo, cả những giáo pháp ngoài Phật giáo khác ở Ấn độ cũng đồng một quan điểm.

Chúng ta có thể thấy rõ điều này khi nhìn vào một số pháp tu thiền ngoài Phật giáo, nhất là những pháp tu nhắm đến bốn tầng thiền, đặc biệt là tầng thiền thứ tư, được miêu tả là cảnh giới siêu việt mọi kinh nghiệm sướng khổ. Rồi đương nhiên là bốn cõi thiền vô sắc cũng siêu biệt tất cả mọi kinh nghiệm vui buồn sướng khổ. Tuy vậy, mặc dù nhưng tôn giáo khác cũng biết rằng cả kinh nghiệm hạnh phúc cũng cần được siêu thoát, nhưng chỉ riêng Phật giáo mới thấy rằng chính những nguyên nhân dẫn đến kinh nghiệm sướng khổ đó, tự bản chất đã đều là khổ, vì vậy chỉ có thể tạo quả khổ đau không ai mong cầu.

“Ác nghiệp” có nghĩa là “việc làm gây hại,” là tất cả những hành nghiệp làm chuyển đẩy bánh xe luân hồi. Hành giả thuộc hàng trung căn mang tâm nguyện khát khao muốn thoát luân hồi, vì vậy dấn thân vào con đường đoạn lìa vòng quay sinh tử xuất phát từ vô minh căn bản, đảo ngược hành trình của đám rối nhân quả đẩy từ vô minh đến hành nghiệp cùng mọi hậu quả khổ đau từ đó sinh ra. Tất cả những pháp tu liên quan đến mục tiêu này đều thuộc về đường tu phổ thông dành cho người tu thuộc hàng trung căn. Chữ “phổ thông” ở đây cho thấy đây là giai đoạn sơ khởi, mở lối vào Ðại thừa.

Bao giờ hiểu ra rằng phiền não nhiễm tâm là kẻ thù chân chính, và dưới phiền não nhiễm tâm là vô minh căn bản, khi ấy người tu sẽ chọn những pháp tu phá được vô minh căn bản để mà tu. Thấy ra rằng hễ còn bị nhiễm tâm phiền não thao túng thì cảnh khổ đau bất như ý sẽ không bao giờ thoát được. Thấy như vậy rồi, nếu tận sâu thẳm đáy lòng khởi được niềm khát khao muốn vượt thoát vòng ràng buộc này, thì đó chính là tâm buông sinh tử chân chính. Tâm này, pháp tu này, chỉ Phật giáo mới có.

>> 6.2. HIỂU RÕ THỰC CHẤT CẢNH LUÂN HỒI

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 13

| CDC-13. Tai hại khổ đế / không nỗ lực quán // Thì tâm cầu thoát / không thật phát sinh. // Nguyên nhân của khổ / luân chuyển thế nào, / nếu không quán chiếu // Thì gốc luân hồi / không biết cách chặt. // Cần nhất phải biết / chán khổ sinh tử, / khởi tâm cầu thoát, // Và biết điều gì / trói buộc mình trong / sinh tử luân hồi. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy, // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Chữ “khổ” trong hàng đầu tiên ứng với cả ba loại khổ. Loại thứ nhất là khổ khổ – là những kinh nghiệm cảm xúc đớn đau ai ai cũng  có. Loại thứ hai là hoại khổ [khổ đau đến từ sự thay đổi], và loại thứ ba là hành khổ [khổ đau bao trùm toàn bộ cảnh sinh tử luân. Muốn tu tâm buông sinh tử chân chính thì phải lưu ý đến loại khổ thứ ba, hành khổ. Khổ này ứng với một việc rất đơn giản, đó là chúng ta lúc nào cũng bị vô minh và phiền não chi phối. Bị phiền não trói chặt thì không còn chỗ cho an lạc chân chính phát sinh. Vì vậy điểm then chốt là phải tập sao cho mình từ tận sâu thẳm biết được rằng phiền não mới thật là kẻ thù. Không thấy được điều này sẽ không thể phát huy niềm khát khao chân thành muốn thoát vòng kềm tỏa của phiền não.

Phạn tự có chữ bhavagan, tiếng Việt thường dịch là Thế tôn, dùng để chỉ người đã chiến thắng, đã vượt qua mọi giới hạn, tiêu cực. “Chiến thắng” ở đây có nghĩa là chiến thắng “tứ ma,” ứng với bốn năng lực tạo trở ngại:

  • < 1. Ma phiền não [Skt: klesha mara];
  • < 2. Ma chết [Skt: marana mara];
  • < 3. Ma ngũ ấm [Skt: skandha mara];
  • < 4. và chướng ngại cản trở việc hàng phục ba loại ma trên, gọi là Thiên tử ma [Skt: devaputra mara].

Trong bốn trở lực này, đáng nói nhất là ma phiền não. Ai thắng được cả bốn loại ma này thì gọi là Phật.

Vì chướng ngại có thô có tế khác nhau, nên tứ ma cũng vậy, có nhiều sắc tướng thô tế khác nhau. Chướng ngại vi tế được gọi là “trí chướng” [Skt: jneyavarana; Tib: she-drib], là chướng ngại áng ngữ trí toàn giác. Nói cho đúng, cái gọi là ma thật ra chính là phiền não, cùng tất cả những gì, những ai, chọn đứng về phía phiền não. Khi phiền não mâu thuẫn với cảm xúc tích cực, nếu đứng về phía phiền não sẽ có nguy cơ biến mình thành ma, thành chướng ngại. Cũng có người thích thú với phiền não, lấy phiền não làm thú vui trong đời, thấy người khác ra sức dẹp bỏ cảm xúc tiêu cực phá hoại thì họ cho rằng làm như vậy là sai, là quá điên rồ. Người như vậy cũng trở thành đồng bọn với ma. Chư đạo sư Tây tạng có câu nói như sau: “Không phải ác tri thức nào đầu cũng có sừng.” Ác tri thức chỉ giản dị là những ai gây trở ngại cho đường tu của người khác.

Nếu quý vị từ trong tim sâu thẳm thấy được rằng phiền não mới thật là kẻ thù của mình, khi ấy sẽ tự nhiên thấy khát khao muốn thoát vòng kềm tỏa của phiền não. Tuy vậy, chỉ khát khao giải thoát thôi chưa đủ. Quý vị còn phải tìm hiểu xem có cách gì giải thoát được không, và bản thân mình có khả năng làm được điều ấy hay không.

Phiền não và hành nghiệp do phiền não thúc đẩy là nhân tạo khổ. Bên dưới tất cả những điều này, là vô minh căn bản. Quý vị cần hiểu cho thật sâu, làm thế nào mà từ nhân khổ lại dẫn đến quả khổ. Không hiểu rõ luân hồi hình thành như thế nào, khổ đau phát sinh ra làm sao thì dù có muốn giải  thoát cũng không thể nào hiểu ra được phải giải thoát bằng cách nào. Khi ấy sẽ rất dễ thoái chí nản lòng, vì dù biết mình bị ràng buộc, nhưng không thể tìm ra lối thoát.

Nguyên do rốt ráo của phiền não và khổ đau là vô minh căn bản. Vô minh căn bản này vốn có nhiều nghĩa thô lậu và vi tế khác nhau, nhưng nói chung thì đây là là nhận thức sai lầm của chúng ta về thực tại của chính mình và về cảnh giới xung quanh. Nghĩa vi tế nhất của vô minh căn bản là cái tâm chấp vào hiện hữu chắc thật và cố định của chính mình và mọi thứ khác. Muốn giải thoát toàn diện thì phải chặt đứt từ tận gốc rễ loại vô minh căn bản này.

Cũng có thể hiểu vô ngã qua nghĩa thô lậu hơn, chẳng hạn vô ngã là không có một cái tôi chủ tể biệt lập. Chấp vào cái tôi chủ tể và biệt lập là nền tảng dẫn đến nhiều loại phiền não khác, ví dụ như tham hay sân. Phiền não có thể dẹp, nhưng muốn thật sự thoát luân hồi thì phải quét sạch tâm chấp ngã ở mức độ vi tế nhất. Vì vậy, chánh văn nói rằng “Nguyên nhân của khổ / luân chuyển thế nào, / nếu không quán chiếu // Thì gốc luân hồi / không biết cách chặt. // Cần nhất phải biết / chán khổ sinh tử, / khởi tâm cầu thoát, // Và biết điều gì / trói buộc mình trong / sinh tử luân hồi.”

Phát tâm buông sinh tử có hai điểm then chốt, một là phải nuôi tâm chán ngán cảnh sinh tử luân hồi, hai là phải hiểu về cơ cấu vận hành nhân quả của nguồn gốc khổ đau. Đủ hai điều này rồi thì bắt đầu thấy được giải thoát là điều có thể có. Khi ấy trong lòng sẽ rất mừng vui, vì không những biết giải thoát có thể có mà còn tự tin rằng có cách để thực hiện điều này.

Vì đường tu trung căn là như vậy nên rõ ràng là có liên quan với Tứ diệu đế. Như đã nói, Tứ diệu đế gói trọn tinh túy của Phật pháp. Lama Tông Khách Ba trong Lam-rim Ðại Luận và Lam-rim Trung Luận có nói rằng Tứ diệu đế là giáo thuyết mà kinh luận trong hay ngoài đại thừa đều luôn nhấn mạnh. Nhờ Tứ diệu đế mà hiểu được sâu xa đường đi của nhân quả trong luân hồi và trong niết bàn giải thoát. Vì vậy Lama Tông Khách Ba khuyên chư vị đạo sư phải dựa trên nền tảng của Tứ diệu đế để hướng dẫn đệ tử

Mối tương quan nhân quả trong Tứ diệu đế được giải thích cặn kẽ hơn qua giáo pháp mười hai duyên khởi. Mười hai duyên khởi này có thể được quan sát từ nhiều góc độ khác nhau. Có thể quán chiếu mười hai duyên khởi liên quan đến quá trình đọa sinh ác đạo, khởi đầu từ vô minh căn bản, làm che chướng chân tánh của thực tại, từ đó dẫn tới hành nghiệp là những việc làm bất thiện khiến đọa rơi ác đạo.

Cũng có thể quán chiếu về mười hai chi duyên khởi liên quan đến quá trình hình thành của luân hồi nói chung, là vì cho dù làm thiện nghiệp vẫn có thể tái sinh trong luân hồi. Sau cùng là quán chiếu mười hai duyên khởi liên quan đến trí chướng, là chướng ngại vi tế áng ngữ trí toàn giác. Ở đây, người tu dù có thoát phiền não chướng thì cũng vẫn còn dòng tương tục của hiện hữu vật lý, hay nói cách khác, của hiện hữu duyên sinh.

Khi nói đến giải thoát, không nên nghĩ giải thoát là một nơi chốn nào đó nằm ở bên ngoài, như một cảnh giới vật lý cụ thể. Cần phải hiểu giải thoát chỉ là một trạng thái tâm thức. Chúng ta có đã nhắc tới tự tánh niết bàn, là bản chất tự nhiên trong sáng mà chúng sinh nào cũng có, đây là cơ sở của quả giải thoát chân chính sau khi phiền não tận diệt. Vì vậy tìm hiểu sâu hơn về ý nghĩa của giải thoát sẽ thấy giải thoát chính là chân tánh của tâm mình sau khi diệt sạch phiền não.

Gốc rễ của đời sống vô minh là vọng tâm cơ bản, là cái tâm hiểu sai về chân tánh của thực tại. Vì vậy bắt đầu khai mở cái nhìn chính xác về thực tại là bắt đầu quá trình hóa giải đời sống vô minh, khởi động hành trình về quả giải thoát. Luân hồi và niết bàn chỉ khác nhau ở chỗ là vô minh hay là trí tuệ. Như chư đạo sư Tây tạng từng nói, vô minh thì luân hồi, khai trí thì giải thoát. Thuốc trị vô minh căn bản là tuệ chứng tánh không. Chính tánh không của tâm là niết bàn cứu cánh.

Cho nên vì vô minh không thấy được tánh không là chân tánh của thực tại, vì vô minh không hiểu được tánh không của tâm, chính sự vô minh này là dây trói buộc chúng ta vào với luân hồi, còn trí tuệ thấy được tánh không của tâm là thứ giúp chúng ta cởi trói. Phật dạy cho chúng ta con đường phá bỏ phiền não đạt giải thoát, dựa trên nền tảng của ba môn vô lậu học là Giới Ðịnh và Tuệ. Liều thuốc trực tiếp hóa giải vô minh căn bản là tuệ chứng vô ngã, chứng tánh không. Tuệ này không phải chỉ là hiểu biết suông về tánh không mà là chứng ngộ hạng cao, người tu có được kinh nghiệm trực chứng tánh không.

Muốn đạt tuệ trực chứng tánh không đầy uy năng như vậy thì trước đó phải có được định nhất tâm bất loạn. Vì vậy mà cần môn vô lậu học thứ hai là Ðịnh. Tu định muốn tấn tới thì phải giữ giới, và đây là môn vô lậu học thứ nhất, Giới.

Tu Giới giúp chúng ta tích phước và tịnh nghiệp, nhưng trong khuôn khổ tu ba môn vô lậu học thì mục tiêu chính của Giới là để phát huy chánh niệm và chánh tri. Muốn giữ nếp sống giới hạnh thì phải không ngừng áp dụng hai chức năng này của tâm. Mài dũa chánh niệm và chánh tri là đắp nền để đạt định.  Cả ba môn Giới Ðịnh và Tuệ đều là pháp tu trọng yếu và có thứ tự nhất định: trước tu Giới, sau tu Định, rồi tới tu Tuệ giác tánh không.

>> 6.3. HỎI ĐÁP

Hỏi. Ngài dạy rằng cảm xúc phiền não là nguyên nhân của khổ đau. Có cách nào loại bỏ phiền não mà vẫn giữ cảm xúc?

Đáp. Ðương nhiên. Ví dụ, một trong những thuốc trị cảm xúc phiền não là thiền về tánh không. Kinh nghiệm về tánh không càng sâu thì cảm xúc càng trào dâng, chính cảm xúc này sẽ là thứ làm tiêu tan các loại cảm xúc tiêu cực, gọi chung là phiền não. Phật giáo cũng dạy từng loại thuốc áp dụng cho từng vấn đề đặc biệt, ví dụ quán tâm từ để trị tâm sân, quán vô thường để trị tâm tham. Nói các khác, khơi dậy lòng yêu thương để trị tâm sân hận, và lấy chứng ngộ về vô thường để trị tâm tham chấp.

Cảm xúc tiêu cực và tích cực chỉ đơn giản khác nhau ở chỗ cảm xúc tích cực được dựng xây trên nền tảng của lý trí và của thực tại đúng như sự thật. Thật ra, loại cảm xúc tích cực mình càng quán chiếu thì chúng càng mạnh thêm. Cảm xúc phiền não, ngược lại, rất phù phiếm, không lý không lẽ gì, chỉ toàn khởi lên từ thói quen chứ không phải nhờ tư duy suy xét.

Hỏi. Lòng từ ái làm tan khổ đau có giống như ánh sáng làm tan bóng tối?

Đáp. Có lẽ không giống lắm, vì ánh sáng tức thì làm tan bóng tối; bật đèn lên là bóng tối tan biến ngay lập tức. Còn tác dụng của lòng đại từ đối với khổ đau phức tạp và gián tiếp hơn nhiều. Khi tu tâm từ bi, chính tâm này sẽ mang đến cho chúng ta thêm nhiều nghị lực và lòng can đảm, cho chúng ta được rộng lượng hơn, đủ sức chịu đựng khó nhọc hơn. Nói lòng từ giúp chúng ta chiến thắng khổ đau là nghĩa này. Chỉ là gián tiếp.

| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |



| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |


> CHƯƠNG 7. TÂM BỒ ÐỀ

>> 7.1. HUÂN DƯỠNG TÂM BỒ ĐỀ

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 5

| ND-5. Lại có những người / đã từng phải chịu / rất nhiều khổ não / nên mang tâm nguyện / tận diệt khổ đau / cho  mình, cho người. / Những người như vậy / là bậc thượng căn.

Chỉnh cú này nói về những người vì đã thấu hiểu thực chất nỗi khổ của chính mình nên khởi lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh. Hiểu rằng khổ đau đến từ tâm lý phiền não, bắt rễ từ vô minh căn bản, và cũng thấy được rằng hễ còn bị phiền não và vô minh chi phối thì khổ đau sẽ vẫn còn trùng điệp không ngớt, như sóng vỗ mặt hồ.

Hiểu được thực chất của khổ đau của chính mình trong sinh tử rồi, từ đó suy rộng ra để thấy rằng tất cả chúng sinh không ai là không bị phiền não trói buộc. Nghĩ về khổ đau của người khác, từ từ sẽ thấy mình muốn thoát khổ thì người khác cũng vậy, cũng muốn thoát khổ. Đây là cách để khởi tâm đại bi. Bao giờ trong tâm cảm thấy thiết tha muốn tất cả chúng sinh đều được an vui hạnh phúc, thì đó là lúc bắt đầu có được tâm đại từ.

Đại bi là tâm nguyện muốn chúng sinh thoát khổ, và đại từ là tâm nguyện muốn chúng sinh được vui. Từ hai tâm này sẽ phát sinh đại nguyện. Khi ấy tâm đại từ và đại bi sẽ không còn là ước nguyện suông, quý vị sẽ nghe thôi thúc muốn gánh lấy trách nhiệm, rằng: “tôi, chính tôi, sẽ giải thoát chúng sinh thoát khổ đau.” Từ đại nguyện này sẽ dẫn đến tâm bồ đề, là tâm nguyện vị tha, vì lợi ích của toàn thể chúng sinh mà quyết tu thành Phật. Vậy muốn đạt tâm bồ đề thì phải có đủ hai chí nguyện, một là nguyện độ chúng sinh, và hai là vì chúng sinh mà nguyện tu thành Phật [thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh].

Có được đầy đủ hai chí nguyện này rồi, người tu sẽ tự nhiên luôn vì chúng sinh mà quyết tu thành Phật. Đây là lúc có được tâm bồ đề, thành bậc thượng căn. Từ đó trở đi, người tu bất cứ là làm việc gì, tu pháp gì, cũng đều là làm, là tu, với tâm bồ đề, vì vậy đều là làm việc làm của đại thừa, tu pháp tu của đại thừa.

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 14

| CDC-14. Phát tâm bồ đề / là cốt lõi của / đường tu Đại thừa; // Nền tảng, chỗ dựa / của khắp muôn trùng / sóng cả thiện hạnh; // Tựa như thuốc tiên / hóa sắc thành vàng, / biến tất cả thành / hai kho phước trí; // Là cả kho tàng / công đức đồ sộ, / chứa hết vô lượng / thiện đức bồ đề. // Vì biết điều này / nên chư bồ tát / uy dũng tự tại // Gìn giữ tâm ấy / sâu thẳm bên trong / cốt tủy pháp hành. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy. // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Hàng thứ nhất nói tâm bồ đề là cốt tủy của Phật giáo Ðại thừa. Tâm bồ đề thật sự là một tâm nguyện phi thường, dũng mãnh, làm chỗ dựa cho toàn bộ bồ tát đạo. Chữ “nền tảng, ” và “chỗ dựa” ở trong hàng tiếp theo có nghĩa là ai phát được tâm bồ đề thì liền ngay lập tức trở thành hành giả Ðại thừa, bước vào đường tu dẫn đến quả đại giác ngộ. Nhưng nếu thoái tâm bồ đề thì liền lập tức lìa bồ tát đạo, không còn là bồ tát. Thiếu tâm bồ đề thì cho dù tu những thứ khác trình độ cao bao nhiêu, dù có trực chứng tánh không, đạt quả niết bàn, bất kể làm gì cũng đều không phải là việc làm của bồ tát, không thể thành nhân dẫn tới quả đại giác ngộ.

Hàng thứ ba nhắc đến “thuốc thần hóa sắc thành vàng.” Điều này có nghĩa là hễ có tâm bồ đề thì làm bất cứ việc gì, dù chỉ là một việc thiện nhỏ nhoi như thả một mẩu thức ăn cho kiến, cũng sẽ thành nhân duyên dẫn đến quả đại giác ngộ. Tiếp theo,  luận văn nhắc đến “kho tàng công đức đồ sộ,” ứng với cảnh giới vô lượng của tâm bồ đề. Tâm bồ đề là cái tâm lo lắng cho sự an nguy của vô lượng chúng sinh, thôi thúc vì chúng sinh mà sẵn lòng gánh hết khổ nhọc trong thời gian dài hàng vô lượng kiếp, vận dụng vô lượng thiện phương tiện để phổ độ chúng sinh.

Vì vậy, bồ tát còn được gọi là “đấng đại hùng.” Chư vị có lòng vị tha vô tận, đầy đủ trí tuệ để hiểu rằng chỉ cần dốc sức lợi tha thì lợi ích của chính mình tự nhiên cũng sẽ được chu toàn.

Và gọi là “đấng đại hùng” vì chư vị cống hiến mọi kiếp sống của mình để chiến thắng bốn ma vương. Chỉnh cú này kết thúc với câu: “Vì biết điều này / nên chư bồ tát / uy dũng tự tại // Gìn giữ tâm ấy / sâu thẳm bên trong / cốt tủy pháp hành. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy. // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 6

| ND-6. Vì bậc thượng căn / hướng về thượng Pháp / nên thầy nói về / phương tiện tuyệt hảo / do các đạo sư / ân cần truyền dạy.

Chỉnh cú này ứng với những người đã khởi được chút tâm đại từ, đại bi, và tâm bồ đề, muốn chính thức làm lễ phát tâm để khẳng định và giúp cho tâm này được kiên cố. Chỉnh cú từ 7 đến 18 mô tả chi tiết toàn bộ nghi lễ phát tâm bồ đề.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 7 -18

| ND-7. Đối trước tranh vẽ / hay trước hình tượng / của đấng vô thượng / chánh đẳng chánh giác. / Đối trước bảo tháp / và trước kinh điển / Các con hãy tùy / khả năng bày biện / hương hoa cúng dường.

| ND-8. Thành tâm hiến cúng / thất chi Phổ hiền / theo hạnh nguyện vương / với chí kiên quyết / sẽ không thoái chuyển / nếu chưa đến được / bến bờ nẻo giác.

| ND-9. Lòng tin kiên định / đặt nơi Tam Bảo, / hãy quì một chân / và chắp hai tay / đọc câu phát nguyện / quy y ba lần.

| ND-10. Rồi hãy để cho / tâm từ rộng mở / yêu thương hết thảy / các loài chúng sinh. / Nhìn rõ chúng sinh / vướng trong khổ não / khổ trong ác đạo / khổ vì sinh tử. / Hãy nhìn cùng khắp / đừng sót một ai.

| ND-11. Vì mong chúng sinh / thoát mọi nạn khổ / thoát cả  nguyên nhân / tạo nên nỗi khổ / nên phải phát khởi / đại nguyện thành tựu / vô thượng bồ đề.

| ND-12. Phát tâm như vậy / mang ý nghĩa gì / đều đã được đức / Di Lạc từ tôn / giải thích rõ trong / Kinh Thân Tỏa Rộng

| ND-13. Nhờ đọc kinh này, / hay nhờ nghe giảng, / mà hiểu tường tận / lợi ích vô lượng / phát tâm bồ đề. / Hiểu rồi phải gắng / liên tục phát tâm, / cho tâm bồ đề / ngày thêm tỏa rạng.

| ND-14. Trong bộ Vi-ra-đạt-đa vấn kinh / có giải thích về / công đức bồ đề. / Nay thầy nói lại / ba câu chỉnh cú / tóm lược ý kinh.

| ND-15. Công đức bồ đề / nếu như có thân, / thân ấy nhất định / đầy khắp không gian, / và còn tỏa rộng / quá hơn vậy nữa.

| ND-16. Ai mang châu báu / lấp đầy cõi Phật / nhiều bằng số cát / có trong sông Hằng / để mà hiến cúng / chư Phật Thế tôn,

| ND-17. Thì công đức ấy / vẫn không thể sánh / với đôi tay chắp / tâm hướng bồ đề. / Vì công đức này / bao la vô tận.

| ND-18. Tâm nguyện bồ đề / một khi đã phát, phải hằng ghi nhớ / phát triển không ngừng; / đời này kiếp sau / không bao giờ xa / giới hạnh bồ tát.

>> 7.2. GIÁ TRỊ TÂM BỒ ĐỀ

Lòng vị tha toàn hảo nhất, rốt ráo nhất, là tâm bồ đề phối hợp với tuệ giác tánh không. Tâm bồ đề là nỗi khát khao muốn chúng sinh được lợi ích và muốn thành Phật để lợi ích chúng sinh. Ðây chính là tinh túy, là cốt tủy cô đọng nhất của hết thảy giáo pháp Phật dạy, vì ý của Phật, nói cho cùng, chỉ là để đưa khắp chúng sinh đến với giác ngộ viên mãn, với trí toàn giác. Tâm bồ đề là yếu tố quyết định pháp tu này có sẽ dẫn đến quả giác ngộ hay không, vì vậy tâm bồ đề thật sự là cốt tủy của tất cả mọi giáo pháp Phật dạy. Nói vậy thì trọn 8 vạn 4 ngàn pháp môn Phật dạy đều có thể được chia thành 3 loại, hoặc là phần sơ khởi của pháp tu tâm bồ đề, hoặc là chính pháp tu tâm bồ đề, hoặc là những giới hạnh phải tu sau khi phát tâm bồ đề.

Một khi hiểu được điều này, chúng ta có thể thấy rõ kiếp người quí giá như thế nào. Kiếp người cho chúng ta khả năng chiêm nghiệm và thể hiện mọi tánh đức bao la vô tận của tâm bồ đề. Tương tự như vậy, khi chiêm nghiệm về lòng từ bi của vị thầy đã đưa chúng ta vào tâm bồ đề, giải thích về ý nghĩa và lợi ích, chúng ta sẽ có được tấm lòng biết ơn sâu xa, thương yêu kính ngưỡng vô tận đối với thầy mình.

Tâm bồ đề không chỉ quan trọng ở những bước đầu nhập môn, mà cả trên đường tu hay sau khi thành đạo. Như ngài Tịch Thiên [Shantideva] từng nói, chưa thật sự dấn thân vào đường tu, chưa phát được tâm bồ đề nhưng có được chút hiểu biết kiến thức về tâm bồ đề và trong lòng cảm thấy ngưỡng mộ, chỉ bấy nhiêu đã đủ mang lợi ích đến ngay liền tức thì. Dù bị phiền não tác động đến đâu chăng nữa, hễ thấy được giá trị của tâm bồ đề là tức thì được lợi lạc. Tuy vậy, niềm an vui thanh thản này luôn đi liền với nỗi buồn cho số phận của chúng sinh.

Trên đường tu, tu tâm bồ đề sẽ đẩy mạnh quá trình tích lũy công đức, đồng thời cũng làm nền cho những pháp tu tiếp theo được thành tựu mau chóng. Giống như một pháp tu bao gồm tất cả, tu tâm bồ đề sẽ giúp chóng tịnh nghiệp cũ. Rồi đến khi thành Phật, cũng chính tâm này sẽ duy trì dòng tiếp nối bất tận của thiện hạnh giác ngộ hướng về lợi ích chúng sinh. Suy nghĩ về điều này thì sẽ thật sự hiểu được tầm vóc quan trọng của tâm bồ đề, luôn làm lợi cho ta trên mọi bước đường tu, và sẽ hiểu được vì sao lại ví tâm bồ đề này là viên ngọc như ý.

Truyền thống kim cang thừa có những pháp tu đặc thù, dành để thành tựu hai thân Phật là sắc thân [rupakaya] và pháp thân [dharmakaya]. Sắc thân là thân có hình sắc của Phật, còn pháp thân là thân chân thật của Phật. Phương pháp chính để thành tựu sắc thân là phương tiện thiện xảo, ứng với phần phương tiện của đường tu. Đây chủ yếu là tâm nguyện vị tha vì lợi ích chúng sinh mà quyết tu thành Phật, đặc biệt là tâm nguyện muốn thành tựu sắc thân để cứu độ và phụng sự chúng sinh. Thiếu tâm nguyện này, ta sẽ không thể thấy được trọn vẹn độ sâu của đường tu Kim cang thừa trong việc thuần dưỡng nhân duyên thành tựu sắc thân Phật.

Và thiếu tâm nguyện này thì tuệ chứng tánh không cũng không có khả năng giúp ta hội đủ nhân duyên thành tựu pháp thân của Phật. Nên có thể nói rằng Kim cang thừa là một chuỗi những pháp tu tuần tự để phát huy tâm bồ đề. Không có tâm bồ đề thì Kim cang thừa hoàn toàn vô nghĩa.

Đừng nói gì đến khía cạnh tôn giáo, ngay cả trong kinh nghiệm đời sống hàng ngày cũng có thể thấy được rằng càng giàu lòng vị tha, càng biết quan tâm đến người khác thì càng được nhiều lợi lạc. Không những tối ngủ được bình yên hơn mà làm việc gì, dù có tin nơi nghiệp hay không, cũng trở thành tích cực, hữu ích và thiện lành hơn.

Ngược lại, nếu nuôi đầy ác ý, ích kỷ, không quan tâm đến người khác, không những phải chịu khổ đau liền liền vì bị xáo trộn từ trong ý tưởng và cảm xúc, mà làm việc gì, dù có tin nơi nghiệp hay không, cũng đều mang khuynh hướng tiêu cực, phá hoại, và bất thiện. Vì vậy, càng mở rộng tấm lòng vị tha thì bản thân càng được hưởng nhiều lợi ích.

Việc này không chỉ đúng cho loài người. Cả loài thú cũng cần tình thương yêu chăm sóc. Đàn thú thường không chấp nhận những con thú dữ dằn hung hăng, còn con nào dễ chịu hơn thì sẽ dễ được chấp nhận hơn.

Ngay như trong luân hồi, niềm an vui hạnh phúc đều đến từ tình thương yêu chăm sóc cho nhau. Đây là những phẩm chất mang đến cho chúng ta lợi ích nhiều vô tận, ngay trong đời sống hàng ngày. Vì vậy, hãy nên chia sẻ cảm xúc như ngài Tịch Thiên đã nói trong Nhập Bồ Đề Hạnh Luận, rằng xin nguyện phụng sự chúng sinh, cho chúng sinh tùy ý hưởng dụng, như là đất, là núi, là cây… Có được tâm địa vị tha ở mức độ sâu xa như vậy, sẽ thấy lợi ích của riêng mình, lợi ích của cá nhân mình tôi, là điều hoàn toàn  vô nghĩa, và sẽ có thể thật sự hiểu được điều ngài Tịch thiên muốn nói trong câu kệ tuyệt vời cuối Nhập Bồ Đề Hạnh Luận, trước đã trích rồi, ở đây xin nhắc lại:

Không gian chưa cùng

Chúng sinh chưa tận

Nguyện tôi còn vẫn

Ở lại chốn này / quét khổ thế gian

Bao giờ quý vị có thể mang thân, khẩu và ý, trọn vẹn con người mình cống hiến cho mỗi một mục tiêu duy nhất là làm lợi cho chúng sinh, chừng ấy có thể nói rằng hạnh phúc chân chính đã khởi sinh, quý vị đã thật sự bước vào con đường dẫn tới quả đại giác ngộ.

Khi ấy quý vị cũng sẽ cảm nhận được cảm xúc của đức Atisa khi ngài nói rằng mình không nên thoái chí nản lòng, dù có phải trải qua nhiều lần vô lượng kiếp để tu hai tâm bồ đề, là tâm bồ đề quy ước của chí nguyện vị tha, và tâm bồ đề cứu cánh của tuệ chứng tánh không. Ý của đức Atisa là dù phải bỏ ra bao nhiêu thời gian để phát tâm bồ đề, một khi đã chuyên nhất với tâm nguyện này thì sẽ không bao giờ cảm thấy mất thì giờ, dù chỉ mảy may. Tâm bồ đề là mục tiêu dấn thân duy nhất. Đức Atisa có nói, “cầu quả giác ngộ, ngoài tâm bồ đề ra có còn gì khác để làm?” Đã vậy thì bất kể phải tốn bao lâu, thời gian dành để phát tâm bồ đề luôn là thời gian có ý nghĩa nhất.

Khi mọi sự yên ổn thông suốt, quý vị phải tu phát tâm bồ đề, vì tu như vậy sẽ giúp quý vị khỏi sinh tâm kiêu ngạo, không miệt thị chửi mắng người khác. Khi gặp cảnh ngang trái, khổ đau và bất hạnh, quý vị cũng nên tu phát tâm bồ đề, vì công phu tu hành này sẽ che chở cho quý vị khỏi rơi vào hố tuyệt vọng. Còn sống là còn phải tu phát tâm bồ đề, tu như vậy sẽ khiến đời sống tràn đầy ý nghĩa. Ngay cả khi chết, cũng phải tu phát tâm bồ đề, vì đây là điều duy nhất sẽ không bao giờ dối gạt bỏ rơi quý vị.

Sau khi quán chiếu cách Phật dựa trên chứng đắc của mình để dạy về tâm bồ đề như thế nào; tâm bồ đề này gồm đủ tinh túy của lời Phật dạy ra sao; và bản thân mình đủ túc duyên để gặp được giáo pháp quí giá như vậy là điều may mắn đến độ nào, thì quý vị phải nuôi dưỡng trong tâm mình ý nghĩ như sau: “Tôi nay phải dốc hết sức mình để phát tâm bồ đề. Là người bước theo chân Phật, việc duy nhất phải làm, là phát tâm bồ đề.” Trong tâm phải dấy lên cảm giác hoan hỉ, tròn đầy sâu xa, xen lẫn với nỗi buồn trước nỗi khổ của người khác. Cùng với cảm xúc này, hãy phát chí nguyện mãnh miệt, rằng “tôi sẽ không bao giờ từ bỏ tâm bồ đề.” Giữ ý nghĩ này khi bước vào buổi lễ phát tâm bồ đề.

| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |



| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |


> CHƯƠNG 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ

>> 8.1. DẪN NHẬP

Để tham dự lễ phát khởi và phát huy tâm bồ đề, trước hết hãy tưởng tượng có đức Phật Thích Ca Mâu Ni thật sự hiện diện ở phía trước mặt, xung quanh Phật là chư đại đệ tử, như đức Di Lạc, Văn Thù, Long Thọ, Vô Trước, cùng chư đại đạo sư  Ấn độ của các thời quá khứ, đã viết ra những bộ luận mà đến ngày hôm nay vẫn còn mang đến cho chúng ta nhiều lợi lạc, vẫn khai mở mắt tuệ cho chúng ta. Hãy nghĩ đến lòng từ bi vô hạn của chư vị và của chư Phật đà bồ tát. Ðồng thời tưởng tượng có sự hiện diện của hết thảy chư tổ sư đạo sư của cả bốn dòng truyền thừa Tây tạng – Nyingma, Sakya, Kagyu và Geluk – ngược dòng thời gian về đến lúc Phật giáo mới bắt đầu rộ nở trên đất Tây tạng vào khoảng thế kỷ thứ 7, thứ 8. Phật tử của các tông phái khác hãy quán tưởng luôn cả chư tổ sư và đạo sư trong dòng truyền thừa riêng của mình.

Quan trọng nhất là hãy tưởng tượng quanh mình có tất cả chúng sinh. Nếu quán tưởng như vậy quá khó, hãy đơn giản nhớ nghĩ về sự bình đẳng cơ bản giữa mình và người, tất cả đều cùng một nhu cầu tự nhiên là muốn được hạnh phúc, muốn thoát khổ đau. Bản thân ta có quyền, và có khả năng, chu toàn nhu cầu tự nhiên nói trên. Chúng sinh khác cũng vậy.

Tiếp theo, hãy thử nghĩ lại mà xem, mình thường chỉ biết nghĩ cho riêng mình, nhưng bất kể bản thân có quan trọng đến mức nào thì cũng chỉ là cá nhân một người, trong khi đó chúng sinh nhiều vô số. Hy sinh lợi ích của vô số chúng sinh chỉ để phục vụ cho cá nhân một người, làm như vậy không những điên rồ mà còn mất đạo lý.  Hơn nữa, bản thân cũng chẳng được lợi ích gì, vì cách này sai nên không thể toàn thành được nguyện vọng của chính mình.

Tiếp theo, hãy nghĩ đến việc bản thân mình đã nuôi tâm vị kỷ từ vô lượng đời kiếp, đã không ngừng cố gắng tìm vui lánh khổ theo phương pháp ích kỷ. Nhưng nhìn lại hoàn cảnh của mình ngày hôm nay, quý vị có thể thấy rất rõ là mình đã trải qua biết bao nhiêu lần tái sinh không thể đếm xiết, vậy mà vẫn chưa tiến bộ được chút nào. Nếu tâm vị kỷ thật sự có khả năng mang đến điều mình tìm kiếm, lẽ ra đã phải có đủ từ lâu.

Vậy hãy nên thấy rằng từ vô lượng thời gian mình chạy theo tâm vị kỷ, phạm hết lầm lẫn này đến lầm lẫn khác, như vậy đã quá đủ. Hãy nuôi ý chí kiên quyết không bước theo con đường lầm lạc này nữa. So sánh chính mình với Phật đà, hay với chư bồ tát trên đường tu giác ngộ, để thấy rằng tất cả mọi thành tựu giác ngộ đều đến từ việc làm cho người khác chứ không phải cho chính mình. Phát chí nguyện mạnh mẽ như sau: “là người tu theo Phật pháp, từ đây về sau nguyện làm việc gì cũng đều làm vì chúng sinh. Nguyện thành tựu quả Phật để cứu độ chúng sinh, giải thoát tất cả ra khỏi khổ đau, đưa tất cả đến bờ giác ngộ.” Với chí nguyện mãnh liệt này, tham dự buổi lễ phát tâm bồ đề.

>> 8.2. BẢY HẠNH PHỔ HIỀN

Chỉnh cú thứ tám của Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ, đức Atisa căn dặn trước khi phát bồ đề tâm phải sám hối theo bảy hạnh Phổ hiền. Nếu quý vị tham dự buổi nói chuyện hôm nay là để phát tâm bồ đề thì đừng chỉ nghe giảng như nghe thuyết trình mà hãy chắp tay ngang tim, lắng nghe với niềm tin mãnh liệt nơi chư Phật đà bồ tát. Nếu không có ý muốn phát tâm bồ đề thì quý vị có thể nghe một cách bình thường.

>>> 8.2.1. Ðảnh lễ Phật đà

Hạnh thứ nhất trong bảy hạnh Phổ hiền là đảnh lễ Phật đà. Hãy nghĩ đến những tánh đức của Phật, Pháp, Tăng, đặc biệt là những tánh đức của thân khẩu ý nhiệm mầu của Phật, ví dụ như tâm toàn giác, tâm bồ đề, hay tuệ chứng tánh không của Phật. Sau đó khởi trong tâm chí nguyện muốn chính mình đạt được trí giác của Phật, rồi mang lòng kính ngưỡng sâu xa mà tán dương quì lạy đức Phật.

>>> 8.2.2. Cúng dường chư Phật

Thứ hai là hạnh Cúng dường. Tưởng tượng mang hết sở hữu của mình, thân mạng, tài sản, cúng dường cho chư Phật đà bồ tát. Cũng có thể từ trong ý tưởng cúng dường tất cả mọi thứ có trong vũ trụ. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là cúng dường tất cả mọi thiện nghiệp thân khẩu ý  mà mình đã làm trong mọi đời quá khứ. Quý vị có thể quán tưởng thiện nghiệp này dưới dạng những món cúng phẩm, hoặc là có thể nghĩ đến trọn vẹn khối công đức mình có, rồi từ tận đáy lòng, dâng lên tất cả cho chư Phật đà chư Bồ tát.

>>> 8.2.3. Sám hối nghiệp chướng

Thứ ba là hạnh Sám hối, nói cách khác là thanh tịnh nghiệp chướng. Nghĩ đến tất cả những việc thân khẩu ý sai quấy mà mình đã phạm, đều sẽ thành quả khổ trong tương lai. Mỗi người trong chúng ta đều phải đối đầu với đủ loại vấn đề, thể chất cũng như tinh thần, đều vất vả trong khổ đau bất tận, như sóng dồi mặt hồ, lớp này bồi lớp khác.

Khi nghĩ như vậy, phải hiểu rằng khổ đau không phải không nhân mà có. Mỗi vấn đề đều có nguyên nhân riêng của nó. Nguyên nhân chính của khổ đau là việc làm, lời nói và ý nghĩ bất thiện của mình. Hãy tưởng tượng quý vị đang đứng giữa chư Phật đà bồ tát, thố lộ tất cả việc làm bất thiện của mình, chân thành hối lỗi, quyết tâm thay đổi.

>>> 8.2.4. Tùy hỉ công đức

Thứ tư là hạnh tùy hỉ. Hãy suy nghĩ về tánh đức toàn hảo của chư Phật, nhất là của đức Phật lịch sử. Chúng ta đều biết đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong lịch sử không phải ngay từ đầu đã giác ngộ. Lúc đầu Phật cũng như chúng ta, chỉ là người bình thường, gặp đủ mọi khó khăn trên đường tu, cũng nhiều giới hạn và khuyết điểm như tất cả mọi người. Nhưng Phật khác chúng ta ở chỗ Phật dốc lòng tu tâm bồ đề, bước vào đường tu, trải qua nhiều gian khổ, để cuối cùng thành tựu giác ngộ viên mãn.

Vì vậy để tu pháp tùy hỉ này chúng ta hoan hỉ vui cùng thiện đức giác ngộ của Phật và vui cùng trọn vẹn đường tu giác ngộ. Rồi chú tâm vào chư bồ tát ở ba địa cao nhất trong mười địa, là những vị đã chiến thắng phiền não, đến trước ngưỡng cửa Phật vị. Nghĩ về chư vị, nhìn vào thành tựu của chư vị để khởi lòng kính ngưỡng sâu xa.

Tiếp theo chú tâm vào chư bồ tát ở bảy địa bồ tát đầu. Mặc dù chư vị chưa hoàn toàn chiến thắng sức mạnh của phiền não, cũng đã bước vào thánh vị, trực chứng tánh không. Suy nghĩ về tánh đức của chư vị để khởi lòng kính ngưỡng. Tiếp theo, chú tâm vào chư vị bồ tát ở hai chứng đạo đầu trong năm chứng đạo, là tích lũy đạo và gia hạnh đạo. Các vị này gần giống chúng ta, nhất là những vị ở trong  chứng đạo đầu tiên. Trên một khía cạnh nào đó, chư bồ tát mới phát tâm còn đáng kinh ngạc hơn những vị có chứng ngộ cao, vì chư vị dù còn chịu sự thao túng của phiền não như tham và sân, vẫn đủ can đảm và nghị lực để bước trên đường đi của bồ tát.

Vì vậy, phải thấy vui như cha mẹ thấy con mình bước bước chân đầu tiên, nói tiếng nói đầu tiên. Cha mẹ không chê bước chân con vụng về, lời nói con ngây ngô, ngược lại luôn cảm thấy con mình vô cùng tuyệt dịu. Tương tự như vậy, đối với chư vị bồ tát đang vất vả bước những bước đầu tiên trên đường tu, hãy nên thấy chư vị thật tuyệt dịu, mang đến cho chúng ta nguồn cảm hứng sâu xa.

Có được cảm giác chân thành kính ngưỡng tất cả các vị bồ tát rồi, hãy tiếp tục hoan hỉ với thành tựu của chư A la hán, là những người đã thoát sinh tử luân hồi. Ðồng thời, hãy hoan hỉ với thành tựu của những ai đang bước trên con đường giải thoát.

Cuối cùng, hoan hỉ với công đức chúng sinh tích tụ được, đặc biệt là công đức của chính mình. Quý vị có được thân người với đầy đủ khả năng tu theo Phật pháp, chỉ bấy nhiêu cũng đủ thấy trong quá khứ quý vị đã tích tụ được nhiều công đức. Gặp được Phật pháp, muốn tu theo Phật, những điều này đều đến từ việc thiện đã làm trong quá khứ. Quý vị cũng đã từng làm rất nhiều việc tốt lành vị tha trong đời này, vậy hãy nhớ nghĩ đến tất cả những việc tốt ấy, hồi hướng tất cả về cho chúng sinh, vui với cơ hội mà mình đã có để tạo ra được ngần ấy công đức.

>>> 8.2.5. Thỉnh Phật chuyển pháp luân

Thứ năm là hạnh thỉnh Phật chuyển pháp luân. Công phu này liên hệ tới báo thân của Phật. Hãy chú tâm vào tất cả những vị Phật mới thành đạo, chưa khởi đầu dạy Phật pháp, để thỉnh cầu chư vị thực hiện đại nguyện độ sinh, sớm chuyển bánh xe chánh pháp.

>>> 8.2.6. Thỉnh Phật trụ thế

Thứ sáu là hạnh thỉnh Phật đừng nhập niết bàn. Ở đây cũng vậy, cũng là nói về báo thân của Phật chuyển bánh xe chánh pháp, làm vô lượng thiện hạnh. Cầu xin chư vị đừng nhập niết bàn mà hãy ở lại cùng chúng sinh.

>>> 8.2.7. Hồi hướng công đức

Hạnh thứ bảy là hồi hướng công đức. Mang tất cả công đức có được, nhất là công đức đến từ việc thọ  giới bồ tát, hồi hướng về cho chúng sinh được an vui, cho quả vô thượng bồ đề được thành tựu vì lợi ích của chúng sinh.

>> 8.3. NGHI THỨC PHÁT TÂM NGUYỆN BỒ ĐỀ

Quý vị có thể phát tâm bồ đề bằng cách đơn giản đọc tụng ba bài kệ sau đây: bài thứ nhất nói về pháp quy y; bài thứ hai để phát tâm bồ đề; bài thứ ba là để cho tâm bồ đề không bị thoái chuyển.

Nếu tiện thì quý vị hãy quì một chân, bằng không cứ hãy ngồi trên ghế. Khi đọc phải biết rõ ý nghĩa lời mình đọc. Nhớ rằng đệ tử bồ tát quy y Tam Bảo là đồng nghĩa với quy y đại thừa, dấn thân vào đường tu vì lợi ích của chúng sinh, quyết chí tu thành Phật là vì muốn chúng sinh được lợi ích.

Lập lại ba lần ba bài kệ sau đây:

Với ước nguyện giải thoát

Cho toàn thể chúng sinh

Con xin về nương dựa

Nơi Phật, Pháp và Tăng

Cho đến khi thành Phật

Hôm nay tâm hướng về

Từ bi và trí tuệ

Đối trước mười phương Phật

Con xin vì chúng sinh

Nguyện phát tâm bồ đề

Không gian chưa cùng

Chúng sinh chưa tận

Nguyện con còn vẫn

Ở lại chốn này quét khổ thế gian.

Cứ như vậy phát tâm bồ đề. Dù chưa chính thức thọ giới bồ tát nhưng hôm nay quý vị đã phát tâm nguyện bồ đề thì phải ra sức giữ gìn để cho tâm này không bị thoái chuyển. Ý nghĩa của ba bài kệ này, quý vị nên ôn lại mỗi ngày.

| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |



| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |


> CHƯƠNG 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT

>> 9.1. THỌ GIỚI BỒ TÁT

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 18

| ND-18. Tâm nguyện bồ đề / một khi đã phát / phải hằng ghi nhớ / phát triển không ngừng / đời này kiếp sau / không bao giờ xa / hạnh nguyện bồ tát.

Nếu vừa nãy quý vị đã chính thức phát tâm nguyện bồ đề rồi thì phải giữ cho tâm này đời này kiếp sau không bị thoái chuyển. Muốn giữ được như vậy thì phải từ bỏ bốn điều bất thiện và làm theo bốn điều thiện.

Bốn điều bất thiện cần từ bỏ là như sau:

  • < 1. Dùng lời nói dối để lừa sư phụ hay lừa những bậc đáng được tôn kính;
  • < 2. Khiến người khác hối tiếc vì đã làm việc thiện;
  • < 3. Nổi nóng buông lời thô ác với bồ tát;
  • < 4. Lừa gạt chúng sinh với dụng ý xấu;

Bốn điều thiện cần làm theo là như sau:

  • < 1. Dù mất mạng sống cũng không vì lợi riêng mà nói lời không thật;
  • < 2. Dẫn dắt chúng sinh vào với chánh đạo.
  • < 3. Luyện tâm để thấy chư bồ tát là tôn sư, tán dương công đức của chư vị;
  • < 4. Duy trì không để gián đoạn tâm từ, tâm bi, và đại nguyện gánh vác chúng sinh.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 19

| ND-19. Nhưng tâm bồ đề / sẽ không nảy sinh / nếu không dấn thân / phát tâm thọ giới. / Vậy con hãy gắng / thọ giới bồ tát / cho bồ đề tâm / bắt rễ đâm chồi.

Chỉnh cú này nói rằng mặc dù tâm nguyện vì chúng sinh mà quyết chí thành Phật là điều tạo ra công đức đồ sộ, nhưng đồ sộ hơn nữa vẫn là công đức thọ giới bồ tát và sống theo hạnh bồ tát. Bài pháp trình bày trình tự như sau:

  • < 1. Phát tâm nguyện bồ đề;
  • < 2. Dự lễ phát tâm nguyện bồ đề và phát thệ duy trì tâm ấy;
  • < 3. Phát tâm nguyện thực hành bồ tát hạnh;
  • < 4. Thọ bồ tát giới.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 20

| ND-20. Muốn đủ điều kiện / thọ giới Bồ tát / thì phải thọ giữ / một trong bảy bộ / giới biệt giải thoát / (Praktimosha).

Chỉnh cú này cho thấy muốn thọ giới bồ tát thì tốt nhất phải xây dựng nền tảng của giới luật bằng cách giữ ít nhất là một trong bảy bộ giới biệt giải thoát dưới đây:

  • < 1. giới nam cư sĩ (ưu bà tắc)
  • < 2. giới nữ cư sĩ (ưu bà di)
  • < 3. giới sa di
  • < 4. giới sa di ni
  • < 5. giới thức xoa ma ni (nữ tu tập sự)
  • < 6. giới cụ túc dành cho tỷ kheo
  • < 7. giới cụ túc dành cho tỷ kheo ni

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 21

| ND-21. Phật thuyết bảy bộ / giới biệt giải thoát, / giới pháp thanh tịnh / cát tường bậc nhất / là cụ túc giới.

Chỉnh cú này nói rằng trong bảy bộ giới ba la đề mộc xoa, cao nhất là cụ túc giới của tỷ kheo và tỷ kheo ni. Đức Phật nói rất rõ, rằng Phật pháp còn hay mất đều tùy thuộc vào việc có còn người hành trì giới luật hay không. Nơi nào giới luật còn được chấp trì, nhất là qua ba hoạt động chính của Tăng đoàn: lễ Bố tát [so-jong, skt: poshadha]; mùa an cư kiết hạ [yar-nä, Phạn ngữ: varshopanayika]; và lễ Tự tứ, kết thúc mùa an cư kiết hạ [gak-ye, Phạn ngữ: pravarana], thì nơi đó còn Phật Pháp. Thường nói ở đâu giới pháp hưng thịnh, đến cả Phật cũng cảm thấy khiêm nhường. Còn nơi nào không còn người giữ giới thì không thể nói rằng nơi ấy thật sự có Phật pháp.

Lời đề cao giới luật như vậy không phải chỉ có trong Luật tạng mà cả trong kinh điển đại thừa cũng có, ví dụ như trong kinh điển bồ tát thừa hay mật điển Mật tông tối thượng du già. Cụ thể như trong mật điển Kalachakra có câu khẳng định rất rõ ràng, rằng giữa các bậc đạo sư kim cang Kalachakra thì cao quý nhất vẫn là bậc thọ cụ túc giới.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 22

| ND-22. Dựa theo lời kinh / Thập Địa Bồ Tát / trong chương “Giới Luật,” / con hãy đi tìm / vị thầy có đủ / khả năng truyền giới.

Không như giới biệt giải thoát hay giới kim cang, khi thọ giới bồ tát, quý vị có thể tự phát nguyện thọ giới bồ tát trước ảnh tượng của đức Phật, không cần sự hiện diện chứng minh của thầy truyền giới. Tuy vậy, chỉnh cú 22 nói rằng tốt nhất vẫn nên thọ giới từ một vị thầy đầy đủ khả năng. Và chỉnh cú 23 giải thích vị thầy đầy đủ khả năng là như thế nào:

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 23

| ND-23. Thầy đủ khả năng / phải là vị thầy / khéo biết nghi thức / truyền giới Bồ tát, / trang nghiêm giới hạnh / đầy đủ tự tín / và tâm từ bi / truyền giới cho người.

Tiếp theo sau, chỉnh cú 24 giải thích nếu không thể tìm được một vị thầy như vậy vẫn có thể thọ giới bồ tát theo nghi thức sau đây:

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 24

| ND-24. Tuy nhiên nếu đã / cố gắng đi tìm // mà vẫn không gặp / vị thầy như vậy, // thì vẫn hãy còn / cách thọ giới khác // Thầy sẽ giải thích / cách phải làm sao

chỉnh cú 25 trở đi, Ngọn Đèn trình bày phương pháp tự thọ giới bồ tát dành cho người không thể tìm ra thầy truyền giới. Phương pháp này dựa theo Học Tập Luận [Compendium of Deeds; Siksasamuccaya] của ngài Tịch thiên.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 25

| ND-25. Trong Kinh Trang Nghiêm Văn Thù Tịnh Độ / có kể tường tận / chuyện xưa khi ngài / Văn Thù còn là / quốc vương Amba [Amba raja], đã từng phát tâm / theo phương pháp nào. / Bây giờ thầy sẽ / giải thích rõ ràng / phương pháp phát tâm / đúng theo như vậy.

(câu 26 trở đi trích thẳng từ tác phẩm nói trên của ngài Tịch thiên)

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 26

| ND-26. “Con xin đối trước / các bậc hộ trì, / nguyện xin phát tâm / vô thượng bồ đề, / mời chúng sinh về / chứng giám cho con. / Nguyện sẽ quảng độ / chúng sinh thoát khỏi / ràng buộc luân hồi.”

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 27 -31

| ND-27. “Từ nay đến ngày / con đạt giác ngộ, / nguyện từ bỏ hết / tâm lý ô nhiễm, / ác ý, giận dữ / keo bẩn, ganh ghen.

| ND-28. “Nguyện giữ giới hạnh / từ bỏ ác, tham, / vui việc giữ giới / nối gót chư Phật.

| ND-29. “Nguyện không vì mình / mà ham mau chóng / thành tựu giác ngộ. / Nguyện luôn ở lại / làm người sau cùng.

| ND-30. “Nguyện sẽ làm sạch / vô lượng cõi giới, / làm nên tịnh độ / không thể nghĩ bàn. / Nguyện vì những ai / gọi đến tên con, / mà khắp mười phương / con đều có mặt.

| ND-31. “Nguyện làm thanh tịnh / hết thảy ác nghiệp / từ thân ngữ  ý / mà phát sinh ra. / Mọi việc bất thiện / con đều không làm. / Trang nghiêm giữ gìn / giới hạnh Bồ tát.

Chỉnh cú 32 dưới đây giải thích sau khi thọ bồ tát giới rồi thì phải tu như thế nào. Trước tiên phải hành trì sáu hạnh ba la mật, đó là thí; giới; nhẫn; tấn; định; và tuệ. Mọi hạnh ba la mật có thể gom vào ba giới luật của bồ tát như sau:

  • < 1. Lánh mọi điều ác
  • < 2. Làm mọi điều lành
  • < 3. Làm lợi chúng sinh

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 32

| ND-32. Càng khéo giữ gìn / ba loại giới luật / tâm càng kiên định / vững tin nơi Giới. / Đây chính là nhân / khiến thân ngữ ý / trở nên thanh tịnh.

>> 9.2. NĂM HẠNH BA LA MẬT: Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Định.

Bây giờ hãy đọc bài luận của Lama Tông Khách Ba giải thích về sáu hạnh ba la mật. Đầu tiên là hạnh Thí.

>>> 9.2.1. Hạnh Thí

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 15

| CDC-15. Thí là ngọc quý / toàn thành ước nguyện / cho khắp chúng sanh; // Vũ khí thượng thặng / chặt phăng nút thắt / của lòng keo bẩn; // Là hạnh bồ tát / sinh nguồn dũng cảm / không hề chán mệt; // Và là nền tảng / khiến cho danh lành / truyền khắp mười phương. // Vì biết điều này / nên người có trí / xả hết thân mạng / tài sản công đức, // Chỉ để nương theo / con đường lành này. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy. // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Phải hiểu rằng đối với đối tượng thì mục tiêu chính của hạnh thí là để chu toàn nguyện ước cho chúng sinh, còn đối với chính mình thì mục tiêu chính của hạnh thí là để quét khuynh hướng chiếm hữu, keo kiệt. Ngọn Đèn giải thích cặn kẽ cách san sẻ bố thí, phải đúng thời điểm, đúng động cơ, đúng tâm thái v.v…  Ngoài ra khi làm hạnh thí cũng phải bảo đảm rằng mỗi hành động san sẻ bố thí đều gồm đủ sáu hạnh ba la mật.

>>> 9.2.2. Hạnh Giới

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 16

| CDC-16. Giới là nước trong / giặt sạch tất cả / vết nhơ ác nghiệp; // Là ánh trăng thanh / xoa dịu nỗi đau / rát bỏng phiền não; // Đứng giữa phàm phu, / thân thể rạng ngời / như núi Tu di, // Không cần thị uy / nhiếp phục khắp cả. // Vì biết điều này / nên chư giác giả, // Giữ giới đã thọ / quí như đôi mắt. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy. // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Chỉnh cú này chủ yếu nói thực hành hạnh Giới có nghĩa là tự kềm chế. Nói cách khác, phải tự chế ngự không để cho mình phạm ác nghiệp, nhất là phạm giới biệt giải thoát. Đối với bồ tát, tu hạnh Giới chủ yếu là tự chế ngự không để vướng cái tâm lý vị kỷ, ngã ái.

>>> 9.2.3. Hạnh Nhẫn

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 17

| CDC-17. Nhẫn là trang sức / quí giá nhất cho / người có quyền năng; // Là sức chịu đựng / tuyệt bậc dành cho / bức bách phiền não; // Là kim sí điểu / bay vút giữa trời, / làm khắc tinh của / rắn thù sân hận; // Là lớp giáp bào / kiên cố ngăn chận / vũ khí ác ngữ. // Biết vậy cho nên / giáp bào kham nhẫn, // Bằng đủ mọi cách / phải tập làm quen. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy. // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Tu hạnh Nhẫn như nói ở đây chủ yếu là luyện sao cho tâm dù bị hại đến mức nào vẫn giữ được sự an nhiên. Quý vị học cách sẵn lòng chấp nhận cảnh ngộ khó khăn để hướng đến mục tiêu cao hơn. Ngoài hai điều này ra, tu hạnh Nhẫn hãy còn một ý nghĩa khác sâu rộng hơn, đó là càng tư duy hành trì chánh pháp thì hạnh Nhẫn càng tăng. Quý vị có thể tìm thấy lời giải thích chi tiết nhất về hạnh Nhẫn trong chương Sáu của Nhập Bồ Đề Hạnh Luận của ngài Tịch Thiên.

>>> 9.2.4. Hạnh Tấn

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 18

| CDC-18. Khoát lớp giáp bào / tinh tấn bất thoái // Thì học và chứng / tăng trưởng nhanh như / trăng đến độ rằm, // Làm gì cũng đều / tràn đầy ý nghĩa, // Và đều mang đến / kết quả mong cầu. // Vì biết như vậy / nên chư bồ tát // Cuộn sóng tinh tấn / quét sạch hết thảy / mọi kiểu biếng lười. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy. // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Phương pháp tu hạnh Tấn được trình bày chi tiết trong chương bảy của Nhập Bồ Đề Hạnh Luận của ngài Tịch Thiên.

>>> 9.2.5. Hạnh Định

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 33 – 38

Từ chỉnh cú 33 trở đi, Ngọn Đèn giải thích chi tiết về phương pháp tu chỉ và tu quán.

| ND-33. Bồ tát phát tâm, / kiên trì giữ giới, / sẽ gom đầy đủ / tất cả tư lương / thành tựu  bồ đề.

| ND-34.  Chư Phật dạy rằng / nhân duyên giúp ta / gom đủ phước, trí, / chính là thần thông.

Phước và trí nói ở đây có nghĩa là hai bồ tư lương phước đức và trí đức, nhờ vào đó mới thành tựu được hai thân Phật tương ứng là sắc thân và pháp thân. Ngọn Đèn nói rằng muốn viên thành hai bồ tư lương này thì phải có thần thông [ngön-she]. Thần thông nói ở đây là một loại tâm thức đặc biệt giúp ta có khả năng biết được căn cơ khuynh hướng của chúng sinh để có thể độ giúp chúng sinh một cách hữu hiệu.

| ND-35. Tựa như chim non / không thể cất cánh / vút lên trời rộng; / thiếu lực thần thông / không thể làm việc / lợi ích chúng sinh.

Vấn đề nằm ở chỗ nếu không có được khả năng biết rõ tâm của chúng sinh thì dù tâm ý cao cả đến đâu, vẫn gặp nguy cơ vì việc làm, lời nói và ý nghĩ của mình mà gây hại lớn cho chúng sinh.

| ND-36.  chưa đạt thần thông / dù tu trăm kiếp / được bao công đức / vẫn không thể sánh / công đức một ngày / khi có thần thông.

| ND-37. Ai muốn nhanh chóng / tích lũy phước tuệ, / thành tựu viên mãn / vô thượng bồ đề, / thì đừng biếng nhác. / siêng tu lục thông.

| ND-38. Muốn đạt thần thông, / tâm phải an trú. / Vậy phải không ngừng / cố gắng tu chỉ.

Đức Atisa dạy rằng tu thiền chỉ là điều kiện tiên quyết để đạt thần thông. Quan trọng hơn nữa, đạt tâm tịnh-chỉ còn là điều kiện tiên quyết để đạt tuệ-quán, chứng tánh không. Mặc dù vẫn có thể có được tuệ chứng tánh không mà không cần tâm tịnh-chỉ, nhưng chắc chắn là không thể có được loại tuệ chỉ quán hợp nhất. Tuệ-quán chứng tánh không chân chính chỉ có thể đến sau khi đã có được loại kinh nghiệm thân tâm nhu nhuyễn khinh an đến từ tu quán. Để đạt được thân và tâm nhu nhuyễn khinh an đến từ tu quán thì trước đó phải đạt được thân và tâm nhu nhuyễn đến từ tu chỉ. Chứng Đạo Ca của Lama Tông Khách Ba tiếp tục mô tả về phẩm chất đặc biệt của tâm khi đạt được tịnh-chỉ.

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 19

| CDC-19. Định là đại vương / ngự trị tâm thức. // Để yên, bất động / như núi Tu Di // Mở ra, thu nhiếp / toàn bộ thiện pháp, // Cho hỉ lạc nhờ / nhu nhuyễn thân tâm. // Vì biết vậy nên / hành giả tự tại // Luôn nương pháp định / diệt thù tán tâm. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy. // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Hai câu đầu nói rằng sau khi đạt được tâm tịnh-chỉ thì quý vị trong một giới hạn nào đó có thể làm chủ được tâm mình: quý vị có khả năng quyết định có để cho tâm mình tiếp đối cảnh hay không. Khi ấy quý vị muốn đặt tâm mình ở đâu thì tâm sẽ ở yên nơi đấy, không mảy may lay động, vững như núi Tu Di. Cái được gọi là “định” nói trong chỉnh cú này là trạng thái tâm thức có được sau giai đoạn thứ chín của thiền chỉ, thân tâm có được kinh nghiệm hỉ lạc. Không nên lẫn lộn trạng thái hỉ lạc này với điều trong mật tông gọi là đại lạc. Trạng thái hỉ lạc nói ở đây chỉ đơn giản đến từ cảm giác khinh an của thân và của tâm nhờ nhất tâm bất loạn nơi đề mục thiền chỉ.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 39 – 40

| ND-39. Nhân duyên tu chỉ / nếu chưa gom đủ, / thì dù tọa thiền / trăm ngàn vạn năm / tâm vẫn không định.

| ND-40. Vậy phải cố gắng / gom đủ nhân duyên  / như đã ghi trong / Công Đức Thiền Chỉ. / Hãy chọn đề mục / để mà nhiếp tâm.

Như Ngọn Đèn đã nói, chưa đủ duyên tu chỉ thì dù cố gắng đến đâu cũng chỉ hoài công. Vậy trước khi bắt đầu hạ thủ công phu, phải nên xét kỹ xem mình có đã hội đủ năm điều kiện dưới đây hay chưa:

  • < 1. Giới hạnh thanh tịnh;
  • < 2. Không nhiều nhu cầu cá nhân hay phải bận bịu lo toan việc thế tục;
  • < 3. Biết mọi điểm then chốt và trình tự của pháp tu.
  • < 4. Ăn uống thích hợp và vừa phải.
  • < 5. Ít bị quấy nhiễu, hạn chế tiếp xúc với người lạ hay người xung quanh.

Quý vị có thể theo đó để tạo điều kiện cần thiết cho việc tu thiền chỉ. Đến khi tu thì phải giữ pháp thiền bằng hai cách. Phải biết cách làm sao nâng tâm căng lên hay thả tâm chùng xuống. Nếu quý vị cho rằng ngồi thẳng sẽ nâng tâm lên, ngồi khòm sẽ khiến tâm chùng xuống thì cả hai cách này đều không đúng. Phải học để biết cách vận dụng ý tưởng của mình như thế nào mới đạt được hiệu quả mong muốn.

Ở đây chúng ta đang nói về người tu Lam-rim khởi từ bước nhập môn cho đến bây giờ, đạt được một số kinh nghiệm tâm linh nhờ phối hợp chỉ quán.

Nói về các giai đoạn tu chỉ một cách cụ thể thì có nhiều phương pháp khác nhau được trình bày trong kinh luận, ví dụ như trong bộ Biện Trung Biên Luận [phạn: Madhyantavibhaga; tạng: U-tha-nam-che] của Bồ tát Di Lạc và Thánh Vô Trước, giải thích về năm chướng ngại và tám lực giải. Nói về việc chọn đề mục để tu thiền chỉ, luận này hướng dẫn nhiều loại đề mục khác nhau, có loại thích hợp để sám hối tịnh nghiệp, giải trừ vọng tâm, cũng có loại thích hợp với người nhiều suy nghĩ, v.v… Nói chung, luận này nhắc đến ba loại đề mục thiền chỉ:

  • < 1. Đề mục phổ quát, có thể dùng chung cho thiền chỉ và thiền quán.
  • < 2.  Đề mục tương ứng với thói quen cũ của người tu.
  • < 3. Đề mục thích hợp để trị phiền não.

Dù chọn một món vật cụ thể bên ngoài hay chọn một kinh nghiệm tâm thức bên trong để làm đề mục tu thiền chỉ, điều quan trọng là chỉ nên chọn một, đừng thay đổi tới lui. Càng đổi nhiều đề mục mới thì tiến bộ càng kém. Hãy chọn một đề mục, rồi đặt hết tâm trí của mình vào đó. Ví dụ Phật tử có thể chọn ảnh tượng của Phật làm đề mục. Trong trường hợp này, đừng chọn hình Phật quá to hay quá nhỏ, cao bằng bề ngang ba hay bốn ngón tay là vừa. Bất kể thế nào, hình ảnh quán tưởng phải rõ và sáng, như hình ba chiều [hologram] toàn bằng ánh sáng.

Chọn Phật làm đề mục thiền chỉ thì mặc dù lúc ban đầu quý vị có thể dùng một pho tượng hay một tấm ảnh của Phật để chú tâm, nhưng đây không phải là đề mục tu thiền chỉ thật sự. Tu thiền chỉ thật sự thì phải nhiếp tâm vào hình ảnh Phật mà mình quán tưởng ỏ trong tâm. Ngoài ra còn những phương pháp tu chỉ theo khuôn khổ của pháp tu bổn tôn du già, ví dụ như quán tưởng mình là bổn tôn, hay quán tưởng hệ khí mạch của mình, lấy đó làm đề mục nhiếp tâm. Tu thiền chỉ như vừa nói là pháp tu thuộc hệ Kim cang thừa.

Then chốt của thiền chỉ nằm ở chánh niệm, chánh tri, và sự kiên trì. Luôn giữ chánh niệm và chánh tri thì giữ được tâm nơi đề mục đã chọn. Đây là cốt tủy của thiền chỉ. Trước đây đã thấy giữ chánh niệm thì giữ được mình không phạm ác nghiệp. Nên đến cả hạnh giới cũng đòi hỏi phải tu chánh niệm.

Ngoài ra, phẩm đầu tiên trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo là Tứ niệm xứ, ứng với thân, thọ, tâm, pháp, bốn cơ sở của chánh niệm. Riêng nói về thiền chỉ thì chánh niệm phải được phát huy đến mức liên tục không gián đoạn. Trong lúc tham thiền nhập định, ta cần biết rõ đâu là chướng ngại của pháp thiền. Có khi chánh niệm không mất nhưng đề mục bị mờ không hiện rõ, hay cũng có khi đề mục dù hiện rõ nhưng tâm lại thiếu mất độ sắc bén linh hoạt.

Nói chung lỗi khi tu pháp này có hai: hoặc là tâm bị tán, hoặc là tâm bị chùng. Tán tâm có hai loại: một là tâm bị phân tán hoàn toàn, đứt dòng chánh niệm và đánh mất đề mục thiền; hai là tâm bị quấy động ở mức độ vi tế, dù vẫn giữ được đề mục nhưng đâu đó trong tâm phát sinh nhiều niệm khác. Tán tâm là dấu hiệu cho thấy tâm đang bị căng, cần áp dụng biện pháp thả lỏng để đưa tâm về trạng thái quân bình hơn.

Chánh niệm cũng có thể mất nếu tâm bị chùng. Điều này đơn giản có nghĩa là tâm mất khả năng tập trung vào đề mục thiền. Cũng có khi là vẫn tập trung nhưng thiếu mất độ rõ, hay thiếu mất nét linh động, tâm bị chùng ở mức độ vi tế. Đây đều là những dấu hiệu cho thấy tâm đang lỏng lẻo, cần áp dụng biện pháp siết chặt tâm lại bằng cách nghĩ đến những điều tươi vui.

Nếu thấy tâm bị quấy động, vừa tọa thiền đã tán loạn ngay, trong trường hợp này hãy nhớ rằng mình vẫn còn bị nhiễm tâm phiền não chi phối, rằng nhiễm tâm phiền não vẫn còn hoạt động rất mạnh trong mình; nhớ bản thân mình hãy còn vướng kẹt trong cảnh luân hồi; chiêm nghiệm về vô thường và cái chết. Nhớ nghĩ như vậy sẽ giúp tâm chùng bớt, giảm độ náo động, phân tán.

Ngược lại, nếu tâm trì trệ thiếu linh động thì phải siết tâm chặt lại. Nhớ rằng mình vốn có Phật tánh, đủ nhân tố thành Phật, hoặc nhớ đến kiếp người hiếm hoi quý giá mà mình đang có đây, nhớ đến giá trị lớn lao của kiếp người này. Hay là nhớ nghĩ đến thiện đức của Phật Pháp Tăng, nhất là thiện đức nhiệm mầu của Phật. Hay nhớ đến việc bản thân mình có đủ khả năng để tận diệt khổ đau. Những ý tưởng tích cực này sẽ giúp quý vị cảm thấy vui vẻ tự tin, làm tăng nguồn nghị lực.

Lúc mới tu thiền chỉ thì phải học để biết quá trình vận hành phức tạp của tâm thức phát triển như thế nào, đặc biệt là nhất định phải biết cách siết và thả tâm nào hiệu nghiệm với mình, độ quân bình nào phù hợp với mình. Những điều này chỉ có thể biết được qua kinh nghiệm cá nhân, tùy theo tuổi tác, thể tạng mà khác nhau cả, nhất là tùy theo tình trạng sức khỏe của từng người.

Tuy vậy, cứ kiên trì một thời gian dài, quý vị sẽ vượt qua chín giai đoạn tu thiền chỉ. Khi vào tới giai đoạn thứ chín, quý vị sẽ đạt được khả năng tập trung cao độ. Rồi từ đó sẽ dẫn tới trạng thái hỉ lạc của thân tâm nhu nhuyễn khinh an. Ở thời điểm này, quý vị đạt được tâm tịnh-chỉ, còn gọi là Xa-ma-tha, nhập tầng thiền thứ nhất  (trong Tứ Thiền).

Nếu dùng tâm tịnh-chỉ này để quán về khuyết điểm tầng dưới thì sẽ dần đạt được những tầng cao hơn trong cõi sắc giới, rồi tiến xa hơn nữa, vào cõi vô sắc giới. Ở các tầng thiền cao này, tâm quý vị trở nên vi tế đến mức có thể tạm thời thoát được mọi biểu hiện của phiền não.

| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |



| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |


> CHƯƠNG 10. HẠNH TUỆ

>> 10.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA TUỆ BA LA MẬT

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 41

| ND-41. Đạt được tịnh-chỉ / sẽ đạt thần thông, // nhưng thiếu tuệ quán, / vẫn không thể nào // diệt hết tất cả / các loại chướng ngại.

Theo Phật giáo Đại thừa thì cốt tủy của Phật pháp nằm ở hệ kinh bát nhã, gồm hai phần hiển nghĩa và mật nghĩa. Phần hiển nghĩa dạy về tuệ giác tánh không. Phần mật nghĩa dạy về các chứng đạo và chứng địa. Đức Atisa trong chỉnh cú 41 nói rằng dù đạt tịnh-chỉ mà thiếu tuệ ba la mật thì vẫn không làm sao có thể tận diệt chướng ngại.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 42

| ND-42. Muốn dẹp tất cả / chướng ngại ngăn che / niết bàn giải thoát / và trí toàn giác, / thì phải luôn luôn / phối hợp hạnh tuệ / cùng với phương tiện.

Chỉnh cú này cho thấy tầm quan trọng của đường tu hợp nhất trí tuệ và phương tiện. Bốn chỉnh cú tiếp theo giải thích thế nào là phương tiện, thế nào là trí tuệ.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 43 – 46

| ND-43. Tuệ thiếu phương tiện / phương tiện thiếu tuệ / đều thành dây trói / ràng buộc luân hồi. / Vì vậy người tu / cần giữ cả hai.

| ND-44. Để tan nghi vấn / về ý nghĩa của / trí tuệ, phương tiện, / Thầy sẽ nói rõ / về sự khác biệt / giữa hai điều này.

| ND-45. Ngoại trừ hạnh Tuệ / là hạnh thứ sáu / năm hạnh còn lại, / kể từ hạnh Thí / cho đến hạnh Định / đều là phương tiện.

| ND-46. Lấy tâm thuần thục / phương tiện thiện xảo / để mà tu tuệ / sẽ chóng thành tựu / vô thượng bồ đề. / Không thể chỉ dựa / vào quán vô ngã / mà thành tựu được.

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 20

| CDC-20. Tuệ là đôi mắt / thâm chứng tánh Như; // Là con đường bứng / sạch gốc luân hồi; // Là kho tánh đức / kinh luận tán thán; // Và nổi danh là / ngọn đèn vô thượng / xua bóng vô minh. // Vì biết như vậy / nên người có trí / tìm cầu giải thoát // Nỗ lực đủ cách / tu theo đường này. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy. // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Câu đầu tiên cho thấy tánh không là bản tánh của thực tại, không thấy tánh không là cội nguồn của luân hồi, vì vậy mà nói tuệ giác chứng tánh không là đôi mắt cho chúng ta thấy chân tánh của thực tại. Chỉ khi nào diệt được cái thấy hư vọng của vô minh, đạt được cái thấy trái ngược với vô minh là thấy tánh không, khi ấy mới có thể tận diệt được sinh tử luân hồi.

Lama Tông Khách Ba nói tiếp rằng tuệ chứng tánh không là kho tàng nhiệm mầu mà kinh luận vẫn hằng tán dương. Nói như vậy là vì đạt trí toàn giác của Phật là mục tiêu cứu cánh, kinh nào Phật thuyết cũng đều, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, nhắm đếu mục tiêu này. Hơn nữa, trí toàn giác của Phật là tuệ chứng tánh không trong dạng viên mãn nhất, vì vậy có thể nói rằng giáo pháp về tánh không Phật dạy qua hệ kinh Bát Nhã là cốt tủy thâm sâu nhất của tất cả lời Phật dạy.

Lama Tông Khách Ba còn tả tuệ chứng tánh không là ngọn đèn xua tan bóng tối vô minh. Theo ngài Long Thọ và các vị đạo sư khác, “vô minh” nói ở đây có nghĩa là vọng tâm căn bản, thấy sai về thực tại, cố chấp tin vào hiện hữu độc lập và cố định của mọi sự. Chữ “người có trí” cũng mang ý nghĩa đặc biệt. Mặc dù ai theo gót chân Phật cũng đều hướng về quả giải thoát, nhưng nhìn từ quan điểm của Trung quán tông thì chư vị thuộc hệ tri kiến Hữu bộ [Vaibhashika] hay Kinh lượng bộ [Sautrantika] đều chưa thấy hết được sinh tử đến từ đâu, cũng chưa thấy hết được giác ngộ thật ra là gì. Nhìn trên phương diện này, chư vị chưa phải là “người có trí.”

>> 10.2. BẢN CHẤT CỦA TUỆ GIÁC

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 47

| ND-47. Thấy uẩn, giới, xứ / đều là vô sinh, / nhờ đó chứng được / tất cả các pháp / đều không tự tánh: / đó chính là tuệ.

Chỉnh cú này nói về sự không có tự tánh của vạn vật, ứng với bản chất chân thật của thực tại. Thông thường chúng ta luôn có khuynh hướng thấy sự vật đều là những thực thể tuyệt đối, hiện hữu trong một thực tại khách quan cụ thể. Tuy vậy, nếu quán chiếu tường tận hơn sẽ thấy sự vật thật ra không phải như ta thấy, không có thứ gì là có tự tánh cả, và chính sự không có tự tánh này mới là thực tại chân thật, là tánh không, của sự vật.

Vì sự vật vốn không có tự tánh nên mọi đặc tính của sự vật như là sinh ra, tồn tại hay mất đi cũng đều không có tự tánh.

>> 10.3. TÁNH KHÔNG QUA CÁC TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO

Nói về vô ngã, về tánh không, là nói về một thứ gì đó cần được phủ nhận. Điểm then chốt ở đây là phải nhận diện cho đúng đối tượng cần phủ nhận đó là gì. Trong số những tông phái Phật giáo chấp nhận có nhân vô ngã và pháp vô ngã thì đáng nói nhất là Duy thức tông và Trung quán tông. Ở đây, thuyết vô ngã sẽ được giải thích theo hệ tri kiến Trung quán tông.

Ngài Thánh Thiên [Aryadeva] trong Trung Đạo Tứ Bách Tụng Luận có giải thích rất rõ về hệ tri kiến này, rằng cái ngã cần phủ định chính là khái niệm của sự hiện hữu biệt lập. Ngài nói như sau:

Đã là duyên sinh // thì không biệt lập. // Sự không biệt lập / đó là tánh không. // Cho nên khái niệm / hiện hữu biệt lập // chính là cái ngã / cần được phủ định.

Trong số những tông phái Đại thừa chấp nhận có nhân vô ngã và pháp vô ngã, ngoại trừ Trung quán Ứng thành phái ra, tất cả mọi tông phái khác, kể cả Trung quán Tự lập phái và Duy thức tông, đều chấp nhận sự vật có tự tánh trên một phương diện nào đó. Trung quán Tự lập phái và Duy thức tông đưa ra nhiều phân biệt chi li giữa nhân vô ngã và pháp vô ngã, cho rằng pháp vô ngã vi tế hơn nhân vô ngã. Theo quan điểm của hai tông phái này thì đối tượng phủ định của một cá nhân không giống với đối tượng phủ định của ngũ uẩn tạo thành cá nhân ấy.

Ngược lại, theo sách của Trung quán Ứng thành phái, điển hình là bộ luận Trung Đạo Tứ Bách Tụng của ngài Thánh Thiên hay những bộ luận khác được nói ở đây, nhân vô ngã hay pháp vô ngã không khác nhau ở chỗ thô lậu hay vi tế, mà chỉ khác nhau ở chỗ vô ngã của cái gì. Vô ngã có thể ứng vào cá nhân hay ứng vào sự vật như là ngũ uẩn.

Có những tông phái Trung Quán chấp nhận sự vật có tự tánh trên phương diện tục đế, nhưng cũng có một tông phái Trung quán cho rằng không có gì ở đâu mà lại có tự tánh bao giờ, dù là trên phương diện của tục đế. Vì sao có sự phân hai như vậy? Trung Quán tông được dựa trên nền tảng của hai bộ luận căn bản nhất là Trung Quán Luận của ngài Long-thọ và Tứ Bách Tụng Luận của ngài Thánh Thiên. Rồi từ đó tách ra thành hai kiến giải khác nhau về hai bộ luận này. Ví dụ khi giảng giải về Trung Quán Luận của ngài Long Thọ thì ngài Phật Hộ triển khai thuyết phủ nhận hiện hữu có tự tánh trên mọi hình thức, kể cả trên phương diện tục đế.

Về sau ngài Thanh Biện tự viết bộ luận Ngọn Đèn Bát Nhã (Prajnapradipa, Bát Nhã Đăng Luận), đặt vấn đề với ngài Phật Hộ. Ngoài ra ngài Thanh Biện còn viết nhiều tác phẩm khác, chẳng hạn như bộ luận tên là Trái Tim Trung Đạo, và luận giải của luận ấy, tên là Cháy Lửa Luận Lý [Blaze of Reasoning, Skt. Tarkajvālā; Tib. རྟོག་གེ་འབར་བ], đã được đề cập đến trong phần nói về dòng truyền thừa Kadampa. Hai bộ luận này bác bỏ kiến giải Duy thức tông, cho thấy rất rõ, rằng tác giả chấp nhận sự vật có tự tánh, ít ra là trên phương diện tục đế.

Rồi ngài Thanh Biện có ghi rằng chính tâm thức là cái tôi thật có [ngã], và là điểm tham chiếu của tất cả những gì thuộc về nó [ngã sở]. Ở đây cũng vậy, ngài Thanh Biện chấp nhận sự vật có một mức độ tự tánh nào đó. Ngoài ra, khi tranh biện với ngài Phật Hộ, ngài Thanh Biện có trình bày hệ tri thức luận trong một bộ luận giải của ngài về Trung Quán Luận, qua đó có thể thấy ngài Thanh Biện rõ ràng chấp nhận sự vật có một mức độ có tự tánh nào đó.

Nếu muốn tìm hiểu sâu hơn về tánh không, quý vị nên tham khảo xem những tông phái khác nhau hiểu như thế nào về vô ngã. Nói ngắn gọn thì hai tông phái Hữu Bộ [Vaibhashikas] và Kinh Lượng Bộ [Sautrantikas] cho rằng tánh không là nhân vô ngã, có nghĩa là không có một cái tôi có thực thể. Ngoài nhân vô ngã ra, Duy Thức Tông [Cittamatrins] còn chấp nhận có pháp vô ngã, cho rằng pháp vô ngã có nghĩa là hai phần chủ thể và khách thể không thể phân biệt, và cũng có nghĩa là điểm tham chiếu của ngôn từ và khái niệm vốn không hiện hữu một cách tuyệt đối. Trung quán Tự lập phái dựa theo giáo pháp của ngài Long Thọ, nhưng chấp nhận sự vật có tự tánh trên phương diện tục đế.

Mang những kiến giải này ra phân tích sâu hơn, sẽ thấy tất cả những hệ tri kiến này, nhất là của Trung quán Tự lập phái, vì chấp nhận sự vật có tự tánh nên không thể đứng vững. Họ cũng nói rằng có một loại tâm thức có khả năng tự biết chính mình, gọi là tự chứng phần, dựa trên cơ sở của tự chứng phần này để nói rằng tâm thức có tự tánh.

Tất cả mọi bộ phái thuộc Trung Quán tông, Ứng thành phái cũng như là Tự lập phái, đều giống nhau ở chỗ họ không chấp nhận sự vật là thật có, dù là ở trong thực tại nào. Khác với Duy thức tông, Trung quán tông không cho rằng thế giới vật lý bên ngoài khác với thế giới tâm lý bên trong. Duy thức tông cho rằng thế giới ngoại cảnh không thật có, nhưng thế giới nội tâm lại là thật có.

Trung Quán Tông, ngược lại, không chấp nhận có gì là thật có cả.

Tuy vậy, Trung Quán Tông cũng có hai bộ phái, một bên phủ nhận sự vật có tự tánh kể cả trên phương diện tục đế; một bên chấp nhận sự vật có tự tánh trên phương diện tục đế.

Đã vậy, thử hỏi khi đọc luận của ngài Long thọ và ngài Thánh thiên, chúng ta phải nên hiểu theo nghĩa nào đây ? Ở đây cũng giống như khi xét về Phật pháp nói chung, cần mang từng kiến giải ra phân tích, so sánh với kinh nghiệm của chính mình. Làm vậy sẽ thấy nếu nói rằng giác quan có tự tánh, chấp nhận có cái gọi là tự chứng phần, thì dẫn đến nhiều nghịch lý, sẽ bị luận lý phá bỏ nên không thể đứng vững. Nói chung, Phật giáo luôn xét bằng lý trí, giáo thuyết nào ít nghịch lý hơn thì đáng tin hơn là giáo thuyết có nhiều điều mâu thuẫn, bất nhất.

Khi tìm hiểu về giáo thuyết vô ngã, nhất là về cách trình bày vô ngã qua cái tôi và những gì thuộc về cái tôi ấy [ngã và ngã sở], quý vị sẽ hiểu được giá trị của điểm trọng yếu này, đó là mặc dù thế giới thực tại phong phú vô tận, nhưng điều đáng nói nhất vẫn là cá nhân một người cùng với tất cả những gì trực tiếp liên quan đến kinh nghiệm vui buồn sướng khổ của cá nhân ấy – ví dụ như là các thành phần thân và tâm gọi chung là năm uẩn. Vì vậy, ngay từ đầu chúng ta đã phân ra một bên là cái tôi, một bên là đối cảnh của cái tôi ấy.

Tuy vậy, nếu nhìn vào kinh nghiệm của chính mình, quý vị sẽ thấy mỗi khi khái niệm về cái tôi hiện ra trong trí thì đều là từ nền tảng của năm uẩn mà hiện ra. Bên dưới khái niệm về cái tôi là năm uẩn. Chúng ta vì chấp có năm uẩn và chấp có cái tôi, nên luôn tin rằng mình chính là năm uẩn. Đó là lý do vì sao chấp pháp ngã là nền tảng của chấp nhân ngã.

>> 10.4. LÝ DUYÊN KHỞI

Chấp pháp ngã rõ ràng là có liên quan đến tánh không.

Quán về ý nghĩa của tánh không thì nên tham khảo Trung Quán Luận. Đây là bộ luận được ngài Long thọ viết ra để đáp trả những lời phê bình về thuyết tánh không của ngài. Nhiều người chỉ trích ngài, cho rằng nói sự vật không có tự tánh là nói sự vật không có hiện hữu, và như vậy là rơi đoạn kiến. Ngài Long-thọ đáp rằng chỉ trích như vậy chỉ vì hiểu sai ý nghĩa tánh không mà ngài muốn nói. Đại khái lời giải thích của ngài Long-thọ như sau: “Hãy nghĩ lại mà xem, lý do tôi nói sự vật là không, đó là vì sự vật tùy duyên sinh khởi, bấy nhiêu đủ thấy tánh không nói ở đây không phải là đoạn kiến. Tánh không không phải là không có gì hiện hữu mà chỉ đơn giản là không hiện hữu kiểu biệt lập, có tự tánh.”

Ngài Long-thọ viết ý nghĩa này thành chỉnh cú như sau:

Thứ gì duyên sinh // tôi nói là không // cũng là giả danh: // Đó là Trung Đạo.

Ở đây, ngài Long thọ muốn nói rằng ý nghĩa rốt ráo nhất của tánh không chỉ có thể hiểu được qua nghĩa duyên sinh. Hiểu được nghĩa duyên sinh quý vị sẽ có khả năng dứt được khái niệm chấp hiện hữu biệt lập, nói cách khác, hiện hữu không tùy thuộc vào thứ gì khác. Sự vật nào cũng đều là giả danh, vì đều tùy thuộc vào thứ khác mà có. Hiểu về tánh không qua nghĩa duyên khởi sẽ tránh được cả hai đầu cực đoan: không lầm tưởng sự vật không hiện hữu nên thoát đoạn kiến, không lầm tưởng mọi sự đều biệt lập có tự tánh nên thoát thường kiến. Ý nghĩa của trung đạo là như vậy.

Trong Bảo Hành Vương Chánh Luận, ngài Long-thọ nói rằng con người không phải là các thành phần đất nước lửa gió hay là các hợp thể v.v…, nhưng ngài không kết luận rằng con người không hiện hữu mà chỉ nói rằng con người là do năm uẩn hợp lại mà thành. Điều này có nghĩa là hễ ngưng không lấy năm uẩn làm cái tôi thì sẽ thấy được thật tánh của mình là tánh duyên sinh.

Quán theo cách này rồi quý vị sẽ như vậy sẽ có lúc thấy được rằng những gì bình thường mình cảm nhận, mình tin tưởng, thật ra đều trái với thực tại chân thật. Khi nghĩ về chính mình, quý vị thường cảm thấy như có một cái gì đó rất cụ thể, có thể trỏ ra được, gọi đó là cái tôi. Nhưng càng suy xét kỹ hơn lại càng thấy chữ “tôi” này thật ra chẳng ứng vào một điều gì cụ thể cả, chỉ là một danh từ gán trên một khối gồm nhiều hợp thể. Đến được với kết luận này rồi sẽ thấy cá nhân cái tôi mà nào giờ mình vẫn tin chắc là có tự  tánh đó, thật ra không hề có tự tánh. Đó là ý nghĩa của tánh không.

Tôi luôn cảm thấy rằng tiếp cận tánh không qua nghĩa duyên sinh hiệu quả hơn là tiếp cận qua quá trình phủ định cái tôi không phải là thân, không phải là thọ, không phải là thức, vân vân… Sau khi đi hết quá trình phủ định, thấy cái tôi không thể tìm đâu cho thấy, khi ấy có thật sự hiểu được tánh không hay chưa vẫn chưa thể biết chắc. Còn nếu tiếp cận qua duyên sinh thì con đường dẫn kết quả sẽ thành công dễ dàng hơn rất nhiều.

>> 10.5. THIẾT LẬP TÁNH KHÔNG QUA LUẬN LÝ

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 48 – 50

| ND-48. Đã thật là có / thì đâu lý nào / lại còn khởi sinh // Đã thật là không / thì chỉ giống như / đốm hoa giữa trời / [vốn đâu có gì / để mà nói tới] // Hai kết quả này / phi lý như nhau // Sự vật khởi sinh / không phải như vậy.

| ND-49. Sự vật thì không / sinh từ chính mình // Hay từ thứ khác / hay từ cả hai // Cũng không phải là / không nhân mà sinh // Sự vật sinh ra / vốn không tự tánh.

| ND-50. Hơn nữa quán xem / hết thảy các pháp // là một, hay nhiều // Sẽ không thấy gì / là có thực thể // Nên chắc chắn là / không có tự tánh.

[Ghi chú của dịch giả, về ba phương pháp luận lý: 
Chỉnh cú 48: xét nơi quả qua luận lý "không có, không không".
Chỉnh cú 49: xét nơi nhân qua luận lý "mảnh vụn kim cương"
Chỉnh cú 50: xét nơi chính bản thân sự việc qua luận lý "không một, không khác."

Chỉnh cú 48 xét từ nơi quả để thiết lập tánh không, lặp lại lời ngài Long thọ nói trong Bảy Mươi Luận Tụng về Tánh Không, rằng nếu sự vật đã thật sự là có thì không thể khởi sinh. Sự vật nếu đã hiện hữu có tự tánh thì toàn bộ ý tưởng khởi sinh sẽ trở thành phi lý. Đã có tự tánh thì phải biệt lập khách quan, mà đã biệt lập khách quan thì không thể có sinh hay có diệt.

Chỉnh cú 49 xét từ nơi nhân để thiết lập tánh không, còn chỉnh cú 50 thì xét từ chính nơi sự vật để thiết lập tánh không.

Trong chỉnh cú 50, ngài Long-thọ dùng phương pháp suy luận gọi là “không một, không khác” để xét về cái tên, ví dụ như gọi là “cái tôi” hay là “cá nhân.” Chúng ta có thể thấy rằng mỗi cái tên đều được đặt trên một cơ sở lập danh nào đó. Trong trường hợp “cái tôi” hay “cá nhân” thì tên là “cái tôi,” còn cơ sở lập danh là hợp thể thân tâm [gọi chung là năm uẩn]. Cho nên có một mối tương quan giữa cái tôi và cơ sở lập danh của cái tôi ấy. Phương pháp “không một, không khác” cho thấy nếu xét về mối tương quan giữa cái tôi và hợp thể thân tâm, xem cái tôi ấy là một hay là khác với thân tâm, sẽ thấy ra rằng hai thứ này thật ra không phải một, cũng không phải khác.

Chúng ta thường dựa vào kết quả rồi mặc định rằng sự vật như vậy thì phải có tự tánh. Chúng ta luôn cảm thấy rằng chỉ những thứ có đặc tính khách quan mới có thể tạo quả. Không những vậy, vì sự vật do nhân duyên sinh ra nên chúng ta cho rằng phải có tự tánh thì mới sinh ra được. Cho nên chúng ta luôn dựa vào nhân và quả để khẳng định tự tánh của sự vật. Đó là lý do vì sao muốn phủ nhận tự tánh thì phải xét từ cả hai đầu nhân và quả, cùng với việc xét ngay chính bản thân của sự vật ấy.

Chỉnh cú 49 trình bày luận lý được gọi là “hạt vụn kim cương.” [རྡོ་རྗེ་གཟེགས་མའི་སྟན་ཚིགས] Khi nói thứ này thứ nọ khởi sinh, nếu chỉ muốn nói là sự vật từ nhân sinh ra thì không sao cả. Nhưng nếu không hài lòng với thực tại giả danh của khái niệm sinh khởi, thắc mắc không biết sự vật thật sự khởi sinh như thế nào, có từ chính mình sinh ra, hay từ thứ khác, hay từ cả hai, hay không từ thứ gì cả? Ngay khi vừa khởi thắc mắc là đã bắt đầu cuộc truy tìm tự tánh của sự vật, ít ra là tự tánh trên phương diện sinh khởi.

Nếu sự khởi sinh là thật có thì đương nhiên phải là khởi sinh có tự tánh. Nhưng xét cho đúng lý, chúng ta có thể thấy được rằng sự vật không sinh ra từ cái nhân đồng nhất với kết quả [sinh ra từ chính mình, tự sinh], hay khác với kết quả [từ thứ khác, tha sinh], hay từ cả hai [cộng sinh], hay không phải cả hai [không nhân mà sinh]. Vậy có thể kết luận rằng sự khởi sinh này thật ra không có tự tánh. Từ đó có thể suy ra một điều chắc chắn, đó là người nào chấp nhận khái niệm có tự tánh thì bắt buộc phải chấp nhận rằng sự vật sinh ra từ nhân duyên biệt lập, có tự tánh.

Điều này được nói rất rõ trong luận văn của ngài Long Thọ. Trong chương đầu tiên của Trung Quán Luận, ngài Long thọ phủ nhận khái niệm sinh khởi có tự tánh, nói rằng ai chấp nhận có tự tánh thì đối với người ấy hết thảy mọi danh từ khái niệm về mối tương quan giữa người làm và việc làm, giữa sự vật và đặc tính của sự vật ấy, đều trở thành phi lý.

Nói ví dụ, khi nói chồi non từ hạt giống sinh ra, nói vậy có nghĩa là thì chính sự khởi sinh này, trên một phương diện nào đó, cũng là một đặc tính của chồi non. Thế nhưng khi còn đang là hạt giống, mặc dù chồi non chưa có nhưng vì hạt giống đang được cấy trồng, đang trên đà đâm chồi, nên vẫn có thể nói rằng hạt giống sinh ra chồi non, hay nói rằng chồi non đang được sinh ra. Ở thời điểm này, quá trình khởi sinh đã bắt đầu, nhưng chồi non chưa hiện. Ngài Long-thọ nói đối với người phủ nhận sự vật có tự tánh thì điều này không thành vấn đề, vì những khái niệm như hạt giống hay chồi non đều chỉ đơn thuần thuộc về lãnh vực của ngôn từ. Nhưng nếu muốn khẳng định những khái niệm này, và cố gắng truy tìm một thực tại khách quan cho chúng, thì mối tương quan giữa chồi non và sự khởi sinh của chồi non tự nhiên trở thành điều phi lý khó hiểu. Phân tích như vậy để bác bỏ hiện hữu có tự tánh từ hai đầu nhân và quả của sự vật.

Tinh túy của Phật pháp nằm trong bốn Pháp ấn. Khi tóm tắt tinh túy của toàn bộ giáo pháp Phật dạy, sẽ thấy nền tảng của Phật pháp đều được trình bày qua khuôn khổ của bốn pháp ấn này.

  • < 1. Mọi hiện tượng do yếu tố kết hợp đều vô thường;
  • < 2. Mọi hiện tượng ô nhiễm đều là khổ
  • < 3. Mọi hiện tượng đều là không, là vô ngã
  • < 4. Niết bàn là an lạc chân chính

Dấu ấn thứ ba – mọi hiện tượng đều là không, là vô ngã – chính là nội dung của hệ kinh Bát Nhã. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, đức Phật nhắc tới năm hợp thể và lần lượt nói rằng mỗi hợp thể đều không có tự tánh. Để tóm lược giáo pháp này, đức Phật dạy: “sắc tức là không, không tức là sắc.” Nói cách khác, không có không ngoài sắc, và không có sắc ngoài không.

Vì vậy với tất cả những gì mình trải qua, mình cảm nhận, gồm cả năm hợp thể cùng mọi thứ liên quan đến kinh nghiệm vui buồn của mình, nhìn vào đó để mà truy tìm tự tánh sẽ không thể tìm ra. Không hề có tự tánh ở nơi sắc, hay ở nơi bất cứ thứ gì khác. Vì vậy mà nói “sắc tức là không.” Nhưng nói như vậy không có nghĩa là sự vật không có gì hiện hữu, mà chỉ đơn giản có nghĩa là sự vật hiện hữu nhưng không phải là hiện hữu có tự tánh. Sự vật hiện hữu như thế nào, điều này chỉ có thể hiểu được qua nghĩa duyên sinh, vì vậy mà nói “không tức là sắc.”

Giữa sắc và không có một mối tương quan rất mật thiết, vì đây là hai khía cạnh của cùng một hiện tượng. Theo giáo pháp Nhị đế thì mỗi sự vật đều có hai thực tại, thực tại quy ước thế tục và thực tại chân thật. Tục đế là thực tại của cảnh giới quy ước danh ngôn thế tục, còn chân đế là tánh không, thực tại chân thật của sự vật. Phải hiểu hai chân lý này không phải là hai thứ tách rời biệt lập, mà là hai khía cạnh, hai tính chất, của cùng một hiện tượng.

Trong quá trình phân tích quán chiếu, có một điều có thể giúp chúng ta hiểu tánh không, đó là luật mâu thuẫn. Trong thực tế, chúng ta luôn thấy có những điều mâu thuẫn với nhau một cách tự nhiên. Lại có những điều không những mâu thuẫn mà còn mâu thuẫn một cách trực tiếp và triệt để. Ví dụ như độc lập và lệ thuộc. Bất cứ điều gì, nếu không độc lập thì phải lệ thuộc, không có trường hợp thứ ba. Ngài Long-thọ nhấn mạnh về điểm này trong Phá Phản Biện Luận, nói rằng nếu không phải là hiện-hữu-không-tự-tánh thì bắt buộc phải là hiện-hữu-có-tự-tánh. Sự vật chỉ có thể hoặc có tự tánh, hoặc không tự tánh.

Quán xét như vậy để thấy rằng khi truy tìm thật tánh của sự vật bằng phương pháp phân tích loại trừ, đến một lúc nào đó sẽ thấy không thể  tìm ra một thực tại cụ thể chắc thật nào cả. Tuy vậy, dựa trên kinh nghiệm cá nhân chúng ta có thể khẳng định sự vật là có thật, vì rõ ràng có tác động lên mình. Có những thứ làm ta đau, lại có những thứ khiến ta vui, vì vậy bằng cách này hay cách khác, chúng chắc chắn phải có hiện hữu. Tuy là như vậy, sự vật vẫn không hiện hữu một cách cố định, biệt lập, như chúng ta vẫn có khuynh hướng lầm tin như vậy.

Điều này cho thấy, như ngài Long-thọ từng nói trong Bảo Hành Vương Chính Luận, rằng cái tôi là do sáu thành phần đất nước lửa gió không gian và tâm thức hợp lại mà thành. Tương tự như vậy, sự vật chỉ hiện hữu nhờ sự hội tụ của nhiều yếu tố khác nhau, tách rời những yếu tố phụ thuộc ra sẽ không còn chút thực thể biệt lập nào khác. Như ngài Phật Hộ có nói trong luận giải của ngài về Trung Quán Luận của, rằng nếu sự vật hiện hữu có tự tánh thì đã có thể trỏ vào đó mà nói, “Nó đây này.” Nhưng sự thật không như vậy. Ngôn từ và khái niệm bắt buộc phải ứng vào một tập hợp của nhiều thành phần khác nhau để làm nền tảng lập danh. Bấy nhiêu đủ thấy sự vật tự nó không phải là một thực thể biệt lập, có tự tánh. Vì vậy, nếu tiếp cận tánh không qua thuyết duyên khởi thì đối với việc sự vật không có tự tánh, chúng ta sẽ có thể thấy được rõ ràng hơn nhiều.

Học nhiều giáo pháp khác nhau của Phật về vô ngã, tìm hiểu về những luận cứ và chư luận sư dựa vào để giải thích cách nhìn của mình, dần dần sẽ hiểu được nét độc đáo của Trung quán Ứng thành phái. Những bậc Thầy như ngài Phật Hộ, ngài Nguyệt Xứng đã giải thích về tánh không Long thọ một cách xuất sắc không đâu bằng. Mang luận giải của các ngài ra phân tích quán chiếu, sẽ thấy cách hiểu của chư vị về tánh không Long-thọ là đúng lý và phù hợp với kinh nghiệm cá nhân nhất. Nếu học về tánh không qua luận giải của những bậc Thầy chân chính như vậy, rồi quý vị sẽ cảm nhận được sâu hơn về mức độ thâm sâu và mạch lạc rõ ràng đáng kinh ngạc của dòng giáo pháp này.

>> 10.6. THIỀN QUÁN TÁNH KHÔNG

Khi quý vị bắt đầu hạ thủ công tu thiền quán tánh không, hãy nên quán về tánh không của của cái tôi, của cá nhân mình [nhân vô ngã] trước, sau mới quán về tánh không của sự vật [quán pháp vô ngã], làm như vậy dễ có kết quả hơn.  Trước hết hãy xét lại xem cái tôi mà mình tin chắc, bám dính vào, cái tôi đó thật ra nó nằm ở đâu? Ngoài cảm nhận về cái tôi ra, có còn cái tôi nào khác? Ngoài sắc tướng này ra, có còn cái tôi nào khác? Lấy cái tôi của chính mình ra mà phân tích, xét tự tánh, tìm thật tướng, sẽ thấy đây là điều không thể nào tìm thấy. Quý vị sẽ không thể nào tìm ra được một cái tôi cụ thể chắc thật.

Ngang đây quý vị có thể thắc mắc, có phải vậy nghĩa là không có cái tôi? Nhưng kết luận này không thể đúng, là vì xét theo kinh nghiệm cá nhân, chúng ta biết rằng cái tôi có có làm việc này việc nọ, và có chịu ảnh hưởng của thế giới xung quanh v.v. Những điều này cho thấy ở một mức độ nào đó vẫn có cái tôi. Tuy vậy, hiện hữu này của cái tôi chỉ có thể hiểu được qua nghĩa duyên sinh. Nói cách khác, cái tôi là một hiện tượng do nhân duyên hòa hợp mà có.

Hiểu được điều này thì quý vị có thể dựa vào hiểu biết của mình về duyên sinh để quán tánh không, rằng mặc dù có cái tôi, nhưng cái tôi này lại không thuộc về một thực tại cố định nào cả. Đây là cách thâm nhập tánh không qua duyên khởi.

Làm sao biết được thứ gì có thật thứ gì không thật? Thử lấy ví dụ người ở ngoài đời và người ở trong mơ, chúng ta có thể thấy được rằng hai loại người này giống nhau ở chỗ cả hai đều không có tự tánh như nhau. Dù vậy, nếu thấy người trong mơ là thật thì có thể dùng hiểu biết thế tục, chẳng hạn như kinh nghiệm bản thân hay lời xác minh của người khác, để mà bác bỏ. Còn nếu thấy người ngoài đời là thật thì hiểu biết thế tục không thể phủ nhận. Đây là một cách phân biệt giữa điều có thật và điều không có thật.

Cách thứ hai là dùng luận lý dựa trên nền tảng của thực tại chân thật. Ví dụ, có những khái niệm thiết lập từ quá trình tư duy siêu vật lý hay dựa vào trường phái siêu vật lý, nhiều khi không thể dùng hiểu biết thế tục để phủ nhận.

Tư duy như vậy sẽ hiểu được cảm xúc của Lama Tông Khách Ba khi  gần cuối chương Trí Tuệ trong Lamrim Đại Luận: “Hỡi chư pháp hữu, uyên thâm các bộ luận vĩ đại về Trung Đạo, mặc dù trong tâm khó lòng thấy được nhân quả trong cõi tánh không không có tự tánh, nhưng xin chư vị hãy cứ giữ chặt, chấp trì, tán dương đây là đường đi Trung Đạo.”

Nói như vậy có nghĩa là khi hiểu được sâu hơn về tánh không, sẽ có lúc tự nhiên thấy thực tại có khuynh hướng biến mất, mọi thứ dường như tan biến cả đi, không còn thực chất. Nhưng điều này không có nghĩa là sự vật không hiện hữu, mà chỉ là không có thực thể khách quan. Những lúc như vậy sẽ khó lòng giữ được khái niệm về nhân quả, khó lòng duy trì cảnh giới của tục đế trong tâm trí, nhưng dù vậy vẫn phải nên kiên trì và liên tục huân tập chính mình với sự hiểu này.

Nhờ không ngừng nhớ lại kinh nghiệm của chính mình, từ từ quý vị sẽ hòa nhập vào kinh nghiệm tánh không; tư duy và cảm nhận sẽ càng lúc càng thêm thoải mái với sự không có tự tánh của sự vật. Chứng ngộ này không bất chợt lóe sáng trong tâm như một tia chớp mà chỉ ló dạng sau cả một quá trình tư duy liên tục kéo dài.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 51 – 53

| ND-51. Bảy Mươi Luận Tụng / nói về tánh không / hay Luận Trung Quán / của ngài Long-thọ / đều giải thích rằng / chân tánh các pháp / chính là tánh không.

| ND-52. Biển luận văn này / vô cùng phong phú / thầy không thể trích / hết cả ra đây, / chỉ xin tóm lược / đôi câu kết luận / xác định tông môn, / tiện cho các con / thiền quán tu hành.

| ND-53. Quán về vô ngã, / thấy ra sự vật / không có tự tánh: / đó là tu Tuệ.

>> 10.7. TRỰC CHỨNG TÁNH KHÔNG

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 54

| ND-54. Vận dụng trí tuệ / quán chiếu vạn pháp, / sẽ không thể thấy / pháp có tự tánh. / Tương tự như vậy, / quán về trí tuệ / sẽ thấy trí tuệ / cũng không tự tánh. / Các con hãy gắng / siêu việt khái niệm / mà quán như vậy.

Chỉnh cú 54 nói về vô niệm, cho thấy trình tự tu chứng tánh không. Nhờ bước qua từng chứng đạo trên đường tu, ví dụ như tư lương đạo, và nhất là bốn lớp gia hạnh đạo, chúng ta rồi sẽ chứng được tánh không một cách trực tiếp, vượt ngoài khái niệm.

Thiền quán tánh không là trọng tâm của cả bốn tông phái Phật Giáo Tây tạng. Phái Nyingma có pháp tu Đại Viên Mãn [dzogchen] (nhất là là pháp “đột phá” [breakthrough] và pháp “nhảy vọt” [leap-over]) có một quá trình sơ khởi được gọi là truy tìm sự thành, trú và diệt của chân tâm. Thiền quán tánh không nằm trong khuôn khổ của sự truy tìm này.

Tương tự như vậy, phái Kagyu có giáo pháp Đại Thủ Ấn bao gồm bốn giai đoạn tu: “nhất tâm,” “vượt khái niệm,” “nhất vị,” và “vô dụng công.” Ở đây giai đoạn “nhất tâm” là tu chỉ, còn phần đầu của giai đoạn “vượt khái niệm” thật sự là tu quán tánh không.

Phái Sakya có giáo pháp sáng-không-hợp-nhất [sel-tong sung-jug], nói về sự hợp nhất bất nhị giữa thâm sâu và sáng trong. Thâm sâu là tánh không, và sáng trong  là chân tánh của tâm.

Theo dòng Gelug, sự hợp nhất bất nhị giữa đại lạc và tánh không có nghĩa là dùng kinh nghiệm đại lạc để chứng tuệ tánh không.

Tánh không của cả bốn tông phái Phật Giáo Tây Tạng đều là tánh không mà ngài Long-thọ trình bày trong Trung Quán Luận. Tánh không Long thọ này đúng cho cả hai cỗ xe Bát Nhã thừa [hiển tông] và Kim Cang thừa [mật tông]. Tuy vậy, Kim cang thừa có phương pháp tu đặc biệt, chủ yếu vận dụng kinh nghiệm chủ thể của tuệ chứng tánh không, còn tánh không trên phương diện đối thể thì hiển tông và mật tông đều như nhau.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 55 – 59

| ND-55. Toàn bộ cõi sống / do tâm khởi niệm / mà phát sinh ra, / vì vậy cõi sống / vốn thật chỉ là / khái niệm phân biệt. / Tách lìa phân biệt / là đại niết bàn.

| ND-56. Đức Phật dạy rằng khái niệm phân biệt / là đại vô minh, / ném chúng ta vào / luân hồi sinh tử. / Tách lìa phân biệt, / trụ trong vô niệm, / khi ấy cảnh giới / siêu việt phân biệt / tựa như không gian / hiện ra trong sáng.

| ND-57. Trong Đà la ni / Nhập tâm vô niệm,/ đức Phật dạy rằng; / “Nếu chư bồ tát / con của Như lai / lìa tâm phân biệt / để mà quán chiếu, / thì dù khái niệm / khó vượt đến đâu / cũng sẽ từng phần / siêu việt được cả, / bước vào cảnh giới / siêu việt khái niệm.

| ND-58. Nhờ văn và tư, hiểu rằng các pháp / không từng khởi sinh, / không có tự tánh, / khi ấy các con / từ sự hiểu này / tu thiền chỉ quán, / siêu việt khái niệm.

| ND-59. Quán chiếu cảnh giới / chân thật như vậy / sẽ tiến từng phần / trên đường giác ngộ / thành tựu “nội hỏa,” / thành tựu “đại lạc,” / cùng những điều khác. / Rồi chẳng bao lâu / sẽ thành tựu được / vô thượng bồ đề.

>> 10.8. CHỈ QUÁN HỢP NHẤT

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 21

| CDC- 21. Nếu chỉ dựa vào / mỗi định-nhất-tâm / thì không thấy được // Khả năng chặt đứt / gốc rễ luân hồi. // Nếu chỉ có tuệ / thiếu đi tịnh chỉ // Thì dù quán chiếu / truy tìm đến đâu / vẫn không thể nào / dứt được phiền não. // Vì vậy kẻ trí / lấy tuệ thâm nhập / vào chân thực tại // Cưỡi trên lưng ngựa / tịnh chỉ diệu trạm; // Dùng vũ khí bén / luận lý Trung đạo / không vướng biên kiến // Phá tan hết thảy / khái niệm phân biệt / chấp thường chấp đoạn. // Dùng tuệ rộng lớn / quán chiếu chính xác // Để làm khai mở / trí chứng tánh Như. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy. // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Chỉnh cú này trình bày tầm quan trọng của pháp tu hợp nhất tịnh-chỉ và tuệ quán tánh không.

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 22

| CDC-22. Nhờ thiền nhất tâm / mà đạt tam muội, // Chẳng gì đáng nói. / Dùng quán sát trí // Truy xét tầm tư, / mà vẫn yên lắng, // Bất động vững vàng / nơi chân thực tại, // Thấy rồi nỗ lực / hợp nhất chỉ quán, // Đây mới chính thật / là điều nhiệm mầu. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy. // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Chỉnh cú này cho thấy định lực có thể tăng qua quá trình quán chiếu.  Chỉnh cú tiếp theo sau đây trình bày sự khác biệt giữa xuất định và nhập định.

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 23

| CDC-23. Khi vào trong định, Không – như không gian; // Khi xuất trở ra, Không – như huyễn cảnh; // Tán dương những ai / nhờ tu như vậy / hợp nhất phương tiện / cùng với trí tuệ // Nhờ đó siêu việt / các hạnh bồ tát. // Để chứng điều này / nên bậc thiện duyên // Không đành lòng với / đường tu riêng lẻ. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy. // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

Khi ở trong định, quý vị chủ yếu nhiếp tâm vào chân tướng tựa như không gian của thực tại, đây chỉ đơn giản là sự vắng bặt tự tánh của mọi sự. Khi từ trong định trở ra với cảnh thế tục, chứng ngộ khi nhập định phải  thấm nhuần mọi trải nghiệm khi xuất định, đến mức gặp việc gì cũng thấy chỉ giống như là mơ. Mặc dù quý vị vẫn sẽ có khuynh hướng thấy sự vật là chắc thật, nhưng biết rõ cái thấy này của mình thật ra không đúng với sự thật.

Bây giờ hãy trở lại với Ngọn Đèn của đức Atisa. Theo Bát nhã thừa, mặc dù phương tiện và trí tuệ tăng cường hỗ trợ lẫn nhau, những vẫn là hai cái tâm khác nhau. Điểm thâm sâu của Kim cang thừa nằm ở chỗ phương tiện và trí tuệ không phải là hai yếu tố biệt lập hỗ trợ lẫn nhau, mà là trong cùng một cái tâm, có đủ cả hai. Điều này thực hiện được nhờ pháp tu Bổn Tôn Du Già [Deity Yoga].

>> 10.9. KIM CANG THỪA

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 60

| ND-60. Nếu muốn dễ dàng / gom đủ phước trí / thành tựu bồ đề, / có thể nương nhờ / năng lực minh chú, / hành trì các pháp / tiêu tai, tăng trưởng.

Chỉnh cú tiếp theo nói về tầm quan trọng  của việc tầm Thầy học đạo, phát huy tinh thần nương dựa đúng cách nơi đấng đạo sư, và nói rõ đây là pháp tu thuộc Kim cang thừa.

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 61 – 67

| ND-61. Đồng thời nương vào / năng lực của tám / thành tựu vĩ đại, / hay thành tựu khác / như là Bình Quí. / Nếu muốn bước vào / con đường tu Mật, / thuận theo hành mật / và thiện xảo mật.

| ND-62. Và nếu muốn nhận / đại pháp quán đảnh / đạo sư Kim Cang, / phải với đạo sư / hết lòng tận tụy, / phụng sự, cúng dường, / chăm chỉ làm theo / những điều thầy dạy.

| ND-63. Đạo sư hoan hỉ / ban cho đại pháp / quán đảnh đạo sư, / khi ấy tất cả / ác nghiệp chướng ngại / đều tiêu tan cả. / Tâm sáng thanh tịnh, / đồng vị niết bàn.

| ND-64. Trong Đại Mật Kinh / Đức Phật Bản Lai / hết lòng nghiêm dạy / các vị tỷ kheo / và tỷ kheo ni / giữ giới thuần tịnh / tuyệt đối không được / nhận hai mật pháp / quán đảnh kín mật, / quán đảnh trí tuệ.

| ND-65. Là người giữ gìn / phạn hạnh thanh tịnh / mà nhận hai pháp / quán đảnh nói trên / là phá giới hạnh.

| ND-66. Nếu như đang giữ / phạn hạnh nghiêm mật / mà nhận pháp này / là phá hủy giới, / sa đọa trầm luân / tận cùng ác đạo, / không thể có được / chút thành tựu nào.

| ND-67. Tuy vậy nếu là / nhận pháp quán đảnh / đạo Sư Kim Cang, / thể hội chân như / thì vẫn có thể / nghe giảng mật pháp, / hay tự mình giảng, / thi hành nghi lễ / thiết lập đạo tràng, / cúng lửa, sám hối, / mà không phạm lỗi.

Tương tự như vậy, trong chỉnh cú 24, Chứng Đạo Ca, Lama Tông Khách Ba trình bày tổng quát về trình tự đường tu Kim cang thừa.

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 24

| CDC-24. Như thế chính là / đường tu phổ thông, / thiết yếu cho hai / thắng đạo đại thừa. // là cỗ xe nhân / và cỗ xe quả. // Tu rồi hãy tìm / nương sự che chở / của bậc thuyền trưởng / trí tuệ tài ba // Để mà bước vào / biển cả mật pháp. // Rồi nhờ dựa vào / lời giảng toàn hảo // Sẽ không phí uổng / thân người có đây. // Thầy là hành giả / đã tu như vậy // Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

>> 10.10. HỎI ĐÁP

Hỏi. Thưa đức Đalai Lama, định lực của con cạn và yếu, nhưng khi quán về cái tôi không có tự tánh, mỗi khi thoáng hiểu được chút gì, con lại cảm thấy rất sợ hãi. Xin hỏi như vậy có bình thường không? Có thuốc chữa không ?

Đáp. Có hai trường hợp có thể làm phát sinh cảm giác sợ hãi. Nếu hiểu biết về tánh không không sâu đủ, sẽ dễ rơi vào đoạn kiến, thấy tánh không là rỗng rang không có gì hiện hữu. Vì vậy mà phát sinh tình trạng sợ hãi.

Trong trường hợp này, điều quan trọng là phải tăng cường tín tâm nơi nhân quả, nhất là nơi lý duyên sinh, vì ý nghĩa chân thật của tánh không nằm ở lý duyên sinh. Phải tìm hiểu cho sâu về các mối tương quan nhân quả của sự vật, hiểu được sự vật phát sinh như thế nào, mang tính chất tương đối ra sao.

Cũng có trường hợp vì hiểu đúng về tánh không mà phát sinh cảm giác sợ hãi bất an khi thiền quán về tánh không, vì thấy ra tất cả những gì nào giờ mình vẫn tin chắc đó là sự thật không thể chối cãi, tin chắc vào một thực tại khách quan, một cái tôi chắc thật, nay thấy ra hết thảy đều không có chút thực thể nào cả. Chứng ngộ này có khi làm phát sinh cảm giác sợ hãi, nhưng càng chứng sâu hơn về tánh không thì cảm giác sợ hãi này càng giảm.

Hỏi. Thuyết duyên sinh nói sao về dòng tâm thức tiếp nối liên tục? Tâm thức có phải là một hiện tượng biệt lập?

Đáp. Dòng tâm thức tiếp nối liên tục này có thể bị hiểu lầm là một thực thể thường còn. Nhưng tiếp nối liên tục không có nghĩa là thường còn bất biến. Ví dụ, chịu khó quan sát kỹ sẽ thấy thế giới kinh nghiệm nội tại thật ra vô cùng phong phú và phức tạp. Chúng ta gọi thế giới kinh nghiệm nội tại phức tạp này là tâm thức, rồi dựa vào đó để phân thành từng loại tâm thức riêng biệt.

Dựa vào kinh nghiệm cá nhân, chúng ta biết rằng ý tưởng, cảm xúc và thái độ của mình là những điều có thể biến chuyển thay đổi. Nếu tâm thức là thường còn bất biến thì đã không làm sao có thể thay đổi. Thực tế là tâm thức có khả năng biến đổi, điều này cho thấy tâm thức là một hiện tượng linh động, luôn biến chuyển không ngừng. Tâm thức chỉ có thể là một dòng tâm thức,  nhưng dòng tâm thức này chỉ có thể là sự tiếp nối liên tục của nhiều sự kiện. Điều này tự nó đã cho thấy tâm thức chỉ có thể là một hiện tượng do nhiều yếu tố phối hợp mà thành, nói cách khác, tâm thức là một hiện tượng tùy duyên sinh khởi.

Khi xét về sự vật, chúng ta có thể thấy được mối tương quan mật thiết giữa tổng thể và các thành phần kết hợp. Hễ có tổng thể là có mối tương quan giữa tổng thể và các thành phần kết hợp. Các thành phần kết hợp không phải là khác, cũng không phải là một với tổng thể. Có mối tương quan giữa hai điều này.

Hỏi. Đã có rất nhiều câu hỏi dành cho đức Đalai Lama. Xin hỏi ngài có câu hỏi nào dành cho chúng tôi, để chúng tôi có thể tự tìm lấy câu trả lời cho chính mình.

Đáp. Hãy tự xét xem mình có đang chân thành dốc tâm tu tập hay không. Đây là điều rất quan trọng.

| MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |


> CHƯƠNG 11. HỒI HƯỚNG

Đức Atisa kết thúc bài kệ như sau:

Ngọn Đèn Soi Ðường Giác Ngộ: chỉnh cú 68

| ND-68. Tôi là trưởng tử / Shri Dipamkara, / đã học điều này  / từ nơi kinh luận. / Vì lời yêu cầu / của Jangchub O / mà viết ra đây / bài giảng ngắn gọn / vạch ra đường tu / tuần tự giác ngộ.

Và cuối cùng, Lama Tông Khách Ba hồi hướng như sau:

Chứng Đạo Ca: chỉnh cú 25

| CDC-25. Vì để huân tập / tâm của chính mình, // Cũng để làm lợi / cho hàng thiện duyên, // Thầy đã giải thích / bằng lời dễ hiểu // Trọn vẹn đường tu / khiến Phật đẹp lòng. // Nương công đức này / nguyện cho chúng sinh // Không bao giờ lìa / chánh đạo tối thượng. // Thầy là hành giả / đã nguyện như vậy. // Con cầu giải thoát / cứ hãy nguyện theo.

Rồi Lama Tông Khách Ba viết trong phần lời ghi xuất xứ của bài kệ Chứng Đạo Ca như sau: Trình tự đường tu giác ngộ được trình bày ngắn gọn theo dạng dễ nhớ khó quên, do tỷ kheo đa văn, người đã buông xả, tên Lobsang Drakpa [Lama Tông Khách Ba] viết nơi núi lớn lan nhã tại Geden Nampar Gyalwai Ling.

Cuối hết, ước nguyện của tôi là mong sao cho hết thảy quý vị đều cố gắng sống với trái tim ấm áp nhân hậu. Đây là điều quan trọng bậc nhất. Bản thân tôi luôn cố gắng chân thành noi theo gót chân Phật. Ngay trong giấc ngủ tôi cũng luôn gắng ghi nhớ mình là người xuất gia. Đây là điều đến chết tôi vẫn luôn ghi nhớ. Riêng khoảng thời gian còn sống đây, tôi vẫn luôn gắng mang thân mạng mình ra để sống vì lợi ích của mọi người. Nếu quý vị cũng cố gắng tu giống như vậy, chúng ta sẽ thật sự trở thành bạn lành của nhau.

[HẾT]

MỤC LỤC | LỜI MỞ ĐẦU | 1. TỔNG QUAN2. ÐẶC ÐIỂM PHÁP TU LAM-RIM | 3. NƯƠNG DỰA ĐẠO SƯ | 4. KHỞI CHÍ MUỐN TU | 5. QUI Y, NGHIỆP, GIỚI | 6. TÌM ĐƯỜNG VƯỢT THOÁT LUÂN HỒI | 7. PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 8. NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ÐỀ | 9. HÀNH TRẠNG BỒ TÁT | 10. HẠNH TUỆ BA LA MẬT | 11.  HỒI HƯỚNG |

        




Lama Tsongkhapa: LAMRIM TINH YẾU LUẬN: Chứng Đạo Ca

– English Title: Song of Experience
– Tác Giả (Author):
Lama Tông Khách Ba (sơ tổ dòng Gelug)
– Việt ngữ: Hồng Như
      1: Bản mới, nhuận văn 2021 (dịch từ Tạng ngữ)
      2: Bản mới 2019: Tạng Anh Việt (dịch từ Tạng ngữ)
      3: Bản cũ 2004 (dịch từ Anh ngữ)

      BẢN MỚI, DỊCH TỪ TẠNG NGỮ (2019, nhuận văn 2021)

      Tiếng Việt

      Tibetan title: Lam rim nyams mgur
      Tựa đề tiếng Việt: LAMRIM CHỨNG ĐẠO CA
      : Tinh Yếu Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ

      1. Thân sinh ra từ / muôn vạn thiện lành;
      Lời nói toàn thành / nguyện ước chúng sinh;
      Ý thấy khắp cả / đúng như sự thật:
      Trước bậc đứng đầu / dòng họ Thích ca / con xin đảnh lễ.

      2. Là trưởng tử của / bậc Thầy vô song,
      Đảm đương việc làm / của khắp chư Phật,
      Du hí thị hiện / hằng sa cõi giới:
      Di Lạc, Văn Thù / con xin kính lễ.

      3. Dù nghĩa Phật mẫu / thậm thâm khó lường,
      Vẫn giảng đúng như / ý thật của Phật:
      Long thọ, Vô trước, / ba cõi danh lừng,
      Đê đầu dưới chân / con xin kính lễ.

      4. Là người tiếp giữ / mọi điểm tinh yếu / kho tàng khai thị / đầy đủ không sai
      Của hai đường tu / tri kiến thâm sâu, / thiện hạnh quảng đại,
      Được truyền xuống từ / nhị đại tổ sư.
      Đức Atisa (Di-pam-ka-ra), con xin kính lễ.

      5. Ân sư là mắt / cho chúng con nhìn / muôn trùng kinh điển;
      Là lòng sông cạn / đưa kẻ thiện duyên / sang bờ giải thoát;
      Từ bi vận dụng / mọi thiện phương tiện, / soi tỏ lối đường:
      Khắp đấng Ân sư / con xin kính lễ.

      6. Là ngọc trang nghiêm / trên đỉnh bậc trí / cõi Diêm phù đề;
      Tràng phang danh xưng / lẫy lừng khắp chúng;
      Pháp chân truyền từ / Long thọ, Vô trước:
      Là Trình Tự Đường / Dẫn Đến Giác Ngộ.

      7. Vì bởi pháp này / làm tròn nguyện ước / chín loại chúng sinh
      Nên đây chính là / vua của vua pháp,
      Là lòng biển rộng / rạng ngời khéo giảng,
      Nơi ngàn dòng suối / luận văn đổ về.
      Giúp người tu hiểu / trăm vạn pháp môn / vốn không mâu thuẫn;
      Giúp trọn pháp Phật / tỏa rạng thành lời / trực chỉ khai thị / trong trí người tu;
      Giúp cho dễ dàng / hiểu được ý Phật;
      Giúp giữ người tu / thoát khỏi hố thẳm / của đại ác hạnh.
      Vì vậy nhiều bậc / thiện duyên Ấn-Tạng
      Dốc tâm nương vào / diệu pháp này đây.
      Trình tự đường tu / ba căn cơ này,
      Kẻ trí không ai / không bị cuốn hút.

      8. Pháp này thu nhiếp / trọn lời Phật dạy,
      Nên giảng hay nghe / dù chỉ một lần,
      Đều như giảng, nghe / toàn bộ diệu Pháp,
      Lợi ích nhất định / sẽ như sóng cả, / vì vậy hãy nên / chuyên chú tư duy.

      9. Rồi sẽ thấy ra / gốc rễ duyên lành
      Cho mọi thiện lành / đời này kiếp sau
      Nằm ở nỗ lực / mang tâm và hạnh / nương dựa đúng cách
      Nơi đấng đạo sư, / là người chỉ cho / đường tu giác ngộ.
      Thấy điều này rồi / cho dù mất mạng / cũng không từ bỏ,
      Phải gắng làm cho / đạo sư hoan hỉ / bằng cách tu theo / lời của đạo sư.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      10. Thân người ung dung / quí giá còn hơn / bảo châu như ý
      Đến chỉ một lần / cực kỳ khó gặp,
      Lại dễ mất như / tia chớp giữa trời.
      Thấy rõ kiếp người / chóng vánh như vậy,
      Chuyện đời khác gì / trấu lép loạn bay.
      Nên ngày lẫn đêm / phải luôn tận dụng / tinh túy thân này.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      11. Chết rồi chắc gì / không rơi ác đạo,
      Giúp thoát sợ này / chỉ có Tam Bảo.
      Vậy tâm qui y / phải giữ cho chắc,
      Đừng bao giờ để / phá hạnh qui y.
      Muốn được như vậy / phải khéo nghĩ về / nghiệp quả thiện ác,
      Để biết chọn việc / nên bỏ, nên làm.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      12. Thân người đủ mọi / phẩm tướng cần thiết / để theo thắng đạo,
      Nếu như thiếu đi / thì đường giác ngộ / không thể bứt phá.
      Vậy phải gắng sao / cho có đủ cả.
      Vì bởi ba cửa / nhuốm đầy cấu nhiễm / ác nghiệp, rơi đọa,
      Khẩn thiết nhất là / tẩy tịnh nghiệp chướng,
      Nên bốn sám lực / phải thường trân quí / áp dụng siêng năng.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      13. Tai hại khổ đế / không nỗ lực quán
      Thì tâm cầu thoát / không thật phát sinh.
      Nguyên nhân của khổ / luân chuyển thế nào, / nếu không quán chiếu
      Thì gốc luân hồi / không biết cách chặt.
      Cần nhất phải biết / chán khổ sinh tử, / khởi tâm cầu thoát,
      Và biết điều gì / trói buộc mình trong / sinh tử luân hồi.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      14. Phát tâm bồ đề / là cốt lõi của / đường tu Đại thừa;
      Nền tảng, chỗ dựa / của khắp muôn trùng / sóng cả thiện hạnh;
      Tựa như thuốc tiên / hóa sắc thành vàng, / biến tất cả thành / hai kho phước trí;
      Là cả kho tàng / công đức đồ sộ, / chứa hết vô lượng / thiện đức bồ đề.
      Vì biết điều này / nên chư bồ tát / uy dũng tự tại
      Gìn giữ tâm ấy / sâu thẳm bên trong / cốt tủy pháp hành.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      15. Thí là ngọc quý / toàn thành ước nguyện / cho khắp chúng sanh;
      Vũ khí thượng thặng / chặt phăng nút thắt / của lòng keo bẩn;
      Là hạnh bồ tát / sinh nguồn dũng cảm / không hề chán mệt;
      Và là nền tảng / khiến cho danh lành / truyền khắp mười phương.
      Vì biết điều này / nên người có trí / xả hết thân mạng / tài sản công đức,
      Chỉ để nương theo / con đường lành này.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      16. Giới là nước trong / giặt sạch tất cả / vết nhơ ác nghiệp;
      Là ánh trăng thanh / xoa dịu nỗi đau / rát bỏng phiền não;
      Đứng giữa phàm phu, / thân thể rạng ngời / như núi Tu di,
      Không cần thị uy / nhiếp phục khắp cả.
      Vì biết điều này / nên chư giác giả,
      Giữ giới đã thọ / quí như đôi mắt.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      17. Nhẫn là trang sức / quí giá nhất cho / người có quyền năng;
      Là sức chịu đựng / tuyệt bậc dành cho / bức bách phiền não;
      Là kim sí điểu / bay vút giữa trời, / làm khắc tinh của / rắn thù sân hận;
      Là lớp giáp bào / kiên cố ngăn chận / vũ khí ác ngữ.
      Biết vậy cho nên / giáp bào kham nhẫn,
      Bằng đủ mọi cách / phải tập làm quen.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      18. Khoát lớp giáp bào / tinh tấn bất thoái
      Thì học và chứng / tăng trưởng nhanh như / trăng đến độ rằm,
      Làm gì cũng đều / tràn đầy ý nghĩa,
      Và đều mang đến / kết quả mong cầu.
      Vì biết như vậy / nên chư bồ tát
      Cuộn sóng tinh tấn / quét sạch hết thảy / mọi kiểu biếng lười.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      19. Định là đại vương / ngự trị tâm thức.
      Để yên, bất động / như núi Tu Di
      Mở ra, thu nhiếp / toàn bộ thiện pháp,
      Cho hỉ lạc nhờ / nhu nhuyễn thân tâm.
      Vì biết vậy nên / hành giả tự tại
      Luôn nương pháp định / diệt thù tán tâm.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      20. Tuệ là đôi mắt / thâm chứng tánh Như;
      Là con đường bứng / sạch gốc luân hồi;
      Là kho tánh đức / kinh luận tán thán;
      Và nổi danh là / ngọn đèn vô thượng / xua bóng vô minh.
      Vì biết như vậy / nên người có trí / tìm cầu giải thoát
      Nỗ lực đủ cách / tu theo đường này.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      21. Nếu chỉ dựa vào / mỗi định-nhất-tâm / thì không thấy được
      Khả năng chặt đứt / gốc rễ luân hồi.
      Nếu chỉ có tuệ / thiếu đi tịnh chỉ
      Thì dù quán chiếu / truy tìm đến đâu / vẫn không thể nào / dứt được phiền não.
      Vì vậy kẻ trí / lấy tuệ thâm nhập / vào chân thực tại
      Cưỡi trên lưng ngựa / tịnh chỉ diệu trạm;
      Dùng vũ khí bén / luận lý Trung đạo / không vướng biên kiến
      Phá tan hết thảy / khái niệm phân biệt / chấp thường chấp đoạn.
      Dùng tuệ rộng lớn / quán chiếu chính xác
      Để làm khai mở / trí chứng tánh Như.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      22. Nhờ thiền nhất tâm / mà đạt tam muội,
      Chẳng gì đáng nói. / Dùng quán sát trí
      Truy xét tầm tư, / mà vẫn yên lắng,
      Bất động vững vàng / nơi chân thực tại,
      Thấy rồi nỗ lực / hợp nhất chỉ quán,
      Đây mới chính thật / là điều nhiệm mầu.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      23. Khi vào trong định, Không – như không gian;
      Khi xuất trở ra, Không – như huyễn cảnh;
      Tán dương những ai / nhờ tu như vậy / hợp nhất phương tiện / cùng với trí tuệ
      Nhờ đó siêu việt / các hạnh bồ tát.
      Để chứng điều này / nên bậc thiện duyên
      Không đành lòng với / đường tu riêng lẻ.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      24. Như thế chính là / đường tu phổ thông, / thiết yếu cho hai / thắng đạo đại thừa.
      là cỗ xe nhân / và cỗ xe quả.
      Tu rồi hãy tìm / nương sự che chở / của bậc thuyền trưởng / trí tuệ tài ba
      Để mà bước vào / biển cả mật pháp.
      Rồi nhờ dựa vào / lời giảng toàn hảo
      Sẽ không phí uổng / thân người có đây.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      25. Vì để huân tập / tâm của chính mình,
      Cũng để làm lợi / cho hàng thiện duyên,
      Thầy đã giải thích / bằng lời dễ hiểu
      Trọn vẹn đường tu / khiến Phật đẹp lòng.
      Nương công đức này / nguyện cho chúng sinh
      Không bao giờ lìa / chánh đạo tối thượng.
      Thầy là hành giả / đã nguyện như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy nguyện theo.

      Trình tự đường tu giác ngộ được trình bày ngắn gọn theo dạng dễ nhớ khó quên, do tỷ kheo đa văn, người đã buông xả, tên Lobsang Drakpa [Lama Tsongkhapa] viết nơi núi lớn lan nhã tại Geden Nampar Gyalwai Ling.

      Bản tiếng Việt: Hồng như Thupten Munsel, 2019: Bản mới dịch lại từ Tạng ngữ, tham khảo với ba bản dịch, Alex Berzin, Thupten Jinpa và Ven. Joan Nicell.



      1: Bản mới, nhuận văn 2021 (dịch từ Tạng ngữ)
      2: Bản mới 2019: Tạng Anh Việt (dịch từ Tạng ngữ)
      3: Bản cũ 2004 (dịch từ Anh ngữ)

      TẠNG – ANH – VIỆT (2019)

      [Bản tiếng Anh của Thupten Jinpa]

      ༄། །བྱང་ཆུབ་ལམ་གྱི་རིམ་པའི་ཉམས་ལེན་བསྡུས་དོན་གྱི་ཚིགས་སུ་བཅད་པ་བཞུགས་སོ།།
      Tibetan title: Lam rim nyams mgur
      English title: SONGS OF SPIRITUAL EXPERIENCE: Condensed Points of the Stages of the Path
      Tựa đề tiếng Việt: LAMRIM CHỨNG ĐẠO CA: Tinh Yếu Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ

      ༄༅། །ཕུན་ཚོགས་དགེ་ལེགས་བྱེ་བས་བསྐྲུན་པའི་སྐུ། །
      Your body is created from a billion perfect factors of goodness;
      1. Thân sinh ra từ / muôn vạn thiện lành;

      མཐའ་ཡས་འགྲོ་བའི་རེ་བ་བསྐོང་བའི་གསུང༌། །
      Your speech satisfies the yearnings of countless sentient beings;
      Lời nói toàn thành / nguyện ước chúng sinh;
      མ་ལུས་ཤེས་བྱ་ཇི་བཞིན་གཟིགས་པའི་ཐུགས། །
      Your mind perceives all objects of knowledge exactly as they are –
      Ý thấy khắp cả / đúng như sự thật:
      ཤཱཀྱའི་གཙོ་བོ་དེ་ལ་མགོས་ཕྱག་འཚལ། །
      I bow my head to you O chief of the Shakya clan.
      Trước bậc đứng đầu / dòng họ Thích ca / con xin đảnh lễ.

      ཟླ་མེད་སྟོན་པ་དེ་ཡི་སྲས་ཀྱི་མཆོག །
      You’re the most excellent sons of such peerless teacher;
      2. Là trưởng tử của / bậc Thầy vô song,
      རྒྱལ་བའི་མཛད་པ་ཀུན་གྱི་ཁུར་བསྣམས་ནས། །
      You carry the burden of the enlightened activities of all conquerors,
      Đảm đương việc làm / của khắp chư Phật,
      གྲངས་མེད་ཞིང་དུ་སྤྲུལ་པས་རྣམ་རོལ་བ། །
      And in countless realms you engage in ecstatic display of emanations –
      Du hí thị hiện / hằng sa cõi giới:
      མི་ཕམ་འཇམ་པའི་དབྱངས་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
      I pay homage to you O Maitreya and Manjushri.
      Di Lạc, Văn Thù / con xin kính lễ.

      ཤིན་ཏུ་དཔག་པར་དཀའ་བ་རྒྱལ་བའི་ཡུམ། །
      So difficult to fathom is the mother of all conquerors,
      3. Dù nghĩa Phật mẫu / thậm thâm khó lường,
      ཇི་བཞིན་དགོངས་པ་འགྲེལ་མཛད་འཛམ་གླིང་རྒྱན། །
      You who unravel its contents as it is are the jewels of the world;
      Vẫn giảng đúng như / ý thật của Phật:
      ཀླུ་སྒྲུབ་ཐོགས་མེད་ཅེས་ནི་ས་གསུམ་ན། །
      You’re hailed with great fame in all three spheres of the world –
      Long thọ, Vô trước, / ba cõi danh lừng,
      ཡོངས་སུ་གྲགས་པའི་ཞབས་ལ་བདག་ཕྱག་འཚལ། །
      I pay homage to you O Nagarjuna and Asanga.
      Đê đầu dưới chân / con xin kính lễ.

      ཤིང་རྟ་ཆེན་པོ་གཉིས་ལས་ལེགས་བརྒྱུད་པའི། །
      Stemming from these two great charioteers with excellence
      4. Hai đại tổ sư / khéo truyền hai đường
      ཟབ་མོའི་ལྟ་བ་རྒྱ་ཆེན་སྤྱོད་བའི་ལམ། །
      Are the two paths of the profound view and the vast conduct;
      Tri kiến thâm sâu, thiện hạnh quảng đại,
      མ་ནོར་ཡོངས་སུ་རྫོགས་པའི་གནད་བསྡུས་པའི། །
      You’re the custodian of the treasury of instructions encompassing all essential points
      Kho tàng khai thị không mê lầm này,
      གདམས་པའི་མཛོད་འཛིན་མར་མེ་མཛད་ལ་འདུད། །
      Of these paths without error, I pay homage to you O Dipamkara.
      Người tiếp giữ trọn / mọi điểm tinh yếu: / Đức Atisa (Dipamkara), con xin kính lễ.

      རབ་འབྱམས་གསུང་རབ་ཀུན་ལ་ལྟ་བའི་མིག །
      You are the eyes to see all the myriad collections of scriptures;
      5. Ân sư là mắt / cho chúng con nhìn / muôn trùng kinh điển;
      སྐལ་བཟང་ཐར་བར་བགྲོད་པའི་འཇུག་ངོགས་མཆོག །
      To the fortunate ones traveling to freedom you illuminate the excellent path,
      Là lòng sông cạn / đưa kẻ thiện duyên / sang bờ giải thoát;
      བརྩེ་བས་སྤྱོད་པའི་ཐབས་མཁས་མཛད་པ་ཡིས། །
      You do this through skillful deeds stirred forth by compassion.
      Từ bi vận dụng / mọi thiện phương tiện, / soi tỏ lối đường:
      གསལ་མཛད་བཤེས་གཉེན་རྣམས་ལ་གུས་ཕྱག་འཚལ།
      I pay respectful homage to you O all my spiritual mentors.
      Kính khắp Ân sư / con xin đảnh lễ.

      ༈ །འཛམ་གླིང་མཁས་པ་ཡོངས་ཀྱི་གཙུག་གི་རྒྱན། །
      You’re the crowning jewels among all the learned ones of this world;
      6. Là ngọc trang nghiêm / trên đỉnh bậc trí / cõi Diêm phù đề;
      སྙན་པའི་བ་དན་འགྲོ་ལ་ལྷང་ངེ་བ། །
      Your banners of fame flutter vibrantly amongst the sentient beings;
      Tràng phang danh xưng / lẫy lừng khắp chúng;
      ཀླུ་སྒྲུབ་ཐོགས་མེད་གཉིས་ལས་རིམ་བཞིན་དུ། །
      O Nagarjuna and Asanga from you flow in an excellent steady stream
      Pháp chân truyền từ / Long thọ, Vô trước:
      ལེགས་བརྒྱུད་བྱང་ཆུབ་ལམ་གྱི་རིམ་པ་ནི། །
      This [instruction on the] stages of the path to enlightenment.
      Là Trình Tự Đường / Dẫn Đến Giác Ngộ.

      སྐྱེ་རྒུའི་འདོད་དོན་མ་ལུས་སྐོང་བས་ན། །
      Since it fulfills all the wishes of beings without exception,
      7. Vì bởi pháp này / làm tròn nguyện ước / chín loại chúng sinh
      གདམས་པ་རིན་ཆེན་དབང་གི་རྒྱལ་བོ་སྟེ། །
      It is the king of kings among all quintessential instructions;
      Nên đây chính là / vua của vua pháp,
      གཞུང་བཟང་སྟོང་གི་ཆུ་བོ་འདུས་པའི་ཕྱིར། །
      Since it gathers into it thousands of excellent rivers of treatises,
      Là lòng biển rộng / rạng ngời khéo giảng,
      དཔལ་ལྡན་ལེགས་པར་བཤད་པའི་རྒྱ་མཚོའང་ཡིན། །
      It’s as well the ocean of most glorious well-uttered insights.
      Nơi ngàn dòng suối / luận văn đổ về.

      བསྟན་པ་ཐམས་ཅད་འགལ་མེད་རྟོགས་པ་དང༌། །
      It helps to recognize all teachings to be free of contradictions;
      Giúp người tu hiểu / trăm vạn pháp môn / vốn không mâu thuẫn;
      གསུང་རབ་མ་ལུས་གདམས་པར་འཆར་བ་དང༌། །
      It helps the dawning of all scriptures as pith instructions;
      Giúp trọn pháp Phật / tỏa rạng thành lời / trực chỉ khai thị / trong trí người tu;
      རྒྱལ་བའི་དགོངས་པ་བདེ་བླག་རྙེད་པ་དང༌། །
      It helps to find easily the enlightened intention of the conquerors;
      Giúp cho dễ dàng / hiểu được ý Phật;
      ཉེས་སྤྱོད་ཆེན་པོའི་གཡང་ས་ལས་ཀྱང་བསྲུང༌། །
      It helps also to guard against the abyss of grave negative deeds.
      Giúp giữ người tu / thoát khỏi hố thẳm / của đại ác hạnh.

      དེ་ཕྱིར་རྒྱ་བོད་མཁས་པའི་སྐྱེ་བོ་ནི། །
      Therefore this most excellent instruction that is sought after
      Vì vậy nhiều bậc / thiện duyên Ấn-Tạng
      སྐལ་ལྡན་དུ་མས་བསྟེན་པའི་གདམས་པ་མཆོག །
      By numerous fortunate ones like the learned ones of India and Tibet,
      Dốc tâm nương vào / diệu pháp này đây.
      སྐྱེས་བུ་གསུམ་གྱི་ལམ་གྱི་རིམ་པ་ཡིས། །
      This [instruction of the] stages of the path of persons of three capacities,
      Trình tự đường tu / ba căn cơ này,
      ཡིད་རབ་མི་ དཔྱད་ལྡན་སུ་ཞིག་ཡོད།
      What intelligent person is there whose mind is not captured by it?
      Kẻ trí không ai / không bị cuốn hút.

      ༈ །གསུང་རབ་ཀུན་གྱི་སྙིང་པོ་བསྡུ་བསྡུ་བ། །
      This concise instruction distilling the essence of all scriptures,
      8. Pháp này thu nhiếp / trọn lời Phật dạy,
      ཚུལ་འདི་ཐུན་རེ་སྟོན་དང་ཉན་པས་ཀྱང༌། །
      Even through reciting it or listening to it only once,
      Nên giảng hay nghe / dù chỉ một lần,
      དམ་ཆོས་འཆད་དང་ཐོས་པའི་ཕན་ཡོན་ཚོགས། །
      The benefits of teaching the dharma, listening to it, and so on,
      Đều như giảng, nghe / toàn bộ diệu Pháp,
      རླབས་ཆེན་སྡུད་པར་ངེས་པས་དེ་དོན་བསམ །
      Since such waves of merit are bound to be gathered contemplate its meaning.
      Lợi ích nhất định / sẽ như sóng cả, / vì vậy hãy nên / chuyên chú tư duy.

      ༈ །དེ་ནས་འདི་ཕྱིའི་ལེགས་ཚོགས་ཇི་སྙེད་པའི། །
      Then, the root of creating well the auspicious conditions
      9. Rồi sẽ thấy ra / gốc rễ duyên lành
      རྟེན་འབྲེལ་ལེགས་པར་འགྲིགས་པའི་རྩ་བ་ནི། །
      For all the excellences of this and future lives
      Cho mọi thiện lành / đời này kiếp sau
      ལམ་སྟོན་བཤེས་གཉེན་དམ་པ་འབད་པ་ཡིས། །
      Is to rely properly with effort both in thought and action
      Nằm ở nỗ lực / mang tâm và hạnh / nương dựa đúng cách
      བསམ་དང་སྦྱོར་བས་ཚུལ་བཞིན་བསྟེན་པར་པ་རུ། །
      Upon the sublime spiritual mentor who reveals the path.
      Nơi đấng đạo sư, / là người chỉ cho / đường tu giác ngộ.

      མཐོང་ནས་སྲོག་གི་ཕྱིར་ཡང་མི་གཏོང་བར། །
      Seeing this we should never forsake him even at the cost of life
      Thấy điều này rồi / cho dù mất mạng / cũng không từ bỏ,
      བཀའ་བཞིན་སྒྲུབ་པའི་མཆོད་པས་མཉེས་པར་བྱེད། །
      And please him with the offering of implementing his words.
      Phải gắng làm cho / đạo sư hoan hỉ / bằng cách tu theo / lời của đạo sư.
      རྣལ་འབྱོར་ངས་ཀྱང་ཉམས་ལེན་དེ་ལྟར་བགྱིས། །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      ཐར་འདོད་ཁྱོད་ཀྱང་དེ་བཞིན་བསྐྱང་འཚལ་ལོ།
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ །དལ་བའི་རྟེན་འདི་ཡིད་བཞིན་ནོར་ལས་ལྷག །
      This life of leisure is even more precious than a wish-granting jewel;
      10. Thân người ung dung / quí giá còn hơn / bảo châu như ý
      འདི་འདྲ་རྙེད་པ་ད་རེས་ཙམ་ཞིག་ཡིན། །
      That I have found such an existence is only this once;
      Đến chỉ một lần / cực kỳ khó gặp,
      རྙེད་དཀའ་འཇིག་སླ་ནམ་མཁའི་གློག་དང་འདྲ། །
      So hard to find yet like a flash of lightning it is easy to vanish;
      Lại dễ mất như / tia chớp giữa trời.
      ཚུལ་འདི་བསམས་ནས་འཇིག་རྟེན་བྱ་བ་ཀུན། །
      Contemplating this situation it’s vital to realize that all mundane pursuits
      Thấy rõ kiếp người / chóng vánh như vậy,

      སྦུན་པ་འཕྱར་བ་བཞིན་དུ་རྟོགས་གྱུར་ནས། །
      Are like the empty grain husks floating in the winds
      Chuyện đời khác gì / trấu lép loạn bay.
      ཉིན་མཚན་ཀུན་ཏུ་སྙིང་བོ་ལེན་པ་དགོས། །
      And that we must extract the essence of human existence.
      Nên ngày lẫn đêm / phải luôn tận dụng / tinh túy thân này.
      རྣལ་འབྱོར་ངས་ཀྱང༌
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      ཐར་འདོད་ཁྱེད་ཀྱང༌། །ཚིག་རྐང་འདི་གཉིས་ཕྱིན་ཆད་ཀུན་ལའང་འགྲེ།
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ ཤི་ནས་ངན་འགྲོར་མི་སྐྱེའི་གདིང་མེད་ཅིང༌། །
      There is no certainty that after death we may not be born in the lower realms;
      11. Chết rồi chắc gì / không rơi ác đạo,
      དེ་ཡི་འཇིགས་སྐྱོབ་དཀོན་མཆོག་གསུམ་དུ་ངེས། །
      The protection from such terror lies in the Three Jewels alone;
      Giúp thoát sợ này / chỉ có Tam Bảo.
      དེ་ཕྱིར་སྐྱབས་འགྲོ་ཤིན་ཏུ་བརྟན་པ་དང༌། །
      So we must make firm the practice of going for refuge
      Vậy tâm qui y / phải giữ cho chắc,
      དེ་ཡི་བསླབ་བྱ་ཉམས་པ་མེད་པར་བྱ། །
      And ensure that its precepts are never undermined.
      Đừng bao giờ để / phá hạnh qui y.

      དེ་ཡང་དཀར་ནག་ལས་འབྲས་ལེགས་བསམ་ནས། །
      This in turn depends on contemplating well the white and black karma
      Muốn được như vậy / phải khéo nghĩ về / nghiệp quả thiện ác,
      བླང་དོར་ཚུལ་བཞིན་སྒྲུབ་ལ་རག་ལས་སོ། །
      And their effects, and on perfect observance of the ethical norms.
      Để biết chọn việc / nên bỏ, nên làm.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ལམ་མཆོག་སྒྲུབ་ལ་མཚན་ཉིད་ཚང་བའི་རྟེན། །
      Until we’ve obtained the most qualified form to pursue the excellent path
      12. Thân người đủ mọi / phẩm tướng cần thiết / để theo thắng đạo,
      མ་རྙེད་བར་དུ་ས་ཕྱོད་མི་འོང་བས། ། [དུས་ཚོད་མི་འོང་བས་??]
      We will fail to make great strides in our journey,
      Nếu như thiếu đi / thì đường giác ngộ / không thể bứt phá.
      དེ་ཡི་མ་ཚང་མེད་པའི་རྒྱུད་ལ་བསླབ། །
      So we must strive in all the conditions without exception of such a form;
      Vậy phải gắng sao / cho có đủ cả.
      སྒོ་གསུམ་སྡིག་ལྟུང་དྲི་མ་མས་སྦགས་པ་འདི། །
      Thus these three doors of ours so sullied with evil karma and downfalls,
      Vì bởi ba cửa / nhuốm đầy cấu nhiễm / ác nghiệp, rơi đọa,

      ལྷག་པར་ལས་སྒྲིབ་སྦྱོང་བ་གནད་ཆེ་བས། །
      Since it is especially essential to purify their karmic defilements,
      Khẩn thiết nhất là / tẩy tịnh nghiệp chướng,
      རྒྱུན་དུ་སྟོབས་བཞི་ཚང་བ་བརྟེན་པ་གཅེས། །
      We must ensure to cherish the constant application all four powers.
      Nên bốn sám lực / phải thường trân quí / áp dụng siêng năng.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ ༈ །
      I, a yogi, have practiced in this manner; You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      སྡུག་བདེན་ཉེས་དམིགས་བསམ་ལ་མ་འབད་ན། །
      If we do not strive in contemplating the defects of the truth of suffering,
      13. Tai hại khổ đế / không nỗ lực quán
      ཐར་པ་དོན་གཉེར་ཇི་བཞིན་མི་སྐྱེ་ཞིང༌། །
      The genuine aspiration for liberation does not arise in us;
      Thì tâm cầu thoát / không thật phát sinh.
      ཀུན་འབྱུང་འཁོར་བའི་འཇུག་རིམ་མ་བསམ་ན། །
      If we do not contemplate the causal process of the origin of suffering,
      Nguyên nhân của khổ / luân chuyển thế nào, / nếu không quán chiếu
      འཁོར་བའི་རྩ་བ་གཅོད་ཚུལ་མི་ཤེས་པས། །
      We will fail to understand how to cut the root of cyclic existence.
      Thì gốc luân hồi / không biết cách chặt.

      སྲིད་ལས་ངེས་འབྱུང་སྐྱོ་ཤས་བརྟེན་པ་དང༌། །
      So it’s vital to seek true renunciation of disenchantment with existence
      Cần nhất phải biết / chán khổ sinh tử, / khởi tâm cầu thoát,
      འཁོར་བར་གང་གིས་བཅིངས་པ་ཤེས་པ་གཅེས། །
      And to recognize which factors chain us in the cycle of existence.
      Và biết điều gì / trói buộc mình trong / sinh tử luân hồi.
      རྣལ་འབྱོར། །ཐར་འདོད།
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ སེམས་བསྐྱེད་ཐེག་མཆོག་ལམ་གྱི་གཞུང་ཤིང་སྟེ། །
      Generating the mind is the central axle of the supreme vehicle path;
      14. Phát tâm bồ đề / là cốt lõi của / đường tu Đại thừa.
      རླབས་ཆེན་སྤྱོད་པ་རྣམས་ཀྱི་གཞི་དང་རྟེན། །
      It’s the foundation and the support of all expansive deeds;
      Nền tảng, chỗ dựa / của khắp muôn trùng / sóng cả thiện hạnh
      ཚོགས་གཉིས་ཀུན་ལ་གསེར་འགྱུར་རྩི་ལྟ་བུ། ། །
      To all instances of two accumulations it is like the elixir of gold;
      Tựa như thuốc tiên / hóa sắc thành vàng, / biến tất cả thành / hai kho phước trí
      རབ་འབྱམས་དགེ་ཚོགས་སྡུད་པའི་བསོད་ནམས་གཏེར། །
      It’s the treasury of merits containing myriad collections of virtues;
      Là cả kho tàng / công đức đồ sộ, / chứa hết vô lượng / thiện đức bồ đề.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་རྒྱལ་སྲས་དབང་བོ་རྣམས། །
      Recognizing these truths the heroic bodhisattvas
      Vì biết điều này / nên chư bồ tát / uy dũng tự tại
      རིན་ཆེན་སེམས་མཆོག་ཐུགས་དམ་མཐིལ་དུ་འཛིན། །
      Uphold the precious supreme mind as the heart of their practice.
      Gìn giữ tâm ấy / sâu thẳm bên trong / cốt tủy pháp hành.
      རྣལ་འབྱོར། །ཐར་འདོད། །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      སྦྱིན་པ་འགྲོ་བའི་རེ་སྐོང་ཡིད་བཞིན་ནོར། །
      Giving is the wish-granting jewel that satisfies the wishes of all beings;
      15. Thí là ngọc quý / toàn thành ước nguyện / cho khắp chúng sanh;
      སེར་སྣའི་མདུད་པ་གཅོད་པའི་མཚོན་ཆ་མཆོག །།
      It’s the best weapon to cut the constricting knots of miserliness;
      Vũ khí thượng thặng / chặt phăng nút thắt / của lòng keo bẩn;
      མ་ཞུམ་སྙིང་སྟོབས་བསྐྱེད་པའི་རྒྱལ་སྲས་སྤྱོད།
      It’s an undaunted deed of the bodhisattva giving birth to courage;
      Là hạnh bồ tát / sinh nguồn dũng cảm / không hề chán mệt;
      སྙན་པའི་གྲགས་པ་ཕྱོགས་བཅུར་སྒྲོགས་པའི་གཞི། །
      It’s the basis to proclaim one’s fame throughout all ten directions;
      Và là nền tảng / khiến cho danh lành / truyền khắp mười phương.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་ལུས་དང་ལོངས་སྤྱོད་དགེ། །
      Knowing this the learned ones seek the excellent path
      Vì biết điều này / nên người có trí / xả hết thân mạng / tài sản công đức,
      ཡོངས་སུ་གཏོང་བའི་ལམ་བཟང་མཁས་པས་བསྟེན། །
      Of giving away entirely their body, wealth and virtues.
      chỉ để nương theo / con đường lành này.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ཚུལ་ཁྲིམས་ཉེས་སྤྱོད་དྲི་མ་འཁྱུད་པའི་ཆུ། །
      Morality is the water that washes off the stains of ill deeds;
      16. Giới là nước trong / giặt sạch tất cả / vết nhơ ác nghiệp;
      ཉོན་མོངས་ཚ་གདུང་སེལ་བའི་ཟླ་བའི་འོད། །
      It’s the cooling moonlight dispelling the burning agony of afflictions;
      Là ánh trăng thanh / xoa dịu nỗi đau / rát bỏng phiền não;
      སྐྱེས་དགུའི་དབུས་ན་ལྷུན་པོ་ལྟ་བུར་བརྗིད། །
      In the midst of people it is most majestic like the Mt Meru;
      Đứng giữa phàm phu, / thân thể rạng ngời / như núi Tu di,
      སྟོབས་ཀྱིས་བསྡིགས་པ་མེད་པར་འགྲོ་ཀུན་འདུད། །
      It draws together all beings without any display of force;
      Không cần thị uy / nhiếp phục khắp cả.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་ཡང་དག་བླངས་པའི་ཁྲིམས། །
      Knowing this the sublime ones guard as if they would their eyes,
      Vì biết điều này / nên chư giác giả,
      དམ་པ་རྣམས་ཀྱིས་མིག་བཞིན་བསྲུང་བར་མཛོད། །
      The perfect disciplines which they have chosen to adopt.
      Giữ giới đã thọ / quí như đôi mắt.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      བཟོད་པ་སྟོབས་ལྡན་རྣམས་ལ་རྒྱན་གྱི་མཆོག །
      Forbearance is the supreme ornament for those who have power;
      17. Nhẫn là trang sức / quý giá nhất cho / người có quyền năng;
      ཉོན་མོངས་གདུང་བའི་དཀའ་ཐུབ་ཀུན་གྱི་ཕུལ། །
      It’s the greatest fortitude against the agonies of afflictions;
      Là sức chịu đựng / tuyệt bậc dành cho / bức bách phiền não;
      ཞེ་སྡང་ལག་འགྲོའི་དགྲ་ལ་ནམ་མཁའ་ལྡིང༌། །
      Against its enemy the snake of hate it is a garuda cruising in the sky;
      Là kim sí điểu / bay vút giữa trời, / làm khắc tinh của / rắn thù sân hận;
      ཚིག་རྩུབ་མཚོན་ལ་སྲ་བའི་གོ་ཆ་ཡིན། །
      Against the weapon of harsh words it’s the strongest armor;
      Là lớp giáp bào / kiên cố ngăn chận / vũ khí ác ngữ.

      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་བཟོད་མཆོག་གོ་ཆ་ལ། །
      Knowing this we should habituate ourselves with
      Biết vậy cho nên / giáp bào kham nhẫn,
      རྣམ་པ་སྣ་ཚོགས་ཚུལ་གྱིས་བསྒོམས་པར་མཛད། །
      The armor of excellent forbearance by all possible means.
      Bằng đủ mọi cách / phải tập làm quen.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practice in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      མི་ལྡོག་བརྟན་པའི་བརྩོན་འགྲུས་གོ་བགོས་ན། །
      If the armor of unflinching perseverance is worn,
      18. Khoát lớp giáp bào / tinh tấn bất thoái
      ལུང་རྟོགས་ཡོན་ཏན་ཡར་ངོའི་ཟླ་བཞིན་འཕེལ། །
      Knowledge of scripture and realization increases like waxing moon;
      Thì học và chứng / tăng trưởng nhanh như / trăng đến độ rằm,
      སྤྱོད་ལམ་ཐམས་ཅད་དོན་དང་ལྡན་པར་འགྱུར། །
      All conducts become fused with good purpose;
      Việc làm nào cũng / tràn đầy ý nghĩa,
      གང་བརྩམས་ལས་ཀྱི་མཐའ་རྣམས་ཡིད་བཞིན་འགྲུབ། །
      And whatever initiatives we may begin succeeds as hoped for;
      Và đều mang đến / kết quả mong cầu.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་ལེ་ལོ་ཀུན་སེལ་བའི། །
      Knowing this the bodhisattvas apply great waves of effort,
      Vì biết như vậy / nên chư bồ tát
      རླབས་ཆེན་བརྩོན་འགྲུས་རྒྱལ་སྲས་རྣམས་ཀྱིས་བརྩམས། །
      Which help to dispel all forms of laziness.
      Cuộn sóng tinh tấn / quét sạch hết thảy / mọi kiểu biếng lười.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      བསམ་གཏན་སེམས་ལ་དབང་སྒྱུར་རྒྱལ་བོ་སྟེ། །
      Concentration is the king that reigns over the mind;
      19. Định là đại vương / ngự trị tâm thức.
      བཞག་ན་གཡོ་མེད་རི་ཡི་དབང་བོ་བཞིན། །
      When left it is as unwavering as the king of mountains;
      Để yên, bất động / như núi Tu Di
      བཏང་ན་དགེ་བའི་དམིགས་པ་ཀུན་ལ་འཇུག །
      When set forth it engages with all objects of virtue;
      Mở ra, thu nhiếp / toàn bộ thiện pháp,
      ལུས་སེམས་ལས་སུ་རུང་བའི་བདེ་ཆེན་འདྲེན། །
      It induces the great bliss of a serviceable body and mind;
      Cho hỉ lạc nhờ / nhu nhuyễn thân tâm.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་རྣལ་འབྱོར་དབང་བོ་རྣམས། །
      Knowing this the great accomplished yogis
      Vì biết vậy nên / hành giả tự tại,
      རྣམ་གཡེང་དགྲ་འཇོམས་ཏིང་འཛིན་རྒྱུན་ཏུ་བསྟེན། །
      Constantly apply meditations destroying the enemy of distraction.
      Luôn nương pháp định / diệt thù tán tâm.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ཤེས་རབ་ཟབ་མོའི་དེ་ཉིད་བལྟ་བའི་མིག །
      Wisdom is the eye that sees the profound suchness;
      20. Tuệ là đôi mắt / thâm chứng tánh Như;
      སྲིད་པའི་རྩ་བ་དྲུང་ནས་འབྱིན་པའི་ལམ། །
      It’s the path eradicating cyclic existence from its very root;
      Là con đường bứng / sạch gốc luân hồi;
      གསུང་རབ་ཀུན་ལས་བསྔགས་པའི་ཡོན་ཏན་གཏེར། །
      It’s a treasury of higher qualities that are praised in all scriptures;
      Là kho tánh đức / kinh luận tán thán;
      གཏི་མུག་མུན་སེལ་སྒྲོན་མེའི་མཆོག་ཏུ་གྲགས། །
      It’s known as the supreme lamp dispelling the darkness of delusion;
      Và nổi danh là / ngọn đèn vô thượng / xua bóng vô minh.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་ཐར་འདོད་མཁས་པ་ཡིས། །
      Knowing this the learned ones who aspire for liberation
      Vì biết như vậy / nên người có trí / tìm cầu giải thoát
      ལམ་དེ་འབད་པ་དུ་མས་བསྐྱེད་པར་མཛད། །
      Endeavor with multiple efforts to cultivate this path.
      Nỗ lực đủ cách / tu theo đường này.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo

      རྩེ་གཅིག་བསམ་གཏན་ཙམ་ལས་འཁོར་བ་ཡི། །
      In a mere one-pointed concentration I fail to see
      Nếu chỉ dựa vào / mỗi định-nhất-tâm / thì không thấy được
      རྩ་བ་གཅོད་པའི་ནུས་པ་མ་མཐོང་ཞིང༌། །
      The potency to cut the root of cyclic existence;
      Khả năng chặt đứt / gốc rễ luân hồi.
      ཞི་གནས་ལམ་དང་བྲལ་བའི་ཤེས་རབ་ཀྱིས། །
      Yet with wisdom devoid of the path of tranquil abiding,
      Nếu chỉ có tuệ / thiếu đi tịnh chỉ
      ཇི་ཙམ་དཔྱད་ཀྱང་ཉོན་མོངས་མི་ལྡོག་པས། །
      No matter how much one may probe, the afflictions will not be overcome.
      Thì dù quán chiếu / truy tìm đến đâu / cũng không thể nào / dứt được phiền não.
      ཡིན་ལུགས་ཕུག་ཐག་ཆོད་པའི་ཤེས་རབ་དེ། །
      So this wisdom decisively penetrating the true mode of being,
      Vì vậy kẻ trí / lấy tuệ thâm nhập / vào chân thực tại
      གཡོ་མེད་ཞི་གནས་རྟ་ལ་བསྐྱོན་ནས་ནི། །
      The learned ones saddle it astride the horse of unwavering calm abiding;
      Cưỡi trên lưng ngựa / tịnh chỉ diệu trạm;
      མཐའ་བྲལ་དབུ་མའི་རིག་པའི་མཚོན་རྣོན་གྱིས། །
      And with the sharp weapon of reasoning of the Middle Way free of extremes,
      Dùng vũ khí bén / luận lý Trung đạo / không vướng biên kiến
      མཐར་འཛིན་དམིགས་གཏད་ཐམས་ཅད་འཇིག་བྱེད་པའི། །
      They dismantle all locus of objectification of the mind grasping at extremes;
      Phá tan hết thảy / khái niệm phân biệt / chấp thường chấp đoạn.
      ཚུལ་བཞིན་དཔྱོད་པའི་ཡངས་པའི་ཤེས་རབ་ཀྱིས། །
      With such expansive wisdom that probes with precision,
      Dùng tuệ rộng lớn / quán chiếu chính xác
      དེ་ཉིད་རྟོགས་པའི་བློ་གྲོས་རྒྱས་པར་མཛད། །
      The learned ones enhance the wisdom realizing the suchness.
      Để làm khai mở / trí chứng tánh Như.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      རྩེ་གཅིག་བསྒོམས་པས་ཏིང་འཛིན་འགྲུབ་པ་ནི། །
      What need is there say that through one-pointed cultivation
      22. Nhờ thiền nhất tâm / mà đạt tam muội,
      སྨོས་པར་ཅི་འཚལ་ཚུལ་བཞིན་དཔྱོད་པ་ཡི། །
      Absorption is realized? Through discriminative awareness
      Chẳng gì đáng nói. / Dùng quán sát trí
      སོ་སོར་རྟོག་པ་ཡིས་ཀྱང་ཡིན་ལུགས་ལ། །
      Probing with precision as well one can abide unwavering
      Truy xét tầm tư, / mà vẫn yên lắng,
      གཡོ་མེད་ཤིན་ཏུ་བརྟན་པར་གནས་པ་ཡི། །
      And utterly stable upon the true mode of being.
      Bất động vững vàng / nơi chân thực tại,
      ཏིང་འཛིན་བསྐྱེད་པར་མཐོང་ནས་ཞི་ལྷག་གཉིས། །
      Wondrous are those who see this
      Thấy rồi nỗ lực / hợp nhất chỉ quán,
      ཟུང་འབྲེལ་སྒྲུབ་ལ་བརྩོན་རྣམས་ཡ་མཚན་ནོ། །
      And strive for the union of abiding and insight.
      Đây mới chính thật / là điều nhiệm mầu.
      རྣལ་འབྱོར། །ཐར་འདོད། །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      མཉམ་བཞག་ནམ་མཁའ་ལྟ་བུའི་སྟོང་ཉིད་དང༌། །
      The space-like emptiness of meditative equipoise,
      23. Khi vào trong định, Không – như không gian;
      རྗེས་ཐོབ་སྒྱུ་མ་ལྟ་བུའི་སྟོང་བ་གཉིས། །
      And the illusion-like emptiness of the subsequent realizations,
      Khi xuất trở ra, Không – như huyễn cảnh;
      བསྒོམས་ནས་ཐབས་ཤེས་ཟུང་དུ་འབྲེལ་བ་ཡིས། །
      Praised are those who cultivate them and bind together
      Tán dương những ai / nhờ tu như vậy / hợp nhất phương tiện / cùng với trí tuệ
      རྒྱལ་སྲས་སྤྱོད་པའི་ཕ་རོལ་འགྲོ་བ་བསྔགས། །
      The method and wisdom and travel beyond the bodhisattva deeds.
      Và rồi siêu việt / các hạnh bồ tát.
      དེ་ལྟར་རྟོགས་ནས་ཕྱོགས་རེའི་ལམ་གྱིས་ནི། །
      It’s the way of the fortunate ones
      Để chứng điều này / nên bậc thiện duyên
      ཚིམ་པ་མེད་པ་སྐལ་བཟང་རྣམས་ཀྱི་ལུགས། །
      To realize this and not to be content with partial paths;
      Không đành lòng với / đường tu riêng lẻ.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴
      I, a yogi, have practiced in this manner; You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ །དེ་ལྟར་རྒྱུ་དང་འབྲས་བུའི་ཐེག་ཆེན་གྱི། །
      Thus having cultivated as they are the common paths
      24. Như thế chính là / đường tu phổ thông, / thiết yếu cho hai / thắng đạo đại thừa.
      ལམ་མཆོག་གཉིས་ཀར་དགོས་པའི་ཐུན་མོང་ལམ། །
      Essential for the two supreme paths of causal and resultant great vehicles,
      là cỗ xe nhân / và cỗ xe quả.
      ཇི་བཞིན་དཔྱད་ནས་མཁས་པའི་དེད་དཔོན་གྱི། །
      I have entered the great ocean of tantras
      Tu rồi hãy tìm / nương sự che chở / của bậc thuyền trưởng / trí tuệ tài ba
      མགོན་ལ་བརྟེན་ནས་རྒྱུད་སྡེ་རྒྱ་མཚོ་ཆེར། །
      By relying upon the leadership of the learned navigators;
      Để mà bước vào / biển cả mật pháp.
      ཞུགས་ནས་ཡོངས་རྫོགས་མན་ངག་བརྟེན་པ་དེས། །
      And through application of the quintessential instructions,
      Rồi nhờ dựa vào / lời giảng toàn hảo
      དལ་འབྱོར་ཐོབ་པ་དོན་དང་ལྡན་པར་བྱས། །
      I have made meaningful human existence that I have obtained.
      Sẽ không phí uổng / thân người có đây.
      རྣལ་འབྱོར༴ ། ཐར་འདོད༴
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ ། རང་གི་ཡིད་ལ་གོམས་པར་བྱ་ཕྱིར་དང༌། །
      In order to make familiar to my own mind,
      25. Vì để huân tập / tâm của chính mình,
      སྐལ་བཟང་གཞན་ལའང་ཕན་པར་བྱ་བའི་ཕྱིར། །
      And to help benefit fortunate others as well,
      Cũng để làm lợi / cho hàng thiện duyên,
      རྒྱལ་བ་དགྱེས་པའི་ཡོངས་སུ་རྫོགས་པའི་ལམ། །
      I’ve explained here in words easy to understand
      Thầy đã giải thích / bằng lời dễ hiểu
      གོ་སླའི་ངག་གིས་བཤད་པའི་དགེ་བ་དེས། །
      In its entirety the path that pleases the conquerors.
      Trọn vẹn đường tu / khiến Phật đẹp lòng.

      འགྲོ་བ་ཀུན་ཀྱང་རྣམ་དག་ལམ་བཟང་དང༌། །
      “Through this virtue may all beings be never divorced
      25.Nương công đức này / nguyện cho chúng sinh
      འབྲལ་མེད་གྱུར་ཅིག་ཅེས་ནི་སྨོན་ལམ་འདེབས། །
      From the perfectly pure excellent path” thus I pray;
      Không bao giờ lìa / chánh đạo tối thượng.
      རྣལ་འབྱོར་ངས་ཀྱང་སྨོན་ལམ་དེ་ལྟར་བཏབ། །
      I, a yogi, have made aspirations in this manner;
      Thầy là hành giả / đã nguyện như vậy.
      ཐར་འདོད་ཁྱེད་ཀྱང་དེ་བཞིན་འདེབས་འཚལ་ལོ།
      You, who aspire for liberation, too should pray likewise.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy nguyện theo.

      ཞེས་བྱང་ཆུབ་ལམ་གྱི་རིམ་པའི་ཉམས་ལེན་གྱི་རྣམ་བཞག་མདོར་བསྡུས་ཏེ་བརྗོད་པ་རང་བྱས་པ་འདི་ནི་མང་དུ་ཐོས་པའི་དགེ་སློང་སྤོང་བ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པའི་དཔལ་གྱིས འབྲོག་རི་བོ་དགེ་ལྡན་རྣམ་པར་རྒྱལ་བའི་གླིང་དུ་སྦྱར་བའོ། །
      This brief presentation of the practices of the stages of the path to enlightenment written in the format of a memorandum was composed by the well-read monk, the renunciate Lobsang Drakpa at the great mountain retreat of Geden Nampar Gyalwai Ling.
      Pháp môn trình tự đường tu giác ngộ trình bày ngắn gọn theo thể tóm lược, do tỷ kheo đa văn, người đã buông xả, tên Lobsang Drakpa viết tại núi lớn lan nhã tại Geden Nampar Gyalwai Ling
      © English translation. Geshé Thupten Jinpa, 2004; revised 2007.
      Bản tiếng Việt dịch từ  Tạng ngữ, Hồng Như Thupten Munsel, 2019.




      BẢN DỊCH CŨ 2004 

      (1) Con xin chí thành
      đảnh lễ đức Phật,
      là người đứng đầu
      dòng họ Thích Ca.
      Thân Phật nhiệm màu
      phát sinh ra từ
      vô vàn thiện hạnh
      cùng với vô vàn
      thành tựu viên mãn.
      Ngữ Phật nhiệm màu
      hoàn thành ước nguyện
      vô lượng chúng sinh.
      Ý Phật nhiệm màu
      thấy hết khắp cả
      đúng như sự thật.

      (2) Con xin đảnh lễ
      Bồ tát Di lạc,
      Bồ tát Văn thù,
      là bậc trưởng tử
      của đấng Đạo Sư,
      không đâu sánh bằng.
      Hai vị là người
      giữ gìn thiện hạnh
      của mười phương Phật;
      thị hiện sắc thân
      hằng sa cõi giới.

      (3) Con xin đảnh lễ
      dưới chân hai ngài
      Long thọ, Vô Trước,
      quí như châu ngọc
      trang hoàng cõi Nam.
      Danh hiệu hai ngài
      vang lừng ba cõi,
      là người thuyết giảng
      ý nghĩa “Phật mẫu”,
      giáo pháp thâm sâu
      khó tin nhận nhất
      hoàn toàn thuận theo
      ý thật của Phật.

      (4) Con đảnh lễ thầy
      Đi-pam-ka-ra,
      [đức A-ti-sha]
      là người tiếp giữ
      kho tàng chánh pháp,
      giữ gìn ngọn đèn
      soi đường giác ngộ.
      Bao nhiêu tinh túy
      đường tu quảng, thâm,
      truyền lại từ hai
      bậc đại tổ sư
      đều được giữ gìn
      chính xác nguyên vẹn
      trong giáo pháp này.

      (5) Con xin kính cẩn
      đảnh lễ đạo sư.
      Đạo sư là mắt
      giúp chúng con nhìn
      vào biển kinh điển
      bao la vô tận;
      là lòng sông cạn
      nâng đỡ gót chân
      cho kẻ thiện duyên
      vượt sang bờ giác.
      Thầy mở lòng từ
      vô lượng vô biên,
      vận dụng muôn vàn
      phương tiện thiện xảo
      giúp cho mọi sự
      rõ ràng trong sáng.

      (6) Con đường tuần tự
      dẫn đến giác ngộ
      được các bậc thầy
      nối gót hai tổ
      Long Thọ, Vô Trước
      khéo léo giữ gìn.
      trong số chư Tăng
      nơi vùng đất Nam
      các thầy là hạt
      ngọc châu vương đỉnh.
      tràng phang các thầy
      cao trội hơn cả.
      Tu theo con đường
      tuần tự giác ngộ
      sẽ có khả năng
      hoàn thành ước nguyện
      chín loại chúng sinh.
      Vì vậy pháp này
      là đấng Pháp vương,
      là lòng biển rộng
      cho ngàn dòng suối
      luận văn đổ về.

      (7) Pháp này vi diệu
      – giúp cho người tu
      hiểu được dễ dàng
      trăm vạn pháp môn
      vốn không mâu thuẫn;
      – giúp cho toàn bộ
      biển rộng kinh điển
      đồng loạt tỏa rạng
      trong trí người tu
      như lời giáo hóa
      dành riêng cho mình;
      – giúp cho dễ dàng
      hiểu được ý Phật;
      – hộ trì người tu
      thoát khỏi hố thẳm
      sai lầm tai hại.
      Vì bốn lợi ích
      lớn lao như vậy
      nên các hành giả
      Ấn độ, Tây tạng
      ai người có trí
      cũng đều hoan hỉ
      với diệu pháp này;
      là pháp chỉ rõ
      con đường tuần tự
      dẫn đến giác ngộ
      tùy theo căn cơ;
      là pháp cao tuyệt
      mà kẻ thiện duyên
      luôn luôn dốc tâm
      tinh tấn tu hành.

      (8) Diệu pháp này do
      ngài A-ti-sa
      thu gọn tinh túy
      của lời Phật dạy
      mà soạn thành luận.
      Vì vậy dù chỉ
      đọc nghe một lần
      cũng sẽ có được
      vô vàn công đức,
      như là tu tập
      toàn bộ chánh pháp.
      Huống chi gắng công
      chuyên cần học hỏi,
      giảng giải phong phú
      cho người cùng nghe,
      chắc chắn công đức
      sẽ như sóng cả.
      Vì vậy các con
      hãy gắng chú tâm
      (Tu học pháp này
      Cho thật đúng đắn.)

      (9) (Sau khi phát tâm
      Qui y Tam Bảo)
      Các con phải thấy
      gốc rễ điều lành
      của kiếp hiện tiền
      và mọi kiếp sau
      đều nằm ở tâm
      nương dựa đúng cách
      nơi đấng đạo sư,
      trong từng ý tưởng
      trong từng hành động.
      Đạo sư là người
      đưa các con vào
      đường tu giác ngộ,
      vì vậy các con
      phải gắng làm cho
      Đạo sư hoan hỉ
      bằng cách chăm chỉ
      tinh tấn tu hành
      theo đúng như lời
      của đạo sư dạy;
      dù mất mạng sống
      cũng không từ bỏ
      lời dạy của thầy,
      lấy sự tu hành
      dâng thành cúng phẩm.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (10) Kiếp người này có
      tám sự tự tại,
      quí giá còn hơn
      bảo châu như ý,
      đến chỉ một lần,
      cực kỳ khó gặp,
      nhưng lại dễ mất,
      tựa như tia chớp
      thoắt trên trời không.
      Nhìn rõ kiếp người
      chóng vánh như vậy
      thấy chuyện thế tục
      khác gì trấu lép.
      Các con hãy gắng
      vắt lấy tinh túy
      của kiếp sống này,
      trong từng phút giây,
      ngày cũng như đêm
      đừng để phí uổng.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (11) Khi vào cõi chết
      Khi vào cõi chết
      không thể biết chắc
      mình sẽ không rơi
      vào cõi ác đạo.
      Chỉ có Tam Bảo
      là đủ khả năng
      che chở cho con
      thoát cơn sợ hãi.
      Vì vậy phải gắng
      giữ tâm qui y
      cho thật vững chắc,
      đừng để sơ sót
      phá hạnh qui y.
      Muốn được như vậy
      phải hiểu nghiệp quả
      sống thuận chánh pháp
      làm mọi thiện hạnh
      lánh mọi ác pháp.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (12) Thân người đầy đủ
      tám sự tự tại
      nếu như thiếu đi
      thì không thể có
      bước nhảy vượt bực
      trên con đường tu
      thành tựu giác ngộ.
      Do đó phải nên
      lánh ác làm lành
      để khỏi tái sinh
      vào cảnh khiếm khuyết;
      cũng nên siêng năng
      tẩy sạch ác nghiệp
      phá phạm giới hạnh
      đang vấy bẩn ba
      cửa thân miệng ý;
      và nhất là để
      tẩy loại nghiệp chướng
      khiến ta không thể
      tái sinh làm người.
      Các con hãy gắng
      siêng năng áp dụng
      bốn lực sám hối
      thanh tịnh chướng nghiệp.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (13) Nếu không cố gắng
      quán chiếu về khổ
      sẽ không thể nào
      tinh tấn nhất tâm
      hướng về giải thoát.
      Không biết đâu là
      nguyên nhân của khổ,
      không biết điều gì
      ràng buộc mình trong
      cảnh sống luân hồi
      thì không thể thấy
      đâu là phương tiện
      bứng sạch gốc rễ
      của vòng tái sinh
      triền miên lẩn quẩn.
      Các con nên biết
      chán cảnh sinh tử
      từ bỏ luân hồi;
      phải biết quán sát
      điều gì trói chặt
      mình trong sinh tử.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (14) Cốt tủy đại thừa
      là sao cho tâm
      vô thượng bồ đề
      luôn luôn tăng trưởng.
      Đây là căn bản
      cũng là nền tảng
      của khắp mười phương
      hành trạng giác ngộ
      trùng trùng vời vợi
      như sóng đại dương
      [của chư Phật đà].
      Tựa như thuốc tiên
      hóa sắc thành vàng
      tâm bồ đề cũng
      có được khả năng
      khiến mọi hành động
      biến thành hai bồ
      tư lương phước trí,
      tích lũy kho tàng
      công đức đồ sộ
      đến từ vô lượng
      tánh đức bồ đề.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (15) Thí ba la mật
      là ngọc Như Ý
      có được khả năng
      hoàn thành ước nguyện
      của mọi chúng sinh;
      là loại vũ khí
      hữu hiệu bậc nhất
      chặt phăng nút thắt
      của lòng keo bẩn.
      Thái độ vì người
      sẽ làm tăng nguồn
      can đảm, tự tín.
      Người có hạnh Thí
      mười phương thế giới
      sẽ đều tán dương.
      Vì biết điều này
      nên người có trí
      dốc tâm tinh tấn
      tu hành hạnh Thí,
      cho đi toàn vẹn
      thân thể, của cải,
      cho cả hai bồ
      tư lương công đức.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (16) Giới là nước trong
      giặt sạch tất cả
      vết nhơ ác nghiệp.
      Giới là trăng thanh
      xoa dịu tất cả
      vết bỏng nhiễm tâm.
      Ai người tu Giới
      thân thể rạng ngời
      như núi Tu Di
      chiếu soi khắp cả
      chín loại chúng sinh.
      Năng lực của Giới
      sẽ giúp các con
      thuần phục tất cả
      không cần thị uy.
      Chúng sinh cứng cõi
      sẽ đều qui thuận.
      Vì biết điều này
      nên các bậc Thánh
      giữ gìn giới hạnh
      quí như đôi mắt.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (17) Nhẫn là trang sức
      đẹp nhất cho người
      có nhiều quyền năng.
      Nhẫn là pháp tu
      khổ hạnh tốt nhất
      cho người thường bị
      vọng tâm tác hại;
      là cánh chim ưng
      bay vút trời cao,
      khắc tinh của rắn
      sân hận giận dữ;
      là áo giáp dày
      ngăn chận tất cả
      vũ khí thóa mạ.
      Vì biết điều này
      nên người có trí
      tu tập đủ cách
      thích ứng tâm mình
      với lớp áo giáp
      Hạnh Nhẫn tối thượng.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (18) Khoát được giáp bào
      của hạnh Tinh Tấn
      khi ấy sức học,
      tu hành, chứng ngộ
      sẽ tăng trưởng nhanh
      như vầng trăng non
      đang đến độ rằm,
      hành động nào cũng
      tràn đầy ý nghĩa
      hướng về giải thoát
      và đều mang lại
      kết quả mong cầu.
      Vì biết điều này,
      nên chư bồ tát
      cuộn sóng tinh tấn
      quét sạch hết thảy
      giải đãi biếng lười.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (19) Định là đại vương
      ngự trị tâm thức.
      Khi thâu tâm lại,
      tâm sẽ an trụ
      như núi Tu Di,
      vững không lay động.
      Khi mở tâm ra
      tâm sẽ thâu nhiếp
      toàn bộ thiện pháp.
      Định khiến thân tâm
      nhu nhuyễn bén nhạy
      hỉ lạc khinh an.
      Vì biết điều này
      nên các hành giả
      ai người khéo tu
      cũng đều dốc sức
      miên mật thiền chỉ
      cố gắng hàng phục
      kẻ thù tán tâm.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (20) Tuệ là đôi mắt
      thâm chứng tánh Không
      và là con đường
      bứng sạch toàn bộ
      gốc rễ luân hồi.
      Tuệ là tất cả
      kho tàng nhiệm màu
      mà bao kinh luận
      vẫn hằng tán dương.
      Là đèn tối thượng
      phá tan bóng tối
      cố chấp hẹp hòi.
      Vì biết điều này
      nên người có trí
      mong cầu giải thoát
      đều dốc tâm sức
      nỗ lực bước theo
      con đường tu Tuệ.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (21) Có Định thiếu Tuệ
      chẳng đủ khả năng
      chặt đứt gốc rễ
      ràng buộc luân hồi.
      Có Tuệ thiếu Định
      thì dù quán sát
      miên mật đến đâu
      cũng không thể nào
      tách lìa vọng cảnh.
      Vì vậy các bậc
      Đạo sư luôn lấy
      mắt Tuệ thâm nhập
      vào chân thực tại
      mà trụ vững vàng
      trên lưng ngựa Định,
      rồi dùng vũ khí
      cực kỳ bén nhọn
      của luận Trung Đạo,
      thoát mọi cực đoan,
      phá hủy nền tảng
      chấp thường chấp đoạn
      chấp bám cực đoan,
      nhờ vậy Không-Tuệ
      dần dần khai mở.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (22) Nhờ quen tu định
      đến khi đạt chỉ
      bấy giờ tu quán.
      Tâm càng quán chiếu
      lại càng an định
      vững vàng thấy rõ
      chân tánh thực tại.
      Vì biết điều này
      ai người tinh tấn
      phối hợp chỉ-quán
      đều thấy nhiệm mầu,
      huống gì các con!
      hãy nên mong cầu!
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (23) (Đến khi chỉ quán
      phối hợp được rồi)
      hãy nên quán chiếu
      hai loại tánh Không:
      không – tựa không gian,
      thu nhiếp tất cả
      khi nhập vào định;
      không – tựa huyễn cảnh,
      hiện ra như mộng
      khi từ trong định
      mà bước trở ra.
      Nhờ tu như vậy
      phương tiện, trí tuệ
      thuần nhất bất nhị
      nên được tán dương
      là người viên toàn
      các hạnh bồ tát.
      Vì ngộ điều này
      mà bậc thiện duyên
      không bao giờ nhận
      đường tu phân chia.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (24) – Chán khổ sinh tử,
      – phát tâm bồ đề,
      – trực chứng tánh không,
      là ba yếu tố
      căn bản cần thiết
      để bước lên hai
      cỗ xe Đại Thừa:
      là xe tu nhân
      và xe tu quả.
      Vậy khi các con
      phát huy đúng đắn
      ba điểm này rồi
      phải nên nương dựa
      vào đấng đạo sư
      đầy đủ phẩm hạnh.
      Xin thầy hộ niệm
      đưa các con vào
      (cỗ xe tu quả)
      vượt qua biển rộng
      bốn bộ Mật tông.
      Ai biết tôn kính
      noi theo lời dạy
      của đấng đạo sư
      sẽ không phí uổng
      kiếp người hiếm hoi
      đầy tự tại này.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (25) Vì để thuần dưỡng
      tâm của chính mình
      và để lợi ích
      cho kẻ thiện duyên
      (đã gặp được đấng
      Đạo sư chân chính
      và đủ khả năng
      tu tập đúng theo
      những gì thầy dạy)
      nên Thầy dùng lời
      rõ ràng dễ hiểu
      nói lại trọn vẹn
      đường tu giác ngộ
      mà mười phương Phật
      vẫn hằng hoan hỉ.
      Nguyện công đức này
      giúp cho chúng sinh,
      không bao giờ xa
      đường tu trong sáng
      chắc thật, nhiệm mầu.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      [Hết]

      Đến đây chấm dứt bài Tiểu Luận về Đường Tu Tuần Tự Giác Ngộ, soạn theo thể dạng cực ngắn, dễ nhớ khó quên. Luận giải do tỷ kheo Losang Dragpa [Lama Tông Khách Ba] soạn thảo – là hành giả đã thọ trì nhiều chánh pháp – viết tại Tu viện Ganden Nampar Gyelwa’i, trên ngọn núi Riwoch, Tây tạng.

      Nguyên bản Anh ngữ : The Short Lamrim or Lines of Experience or Songs of Spiritual Experiences. trích trong Illuminating the Path to Enlightenment, do đức Đalai Lama thuyết giảng, Thubten Dhargye Ling Archive, Long Beach, California ấn hành.




      Atisa: BỒ ĐỀ ĐẠO ĐĂNG LUẬN: Ngọn Đèn Soi Đường Giác Ngộ

      English version: A Lamp for the Path to Enlightenment << Link to Lama Yeshe Wisdom Archives >> –
      Tác Giả: Atisha Dipamkara Shri Jnana (982-1054) –
      Tựa Đề: Bồ Đề Đạo Đăng Luận (Đèn Soi Đường Giác Ngộ) – 
      Việt ngữ:  Hồng Như, ấn bản tháng 07 năm 2005.
      Hạ Tải văn bản chánh văn tại www.hongnhu.org/thu-muc/#bo-de-dao-dang-luan


      GP0010_atisa

      Con xin tán dương Bồ tát Mạn thù, tướng mạo trẻ trung.

      1. Với lòng tôn kính
      con xin tán dương
      Phật, là những đấng
      đại hùng của khắp
      mười phương ba thời;
      Pháp, là giáo pháp
      do Phật truyền lại;
      Tăng, là những vị
      bước theo Phật Pháp.
      Đáp lời thỉnh cầu
      đệ tử cao trọng
      tên Jangchub O,
      con xin thắp sáng
      ngọn đèn soi đường
      dẫn đến giác ngộ.

      2. Căn cơ người tu
      vốn có ba loại
      thấp, vừa và cao,
      Vì vậy thầy sẽ
      nói rõ căn cơ
      của từng loại người.

      3. Có người vận dụng
      đủ loại phương tiện
      để tìm cho mình
      lạc thú thế gian,
      những người như vậy
      là bậc sơ căn.

      4. Lại có người vì
      an lạc cá nhân
      mà từ bỏ hết
      lạc thú thế gian,
      hết thảy ác nghiệp,
      họ đều không làm,
      những người như vậy
      là bậc trung căn.

      5. Lại có những người
      đã từng phải chịu
      rất nhiều khổ não
      nên mang tâm nguyện
      tận diệt khổ đau
      cho mình, cho người,
      những người như vậy
      là bậc thượng căn.

      6. Vì bậc thượng căn
      hướng về thượng Pháp,
      thầy sẽ nói về
      phương tiện tuyệt hảo
      do các đạo sư
      ân cần truyền dạy.

      7. Đối trước tranh vẽ
      hay trước hình tượng
      của đấng vô thượng
      chánh đẳng chánh giác,
      đối trước bảo tháp
      và trước kinh điển,
      các con hãy tùy
      khả năng bày biện
      hương hoa cúng dường.

      8. Thành tâm hiến cúng
      Thất chi Phổ hiền
      theo hạnh nguyện vương,
      lập chí kiên quyết
      nguyện không quay lại
      nếu chưa đến được
      bến bờ nẻo giác.

      9. Lòng tin kiên định
      đặt nơi Tam bảo,
      hãy quì một chân,
      và chắp hai tay,
      đọc câu phát nguyện
      qui y ba lần.

      10. Rồi hãy để cho
      tâm Từ rộng mở,
      yêu thương hết thảy
      các loài chúng sinh.
      Nhìn rõ chúng sinh
      vướng trong khổ não,
      khổ trong ác đạo,
      khổ vì sinh tử.
      Hãy nhìn cùng khắp,
      đừng sót một ai.

      11. Vì mong chúng sinh
      thoát hết tất cả
      khổ khổ, hoại khổ
      cùng với hành khổ,
      thoát cả nguyên nhân
      tạo nên nỗi khổ,
      nên lập đại nguyện
      phát tâm bồ đề
      quyết không thoái chuyển.

      12. Phát tâm như vậy
      mang ý nghĩa gì,
      đều đã được đức
      Di lạc Từ tôn
      giải thích rõ trong
      Kinh Thân Tỏa Rộng.

      13. Nhờ đọc kinh này,
      hay nhờ nghe giảng,
      mà hiểu tường tận
      lợi ích vô lượng
      phát tâm bồ đề.
      Hiểu rồi phải gắng
      liên tục phát tâm,
      cho tâm bồ đề
      ngày thêm tỏa rạng.

      14. Trong bộ Vira-
      datta Vấn Kinh
      có giải thích về
      công đức bồ đề.
      Nay thầy nói lại
      tóm lược ý kinh.

      15. Công đức bồ đề
      nếu như có thân,
      thân ấy nhất định
      đầy ắp không gian,
      và còn tỏa rộng
      quá hơn vậy nữa.

      16. Ai mang châu báu
      lấp đầy cõi Phật
      nhiều bằng số cát
      có trong sông Hằng
      để mà hiến cúng
      chư Phật Thế tôn,

      17. thì công đức ấy
      vẫn không thể sánh
      với đôi tay chắp
      tâm hướng bồ đề,
      vì công đức này
      bao la vô tận.

      18. Tâm nguyện bồ đề
      một khi đã phát,
      phải hằng ghi nhớ
      phát triển không ngừng;
      đời này kiếp sau
      không bao giờ xa
      hạnh nguyện bồ tát.

      19. Nhưng tâm bồ đề
      sẽ không phát sinh
      nếu không dấn thân
      phát tâm thọ giới.
      Vậy con hãy gắng
      thọ giới bồ tát
      cho bồ đề tâm
      bắt rễ đâm chồi.

      20. Muốn đủ điều kiện
      thọ giới bồ tát
      thì phải thọ giữ
      một trong bảy bộ
      giới biệt giải thoát
      [ba la đề mộc xoa, praktimosha].

      21. Phật thuyết bảy bộ
      giới biệt giải thoát,
      cao nhất là giới
      dành cho tỷ kheo
      và tỷ kheo ni.

      22. Làm theo lời kinh
      Thập Địa Bồ Tát
      trong chương “Giới Luật”,
      con hãy đi tìm
      vị thầy có đủ
      khả năng truyền giới.

      23. Thầy đủ khả năng
      phải là vị thầy
      khéo biết nghi thức
      truyền giới bồ tát,
      trang nghiêm giới hạnh,
      đầy đủ tự tín
      và tâm từ bi
      truyền giới cho người.

      24. Nếu tìm không gặp
      vị thầy như vậy,
      vẫn còn một cách
      thọ giới bồ tát.

      25. Trong Kinh Trang Nghiêm
      Văn Thù Tịnh Độ
      có kể tường tận
      chuyện xưa khi ngài
      Văn thù còn là 
      Quốc vương Am-ba [Amba raja],
      đã từng phát tâm
      theo phương pháp này.
      Bây giờ thầy sẽ
      giải thích rõ ràng
      phương pháp phát tâm
      đúng theo như vậy.

      26. “Con xin đối trước
      các bậc hộ trì,
      nguyện xin phát tâm
      vô thượng bồ đề.
      Mời chúng sinh về
      chứng giám cho con.
      Nguyện sẽ quảng độ
      chúng sinh thoát khỏi
      ràng buộc luân hồi”.

      27. “Từ nay đến ngày
      con đạt giác ngộ,
      nguyện từ bỏ hết
      tâm lý ô nhiễm,
      ác ý, giận dữ
      keo bẩn, ganh ghen.

      28. “Nguyện giữ giới hạnh
      từ bỏ ác, tham,
      vui việc giữ giới
      nối gót chư Phật.

      29. “Nguyện không vì mình
      mà ham mau chóng
      thành tựu giác ngộ.
      Nguyện luôn ở lại
      làm người sau cùng.

      30. “Nguyện sẽ làm sạch
      vô lượng cõi giới,
      làm nên tịnh độ
      không thể nghĩ bàn.
      nguyện vì những ai
      gọi đến tên con,
      mà khắp mười phương
      con đều có mặt.

      31. “Nguyện làm thanh tịnh
      hết thảy ác nghiệp
      từ thân ngữ ý
      mà phát sinh ra.
      mọi việc bất thiện,
      con đều không làm.
      trang nghiêm giữ gìn
      giới hạnh bồ tát.”

      32. Lấy tâm bồ đề
      mà khéo giữ gìn
      ba loại giới luật,
      tâm sẽ kiên định
      vững tin nơi giới.
      Đây chính là nhân,
      khiến thân ngữ ý
      trở nên thanh tịnh.

      33. Bồ tát phát tâm,
      kiên trì giữ giới,
      sẽ gom đầy đủ
      tất cả tư lương
      thành tựu bồ đề.

      34. Chư Phật dạy rằng
      nhân duyên giúp ta
      gom đủ phước, tuệ,
      chính là thần thông.

      35. Tựa như chim non
      không thể cất cánh
      vút lên trời rộng;
      người thiếu thần thông
      không thể làm việc
      lợi ích chúng sinh.

      36. Chưa đạt thần thông
      dù tu trăm kiếp,
      được bao công đức
      vẫn không thể sánh
      công đức một ngày
      khi có thần thông.

      37. Ai muốn nhanh chóng
      tích lũy phước, tuệ,
      thành tựu viên mãn
      vô thượng bồ đề,
      thì đừng biếng nhác,
      siêng tu lục thông.

      38. Muốn đạt thần thông,
      tâm phải an trụ.
      Vậy phải không ngừng
      nỗ lực tu chỉ [samatha].

      39. Nhân duyên tu chỉ
      nếu chưa gom đủ
      thì dù tọa thiền
      kiên trì vạn năm
      vẫn không thể nào
      khiến tâm an trụ.

      40. Vậy phải cố gắng
      gom đủ nhân duyên
      như đã ghi trong
      Công Đức Thiền Chỉ.
      Hãy chọn đề mục
      để mà nhiếp tâm.

      41. Bao giờ đạt chỉ
      sẽ đạt thần thông.
      Nhưng nếu thiếu tuệ,
      vẫn chẳng thể nào
      tận diệt tất cả
      các loại chướng ngại.

      42. Muốn dẹp tất cả
      chướng ngại ngăn che
      giải thoát, giác ngộ,
      phải luôn tu tuệ
      phối hợp cùng với
      phương tiện thiện xảo.

      43. Tuệ thiếu phương tiện,
      phương tiện thiếu tuệ
      đều thành dây trói
      ràng buộc luân hồi.
      Vì vậy cần phải
      phối hợp cả hai.

      44. Để tan nghi vấn
      về ý nghĩa của
      trí tuệ, phương tiện,
      thầy sẽ nói rõ
      về sự khác biệt
      giữa hai điều này.

      45. Chư Phật dạy rằng
      ngoài hạnh thứ sáu
      là Tuệ Toàn Hảo,
      năm hạnh còn lại,
      kể từ hạnh Thí
      cho đến hạnh Định
      đều là phương tiện.

      46. Lấy tâm thuần thục
      phương tiện thiện xảo
      để mà tu tuệ
      sẽ chóng thành tựu
      vô thượng bồ đề;
      chứ không thể dựa
      vào quán vô ngã
      mà thành tựu được.

      47. Thấy uẩn, giới, xứ
      đều là vô sinh,
      nhờ đó chứng được
      tất cả các pháp
      đều không tự tánh:
      đó là trí tuệ.

      48. Nếu như tự tánh
      của một vật gì
      là thật sự có
      thì chính vật ấy
      vốn không làm sao
      có thể phát sinh.
      Nếu như tự tánh
      của một vật gì
      là thật sự không
      thì giống như hoa
      hiện ra giữa trời,
      vốn không có gì
      để mà nói tới.
      Cả hai điều này
      phi lý như nhau.
      Sự vật khởi sinh
      vốn không như vậy.

      49. Sự vật sinh ra
      không phải tự sinh;
      cũng không phải do
      yếu tố bên ngoài
      mà phát sinh ra;
      cũng không phải từ
      hai điều nói trên
      mà phát sinh ra;
      cũng không phải là
      không có nguyên nhân
      mà phát sinh ra.
      Sự vật sinh ra,
      vốn không tự tánh.

      50. Quán chiếu tận tường
      tất cả các pháp
      xem là đồng nhất
      hay là dị biệt,
      sẽ không thể thấy
      có một pháp nào
      hiện hữu độc lập.
      Nhờ đó thấy rõ
      các pháp hoàn toàn
      không có tự tánh.

      51. Bảy Mươi Luận Tụng
      nói về tánh Không
      hay Luận Trung Quán
      của ngài Long thọ
      đều giải thích rằng
      chân tánh các pháp
      chính là tánh Không.

      52. Biển luận văn này
      vô cùng phong phú
      thầy không thể trích
      hết cả ra đây,
      chỉ xin tóm lược
      đôi câu kết luận
      xác định tông môn,
      tiện cho các con
      thiền quán tu hành.

      53. Quán về vô ngã,
      thấy ra sự vật
      không có tự tánh:
      đó là tu tuệ.

      54. Vận dụng trí tuệ
      quán chiếu vạn pháp,
      sẽ không thể thấy
      pháp có tự tánh.
      Tương tự như vậy,
      quán chiếu trí tuệ
      sẽ thấy tuệ này
      cũng không tự tánh.
      Các con hãy gắng
      siêu việt khái niệm
      mà quán như vậy.

      55. Toàn bộ cõi sống
      do tâm khái niệm
      mà phát sinh ra,
      vì vậy cõi sống
      vốn thật chỉ là
      khái niệm phân biệt.
      Tách lìa phân biệt
      là đại niết bàn

      56. Đức Phật nói rằng
      khái niệm phân biệt
      là đại vô minh,
      ném chúng ta vào
      luân hồi sinh tử.
      Tách lìa phân biệt,
      trụ trong vô niệm,
      khi ấy cảnh giới
      siêu việt khái niệm
      tựa như không gian
      hiện ra trong sáng.

      57. Trong Đà la ni
      Nhập Tâm Vô Niệm,
      Đức Phật dạy rằng;
      “Nếu chư bồ tát
      lìa tâm phân biệt
      để mà quán chiếu
      thì dù khái niệm
      khó vượt đến đâu
      cũng sẽ từng phần
      vượt qua được cả,
      bước vào cảnh giới
      siêu việt khái niệm.

      58. Nhờ văn và tư,
      hiểu rằng các pháp
      không từng khởi sinh,
      không có tự tánh,
      khi ấy các con
      từ sự hiểu này
      tu thiền chỉ quán
      siêu việt khái niệm.

      59. Quán chiếu cảnh giới
      chân thật như vậy
      sẽ tiến từng phần
      trên đường giác ngộ
      thành tựu “nội hỏa”
      thành tựu “đại lạc”
      cùng những điều khác.
      Rồi chẳng bao lâu
      sẽ thành tựu được
      vô thượng bồ đề.

      60. Nếu muốn dễ dàng
      tích đủ phước tuệ
      thành tựu bồ đề,
      có thể nương nhờ
      năng lực minh chú,
      hành trì các pháp
      hàng phục, tăng trưởng.

      61. Đồng thời nương vào
      năng lực của tám
      thành tựu vĩ đại,
      hay thành tựu khác,
      như là “Bình Quí”,
      nếu muốn bước vào
      con đường tu Mật,
      thuận theo hành mật
      và thiện xảo mật

      62. Và nếu muốn nhận
      đại pháp quán đảnh
      Đạo sư Kim Cang,
      phải đối với Thầy
      hết lòng tận tụy,
      phụng sự, cúng dường,
      chăm chỉ làm theo
      những điều Thầy dạy.

      63. Đạo sư hoan hỉ
      ban cho đại pháp
      Quán Đảnh Đạo Sư,
      bấy giờ tất cả
      ác nghiệp chướng ngại
      đều tiêu tan cả.
      tâm sáng thanh tịnh,
      đồng vị niết bàn.

      64. Trong Đại Mật Kinh
      Đức Phật Bản Lai
      hết lòng nghiêm dạy
      các vị tỷ kheo
      và tỷ kheo ni
      giữ giới thuần tịnh
      tuyệt đối không được
      nhận hai mật pháp
      quán đảnh kín mật,
      quán đảnh trí tuệ.

      65. Là người giữ gìn
      phạm hạnh thanh tịnh
      mà nhận hai pháp
      quán đảnh nói trên
      là phá giới hạnh.

      66. Nếu như đang giữ
      phạm hạnh nghiêm mật
      mà nhận pháp này
      là phá hủy giới,
      sa đọa trầm luân
      tận cùng ác đạo,
      không thể có được
      chút thành tựu nào.

      67. Tuy vậy nếu là
      nhận pháp quán đảnh
      Đạo Sư Kim Cang
      thể hội chân như
      thì vẫn có thể
      nghe giảng mật pháp,
      hay tự mình giảng,
      thi hành nghi lễ
      thiết lập đạo tràng,
      cúng lửa, sám hối,
      mà không phạm lỗi.

      68. Thầy là trưởng tử
      Shri Dipamkara,
      đã học điều này
      từ nơi kinh luận.
      Vì lời yêu cầu
      Của Jangchub O
      mà viết ra đây
      bài giảng ngắn gọn
      vạch ra con đường
      tuần tự giác ngộ.

      Đến đây chấm dứt bài kệ Đèn Soi Đường Giác Ngộ do đại đạo sư Atisha Dipamkara Shri Jnana soạn và đích thân dịch sang Tạng ngữ với sự góp sức của vị tỷ kheo dịch giả người Tây tạng tên Geway Lodro. Bài pháp này được viết tại  tu viện Tholing ở Zhang Zhong.


      Hồng Như Thubten Munsel chuyển Việt ngữ tháng 07/2005, dựa trên bản dịch Anh ngữ của Dr. Thubten Jinpa trong Illuminating the Path (tác giả: đức Đalai Lama, xuất bản: Thubten Dhargye Ling Archive, Long Beach, California), tham khảo với bản dịch của Ruth Sonam.




      Jamgon Kongtrul đời thứ 1: GỌI THẦY TỪ CHỐN XA

      – English Title: A Prayer Calling the Lama from Afar – (Not available on this website) –
      Tựa đề tiếng Tạng: ༄༅།།བླ་མ་རྒྱང་འབོད་ཀྱི་གསོལ་འདེབས་མོས་གུས་སྙིང་གི་གཟེར་འདེབས་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ།། –
      Tác luận (Author): Jamgon Kongtrul đời thứ nhất Lodro Thayé –
      Việt ngữ: Hồng Như – Bản dịch hiệu đính tháng 7/2015.
      Điều kiện hành trì: Pháp phổ thông, mọi người đều có thể đọc tụng.

      Đọc Nguyên Văn Tiếng Tạng: << Tạng Ngữ >>

      GỌI THẦY TỪ CHỐN XA
      Nhớ Thầy Tha Thiết Tâm Can

      Nam mô Gurube. Gọi Thầy Từ Chốn Xa là bài tụng mọi người đều biết. Then chốt để thỉnh lực gia trì là tâm hướng đạo sư phát xuất từ lòng chân thành sám hối lối cũ, buông xả sinh tử luân hồi. Tâm hướng đạo sư này không chỉ là lời nói đầu môi mà phải phát xuất từ tận đáy lòng, từ trong xương tủy, với niềm tin xác quyết rằng ngoài Đạo Sư ra, vốn không có Phật nào khác. Với niềm tự tín tròn đầy như vậy, chúng con tụng rằng:

      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con. /
      Bổn sư từ hòa, xin nghĩ đến con. //

      (I.1.) Thầy là tinh túy của Phật ba thời,/
      cội nguồn chánh pháp, kinh điển, thành tựu /
      Là bậc thượng thủ Tăng đoàn tôn quí,/
      bổn sư từ hòa, xin nghĩ đến con. //

      (I.2.) Thầy là kho tàng gia trì, đại bi, /
      là cội nguồn của hai loại thành tựu, /
      Thiện hạnh của Phật, ban sự như ý, /
      bổn sư từ hòa, xin nghĩ đến con.//

      (I.3.) Thầy A Di Đà, xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con từ cõi Pháp thân, thoát mọi đối đãi /
      Chúng con là kẻ / trầm luân sinh tử / chỉ vì nghiệp ác, /
      xin Thầy cho con / vãng sinh về cõi / Cực Lạc của Thầy. //

      (I.4.) Thầy Quan Thế Âm, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cõi Báo thân / rạng ngời trong sáng /
      Quét sạch khổ đau / sáu loại chúng sanh, /
      chuyển hóa toàn bộ / ba cõi luân hồi.//

      (I.5.) Thầy Liên Hoa Sanh, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ đóa sen sáng / của Nga Yab Ling /
      Trong thời tối ám, / Thầy vì từ bi / mà mau hộ trì / cho chúng đệ tử / ở xứ Tây Tạng, / những kẻ khốn cùng / không chốn chở che.//

      (I.6.) Đức Yeshe Tsogyal /, xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ chốn đại lạc / của Đà kì ni /
      Dẫn dắt chúng con, / kẻ phạm ác nghiệp, / vượt biển luân hồi, /
      đạt đến thành trì / vĩ đại giải thoát. //

      (I.7.) Chư tổ các dòng / nhĩ truyền, tàng truyền, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cõi trí giác / hợp nhất hiện – không. /
      Phá tan ngục tối / của vọng tâm này, /
      cho rạng ánh ngày / mặt trời thành tựu.//

      (I.8.) Đấng Nhất Thiết Trí / Drime Ozer, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / ngũ quang bản nhiên
      Giúp con viên thành / hoạt dụng của tâm, / bản lai thanh tịnh, /
      Đạt bốn giai đoạn / a tì du già.//

      (I.9.) Đức A ti sa / cùng bậc trưởng tử, / không ai sánh bằng, /
      từ giữa trăm đấng / bổn tôn Đâu Xuất / mà nhìn chúng con /
      Cho trong tâm con / sinh tâm bồ đề, /
      tinh túy tánh không, / cùng tâm đại bi. //

      (I.10.) Đại thành tựu giả / Marpa, Mila, / cùng Gampopa, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / đại lạc kim cang /
      Giúp cho chúng con / đạt Đại Thủ Ấn / lạc-không hợp nhất, /
      thức tỉnh Pháp thân / ngay giữa trái tim.//

      (I.11.) Bậc ngự cõi thế, / đức Karmapa, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / chúng sinh vô biên / đều đã viên thành. /
      Giúp con chứng biết / vạn pháp như huyễn, / không chút tự tánh; /
      chính từ nơi tâm / và tướng của tâm / hiện ba thân Phật.//

      (I.12.) Chư tổ Kagyu, / bốn chánh, tám phụ / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / thanh tịnh bản nhiên. /
      Quét sạch mê lầm / ở nơi bốn cảnh, /
      cho con viên thành / kinh nghiệm, thành tựu.//

      (I.13.) Năm đấng sơ tổ / dòng tu Sakya, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cảnh bất nhị / luân hồi niết bàn /
      Giúp con hợp nhất / ba pháp thanh tịnh: / tri kiến, thiền, hành /
      Đưa chúng con vào / đường tu tối thượng / mật thừa kim cang.//

      (I.14.) Chư tổ Shangpa / Kagyu vô song, /  xin nghĩ đến con. /
      Nhìn chúng con từ / cõi Phật thanh tịnh /
      Giúp con thuần luyện / pháp tu giải thoát, /
      đưa con vào quả / hợp nhất cứu cánh / của vô học đạo./

      (I.15.) Đại thành tựu giả / Thangtong Gyalpo, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cõi đại bi / không chút dụng công /
      Giúp con đắc pháp / vô sinh cứu cánh /
      và giúp chúng con / điều phục khí tâm.//

      (I.16.) Từ phụ duy nhất, / Dampa Sangye, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / viên thành Phật hạnh /
      Cho tim chúng con / tràn lực gia trì, /
      cho điềm cát tường / tràn khắp mọi nơi. //

      (I.17.) Từ mẫu duy nhất / Labkyi Dronma, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cõi bát nhã / ba la mật đa /
      Cho con đoạn ngã, / cội của lòng kiêu, /
      thâm chứng vô ngã / bất khả tư nghì. //

      (I.18.) Đấng Nhất Thiết Trí / Dolpo Sangye, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / đủ mọi thắng tướng /
      Giúp con nhiếp khí / về nơi trung đạo, /
      và chứng đắc thân / bất hoại kim cang. //

      (I.19.) Đức Taranatha / vô vàn tôn quí, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cõi tam ấn /
      Giúp con bước qua / kim cang mật đạo / không vướng chướng ngại, /
      để rồi chứng đắc / quả thân cầu vồng. //

      (I.20.) Đức Jamyang Khyentse Wangpo, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cõi trí giác / biết đúng và khắp /
      Phá tan bóng tối / mê muội vô minh, /
      tăng nguồn ánh sáng / trí tuệ vô thượng. //

      (I.21.) Đức Osel Tulpay Dorje, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / ngũ sắc cầu vồng /
      Tịnh hết cấu nhiễm / nơi giọt, khí, tâm, /
      đưa chúng con đến / với quả giác ngộ / của thân bình trẻ. /

      (I.22.) Đức Pema Do Ngak Lingpa, / xin nghĩ đến con.  /
      Nhìn về chúng con / từ cõi bất biến / lạc-không hợp nhất /
      Cho con viên thành /
      ý thật của khắp / Phật đà bồ tát. //

      (I.23.) Đức Ngakwang Yonten Gyamtso, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / bản lai hợp nhất /
      Cho chúng con thôi / chấp bám tướng hiện, /
      thuần dưỡng khả năng / mang hết cảnh hiện / vào trong đường tu. //

      (I.24.) Bồ tát Lodro Thaye, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / đại từ đại bi /
      Cho con thấy ra / khắp cả chúng sinh / đều là mẹ hiền /
      Có đủ khả năng / từ tận đáy lòng / gánh vác chúng sinh. //

      (I.25.) Đức Pema Gargyi Wangchuk, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cõi lạc-sáng /
      Giải thoát năm độc / chuyển thành năm trí /
      Cho tâm đối đãi / chấp bám được mất / hoàn toàn tận diệt. //

      (I.26.) Đức Tenyi Yungdrung Lingpa, / xin nghĩ đến con./
      Nhìn về chúng con / từ trong cảnh giới / luân hồi niết bàn / bình đẳng như một. /
      Cho tâm hướng Thầy / chân thành nảy sinh, /
      cho con đắc quả / giác ngộ bản nhiên / và quả giải thoát. //

      (I.27.) Bổn sư từ hòa, xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ chốn đại lạc / trên đỉnh đầu con /
      Cho con nhìn thấy / gương mặt Pháp thân , / là tâm chứng tánh, /
      Ngay trong đời này / đưa chúng con vào / quả đại giác ngộ. //

      (II.1.) Than ôi!
      Chúng sinh như chúng con đây, / phạm bao ác nghiệp, /
      trôi lăn luân hồi / kể từ vô thủy /
      cho đến bây giờ / vẫn khổ triền miên, /
      vậy mà chưa từng / ăn năn sám hối. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con phát tâm chán khổ. //

      (II.2.) Thân người quí giá / nay đã đạt rồi, / sao lại lãng phí! /
      Siêng việc tào tạp, / rỗng không vô nghĩa, /
      Còn quả giải thoát / thì lại biếng lười. /
      Thật giống như người / lên đảo châu ngọc / trở về tay không. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con sống cho xứng đáng. //

      (II.3.) Thế gian này đây / có ai không chết, /
      đang biết bao người / nối gót nhau đi. /
      Chính chúng con đây, / sớm ngày cũng chết, /
      sao còn ngu xuẩn / tính việc sống đời. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con dứt lòng toan tính. //

      (II.4.) Thân nhân bằng hữu, / rồi sẽ lìa xa, /
      tài sản chắt chiu / cho người khác hưởng, /
      thân dù chăm chút, / cũng bỏ phía sau, /
      tâm phải thang lang / trong cảnh trung hữu /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con thấy đời vô nghĩa. //

      (II.5.) Trước mặt tối đen / bóng đêm kinh hãi / chực nuốt con vào /
      Sau lưng đỏ ngòm / ngọn gió nghiệp chướng / rượt cuốn con đi /
      Ngục tốt Diêm vương / dị hình dị dạng / nào đâm nào chém. /
      Rồi con phải chịu / cảnh khổ cùng tận / ác đạo luân hồi. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con thoát vực ác đạo. //

      (II.6.) Chúng con chôn dấu / ở trong tâm mình / núi cao ác nghiệp /
      Vậy mà lỗi người / nhỏ như hạt mè / vẫn lớn tiếng chê. /
      Mảy may thiện đức / con đều không có, / chỉ giỏi khoe khoang. /
      Mang tiếng là tu, / nhưng chỉ tu toàn / điều trái chánh pháp. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, / đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con lìa tâm ngã mạn cùng tâm ngã ái. //

      (II.7.) Dấu ở bên trong / quỉ dữ ngã chấp / chỉ để đọa rơi. /
      Niệm nào cũng khiến / cho phiền não tăng. /
      Việc nào cũng gieo / toàn quả bất thiện. /
      Tâm chưa từng biết / hướng về giải thoát. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con đoạn tâm ngã chấp. //

      (II.8.) Được chút tiếng khen / là lòng rộn vui; /
      nghe chút lời chê, / lòng tê tái buồn. /
      Chạm lời thô ác, / áo giáp kham nhẫn / đã vội vất đi. /
      Thấy kẻ khốn cùng, / lòng không thương xót. /
      Gặp dịp bố thí, / bó chặt lòng tham. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con trú ở chánh pháp. //

      (II.9.) Thấy cảnh luân hồi / con lại tưởng vui./
      Tri kiến vô thượng / con vì áo cơm / mà từ bỏ hết. /
      Việc gì cũng có, / con vẫn muốn thêm. /
      Mê lầm chạy theo / cảnh huyễn không thật. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con dứt tâm mê đắm nơi chuyện đời này. //

      (II.10.) Chút khổ thân tâm / đều không kham nổi, /
      cớ sao ác đạo / lại không ngần ngại / mù quáng xông vào? /
      Dù biết nhân quả / nhất định không sai, /
      vẫn không làm thiện, / lại tăng điều ác. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con thâm tín nhân quả. //

      (II.11.) Con ghét kẻ thù, / luyến tham bằng hữu, /
      lạc trong bóng tối / mê muội vô minh, / không biết điều gì / cần theo cần bỏ. /
      Ngồi tu thì tâm / mê mờ trì trệ, / dứt tu tâm lại / sáng suốt thông minh. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con hàng phục kẻ thù nhiễm tâm phiền não. //

      (II.12.) Nhìn tướng bên ngoài / thấy giống người tu, /
      sao tâm bên trong / không thuận chánh pháp /
      Dấu diếm phiền não / như nuôi rắn độc, /
      khi gặp nghịch cảnh / phơi bày tánh xấu / của người vụng tu. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con hàng phục tâm này. //

      (II.13.) Chúng con không biết / tự xét lỗi mình. /
      Khoác áo hành giả, / nhưng lại đeo đuổi / toàn những mục tiêu / không thuận chánh pháp. /
      Tâm đã quen trong / phiền não bất thiện. /
      Thiện tâm thoạt hiện / là đoạn lìa ngay. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con biết thấy lỗi mình. //

      (II.14.) Theo từng ngày qua / thêm gần cõi chết. /
      Theo từng ngày đến / tâm càng khô khan. /
      Phụng sự đạo sư / mà tâm-hướng-Thầy / ngày thêm mờ nhạt./
      Tấm lòng yêu quí / dành cho đồng đạo, / càng lúc càng tan. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, / đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con luyện tâm khó luyện. //

      (II.15.) Chúng con qui y, / phát tâm bồ đề, / thỉnh cầu rộng rãi, /
      nhưng tâm đại bi / và tâm hướng Thầy / vẫn chưa phát khởi. /
      Phật sự, công phu, / chỉ giỏi đầu môi. /
      Thành tựu đủ điều, / sao chẳng có gì / khiến tâm rung động. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con,
      giữ gìn sao cho mọi việc con làm đều thuận chánh pháp. //

      (II.16.) Chúng con vẫn biết / khổ đau đến từ / thủ lợi riêng mình; /
      giác ngộ bồ đề / có được là nhờ / tâm muốn lợi người./
      Nay đã phát tâm, / nhưng vẫn kín đáo / nuông chiều ái ngã. /
      Đã không lợi tha, / lại còn vô tình / nhiễu hại chúng sinh. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con có đủ khả năng hoán chuyển ngã tha. //

      (II.17.) Thầy chính là Phật / nhưng con lại thấy / Thầy là kẻ phàm. /
      Quên ơn đạo sư / từ bi cho pháp. /
      Muốn mà không được / là lòng không vui. /
      Nhìn việc Thầy làm / xuyên qua bức màn / hoài nghi ác kiến. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con tăng lòng kính ngưỡng. //

      (II.18.) Tâm con là Phật / mà con không biết. /
      Niệm là pháp thân, / con cũng chẳng hay. /
      Chân tánh tự nhiên / lại không giữ được. /
      Thật tánh của tâm / luôn tự an trú, / cũng chẳng hề tin. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con giải thoát tâm mình vào trong trú xứ. //

      (II.19.) Cái chết là điều / chắc chắn sẽ đến / lại không thể nhớ. /
      Chánh pháp là điều / chắc chắn lợi ích / lại không thể tu. /
      Nghiệp và nhân quả, / chắc chắn không sai, / lại không thể chọn / điều cần lấy, bỏ. / Chánh niệm tỉnh giác / chắc chắn cần thiết / lại không thể giữ, / để tâm tán loạn. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, / đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con trú trong chánh niệm, thoát mọi tán tâm. //

      (II.20.) Vì ác nghiệp cũ / nên nay con phải / sinh thời mạt pháp./
      Nghiệp cũ chỉ toàn / gieo nhân khổ đau. /
      Bạn xấu rợp đầy / bóng tối bất thiện. /
      Được chút thiện hạnh, / là thói ngồi lê / làm cho hư hết./
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con ấp ủ chánh pháp nơi tận đáy tim. //

      (II.21.) Lúc đầu tâm con / toàn là chánh pháp, /
      sao rồi rốt lại / chỉ gieo toàn nhân / sinh tử, ác đạo. /
      Hoa mầu giải thoát / bị băng ác hạnh / phá hủy cả đi. /
      Thành loài cặn bã, / đánh mất tất cả / mục tiêu cứu cánh. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con viên thành chánh pháp. //

      (II.22.) Giữ gìn cho con sám hối thành tâm. /
      Giữ gìn cho con dứt lòng toan tính. /
      Giữ gìn cho con nhớ chết trong tim. /
      Giữ gìn cho con thâm tín nhân quả /

      (II.23.) Giữ cho đường tu thoát mọi ác chướng. /
      Cho con tinh tấn tu tập hành trì. //
      Giữ cho nghịch cảnh chuyển thành đường tu. /
      Cho pháp đối trị đều luôn hữu hiệu /
      Cho tâm hướng Thầy chân thành nảy sinh. /
      Cho con chứng được diện mục chân tánh. //
      Đánh thức bản giác ngay giữa trái tim. /
      Đoạn lìa tất cả mọi tướng hư vọng /
      Con thành chánh quả ngay kiếp hiện tiền.//

      (II.24.) Con khẩn xin Thầy, đạo sư trân quí, vô vàn từ hòa, ngự cõi chánh pháp, /
      con hướng về Thầy thiết tha khẩn nguyện. /
      Chúng con là kẻ khốn khổ bất hạnh, được Thầy là nguồn hy vọng duy nhất /
      Xin Thầy gia trì / tâm Thầy, tâm con / hòa vào trong nhau./.


      Trước đây có một vài tăng sĩ đã nhờ tôi viết ra bài tụng như thế này, thế nhưng thời gian như bóng câu. Gần đây có vị nữ thí chủ Samdrub Dronma, là hành giả thuộc gia đình quí tộc, và Deva Rakshita đã thiết tha thỉnh cầu, do đó mà tôi, Lodro Thaye, kẻ sống thời mạt pháp, chỉ là hình bóng mờ nhạt của bậc đạo sư, đã soạn tác bài tụng này ở chốn già lam tên gọi Dzongsho Deshek Dupa. Nguyện thiện đức tăng trưởng.


      Mọi sai sót là của người dịch
      mọi công đức xin hồi hướng vô thượng bồ đề



      ༄༅།།བླ་མ་རྒྱང་འབོད་ཀྱི་གསོལ་འདེབས་མོས་གུས་སྙིང་གི་གཟེར་འདེབས་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ།།
      ན་མོ་གུ་རུ་བེ། བླ་མ་རྒྱང་འབོད་ཀུན་ལ་གྲགས་ཆེའང་། བྱིན་བརླབས་བསྐུལ་བའི་གནད་སྐྱོ་ཤས་དང་ངེས་འབྱུང་གིས་བསྐུལ་བའི་མོས་གུས་ཁ་ཙམ་ཚིག་ཙམ་མ་ཡིན་པར་སྙིང་གི་དཀྱིལ། རུས་པའི་གཏིང་ནས་བསྐྱེད། བླ་མ་ལས་ལྷག་པའི་སངས་རྒྱས་གཞན་ན་མེད་པར་ཐག་ཆོད་པའི་ངེས་ཤེས་དང་ལྡན་པས་དབྱངས་རྟ་སྙན་པོས།།

      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ། དྲིན་ཅན་རྩ་བའི་བླ་མ་མཁྱེན་ནོ།།
      དུས་གསུམ་སངས་རྒྱས་ཀྱི་ངོ་བོ།།
      ལུང་རྟོག་དམ་ཆོས་ཀྱི་འབྱུང་གནས།།
      འཕགས་ཚོགས་དགེ་འདུན་གྱི་མངའ་བདག།
      རྩ་བའི་བླ་མ་ཁྱེད་མཁྱེན་ནོ།`

      བྱིན་རླབས་ཐུགས་རྗེ་ཡི་གཏེར་ཆེན།།
      དངོས་གྲུབ་རྣམ་གཉིས་ཀྱི་འབྱུང་གནས།།
      ཕྲིན་ལས་ཅི་འདོད་ཀུན་སྩོལ་མཛད།།
      རྩ་བའི་བླ་མ་ཁྱེད་མཁྱེན་ནོ།།

      བླ་མ་འོད་དཔག་མེད་པ་མཁྱེན་ནོ།།
      སྤྲོས་བྲལ་ཆོས་སྐུའི་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      བདག་སོགས་ལས་ངན་འཁོར་བར་འཁྱམས་རྣམས།།
      བདེ་ཆེན་དག་པའི་ཞིང་དུ་དྲོངས་མཛོད།།

      བླ་མ་སྤྱན་རས་གཟིགས་དབང་མཁྱེན་ནོ།།
      འོད་གསལ་ལོངས་སྐུའི་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      རིགས་དྲུག་སྡུག་བསྔལ་རྩད་ནས་ཞི་ཞིང་།།
      ཁམས་གསུམ་འཁོར་བ་དོང་ནས་སྤྲུགས་མཛོད།།

      བླ་མ་པདྨ་འབྱུང་གནས་མཁྱེན་ནོ།།
      རྔ་ཡབ་པདྨ་འོད་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      སྙིགས་དུས་སྐྱབས་མེད་བོད་འབངས་ཉམ་ཐག
      །ཐུགས་རྗེས་མྱུར་བ་ཉིད་དུ་སྐྱོབས་མཛོད།

      བླ་མ་ཡེ་ཤེས་མཚོ་རྒྱལ་མཁྱེན་ནོ།།
      མཁའ་སྤྱོད་བདེ་ཆེན་གྲོང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      སྡིག་ལྡན་བདག་སོགས་སྲིད་པའི་མཚོ་ལས།།
      ཐར་པའི་གྲོང་ཁྱེར་ཆེན་པོ་གྲོལ་མཛོད།།

      བཀའ་གཏེར་བརྒྱུད་པའི་བླ་མ་མཁྱེན་ནོ།།
      ཟུང་འཇུག་ཡེ་ཤེས་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      བདག་རྒྱུད་འཁྲུལ་པའི་མུན་ཁང་བརྟོལ་ནས།།
      རྟོག་པའི་ཉི་མ་ཤར་བར་མཛོད་ཅིག།

      ཀུན་མཁྱེན་དྲི་མེད་འོད་ཟེར་མཁྱེན་ནོ།།
      ལྷུན་འགྲུབ་འོད་ལྔའི་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      ཀ་དག་དགོངས་པའི་རྩལ་ཆེན་རྫོགས་ནས།།
      སྣང་བཞི་མཐའ་རུ་ཕྱིན་པར་མཛོད་ཅིག།

      །མཉམ་མེད་ཇོ་བོ་ཡབ་སྲས་མཁྱེན་ནོ།།
      དགའ་ལྡན་ལྷ་བརྒྱའི་དབུས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      སྟོང་ཉིད་སྙིང་རྗེའི་སྙིང་པོ་ཅན་གྱི།།
      བྱང་སེམས་རྒྱུད་ལ་སྐྱེ་བར་མཛོད་ཅིག།

      གྲུབ་མཆོག་མར་མི་དྭག་གསུམ་མཁྱེན་ནོ།།
      བདེ་ཆེན་རྡོ་རྗེའི་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག
      །བདེ་སྟོང་ཕྱག་ཆེན་མཆོག་དངོས་གྲུབ་ཅིང་།།
      ཆོས་སྐུ་སྙིང་དབུས་སད་པར་མཛོད་ཅིག།

      །འཇིག་རྟེན་དབང་ཕྱུག་ཀརྨ་པ་མཁྱེན་ནོ།།
      མཁའ་ཁྱབ་འགྲོ་འདུལ་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      ཆོས་ཀུན་བདེན་མེད་སྒྱུ་མར་རྟོགས་ནས།།
      སྣང་སེམས་སྐུ་གསུམ་འཆར་བར་མཛོད་ཅིག།

      བཀའ་བརྒྱུད་ཆེ་བཞི་ཆུང་བརྒྱད་མཁྱེན་ནོ།།
      རང་སྣང་དག་པའི་ཞིང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      གནས་སྐབས་བཞི་ཡི་འཁྲུལ་པ་སང་ནས།།
      ཉམས་རྟོགས་མཐའ་རུ་ཕྱིན་པར་མཛོད་ཅིག།

      །རྗེ་བཙུན་གོང་མ་རྣམ་ལྔ་མཁྱེན་ནོ།།
      འཁོར་འདས་དབྱེར་མེད་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      རྣམ་དག་ལྟ་སྒོམ་སྤྱོད་གསུམ་འབྲེལ་ནས།།
      གསང་བའི་ལམ་མཆོག་བགྲོད་པར་མཛོད་ཅིག།

      མཉམ་མེད་ཤང་པ་བཀའ་བརྒྱུད་མཁྱེན་ནོ།།
      རྣམ་དག་སངས་རྒྱས་ཞིང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      ཐབས་གྲོལ་ཉམས་ལེན་ཚུལ་བཞིན་འབྱོངས་ནས།།
      མི་སློབ་ཟུང་འཇུག་བརྙེས་པར་མཛོད་ཅིག།

      གྲུབ་ཆེན་ཐང་སྟོང་རྒྱལ་པོ་མཁྱེན་ནོ།།
      རྩོལ་མེད་ཐུགས་རྗེས་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      བདེན་མེད་རྟོགས་པའི་བརྟུལ་ཞུགས་གྲུབ་ནས།།
      རླུང་སེམས་རང་དབང་འདུ་བར་མཛོད་ཅིག།

      ཕ་གཅིག་དམ་པ་སངས་རྒྱས་མཁྱེན་ནོ།།
      ལས་རབ་གྲུབ་པའི་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      བརྒྱུད་པའི་བྱིན་རླབས་སྙིང་ལ་ཞུགས་ནས།།
      རྟེན་འབྲེལ་ཕྱོགས་མེད་འཆར་བར་མཛོད་ཅིག།

      །མ་ཅིག་ལབ་ཀྱི་སྒྲོན་མ་མཁྱེན་ནོ།།
      ཤེས་རབ་ཕར་ཕྱིན་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      བདག་འཛིན་སྙེམས་བྱེད་རྩད་ནས་ཆོད་ཅིང་།།
      བདག་མེད་སྤྲོས་བྲལ་བདེན་མཐོང་མཛོད་ཅིག།

      ཀུན་མཁྱེན་དོལ་པོ་སངས་རྒྱས་མཁྱེན་ནོ།།
      རྣམ་ཀུན་མཆོག་ལྡན་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      འཕོ་བའི་དབུགས་རྣམས་དབུ་མར་འགགས་ནས།།
      འཕོ་བྲལ་རྡོ་རྗེའི་སྐུ་ཐོབ་མཛོད་ཅིག།

      །རྗེ་བཙུན་ཏཱ་ར་ན་ཐ་མཁྱེན་ནོ།།
      རྣམ་གསུམ་ཕོ་ཉའི་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      རྡོ་རྗེའི་གསང་ལམ་གེགས་མེད་བགྲོད་ནས།།
      འཇའ་ལུས་མཁའ་སྤྱོད་འགྲུབ་པར་མཛོད་ཅིག།

      འཇམ་དབྱངས་མཁྱེན་རྩེ་དབང་པོ་མཁྱེན་ནོ།།
      མཁྱེན་གཉིས་ཡེ་ཤེས་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      མི་ཤེས་བློ་ཡི་མུན་པ་སངས་ནས།།
      མཁྱེན་རབ་སྣང་བ་རྒྱས་པར་མཛོད་ཅིག།

      །འོད་གསལ་སྤྲུལ་པའི་རྡོ་རྗེ་མཁྱེན་ནོ།།
      འཇའ་ཟེར་འོད་ལྔའི་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      ཐིག་རླུང་སེམས་ཀྱི་དྲི་མ་དག་ནས།།
      གཞོན་ནུ་བུམ་སྐུར་བྱང་ཆུབ་མཛོད་ཅིག།

      པདྨ་མདོ་སྔགས་གླིང་པ་མཁྱེན་ནོ།།
      བདེ་སྟོང་འགྱུར་མེད་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      རྒྱལ་དང་རྒྱལ་སྲས་དགོང་པ་མཐའ་དག
      །བདག་གི་ཡོངས་སུ་སྐོང་ནུས་མཛོད་ཅིག།

      །ངག་དབང་ཡོན་ཏན་རྒྱ་མཚོ་མཁྱེན་ནོ།།
      དབྱིངས་ཡེ་ཟུང་འཇུག་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      སྣང་བའི་བདེན་འཛིན་ཧྲུལ་གྱིས་ཞིག་ནས།།
      གང་བྱུང་ལམ་དུ་འཁྱེར་ནུས་མཛོད་ཅིག།

      རྒྱལ་སྲས་བློ་གྲོས་མཐའ་ཡས་མཁྱེན་ནོ།
      བྱམས་དང་སྙིང་རྗེའི་ངང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      འགྲོ་ཀུན་དྲིན་ཅན་ཕ་མར་ཤེས་ནས།།
      གཞན་ཕན་སྙིང་ནས་སྒྲུབ་ནུས་མཛོད་ཅིག།

      །པདྨ་གར་གྱི་དབང་ཕྱུག་མཁྱེན་ནོ།།
      བདེ་ཆེན་འོད་གསལ་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      དུག་ལྔ་ཡེ་ཤེས་ལྔ་རུ་གྲོལ་ནས།།
      སྤང་ཐོབ་གཉིས་འཛིན་ཞིག་པར་མཛོད་ཅིག།

      བསྟན་གཉིས་གཡུང་དྲུང་གླིང་པ་མཁྱེན་ནོ།།
      སྲིད་ཞི་མཉམ་ཉིད་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      མོས་གུས་རྣལ་མ་རྒྱུད་ལ་སྐྱེས་ནས།།
      རྟོགས་གྲོལ་དུས་མཉམ་ཆེན་པོར་མཛོད་ཅིག།

      །དྲིན་ཅན་རྩ་བའི་བླ་མ་མཁྱེན་ནོ།།
      སྤྱི་གཙུག་བདེ་ཆེན་གནས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      རང་རིག་ཆོས་སྐུའི་རང་ཞལ་མཇལ་ནས།།
      ཚེ་ཅིག་སངས་རྒྱས་འགྲུབ་ནུས་མཛོད་ཅིག།

      ༈  ཀྱེ་མ།།
      བདག་འདྲའི་སེམས་ཅན་ལས་ངན་སྡིག་ཏོ་ཅན།།
      ཐོག་མེད་དུས་ནས་འཁོར་བར་ཡུན་རིང་འཁྱམས།།
      ད་དུང་སྡུག་བསྔལ་མཐའ་མེད་མྱོང་འགྱུར་བས།།
      སྐྱོ་ཤས་སྐད་ཅིག་ཙམ་ཡང་མ་སྐྱེས་པས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ངེས་འབྱུང་གཏིང་ནས་སྐྱེ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      །དལ་འབྱོར་ཐོབ་ཀྱང་མི་ཚེ་སྟོང་ཟད་མཁན།།
      དོན་མེད་ཚེ་འདིར་བྱ་བས་རྟག་ཏུ་གཡེང་།།
      དོན་ཆེན་ཐར་པ་སྒྲུབ་ལ་ལེ་ལོས་ཁྱེར།།
      ནོར་བུའི་གླིང་ནས་ལག་སྟོང་ལོག་གྱུར་པས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      མི་ལུས་དོན་ལྡན་འགྲུབ་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      མ་ཤི་ས་སྟེང་ལུས་པ་གཅིག་ཀྱང་མེད།།
      ད་ལྟ་གཅིག་རྗེའི་གཉིས་མཐུད་ཕ་རོལ་འགྲོ།།
      རང་ཡང་མྱུར་བ་ཉིད་དུ་འཆི་དགོས་ཀྱང་།།
      ཡུན་རིང་སྡོད་གྲབས་བྱེད་པའི་སྙིང་རུལ་པོ།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ལོང་མེད་བློ་སྣ་ཐུང་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      སྙིང་དུ་སྡུག་པའི་མཛའ་བཤེས་སོ་སོར་བྲལ།།
      སེར་སྣས་བསག་པའི་ནོར་རྫས་གཞན་གྱིས་སྤྱོད།།
      གཅེས་པའི་ལུས་ཀྱང་ཤུལ་དུ་བོར་ནས་སུ།།
      རྣམ་ཤེས་བར་དོ་གཏོལ་མེད་འཁོར་བར་འཁྱམས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ཅིས་ཀྱང་དགོས་མེད་རྟོགས་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      འཇིག་པའི་མུན་པ་ནག་པོས་སྔོན་ནས་བསུ།།
      ལས་ཀྱི་རླུང་དམར་དྲག་པོས་རྒྱབ་ནས་དེད།།
      མི་སྡུག་གཤེན་རྗེའི་ཕོ་ཉས་བརྡེག་ཅིང་བཙོག།
      བཟོད་དཀའ་ངན་འགྲོའི་སྡུག་བསྔལ་མྱོང་དགོས་ན།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ངན་སོང་གཡང་ལས་ཐར་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      རང་སྐྱོན་རི་བོ་ཙམ་ཡང་ཁོང་དུ་སྦས།།
      གཞན་སྐྱོན་ཏིལ་འབྲུ་ཙམ་ཡང་སྒྲོག་ཅིང་སྨོད།།
      ཡོན་ཏན་ཅུང་ཟད་མེད་ཀྱང་བཟང་པོར་རློམ།།
      ཆོས་པའི་མིང་བཏགས་ཆོས་མིན་ཁོ་ནར་སྤྱོད།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      རང་འདོད་ང་རྒྱལ་ཞི་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      གཏན་ཕུང་བདག་འཛིན་འགོང་པོ་ཁོང་དུ་བཅུག
      །བསམ་ཚད་ཐམས་ཅད་ཉོན་མོངས་འཕེལ་བའི་རྒྱུ།།
      བྱས་ཚད་ཐམས་ཅད་མི་དགེའི་འབྲས་བུ་ཅན།
      ཐར་པའི་ལམ་དུ་ཕྱོགས་ཙམ་མ་ཕྱིན་པས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ངར་འཛིན་རྩད་ནས་ཆོད་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      བསྟོད་སྨད་ཙམ་ལ་དགའ་དང་མི་དགའ་སྐྱེ།།
      ཚིག་ངན་ཙམ་ལ་བཟོད་པའི་གོ་ཆ་ཤོར།།
      ཉམ་ཐག་མཐོང་ཡང་སྙིང་རྗེའི་སེམས་མི་སྐྱེ།།
      སྦྱིན་ཡུལ་བྱུང་དུས་སེར་སྣའི་མདུད་པས་བཅིང་།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      སེམས་རྒྱུད་ཆོས་དང་འདྲེས་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      འཁོར་བ་སྙིང་པོ་མེད་ལ་སྙིང་པོ་བཟུང་།།
      ལྟོ་གོས་ཕྱིར་དུ་གཏན་འདུན་ལིང་གིས་བོར།།
      མཁོ་རྒུ་ཚང་ཡང་དགོས་དགོས་ཕྱིར་ཕྱིར་མང་།།
      མི་བདེན་སྒྱུ་མའི་ཆོས་ཀྱིས་རང་སེམས་བསླུས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ཚེ་འདི་བློ་ཡིས་ཐོང་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      ལུས་སེམས་སྡུག་བསྔལ་ཕྲ་མོའང་མི་བཟོད་ཀྱང་།།
      ངན་འགྲོར་འགྲོ་ལ་མི་འཚེར་སྙིང་རྡོས་ཅན།།
      རྒྱུ་འབྲས་བསླུ་མེད་མངོན་སུམ་མཐོང་བཞིན་དུ།།
      དགེ་བ་མི་འགྲུབ་སྡིག་པའི་ཡོ་ལང་འཕེལ།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ལས་ལ་ཡིད་ཆེས་སྐྱེ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      དགྲ་ལ་སྡང་སེམས་གཉེན་ལ་ཆགས་སེམས་སྐྱེ།།
      བླང་དོར་གནས་ལ་གཏི་མུག་མུན་ལྟར་འཐོམ།།
      ཆོས་བཞིན་སྤྱོད་ཚེ་བྱིང་རྨུགས་གཉིད་དབང་ཤོར།།
      ཆོས་མིན་སྤྱོད་ཚེ་དབང་པོ་གསལ་ཅིང་གྲུང་།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ཉོན་མོངས་དགྲ་བོ་ཆོམ་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      ཕྱི་ནས་བལྟས་ན་ཡང་དག་ཆོས་པའི་གཟུགས།།
      ནང་དུ་རང་སེམས་ཆོས་དང་མ་འདྲེས་པས།།
      སྦྲུལ་གདུག་བཞིན་དུ་ཉོན་མོངས་ཁོང་ན་སྦས།།
      རྐྱེན་དང་འཕྲད་ཚེ་ཆོས་པའི་མཚང་རྟགས་སྟོན།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      རང་རྒྱུད་རང་གི་ཐུལ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      རང་སྐྱོན་ངན་པ་རང་གིས་མ་རྟོགས་པས།།
      ཆོས་པའི་གཟུགས་བཟུང་ཆོས་མིན་སྣ་ཚོགས་སྤྱོད།།
      ཉོན་མོངས་མི་དགེའི་ལས་ལ་ཤུགས་ཀྱིས་གོམས།།
      དགེ་བློ་ཡང་ཡང་སྐྱེས་ཀྱང་ཡང་ཡང་ཆད།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      རང་སྐྱོན་རང་གིས་མཐོང་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།

      །ཞག་རེ་སོང་བཞིན་འཆི་ལ་ཕར་ཕར་ཉེ།།
      ཉིན་རེ་ལོན་བཞིན་རང་རྒྱུད་ཕྱིར་ཕྱིར་གྱོང་།།
      བླ་མ་བསྟེན་བཞིན་མོས་གུས་རིམ་གྱིས་འགྲིབ།།
      མཆེད་ལ་བརྩེ་གདུང་དག་སྣང་ཇེ་ཆུང་སོང་།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      རྨུ་རྒོད་རང་རྒྱུད་ཐུལ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      སྐྱབས་འགྲོ་སེམས་བསྐྱེད་གསོལ་འདེབས་བྱས་ན་ཡང་།།
      མོས་གུས་སྙིང་རྗེ་གཏིང་ནས་མ་སྐྱེས་པས།།
      ཚིག་ཙམ་དབང་གྱུར་ཆོས་སྤྱོད་དགེ་སྦྱོར་རྣམས།།
      བྱས་ལོ་ཙམ་ལས་རྒྱུད་ཐོག་མ་ཁེལ་བས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ཅི་བྱས་ཆོས་སུ་འགྲོ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      བདག་བདེ་འདོད་ལས་སྡུག་བསྔལ་ཐམས་ཅད་འབྱུང་། །
      གཞན་ཕན་སེམས་ཀྱིས་སངས་རྒྱས་འགྲུབ་གསུངས་ཀྱང་། །
      སེམས་མཆོག་བསྐྱེད་ཅིང་རང་འདོད་ཕུག་ཏུ་བཅུག །
      གཞན་ཕན་ལྟ་ཅི་གཞན་གནོད་ཞོར་ལ་སྒྲུབ། །
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས། །
      བདག་གཞན་བརྗེ་བར་ནུས་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      སངས་རྒྱས་དངོས་སྣང་བླ་མ་མི་རུ་བཟུང་།།
      གདམས་ཟབ་སྟོན་པའི་བཀའ་དྲིན་ངང་གིས་བརྗེད།།
      རང་འདོད་མ་བྱུང་ཚེ་ན་ཡི་ཆད་བསྒོམས།།
      མཛད་སྤྱོད་རྣམས་ལ་ཐེ་ཚོམ་ལོག་ལྟས་སྒྲིབ།།
      །བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      མོས་གུས་འགྲིབ་མེད་འཕེལ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      རང་སེམས་སངས་རྒྱས་ཡིན་ཀྱང་ངོ་མ་ཤེས།།
      རྣམ་རྟོག་ཆོས་སྐུ་ཡིན་ཀྱང་དོན་མ་རྟོགས།།
      མ་བཅོས་གཉུག་མ་ཡིན་ཀྱང་སྐྱོང་མ་ནུས།།
      རང་བབས་གནས་ལུགས་ཡིན་ཀྱང་ཡིད་མ་ཆེས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      རང་རིག་རང་སར་གྲོལ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      ཡོང་ངེས་འཆི་བ་སྙིང་ནས་དྲན་མ་ཐུབ།།
      ཕན་ངེས་དམ་ཆོས་ཚུལ་བཞིན་སྒྲུབ་མ་ནུས།།
      བདེན་ངེས་ལས་འབྲས་བླང་དོར་ཚུལ་བཞིན་མེད།།
      དགོས་ངེས་དྲན་ཤེས་མ་བསྟེན་གཡེང་བས་ཁྱེར།།
      །བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ཡེངས་མེད་དྲན་པས་ཟིན་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      སྔོན་ལས་ངན་པས་སྙིགས་མི་དུས་མཐར་སྐྱེས།།
      སྔར་བྱས་ཐམས་ཅད་སྡུག་བསྔལ་རྒྱུ་རུ་སོང་།།
      གྲོགས་ངན་རྣམས་ཀྱིས་སྡིག་པའི་གྲིབ་མས་གཡོགས།།
      དོན་མེད་གླིང་མོས་དགེ་སྦྱོར་གཡེང་བས་ཁྱེར།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ཆོས་ལ་སྙིང་རུས་ནུས་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      དང་པོ་བསམ་རྒྱུ་ཆོས་ལས་མེད་པ་ལ།།
      ཐ་མ་གྲུབ་འབྲས་འཁོར་བ་ངན་སོང་རྒྱུ།།
      ཐར་པའི་ལོ་ཏོག་མི་དགེའི་སད་ཀྱིས་བཅོམ།།
      གཏན་འདུན་ཉེས་པའི་རྨུ་རྒོད་བདག་འདྲ་རྣམས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      དམ་ཆོས་མཐའ་རུ་ཕྱིན་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      སྐྱོ་ཤས་གཏིང་ནས་སྐྱེ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      ལོང་མེད་བློ་སྣ་ཐུང་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      འཆི་བ་སྙིང་ནས་དྲན་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      ལས་ལ་ཡིད་ཆེས་སྐྱེ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      ལམ་ལ་བར་ཆད་མེད་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      སྒྲུབ་ལ་རྩོན་འགྲུས་ནུས་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      རྐྱེན་ངན་ལམ་དུ་ལོང་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      གཉེན་པོ་རང་ཚུགས་ཐུབ་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      བཅོས་མིན་མོས་གུས་སྐྱེ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      གནས་ལུག་རང་ཞལ་འཇལ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།

      རང་རིག་སྙིང་དབུས་སད་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      འཁྲུལ་སྣང་གཞི་རྩ་ཆོད་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      ཚེ་ཅིག་སངས་རྒྱས་འགྲུབ་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།

      །གསོལ་བ་འདེབས་སོ་བླ་མ་རིན་པོ་ཆེ།།
      གདུང་བས་འབོད་དོ་དྲིན་ཅན་ཆོས་ཀྱི་རྗེ།།
      སྐལ་མེད་བདག་ལ་རེ་ས་ཁྱེད་ལས་མེད།།
      ཐུགས་ཡིད་དབྱེར་མེད་འདྲེས་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      ཚུལ་འདིར་མོས་ལྡན་དགེ་སྦྱོང་འགའ་ཞིག་གིས་སྔར་སོར་ནས་བསྐུལ་ཡང་རིམ་ལུས་སུ་གྱུར་པ་ཉེ་ཆར་རིགས་ལྡན་ཆོས་མཛད་མ་བསམ་འགྲུབ་སྒྲོན་མ་དངདེ་བ་རཀྵི་ཏ་ཟུང་གིས་བསྐུལ་ངོར་སྙིགས་དུས་བླ་མའི་གཟུགས་བརྙན་འཛིན་པ་བློ་གྲོས་མཐའ་ཡས་ཀྱིས་རྫོང་ཤོད་བདེ་གཤེགས་འདུས་པའི་སྒྲུབས་གནས་ཆེན་པོར་བགྱི་པ་དགེ་ལེགས་འཕེལ།།  །།




      Lama Zopa Rinpoche Teachings – 14/06/2015 (text – English)

      Date: 14 June 2015
      Location: Vajrayana Institute – Sydney – Australia
      Topic: Joy of Compassion
      Type of Material: Unedited Transcript
      Language: English only

       


      image

      Joy of Compassion

      With Lama Zopa Rinpoche

      [There are two versions of the prayer book in use. Look for the title if the page no. does not make sense.]

      Praise to Shakyamuni Buddha, p. 3 or 6

      To not commit any unwholesome actions. To create wholesome actions. To subdue the mind. This is the teaching of the Buddha. This is the condensed teachings of the Four Noble Truths.

      Buddha does not have death. He is an Arhat, who is free from samsara. The cause of samsara, delusions and karma, …

      Even the subtle obscurations, the knowledge obscurations, have been purified. There is no way for Buddha to experience death.

      He passed away to show us that life is impermanent. The nature of our life is impermanent. If we are not freed from the causes of suffering, delusions and karma, then we would experience death. If we are freed by actualizing the four Noble Truths, by being free from delusions, we would not experience death. That’s how we can purify death, old age, sickness, etc.

      We achieve the ultimate happiness, blissful state of peace, everlasting happiness. This is a mere cessation of the disturbing thoughts, obscurations. The gross obscurations. Buddha showed one of the 12 deeds, the passing away, showing us that life is impermanent, we are sure to die.

      As I mentioned yesterday, body and mind, mind continues, the continuation of the mind has no beginning and no end. Even when we become enlightened or still in samsara, it is endless. There is no third alternative. You can get reborn in lower realms if negative karma is more powerful. Or else, if virtue is stronger, then you get reborn in higher realms. Pure land, devas or human realms.

      We want only happiness, we don’t want suffering at all, even small suffering, even those in dreams we don’t want. We want small happiness. The solution is to… negative karma that we collected from beginningless rebirths, we purify that negative karma. By learning Dharma, listen, reflect, and meditate, practice, you abandon negative karma and practise good karma. You don’t get reborn in lower realms and get higher rebirth.

      There is a method. If you don’t know Dharma, if you have no idea of Dharma, abandon negative karma and create virtuous action, practice of morality, etc., if you do that, you get higher rebirth, you save yourselves. You don’t have to be born in lower realms. If you don’t practise holy Dharma, you don’t engage in creating perfect wholesome action, positive action, healthy action, if you don’t do, …

      With negative mind, negative motivation, create negative actions of body, speech and mind, disturbing to you and cause suffering to others, harmful to others, this becomes causes to reborn in lower realms. This is totally in your hands.

      In order to achieve ultimate happiness, everlasting happiness, liberation from oceans of samsaric sufferings, suffering of narak hell beings, hungry ghosts, animals, humans, asuras, and suras, intermediate state beings. To free from those oceans of samsaric sufferings of six realms, achieve the ultimate happiness, blissful state of peace for oneself is totally in your hands. Where to go, to be in samsara or out of it, it is totally in your hands. Whether to be in hell or be enlightened, it is totally in your hands. It is up to your mind.

      Whether you create the causes for hell or peerless happiness, it is totally in your hands. Up to your mind, how you use your mind.

      Understanding Buddhism, knowing the teachings of Buddha, the more you come to know, the teachings of the kind, compassionate one, the omniscient one, the more you know, it makes you to realize how to have freedom, discover how much freedom you have. You should know that.

      Life is not hopeless. So many millions, millions of people in the West are suffering from depression.

      Thinking that life is hopeless.

      American army went to Iraq,… to do war, you use bombs to destroy, kill so many people, even those who survived, those who came back, everyday 20 army veterans committed suicide. Someone from the army came to Solu Kumbu where I was born, this person fought in Iraq, his job was to communicate, high tech communications in the army. That’s his job. He came back and told me in the cave of Lawudo, I have a talk with him in my cave, to find out more. He told me that 20 veterans from the army committed suicide. Soldiers. 20 soldiers committed suicide. That is because they came back, having done so many violent things, they are so shocked, they think, they questioned, what is life? Violence, unbelievable, … they wondered, they questioned about life.

      Because they have not met Dharma, the awakened teachings, the freedom from samsara, from the cause of suffering, they do not know, no knowledge at all of what is right thing in life, that brings happiness to your mind and to others, the wrong things that bring confusion to your life, suffering to you and others. In life, the most important decision, doesn’t know the omniscient one’s teachings, what the Buddha has taught.

      Life becomes so difficult. Even simple thing like that, they have no idea. It becomes huge question regarding one’s own life. All these violence, you have seen and done, very difficult, so shocked,

      They don’t know how to live life meaningfully, no idea what is meaningful and what is meaningless, in other words, what’s right and wrong.

      So, they commit suicide, when their minds are so depressed.

      What happens nowadays, American government uses meditation, use of drugs slow down the mind, thinking becomes very slow, becomes violent, they bring mindfulness meditation to the Army. This is what happens nowaday. Because in mindfulness meditation, you stop thinking about past and future, you only think of this moment. There is mahamudra that does this, meditate on emptiness, even then the conventional nature of mind…

      The military uses meditation to stop thinking about past and future, … he said that.

      He looked into the computer, saw Nepal, Lawudo, this place, hence he came to Lawudo. He is a quiet person. He worked in FPMT centre before and went to Lawudo when I was there. He has to go back to Root Institute.

      Nowadays, they use mindfulness meditation so much in the Army, for those who have suicidal thoughts, so many returning soldiers have this problem.

      Mindfulness meditation is also used in business. Lots of business people use that. Maybe too much thinking makes the mind not relaxed, unhappy, too much thinking and the meditation brings quietness.

      Big business, big company in Holland, 25,000 employees, they want to use mindfulness meditation, one student from Holland came to Kopan course or maybe in Lawudo, he talked to that company about mindfulness meditation, I got a letter, invited to talk about mindfulness meditation. By checking Mo (divination), it was cancelled. I don’t know what happened. That’s just news. That’s just, not BBC, …

      We do the last prayer, what Buddha said, at the end of the Vajracutter sutra. This verse is there. Also in another teaching. I am going to recite. I shall chant in Tibetan, to give time to meditate for everyone. It is mainly about impermanence, the nature of life, the other thing is emptiness, the meaning of dependent arising. (p.9 3rd verse)

      Instead of trusting, believing as real the hallucination that appears, the I, action, and object, the way they exist are in mere name, they do not exist from their own side. Whatever appears as real is hallucination. Whatever phenomena appear as real are all hallucination. We completely trust in them as real. We need to recognize dream as dream. Even though dream appears as real, we do not believe it as true. When you don’t recognize dream as dream, you entrust in it completely as real, you lose something, you get upset due to your self cherishing thought. In the dream, you can get so exhausted, so difficult, … you have this problem, that problem in your dream, the hair becomes white, wrinkles on your body, so much changes, happen in the dream. Even within five minutes, so unbelievable…

      So appearance and reality, when you recognize dream as dream, you do not believe in it at all, it is just a dream. Like a mirage, you came across hot sands, the sunlight, the heat rises from the sands, when you look back there appears to be water, but there isn’t. You know there is no water. Things appear, the way things appear to your hallucinating mind, you completely entrust, here introducing the thinking that in reality it does not exist from its own side. Meditate in this way, especially if you realize that. Then no problem. Totally trust that, even though it appear, it does not exist right there…

      Arya Sangha who has direct realization of emptiness, in meditative equipoise, they do not have this hallucination. The I, action, object appearing as real, this do not appear in equipoise meditation. When they arise from that meditation, they would have these false appearances. Until subtle imprints are completely removed by actualizing the path, the path to full enlightenment, when the remedial path is actualized, that subtle negative imprints left by past delusions, that project dual view, everything appear as real, this is gone. Then, there is no dualistic view, no hallucination. No more there. Buddha does not have hallucination. Not the dualistic view. Because there is no cause that projects that dualistic view. He has no hallucination. Otherwise, even arya bodhisattva, until he achieved Buddhahood, would have dualistic view.

      Like the example, the illusion created by a magician, using a material, causes people, the audience, to see by transforming… he causes hallucination to the senses of the audience using a mantra and a material base, those who don’t know that they are experiencing hallucination, they believe in the transformation he creates… an elephant, beautiful man or woman, different manifestations, even a city, the magician can do through magic. Those who don’t know that their senses are hallucinating, they would believe in these appearances as real, not only do they appear to them, on top of that, they entrust in them, thinking they are real.

      The magician, himself or herself, and the audience who is aware of the illusion, these people have the appearances of the hallucination, but they do not believe. Like Arya Sangha, not just ordained persons, even lay persons who have direct perception of emptiness, to these people, things appear as real, they do not totally trust in those appearances, due to their realization of emptiness. They see a hallucination as a hallucination. Like recognizing a dream as a dream. Those who senses are not hallucinating, they don’t see the appearances at all.

      The Buddha without the subtle negative imprints left by delusions that project everything created by the mind. This does not mean creating with hammer and other tools. It means to merely labeled by the mind, on a valid base. Given a name, merely imputed by the mind. Merely imputed by the mind, relating to a valid base. This and that, relating to that valid base… They exist in mere names.

      Buddha does not have those subtle negative imprints, that project everything as real, as truly existent, as existing from their own side. These are purified, he does not have hallucination.

      Like those whose senses are not affected by the magic.

      Somebody recognizes hallucination as hallucination. First thing is a star, phenomena are like star (in the verse), in daytime, there are stars, but due to sunbeams are so strong, veiled the stars, so we don’t see the stars. It shows emptiness of all phenomena, they exist because they are empty. They exist because they are empty because they do not exist from their own side.

      They exist in mere name, merely imputed by the mind. The meaning of emptiness is dependent arising and the meaning of dependent arising is emptiness.

      For our hallucinating mind, emptiness does not exist. Ultimate truth does not exist. What does not exist is actually the hallucination, things existing from their own side, these real things never exist even for one second, from beginningless time. The real ones, even the size of an atom, do not exist at all. We, according to our hallucination, our concepts, the I, action, object, hell, heaven, samsara and nirvana, all appear as real, but they do not exist at all. We completely entrust, believe in them as real. We do everything.. If you have power in the world, to get happiness for this real I which does not exist, you could kill millions of people in the world, those you don’t like, those who don’t have blue eyes, blond hair, you kill everybody. If you have power to do this, you give power to this I, for its happiness, even to kill millions of people. You would kill, steal, sexual misconduct, telling lies, gossiping, harsh speech hurting, could be very soft, nice sounding speech but it can hurt others. Not just harsh speech. Hurtful speech. You do all kinds of things to get happiness for this I. Harms to others, wow wow wow.

      You go to school from kindergarten, till university, … for this real I , to give power to this real I, but it is not there. This real I, if you look, where is it? You can’t find. Not only nowhere, inside this body, in the chest, not in the brain, not in the heart, not in the chest. It does not exist at all in the world. Also in your room, in this gompa, in the world, can’t find. Those who realize emptiness don’t see, … higher bodhisattvas do not see at all, especially Buddha does not see that appearance [of a real I]…

      It is said by Nagarjuna:

      The person, the I, is not earth, which means body, not water, not fire, within the body there are the elements, not wind, also not sky or space, the I, the person is not consciousness. Then, not space. Not one by one. Even all of them are not the I. The I does not exist separate from these. The I, the person is all these or not. The I does not exist separately from these.

      The next one is: earth is not I, water is not I, the person, fire is not I, the person, wind is not I, consciousness is not I, space is not I, even all together is not I. even altogether is not I.

      The real I does not exist at all. There is no real I.

      Real I, starting from the tip of hair to the toe, you cannot find if you look for it. Nowhere can you find it. From hair down to toes.

      What exists is on the valid base, the aggregates, mind which is focusing on this base, this valid base, that mind then makes up a label of I, creates the label, I. The merely imputed I, relating to the aggregates, which are the valid base. It is a merely imputed I. That’s all, nothing else. What experiences suffering, happiness, what creates virtue or non-virtue, who becomes free from samsara, who achieves nirvana, or enlightenment, that is the merely labeled I.

      Since I am talking a bit on this, I mentioned that those who have never heard, those who have heard, as a reminder, ignorance is the root of oceans of samsaric sufferings, to feel that, to recognize that. This is what needs to be abandoned. How important that is in our life.

      The aggregates, the valid base, upon them the mind makes up, merely imputes the name, I. Even that is merely imputed.

      The next second, it should appear back to us as merely labeled by the mind. But that does not happen. That should happen to us, that’s the reality. In the next second, it should appear as merely labeled by the mind. The Arya Sangha who are in meditative equipoise, they do not have this hallucination. Another one is the Buddha who does not have this hallucination.

      Appearing as real, as existing from its own side, as never labeled by the mind, as not coming from the mind. This is the gross object.

      Appearing to us as not merely labeled by the mind. The total opposite of how it actually exists. This is what the omniscient one has explained.

      For us, the next second it appears to us, it should appear as merely labeled by mind, but it appears as not merely labeled by mind, as a false I, totally opposite to how it actually exists.

      Why? Due to past ignorance, concept holding the I to exist truly. This left negative imprint in the mind. That negative imprint, as soon as the mind merely labeled the I, this negative imprint immediately projects hallucination. Like the illusion created by the magician for the audience. Exactly the same. This negative ignorance, by leaving those imprints, projects. All merely labeled objects, causative and non-causative phenomena, everything that exists, are all merely labeled by the mind. But in the next second this imprint projects and makes them appear as real.

      We live our whole life with that hallucination, which we completely trust in it. The whole thing, samsara and nirvana, we completely trust in what appears as real, as true.

      Even relationship problems are viewed as real. Like a balloon getting bigger and bigger. That is how we create hallucination. Our life, is one whole hallucination. Everything we do, business, university degree, the whole thing is a hallucination. Our job, the whole thing, the happiness for this I, children, business, everything is not there. The real I is not there. This huge thing appears as real, really really… If we see the emptiness, it would be a big shock to us. If we see the ultimate reality of the I, the emptiness of the I, then we see that what we believe is not there, it would be a huge shock. It would be a huge fear. This is stronger than seeing a tiger on the road, in your room. Because our mind has been habituated in believing that everything is real, from beginningless rebirths, so habituated. We totally live our lives with this hallucination. You go to supermarket, with this understanding of emptiness, then …

      In America, there are 30 or 40 different types of cheese, maybe 60 or 70 types.

      Appearing as real cheese, appearing as real vegetables, appearing from there. They appear to you. How they appear to you is the main question. How many thousands of dresses appearing from there, thousands of make-up, the red.. whatever colours, appearing from there, if you go to the supermarket, they all appear from there,

      Reality, if you think, does not exist from its own side, it is empty. It exists in mere name. merely imputed by the mind. This is the reality. You see that everything you see in the supermarket, the food, the department store, all the things, when you go into there, all things, so shining, bright, the whole thing is a hallucination, things appearing from there is a hallucination. Something real appears to you but it is a hallucination. So, you are buying a… from the person who appears to exist from its own side, to totally exist from its own side. Existing in mere name. The opposite of that is to appear as not merely labeled. The reality is merely labeled, but it appears as not merely labeled by the mind. This is to go more subtle. The person who sells you food, clothing, is a hallucination. The seller is a hallucination. You pay the money, which again appearing as real to you, when it actually exists as merely labeled by the mind, this money is merely labeled by the mind, but it appears as totally opposite, as not merely labeled by the mind. You pay with your hallucinated money, in your illusion, not real, not true money. You pay this money to a person who is also not true. Paid by an I who is also merely labeled by the mind. So, buying and selling are all done in hallucinations. Coming back in a car, which is also a hallucination, not appearing as merely labeled by the mind, to a hallucinated house, hallucinated kitchen. The whole thing, the whole life, we believe in what appears to us, we entrust in them, we do everything for this ignorance. You do actions of body, speech and mind for this real I, which is not there. By going more subtle, this I which appears to not merely labeled by mind. Such a I has never existed, not in the past, not now and never in the future. But we never question and totally believe in this real I.

      Realizing emptiness, for lower intelligent ones, will give rise to great fear. You think that you are falling into nihilism, you have so much fear. You tend to think, the I exists, the I exists. Either fear comes, when you realize its emptiness. You look for the I from the hair down to toes, you don’t find that I, that I you don’t find. I think there won’t be nihilism. Now, There won’t be that much fear arising because the way you meditate does not harm that ignorance. The real I is kept here, and you meditate for the I, looking for it somewhere else. You look for another I, so you don’t experience real fear. Because you do not hurt ignorance. When fear arises, that is very good. Your meditation is working in the right way, hitting the ignorance at the right way. Ignorance that believes the I merely labeled by the mind as true, as real. This is the root of samsara. When it hurts the ignorance, you start to see what ignorance is believing in, entrusting in, then your meditation, the real I which is not there, is being hit. To see what is not there at all, you start to see it as not being there. It is hurting the ignorance. When it harms ignorance, fear arises. It harms what ignorance believes, the real I which is not there, which ignorance totally holds onto.

      Because we are habituated to these concepts from beginningless rebirths and believed in them. Therefore fear arises, when suddenly we come to know that there is no I there. There is nothing to grasp, to hold onto. When we start to realize, fear starts to arise. Those with lower intelligence will experience unbelievable fear from deep in your heart. Those higher bodhisattvas, when realizing emptiness, would experience so much happiness, even tears start flowing, totally opposite experiences.

      When we recite the Heart Sutra, fear comes, then it is a very good sign. That means your way of thinking has gone to the right point, the ignorance holding the I as really exists is being hit. It harms ignorance. If you are of lower intelligence, fear would arise. It is a very good sign.

      For that wisdom, my guess is that, those experienced meditators, those lamas, as they explained, for that wisdom, it appears that there is no I there, the I that has been held since beginningless time. Suddenly you see it is not there.

      In the view of that wisdom, there is no I. If you don’t know, if you didn’t hear the full experience of realizing emptiness, then you may think that you are falling into nihilism. And you try to protect from that fear, by thinking yes, yes it is there. You are about to realize emptiness, but by protecting, you are prevented. Without realizing emptiness, you will never eliminate the causes of suffering, never achieve liberation from oceans of samsaric sufferings. Even subtle defilements have to be removed by direct perception of emptiness. It cannot be removed directly by bodhicitta. Direct removal is only by wisdom. Even removal of subtle obscurations does not happen without wisdom. Bodhicitta alone cannot counter that.

      It is mentioned by …, in the Mahamudra teachings, you see that there is no I, you feel that. The reason that there is no inherently existent I, to prove there is no inherent existence on the I, when you see, for you, there is seeing that there is no inherent existence on the I, it is not falling into nihilism. It is realizing, discovering there is no truly existence on the I. You are seeing the emptiness on the I. There is great meaning. You see the hallucination, the true existence on the I.

      First, there is the merely labeled I. Then, projected on that is the truly existent I. Therefore, it makes sense that there is a hallucination on the I. You see that it does not exist at all. You are seeing the emptiness on the I, as opposed to the hallucination on the I. This I is the merely imputed I. “On the I” makes great sense, great meaning.

      When the fear arises, you have to go through that, like crossing the river. If you try to stop the fear, then it becomes a great obstacle to the realization of the truth.

      To conclude, the merely imputed I… it appears in the next second as a completely false I. In the third second, you completely trust in that, believe in it 100% as true. That concept holding the I as not merely labeled by the mind, that very subtle concept is the root of all suffering of rebirth, old age, sickness, death, all samsara pleasures, music, sex and all that, why are they temporary? Because they are of the nature of suffering. They cannot continue, like Dharma happiness. They cannot increase. They come from delusions and karma, motivated by delusions. All samsaric pleasures are temporary, because their nature is suffering. But Dharma happiness can continue and increase, up to enlightenment.

      Third, where does true suffering come from is the pervasive compounded sufferings. His Holiness explained that pervasive means the aggregates are under the control of delusions and karma, hence they are of the nature of suffering. Why we experience suffering? We experience suffering of pain, old age, rebirth, death, etc. This is the first type of suffering. Why do we have to experience all that? A most important question.

      The second type of suffering is suffering of change. The third is where these two came from, the one… In Hindu religion, they can develop renunciation to those suffering, except that of the peak of samsara. This is because the way they develop renunciation is by checking the suffering of the lower level and seeking the happiness of the higher level. But in the formless realms, there is no higher level than the peak of samsara. Therefore, the Hindus have no remedy to renounce the attachment to the peak of samsara. They don’t get renunciation to the entire samsara, they are still attached to the peak of samsara, the highest level of the formless realms. When we reach this level, the delusions become so subtle.

      The delusions can be divided into great, middling and small. Each is further divided into three. The delusions become so small that you don’t see that you have delusions. You believe that you have achieved nirvana, when the delusions are not ceased completely. They are so subtle, as if there is no delusions. Believing that they have achieved nirvana, when the karma to be born there is exhausted, they die and see the past life, now and where they have to be reborn, maybe in the desire realm, even lower realms. They feel totally heresy, thinking that achieving nirvana is not true which causes them to be reborn in hell, due to arising heretical thought.

      They do not have the way to renounce attachment to the peak of samsara. They do not have emptiness, bodhicitta, and their renunciation is incomplete.

      Their renunciation of this pervasive compounded sufferings,… consciousness carries the karmic imprints that bring suffering in future lives, we create karma to be reborn in suffering rebirths in the next life.

      These aggregates are the pervasive compounded sufferings. This is a particular Buddhist view, to get renunciation is to realize the suffering nature of this third type of suffering. If you have renunciation of this, then you can be freed from suffering of pain and suffering of change. There is a quotation from Panchen Losang Chokyi Gyeltsen, but I don’t remember by heart.

      The I, in the second moment, appears as real, existing from its own side due to ignorance. In the third moment, you believe in it, totally trust in it. As not merely labeled by the mind. In reality, it is merely labeled by the mind. Ignorance causes the opposite, see it as not merely labeled by the mind. Recently His Holiness said, when we walked at a dangerous path and fell down, the fear becomes very strong. The emotional I becomes very strong. His Holiness explained that this may be explained in the teachings as a way to recognize the I. But recently he said that this is just an appearance of the self sufficient I, not the I that exists from its own side.

      When the emotional I appears to you, the I appears as permanent, existing alone, without depending on parts. Then, without depending on causes and conditions. This is what the Hindus believe to be the Atman, the soul. This is the meaning of soul, the Atman. In the Buddhist philosophical schools, Vaibhashika, Sautrantika, Mind-Only and Middle Way schools… all of them do not accept the I as permanent, existing alone, without depending on parts, causes and conditions, etc. Buddhist schools do not accept this type of I.

      In Vasubandhu’s text, there are listed 18 schools, there is one school that held the view that I is neither permanent nor impermanent, it does not decide on the I in either way.

      In the West, the emotional I would also be permanent. There is the wrong concept believing in the I as permanent.

      There would also be an emotional I held to be a self-sufficient I.

      In the Mind-only school, there …

      Existing from its own side, as held by Svatantrika Madhyamika, believing the I as truly existent, this truly existent I, not labeled by the mind, is also the emotional I.

      In Prasangika Madhyamika school, there is the subtle object of negation, the inherently existent I that is not merely labeled by the mind is also an emotional I.

      All these are different wrong views regarding the I.

      How do we create the root of samsara, oceans of samsaric sufferings? This is an example how we create those suffering. It is not created by gods, husband or wife, by parents. Each sentient being creates its suffering. God does not create suffering.

      Buddha gave teachings to help us remove these sufferings.

      Ignorance creates suffering. It is the root of suffering. It is soooooo important.

      Each of our suffering is created by ourselves, by ignorance, the root of suffering. Ignorance, anger, and attachment, all delusions… After trusting in things as real, from there, anger and attachment arise.

      There is a quote from Lama Tsongkhapa…

      From virtuous actions, even with attachment to future samsara, even with the practice of morality,…

      With virtuous actions, good karma..

      With non-virtuous actions, we create negative karma, the causes of rebirth in lower realms.

      From that, when we die, it may be possible when we are alive, but when we die, the karmic formations that were planted as karmic seeds, imprints on consciousness, from that, when we die, craving and grasping, which are attachment to…

      Like a butterfly, a nice bird, a parrot, you may develop craving for that animal, something stronger, in the shop first you wish to get, then the grasping becomes stronger and you buy.

      This gives rise to the next link of becoming, when the seeds planted previously, according to Madhyamika, these are left on the mere I but other Buddhist schools hold that they are left on the mind.

      This causes the karmic seed to become stronger, able to throw us into the next life.

      Ignorance and karmic formations could be from billions of eons ago, or several lifetimes ago.

      Consciousness, body and mind, … there is not one being that realizes that there is no rebirth. But there are numberless beings who have realized that there are reincarnation, rebirth. Even the other religions also accept rebirth. Consciousness is conceived in the mother’s womb, where name and form arise. Name refers to the mental parts. Next link comes the six sense bases. Then comes contact, followed by feeling. When we are born from the womb, …

      What’s left among the 12 links of dependent arising are old age and death.

      At this moment, we have yet to experience the last link, death.

      Every day, hour, minute… not even realizing emptiness, bodhicitta, not even renunciation, there is no antidote. Continuously believing in the I as real, delusions arising, negative karmas are created.

      Even when we try to practise Dharma, but since we don’t have realization of three principal aspects of the path, mostly we create negative karma. Karma within one day, hour, minute and second, with this ignorance, we are creating samsara. We create samsara, more 12 links of dependent arising, so many cycles are started by us. We are like in the prison of the 12 links of dependent arising. Numberless prisons. You finish one prison, there is another one. We are always creating new cycles of 12 links of dependent arising. When we think like this, it becomes frightening. To have to go through endless prisons of samsara.

      In this life, when we receive the human body, when we are born in this Southern continent, where Dharma exists, not just Theravada, sutra teachings, but also Mahayana teachings , tantric teachings, we are so fortunate.

      To realize renunciation, bodhicitta, and emptiness, is most unbelievable.

      How important the lam-rim realization is. Particularly, the tantric realization. First we need to create the base: three principal aspects of the path.

      We can be free from samsara with renunciation. Then, renunouce attachment to this life and future lives. With emptiness, the realization of which is the only thing that can directly cease the root of samsara. Therefore, we have to take the opportunity to learn the Buddha’s teachings on this, Nagarjuna’s teachings, to hear from qualified teachers, each centre has such qualified teachers, who studied in the monasteries, studying and debating. We are so so so fortunate. We can listen, reflect, and meditate on emptiness. To learn as much as possible in this life. To leave so much imprints in this life, so next life you will become expert, just by hearing the teachings you can realize it.

      A very good meditation. If you really want to practise, for example, you can think, each week, month, meditating on emptiness, looking at everything as empty, wherever you are, at home, working, shopping, whatever work you are doing, empty of inherent existence. Not nihilism, as not existing at all.

      Another month or week, you can meditate on, looking at the real I existing from its own side. The I, action and object. Your house, the road, the car, whatever. In the shop. All these are recognized as hallucinations, as truly existent, real I, real objects, continuously recognizing them as hallucination. To recognize a hallucination as a hallucination. Like recognizing a dream as a dream. In daily life, whatever you are doing, continuously keep the awareness that the I, action, and object appearing as truly existent, is a complete hallucination. Keep mindfulness: this is a hallucination. Everything appearing real to you, even when you are giving teachings, having meetings, if you are able to meditate in a meeting, the emotional I does not arise. It keeps the mind so peaceful, with inner happiness and peace, you can talk nicely, don’t get angry.

      For example, when we get angry, if we suddenly remember that the I is merely labeled by mind, no way to get angry. The anger is gone. Just by thinking that this I is merely labeled by the mind. It is so powerful.

      The hallucination is a hallucination. You recognize that. You practise awareness, mindfulness like this all the time. It is so good.

      When you go to shop with a meditation like this, it is so great. You have so much happiness, so much peace. Even if there is nothing to buy, you go there to meditate.

      Days, weeks, months, another meditation is dependent arising. You know that the I is merely labeled by mind.

      Whatever is merely labeled by the mind. Everything is labeled by the mind, when you see this, you realize that everything is empty. Not nihilism, but as empty of existing from their own side. You are thinking of reality.

      For example, hallucination is like this. Merely imputed by the mind, suddenly in the next moment, due to ignorance that left negative imprints on the mind, it projects and makes everything real. Now there is hallucination. That ignorance is the magician, everything is illusion. Here, illusion is all your views. Your eyes, ears, nose, tongue, and body are illusions, affected by hallucination.

      That is a very good logical reasoning. Dependent arising gives you real good understanding. You can practise mindfulness on this.

      I am supposed to speak on compassion.

      You kill animals, you cheat, you did many harmful things to sentient beings, but then you make so many water bowl offerings to Buddha, Dharma, and Sangha, and you did all the bad things to sentient beings.

      This would not please the Buddhas, by harming sentient beings like that.

      There is no pleasing the Buddha and bodhisattvas.

      If you treat sentient beings badly and at the same time you make so much offerings to Buddha, Dharma, and Sangha, you will not please the Buddhas and bodhisattvas.

      Sentient beings are most precious, most kind, most dear, every sentient being, every insect, mosquito, millipede, …

      The bodhisattvas renounce self cherishing thought and only cherishing other sentient beings, thousand times more than the love of a mother for her child, bodhisattvas cherish even the enemies. Numberless bodhisattvas do that. If you were to take one sentient being, and make offering, it is the best offering to numberless bodhisattvas. Buddhas who have completed the path for sentient beings, striving for eons, they do so for sentient beings, they cherish sentient beings the most. So, they did all that for the sake of sentient beings, including achieving enlightenment for their sake.

      Like if you praise the child, it would make its mother soooo happy. If you said something bad, it would make the mother so worried. So sentient beings, even small benefits to them, become the best offerings to Buddhas. Whatever service, big or small, you can offer. Anything you can do, even praying, it becomes best offering to numberless Buddhas. If you hurt somebody, it hurts numberless bodhisattvas and Buddhas. It becomes displeasing to them, like the case of mother and child. We must think that in everyday life we practise mindfulness.

      By cherishing sentient beings you can achieve enlightenment. If you renounce the person who abuses you, there is no enlightenment. What really pleases Buddhas and bodhisattvas is compassion.

      Compassion is like a seed in the beginning. …

      Even non-believers…

      In India, when a dog chases a pig around a stupa, the pig escapes by going around the stupa, due to this, when the pig died, it was born in the heaven of Thirty-Three, just by going around the stupa once.

      Like the monk who practised Dharma when he was 80 years old. He achieved the arhat state. Because in a distant lifetime, as a fly, it goes around a stupa by following the smell of cowdung. This karma leads to rebirth as a monk and achieves the arya path, and later entering into Mahayana path, to achieve enlightenment. All due to going around the stupa by following cow dung out of attachment.

      “Circumambulating them, even by chance.”

      There is no limit to the benefits of generating compassion.

      Many people with suicidal thoughts, you give them advices, talk to them, help them, when they become free from such thoughts.

      Also when you liberate animals from the danger of death.

      It is the most important practice.

      Three negative actions of body, four of speech and three of mind. Even these, with great compassion, can be transformed into virtue.

      Like the past life story of the Buddha, when he as a bodhisattva captain of a ship, in order to rescue people, he is willing to be born in the hell by killing the potential murderer. But his act of killing purifies 100, 000 eons of negative karma. It becomes so close to be free from samsara and achieve enlightenment. This is what happens when done with great compassion. With strong compassion and bodhicitta, even those negative actions can become virtue.

      If you can practise compassion in daily life, so much problems made up by your mind would be gone. You won’t have them. The greater your compassion, the lesser the problems you have in your life. It brings so much happiness in the world, in your country, society, family and in yourselves.

      Thank you very much.

      There is a praise, 108 praises to compassion. I don’t remember by which lama, not sure there is a translation into English or not.

      Thank you very much.

      There is now the refuge ceremony.

      I am giving the rlung of the bodhisattva Ksitigarbha’s long mantra. To stop the earthquake, we did the short mantra of Ksitigarbha.

      I received this from Kirti Tsentsab Rinpoche. To receive this rlung, to achieve enlightenment for the sake of all sentient beings, please think that.

      Ksitigarbha is the practice, not common in Tibetan society, but it is very common in Chinese society, in Singapore, Hong Kong, in China. In Malaysia, someone has got needle in his body and one young girl recited the Ksitigarbha sutra and that needle came out.

      Buddha explained the qualities of Ksitigarbha, which are unbelievable. If you make offering and pray to him, it is 100 million times more powerful than praying to other bodhisattvas.

      During the fundraising dinner, I brought or bought a Ksitigarbha statue. But I didn’t realize that it is slightly broken.

      Maybe each week we can make offering to it. By making offering and prayer, it is so powerful. Not just for business, also for Dharma practice. 100 million times more powerful than praying to other bodhisattvas.

      I will recite Namgalma mantra that prevents rebirth in lower realms. Up to enlightenment you will always be with Buddhas and bodhisattvas. It has incredible benefits.

      Now Maitreya Buddha mantra. By hearing it, you will never be reborn in lower realms. There are many benefits. This is one of the best mantras to recite to animals, birds, cats, etc. To get a higher rebirth.

      Then, Medicine Buddha mantra, with similar benefits. In general, it is for bringing success.

      Longer mantra in the Medicine Buddha Sutra. The fifth Dalai Lama composed a text and it is found in that text.

      Due to all the past, present, and future merits collected by me, all the three time merits collected by numberless sentient beings and numberless buddhas,

      May bodhicitta, the source of all happiness and success including enlightenment for sentient beings, may it be generated in the hearts of all the six realm sentient beings, in the hearts of everybody in this world,

      Not only human beings, also the insects, hungry ghosts, devas, especially in the hearts of students of FPMT, centre benefactors, volunteers working for the centres,

      Especially all those who rely upon me, all those whose name has been given to me, all those for whom I have promised to pray for, in all their hearts, especially in all of us here, people who came to Vajrayana Institute, in the beginning, now, and in the future, and the staff, including our family members who died and are living, in everybody’s hearts

      Without the delay of even a second and in whose heart it has been developed may it increase.

      Long Life prayer of His Holiness

      Due to all the past, present, and future merits collected by me, all the three time merits collected by numberless sentient beings and numberless buddhas,

      May all of us be guided by Lama Tzongkhapa in all lifetimes, may he be our direct guru, and …

      In all the lifetimes,

      Due to all the past, present, and future merits collected by me, all the three time merits collected by numberless sentient beings and numberless buddhas,

      May all problems in the world, countries, society, family, etc. that came from ignorance, anger, and attachment be pacified.

      May everyone receive perfect peace and happiness in their hearts.

      May everyone be able to meet the Dharma and achieve enlightenment.

      May we able to cherish every sentient being more than skies of diamonds and gold.

      May yourself become wish fulfilling jewel that fulfills all the wishes of sentient beings, according to the Dharma.

      Due to all the past, present, and future merits collected by me, all the three time merits collected by numberless sentient beings and numberless buddhas,

      Which are merely labeled by the mind, may the I, who do not exist from its own side, who is merely labeled by the mind, achieve the state of enlightenment, peerless happiness, which do not exist from its own side, and lead all sentient beings, who do not exist from their own side, to that enlightenment, which does not exist from its own side, by myself alone who does not exist from its own side.

      Thank you very much. There are 7 people taking refuge.

      Page 34 short mandala offering

      Page 34 request for the Lama to remain long

      Three things to abandon, three things to practise, as the refuge precepts.

      There is a refuge book. Everything is in it. Very helpful, when there is no time. The benefits of taking refuge and precepts.

      The last prayer in that book is a Christian prayer of St Francis, I have included it here. I only changed the last one, regarding heresy. I thought it is very nice. Please read this, it gives good explanation. Geshela would explain more.

      Think:

      Until I become free from oceans of samsaric sufferings, achieve ultimate happiness, until then, I have to suffer, not only beginningless experience of oceans of samsaric sufferings of six realms, again I have to experience them. Unbelievable. I cannot help sentient beings, if myself is in this state. Cannot help them, cannot liberate them from samsara.

      Therefore, I am going for refuge to Buddha, Dharma, and Sangha to achieve enlightenment for sentient beings.

      I go for refuge to the Buddha, as founder of refuge, Dharma is actual refuge, and Sangha is helper of refuge. Like a doctor who discovers the disease and gives medicine, the medicine that actually helps, and the nurse that helps with the taking of medicine.

      First is taking refuge in Buddha, who has ceased gross and subtle obscurations and completed all realizations. That is the Buddha.

      With whole heart rely on Buddha, 100000 times more than outside doctors. With Buddha you can be freed from oceans of samsaric sufferings.

      Now, taking refuge in Dharma. Buddha has both absolute and conventional forms—dharmakaya and nirmanakaya.

      Dharma has two. Absolute dharma is the wisdom directly perceiving emptiness that totally ceases obscurations. Conventional dharma is the three baskets of teachings, like lam-rim, those texts. Take refuge in both.

      Sangha has two—absolute Sangha are those who have direct realizations of ultimate wisdom directly perceiving emptiness. This can be an ordained person or lay person, with such a wisdom. Who has cessation of obscurations and sufferings.  Conventional Sangha is four fully ordained monks or nuns, not arya persons, ordinary persons living in pure vows.

      Someone who wears red robes, brown robes, blue robes, … as long as they are Buddhists, you think that they are the Sangha who helps me to be free from samsara.

      If you are taking the five precepts, or four, or three, or two, or one. Or you can just take the refuge. Buddha is so compassionate, he gives much choice. The five precepts are to abstain from killing, stealing, sexual misconduct – not having sex with people who belong to others, telling lies – the heaviest lie is when you have no realization and you tell others that you have. The last precept is to abstain from alcohol and also drugs. It destroys jobs, proper livelihood. From those five, if you are taking any number of them, or only taking refuge but not any of those five, it is still okay. Buddha is so compassionate and gives so much choice according to our capacity.

      Rely on Dharma more than 100,000 times on external medicine. By rely on Dharma you become free from oceans of samsaric sufferings.

      You rely on Sangha more than 100,000 times than on external nurses, with the result of being freed from samsara.

      You get so much merits day and night by taking the precepts. You stop giving harm to other sentient beings, you bring happiness to other sentient beings. This is your contribution to world peace.

      Due to all the past, present, and future merits collected by me, all the three time merits collected by numberless sentient beings and numberless buddhas,

      May I complete the pure morality, by keeping without mistake, by keeping it pure without pride.

      To meet Lama Tzongkhapa teachings, and to actualize Lama Tzongkhapa teachings.

      Due to all the past, present, and future merits collected by me, all the three time merits collected by numberless sentient beings and numberless buddhas,

      Which are merely labeled by the mind, may the I, who is merely labeled by the mind, achieve the state of enlightenment, which is merely labeled by the mind, and lead all sentient beings, who are merely labeled by the mind, to that full enlightenment, peerless happiness, which is merely labeled by the mind, by myself alone who is also merely labeled by the mind.

      [END OF TRANSCRIPT]


       




      Lama Zopa Rinpoche Teachings – 13/06/2015 (text English)

      Date: 13 June 2015
      Location: Vajrayana Institute – Sydney – Australia
      Topic: Buddha Dharma for Daily Life
      Type of Material: Unedited Transcript


      lama-zopa-rinpoche_t

      Good afternoon. Those who are here and who are outside, everyone, Thank you very much to come and share the discovery of life, what is said by Buddha and by the omniscient one, compassion to all sentient beings. He said, to not commit unwholesome actions that are causes of suffering, to engage in perfect wholesome actions, which are perfect causes of happiness. Happiness is not only temporary happiness, on top of that, not only happiness of this life, but also happiness of coming future lives. Not only hundreds, thousands, millions, depend on individual persons, living beings, millions, zillions, trillions, until one achieves total peerless happiness, elimination of all obscurations and completion of all realizations, sang-gye in tibetan, that peerless happiness.

      Ult happiness, liberation forever from oceans of samsaric sufferings, samsara in sanskrit, circling, kor wa in Tibetan, not only that, peerless happiness, great nirvana, the total elimination of all obscurations and completion of all realizations.

      In this life, now, we have gathered all conditions to create perfect cause of happiness. Rather than worry over problem and suffering, and do nothing. Create causes of happiness. You just worry about your problems, spending your precious human rebirth in worrying, not creating causes of happiness. Not learning how to create the cause of happiness. Not opening your heart, not giving freedom to yourself.

      Run away from,… create causes for problems and just worry over that. I may have cancer, etc., I may die, just worry. You do nothing.

      We are at the right time, to be free from sickness, death, but we are not learning the method to be free from such problems. Even the suffering of death and rebirth, we can be free from that.

      By learning true paths taught by Buddha, the Four Noble Truths, something you have to understand.

      If you want to be free from suffering, you want to be free from that you have to learn true paths.

      You have to give freedom to yourself. You have to open your mind.

      Give happiness to yourselves.

      Not only for this life happiness, but up to full enlightenment. Total elimination of all obscurations and completion of all realizations.

      We have to allow, we have to open the eye of the mind, wisdom.

      We have to generate infinite compassion to sentient beings.

      Generate ultimate wisdom. Open your mental eye.

      At this time, with all precious conditions gathered, you can learn,

      Having received the most precious precious human rebirth, so opportunity to learn.

      To eliminate the darkness of suffering and keep on,… no one puts you in suffering, but due to the darkness of mind, ignorance, wrong concepts, the hallucinating mind, not going towards the light, the mental light, not going towards light but going towards darkness, we therefore suffer ourselves. That is the whole point.

      We have to know what’s right and wrong. What brings confusion, suffering, and causes suffering and problem to others who are numberless.

      To  bring happiness to yourselves and others who are numberless.

      Not knowing what is right and wrong.

      This time we have great opportunity to learn that, not just intellectually, but to practise. Intellectual learning is good.

      But most important is to discover, actualize, to see mentally. That is the real science, inner science.

      So, this time, we are so lucky, fortunate, so fortunate, conditions are gathered to learn, to free yourselves from suffering.

      From beginningless suffering. Now you have the freedom to free yourselves from suffering of samsara.

      We should not waste precious human rebirth, most precious human rebirth, we should not take it for granted.

      Thinking that I am hopeless, can’t do anything. You have all the capacities of an omniscient one. To be free from inner causes of suffering. Your wrong concepts, the hallucinating mind. The delusions and karma, actions. The root is ignorance.

      Not knowing the I, that appears in totally wrong way and believe in that false I. From beginningless rebirths, not just from this morning.

      To cease that, to free, to cease that, great great opportunity to discover that and to realize, to eliminate that. By realizing the ultimate nature of I. The ultimate nature of I, tong pa nyi, only-emptiness, tong pa is emptiness, nyi is only. It cuts ordinary emptiness. That is a particular word. By adding nyi, which is not in English translation. But whoever translates it initially, it becomes known as such. Nyi is missing in the translation. Need to join to that. So much use now. Depend on the context. Not just tong pa, tong pa nyi. In Sanskrit, it is shunyata.

      I forgot what I am talking.

      The emphasis, the most important precious human rebirth that, our mind has all the potentials of an omniscient one.

      Who has totally ceased obscurations and completed all realizations. We have the same capacity to be like that.

      To have infinite compassion towards numberless sentient beings. An omniscient mind knowing directly past, present, future. Perfect power to, numberless narak hell beings, hungry ghosts, animals, humans, asuras, and suras, numberless beings, to benefit them, to free them gradually from oceans of samsaric sufferings forever, not just for a few days. By freeing them from the causes of suffering. Without any effort, naturally. Can do that. Like when one sun is shining, it is reflected in all waters, like oceans, drops of water, everywhere, without need of any motivation wanting to reflect. Every living being can enjoy it, plants, animals, etc. Can benefit sentient beings and bring so much happiness, all the way up to peerless happiness, sang-gye, elimination of all obscurations and completion of all realizations. Peerless happiness. Bring to every living being. Able to bring temporary and ultimate happiness, without effort, naturally, like sunlight reflected in water, millions, zillions, trillions reflections in water effortlessly. We have all the potentials this time. Especially with our human body, brain…

      Animals must go… the millipede also has the same potential, but they don’t have human rebirth now. We have human body, wow, wow, wow, most unbelievable…

      I need to say this, suras and asuras, worldly gods, they do not have opportunities like us. Worldly gods do not have good karma like us.

      So, those gods in the Thirty Three Realm, the omniscient one manifests as a drum, the sound of the drum gives teachings to those worldly gods in the Thirty Three Realm, they cannot receive teachings like guru and disciple. They are not able to receive teachings taught by the omniscient one in the form of a guru and disciple relationship. So they have to receive teachings from a drum, a mudra (seal), …

      All compounded phenomena are of the nature of impermanence.

      All contaminated phenomena are of the nature of suffering.

      All existents are empty, no-self.

      This means that they exist as mere name, they do not exist as they appear to our mind. As we trust completely as true, but it isn’t true the way they appear to our mind. We completely trust in that appearance. Self exists in mere name, but it does not exist truly. It is not the real self.

      The fourth line: nirvana is great peace.

      The worldly gods have no karma to learn those, the path to enlightenment.

      The way we are now, where we are, the continent is the southern continent, there are other continents, universes.

      Eastern continent, we are in the south. There is the western continent. Also the northern one.

      The northern continent, the lifespan of humans there live over a thousand years. There is no beggar. Everyone lives like worldly gods.

      No beggar. Everybody lives for a thousand years. I did see many.. in American Time magazine, not sure which one, so many years ago in one magazine, one photographer, in Switzerland, the person has permission to bring the… outside, he brought the camera to set up outside, maybe not in the city, maybe in the countryside, a bit later, there … flying saucer, not a normal airplane, there is one … face very long, ears very long, the person was there for a few minutes and talked to them, where we come from, we live for a thousand years… and then flew away after saying a few words.

      Maybe from time to time, aliens from another world, they come…

      From different parts of the world,…

      The way the alien described is like the northern continent. This is side talk.

      This precious human rebirth is so precious. More precious than deva realms, other human continents, this southern continent is said by the omniscient one…

      The precious teachings of the omniscient one are existing, not only sutra but Mahayana tantra, vajrayana. Not only talking this centre (Vajrayana Institute).

      These teachings exist. Only this world, only humans in this continent are the only ones who can achieve peerless happiness, the state of omniscience, elimination of all obscurations and completion of all realizations in one brief lifetime during this degenerate times. Only us. Only humans in this continent. Other humans in the other continents do not have this opportunity. To be free from suffering of death, rebirth, old age, sicknesses, to achieve the ultimate happiness forever, does not degenerate, no cause for degenerate. It is not like washing our body, every day we have to do it. Our human body is so so so precious. By this reason. Therefore, we must pay attention and day and night make it meaningful.

      As meaningful as possible. Not to take it for granted. Not to use this human life to create causes of suffering. Not to use this most precious human life to create the causes of suffering. That is not the way to use it. It has all the potential to create the causes of happiness, peerless happiness, full enlightenment. That is very important.

      In the beginning, for the new people who haven’t studied meditation, Dharma, the protection from suffering. The holding you back from falling into suffering.

      First, some brief advices for those who have not learned much meditation and Dharma, who didn’t get to learn true paths, just a few words…

      What we want is happiness, what we do not want is suffering. Happiness and suffering all come from the mind. Not come from outside. It appears to our mind as if it comes from outside, but it is not like that. It is coming from one’s own mind. There can be conditions outside, but it comes from the mind. Those things, external things, become conditions for your suffering. They also come from your mind. The main cause is the mind. The main cause of suffering and happiness is your mind.

      The rough, the worse, the heaviest suffering among sufferings, the hell, named hell, because among sufferings, it is the heaviest. Even that also comes from the mind. Among happiness, peerless happiness forever also created by your mind, came from your mind.

      Samsara, circling, being under the control of delusions and karma, nirvana, peerless happiness, ultimate happiness forever, not just a few days, weeks, not that, forever, ultimate happiness came from one’s own mind.

      Your happiness, your hell, your full enlightenment came from your own mind. Your samsara, your ultimate happiness came from your own mind. Everyday life happiness and problem came from your own mind.

      But if you think differently, if you think differently, for example, you know, while the mind is cherishing self, the I, you find many problems in life. This is not good, not enough, so many problems in life. So many things no good, bad. You live your life in suffering, in worries. That’s how our lives finish, by suffering. Not taking opportunity to enjoy our life, to create happiness. Instead of creating happiness, just create suffering on and on, on and on, by cherishing self, the I, you find many problems. The minute you change your mind, think differently, cherishing others, solved. Before you have so many problems, now they are not there. It becomes like, inner peace, inner happiness, satisfaction, you find satisfaction while you are in toilet, in the market, walking on the road, not just on your cushion, when you change your mind from cherishing self to cherishing others. You blow up the balloon, thinking how this is bad, this person is harming me, on and on, on and on, goes for days, months, years, … like blowing up a balloon, getting bigger, bigger, your concepts, holding and cherishing I, you don’t realize your mistake. Difficult to see that.

      Fortunately, if you can cherishing others, even one person, one insect, you cherish others your problem is solved. You certainly have inner happiness. Your mind cherishing others, good heart, brought happiness, create happiness. Like that example.

      Then your face changes. Before your face is very intense, your veins are on the outside, very stressed out, no smile, very stressed out, very cold, can’t smile. Now, your face changes, even your face changes when your mind changes, when you see the meaning of life,

      Even your face relaxes, smile comes, happy looking, not the political smile –  not a smile from the heart.

      Not the worldly smile. It is the smile of the eight worldly Dharmas. Not that one.

      Sincere smile, smile of compassion, smile of loving-kindness, of good heart,

      That makes your life longer, generally, except people who are so depressed, who think life is hopeless, that negative side, those who have so much pain, they think death, to die now is the solution. They think like that. Not thinking, body and mind are two things. Body is touchable, colours and shape. Mind doesn’t have colour and shape, no form, formless, clear and perceiving objects. Body is not like that.

      Those who don’t know, general people in the world don’t know, after death, the mind continues, the body does not continue.

      The body disintegrates, but the mind continues all the time. The continuation of the mind has no beginning. As it has no beginning, it has no end. Even though when you become fully enlightened, it does not end.

      Those who don’t know about the mind. Most people in the world don’t know the nature of the mind. The mental suffering created by the mind, unbearable, thinking like that, thinking that dying right now is the solution. Even intellectually we know, that the mind continues, but at that time when we face problems, normally we accept it intellectually, but in the face of difficulty, the problem is so unbearable, it may cause us to generate the thought to die, trying to kill ourselves, jump into the river, climbing to the highest storey building and jump, to commit suicide, causes us to give rise to the thought to kill ourselves,

      There is something to do with attachment, big problem with attachment, strong self cherishing thought, so strong attachment, , something happens, didn’t succeed, some problems happen, the spirits connected and harmed, this gives rise to negative thoughts to harm oneself, to commit suicide, the person alone won’t be able to tie oneself up high up to the beam, yourself alone without spirits connected, then you use the rope to tie yourself high up to a beam, and kill yourself. Yourself alone, without the interference of spirits, this is something that you can’t do. This is due to spirit harms. They cause…

      Even intellectually we may know, but when problems come, some shocks occur, strong attachment, when something we have strong attachment to and it didn’t succeed, then spirits are able to connect and cause harm, this happens in the world everyday, with so many people committing suicide.

      In the West, this is not known about spirits connecting… about suicide… However, since I brought up this subject, it is important to know. When your mind is depressed and thought of suicide comes, I am sure here we got this thought many times, when our mind is depressed. At that time it is very important to think that the nature of the mind is totally different from the body. It is formless, colourless, shapeless. The continuation of the mind has no beginning and no end. It always exists. The mind has to reincarnate, after separating from the body.

      Transmigration to bad or happy realms, happy transmigration means to reincarnate in happy realms. There is no third way to reincarnate, either evil transmigration or happy transmigration, referring to human and deva rebirths. Some living beings, their minds reincarnate in the Buddha’s pure land.

      Life doesn’t stop… this particular life does not stop but the general life continuation does not stop. The general life continuation, continuum, does not stop.

      What causes us to reincarnate in lower realms is negative thoughts, negative actions. They cause rebirth in bad transmigration. Positive thought, action, causes us to be reborn in happy realms, devas, human or pure land.

      Generally, people in the society, in the world, due to attachment, didn’t become positive actions. You can see from that side, from motivation side, negative motivation of attachment to this life, actions become negative, reborn in the lower realms of hell, hungry ghosts and animals. If you are reborn there, suffering is… even all human problems are, even the heaviest human problems put together, and compared to the suffering of cold hells, hot hells, there is no comparison. It is a great pleasure, great peace – human problems – compared to the small suffering of cold or hot hell realms. It is nothing in comparison with the lower realms suffering.

      It is so important to think to remember, when suicidal thought arises, that mind has to reincarnate, it does not end, it has to separate from the body being different from the body and reincarnate. To remember that there is reincarnation. If you think you have a big problem, then basically it is created by your own mind, your wrong concepts, then at that time think that you have to reincarnate, your mind has to reincarnate, it does not stop, it has no end. You have to remember that.

      Then, thinking in that way, your suicidal thoughts will stop. By thinking the unbelievable suffering you have to face [in future lives], the heavy suffering of lower realms, your current problems are nothing. It is very important to think about reincarnation, even if you intellectually know this. If your husband or wife left you suddenly, even if you are Buddhist and you believe in reincarnation, when that happens, not only that, but also in other cases, that is just an example, even long time Buddhists may… without meditating on the nature of life, of impermanence, until we are free from delusions and karma, we have to reincarnate. Until we are free from delusions and karma, we have to experience death. If we are free from that, we are free from that. Again, since you are born, you have to die. That is the general thing for samsaric beings. If you actualize the path, the four Noble Truths, in this very lifetime, as taught by the omniscient one, in this very life, with the wisdom directly perceiving emptiness, then you would cease the seeds of delusions, that create samsara. Then, you become free from delusions and karma, then you don’t have to reincarnate, you would be free from samsara. If you are like that,…. Otherwise, in general, after birth, there is death… and there is reincarnation…

      Even if you cannot develop the understanding of reincarnation, you can’t accept it now. If it is difficult to accept now, you can think about other things you can do in this life, other precious things in this life, you can achieve great happiness, many meaningful things in life, many precious things you can do in this life for others, that means, to others and thereby, naturally, for yourselves.

      If you can’t think in terms of reincarnation, you can think about all the precious things you can do, this can stop the suicidal thoughts.

      Sorry this has taken so long.

      Everything came from the mind, all the suffering and happiness.

      Your mind is the creator, even sometimes when you get angry at someone, suddenly anger comes and controls your life, sometimes you have, due to some situations, the person didn’t do what you said, you can see a chance as to whether you should get angry or not, when someone did something you don’t like, you have a choice —  should I get angry or not? You just follow the angry thoughts, this person did this or that wrong, the projection of anger. You have a choice to get angry or not. Sometimes you have no choice. That is just an example. You are the creator of your happiness and your suffering. Should I get angry or not? That is very interesting. You can follow anger, thinking he is bad, bad…

      Otherwise, there is freedom.

      Therefore, meditation, practising Dharma, that means, you must know the main thing is, the mind to not become… to transform mind into healthy mind, virtuous thought, not allow negative unhealthy, if the mind is unhealthy, the body becomes unhealthy. The mind being unhealthy, it disturbs…

      Like the person riding on the horse is disturbed, the horse will also be uncomfortable.

      The mind gets disturbed, the wind also gets disturbed. The four elements in your body become disturbed, unbalanced, leading to sickness, blood circulation is disturbed, leading to heart attack, all scientists have checked… those who have died are discovered to be more impatient with more anger, maybe more suicidal among those with more anger… they found out about this scientifically. I heard from Dr Chu-nan Lai.

      High blood pressure, heart attack, all these are more possible with anger.

      I remember… last year, not so long ago, one older student from Switzerland, he has very high blood pressure, he was in Nepal…

      I mentioned him to practise Tong-len, taking on other sentient beings’ suffering into your heart, to destroy your self cherishing, the inner enemy, the great demon. Destroy this self cherishing thought, and generate loving-kindness, you give away your three time merits and all happiness up to enlightenment to all sentient beings, your body, possessions, merits, results up to enlightenment, you give to sentient beings. This visualization…and something else to practise. I told him to do that meditation. He did it many times, and definitely his blood pressure goes down after half an hour, whenever he did Tong-len. You can say that it is scientifically proven. This is because blood pressure is due to self cherishing thought, the main cause. Anger is due to the main cause, the self cherishing thought. Tong len, cherishing other sentient beings, letting go of the I, cherishing other sentient beings, when you totally change your mind, you bring your blood pressure down. By generating the ultimate good heart, bodhicitta.

      Also one lady in Nepal, when I was in America, she has high blood pressure, went to hospitals and took medicine, but didn’t go down.

      I asked her to do the Tong len meditation, then her blood pressure went down, changed. Doctors are very surprised. The family is very surprised. Since she received my instructions, she practised and the blood pressure changed. There are many other cases, this is one I remember.

      The result of cherishing others and the result of cherishing self, there are big differences.

      Definitely, when the doctor says you have cancer, you must do this practice. It is a great, great opportunity, to inspire you to practise this. For you, the doctor becomes great guru to do this practice. Even though normally you don’t do it, even if you know intellectually how to do it. Therefore, the doctor, like those who harmed you become your great guru, likewise your doctor becomes a guru, for you to practise bodhicitta, good heart.

      When you do taking on suffering of numberless sentient beings’ suffering and give away your three time merits and all happiness up to enlightenment to other sentient beings, when you do that, there are more than sky of merits are collected, when you do that meditation. It purifies obscurations collected from beginningless rebirths. There are unbelievable merits.

      When you take on others’ suffering and its causes, from each sentient being, wow, wow, the amount of merits… when you give a hat you wear, different shoes to wear during different seasons, in the room and outside the house, so many shoes and hats, with each, when you give away even small thing, you are giving away to every sentient being, not just to one sentient being, you create more than skies of merits, by dedicating numberless shoes and hats to numberless sentient beings. I am just giving a small example, of the practice of Tong len.

      Then, there is the giving your body away in the form,… as taught by my guru, when you do the practice of Chod, during the white distribution, when you transform your body into nectar and offer to six realms sentient beings. When you visualize you transform the skin, blood, flesh, etc, into nectar and offer that. In lam rim, you visualize your body as numberless wish fulfilling jewels and give that away, cherishing numberless sentient beings. Numberless narak hell beings, hungry ghosts, animals, humans, asuras, and suras. Numberless ants, animals, …

      All the money in your bank, even one rupee, one dollar, make charity with that, you give to numberless sentient beings, even just one dollar, you create skies of merits with that giving. Unbelievable.

      Our three time merits and the result, all happiness up to enlightenment, up to peerless happiness, are given to numberless sentient beings. What a huge amount of merit you collect by giving it away in this way.

      It purifies your obscurations, negative karma collected from beginningless rebirths, so much are purified. That becomes the quickest path to achieve enlightenment, to be free from samsara. It makes your life most meaningful.

      I want to say this, Maitreya Buddha when he was a bodhisattva, generated bodhicitta before Shakyamuni Buddha, but he becomes enlightened later. Why? What happened.. one time there was some families… there are five tigers dying of starvation, Shakyamuni Buddha as a bodhisattva at that lifetime, offered his body to the tigers, but they didn’t come to eat him. He has to cut himself to bleed, then the mother tiger came to eat him. In this way he can make charity of his body.

      In Shantideva’s Guide to the Bodhisattva Way of Life, a great saint, a great sage from Nalanda monastery, he mentioned that even if we gave harm to a bodhisattva, due to that connection, there will be benefits… due to the bodhicitta of that bodhisattva. Hence, those tigers in the future lives, become the disciples of Shakyamuni Buddha and received the first five disciples.

      Due to the much stronger compassion of Shakyamuni Buddha, he was able to achieve enlightenment earlier than Maitreya Buddha.

      Even if not all sentient beings, even to one sentient being, one animal, one person, to be able to generate strong compassion, that will help us to achieve enlightenment quicker. Even if it is to just one sentient being. If we can generate stronger compassion, that will bring us to enlightenment quicker.

      Maybe I will mention here. By generating unbearable compassion to one sentient being, one living being, it enables us to achieve enlightenment so fast. I will give one example.

      In the Vajrayogini commetary, there is this story. The great yogi… Ngapa … who usually travelled in the sky with 500 dakinis around him. During one period when he was doing the last part of the practice to enlightenment, in a place called …, it must be near where I lived for 8 years, near Buxa. There is a season, when many people will go to a cave, with iron bars, and not easy to climb up… In the cave, there are the …, the umze, leader of the puja, the old one who has now passed away, he went there and he heard music from trumpets, long horns, chanting coming from the cave, even when he cannot see anything there. He can hear the Mahayana tantric ritual with all the music instruments. The chanting he heard he taught to the monks in Dharamsala. It is near Buxa, a concentration camp, where I lived for 8 years [as a refugee camp]. During that time, there were maybe 60 monks in residence back then, monks were put there temporarily.

      My teacher who took care of me in Tibet, enabling me to become a monk, he and some other monks when to see that cave…

      That great yogi went to that place to do his last practice of tantra, before the attainment of enlightenment. There was one lady waiting, near to a huge river. She was totally full of leprosy disease, with pus and blood coming out from her body. She asked the great yogi, please take me to the other side of the river. But the great yogi didn’t help her. Later, she asked one of the yogi’s students, a novice monk. When he saw her, he developed unbearable compassion, and he was not supposed to touch women. Also, leprosy being contagious, … but he has no thought of fear, due to unbearable compassion, he carried her on his back and crossed the river. In the middle of the river, without completely crossing it, when they reached the middle of that river, that lady was not an ordinary sentient being, even if she appeared to be ordinary. She transformed into Dorje Palmo, Vajrayogini, she took the monk in that very body, without the need to die, to the pure land of Vajrayogini. Anyone who is born there becomes enlightened immeditately. Pabhongkha Rinpoche mentioned this in his commentary on Vajrayogini. The monk went to the pure land, without the need to die. He went straight to the pure land, became enlightened before his own guru, the great yogi.

      Due to not able to see the lady as Vajrayogini, as a Buddha, one who has ceased all mistakes and completed all qualities, not an ordinary being, the monk’s mind is obscured by defilements, and can only see her as an ordinary person with pus and blood on her body.  But due to his unbearable compassion, he has no time to consider all these, he immediately carried her on his back. This purifies his mind and for him to see her as a Buddha, due to unbearable compassion for one living being. This purifies all negative karma. This completely purifies the defilements, which projected the Buddha as an ordinary sentient being. This purifies that impure, negative karma. As that karma is purified, there is no projection of an ordinary being, so he can see her as the Buddha. Even at the middle of the river, the purification is complete. He can see a Buddha as a Buddha. And he got to be taken immediately to the pure land. This is due to generating good heart for just one sentient being. This is what happens as a result. He would then be able to work for all sentient beings.

      In the hell realm, in one of Buddha Shakyamuni’s past life stories, at the occasion of his first generation of bodhicitta, at that time, there was a person pulling a carriage on a hot, burning iron ground in that hell. There was a Yama guardian sitting on that carriage. When he saw that, the Buddha has this thought, better that I suffer than for that person to suffer in that way, I will pull the carriage by myself. Instead of having another person to suffer with him, why not let that person be free from suffering.

      Due to this, the Yama guardian hit a hammer on his head, when he generated this thought of freeing the other person from suffering. That caused him to be free from that hell realm, and be reborn in Tushita or the Thirty-three realm of the devas, the gods. This is totally different from the hell, with unbelievable sensual enjoyments.

      Then, another thing, Asanga meditated on Maitreya Buddha in India, at a place near Bodhgaya, I heard of the place but I didn’t make it to see that place, you have to climb the mountain for quite a bit, people said that I can be carried in a carriage, but I didn’t feel comfortable… There are some distance to go from Bodhgaya…

      Asanga did three years retreat but nothing happened. He came out of retreat and he saw a bird flying back to its nest on the rock face. Its wings kept touching the rock, which was worn out even though the feather is soft and the rock is hard. He therefore decided to go back into retreat. Another three years passed, similarly nothing happened. That time, he saw droplets of water has bored a hole in the rock just by dripping on it. He saw that even water can make a hole in the rock. Inspired, he went back into retreat for another three years. Again nothing happened. He gave up and came out, he saw someone was cutting the rock into shape. He was again inspired to do another three year retreat. A total of 12 years, again nothing happened. He came out, he saw a black dog with its lower body full of maggots in its wound. He felt unbelievable compassion for the dog, for having infection, filled with maggots. He cut his calf, his flesh so that the maggots have something to eat. Not wanting to harm the maggots by picking them with his hands, he used his tongue. But unable to bear the sight, he closed his eyes but he cannot touch anything. When he opened his eyes, he saw Maitreya Buddha. That dog is actually Maitreya Buddha. He immediately grapped Maitreya and asked why nothing happened for so long. Maitreya Buddha took him to Tushita pureland, not the worldly god realm, not the Tushita centre in Dharamsala, India. He took Asanga to pureland, gave teachings for one morning, the teachings on the five texts of Maitreya: Ornament for Clear Realizations, etc. That one morning in the god realm is equivalent to 50 human years. When Asanga returned to human realm, he wrote down that five texts.

      Much later, Lama Atisha came to Tibet from India, when there were big problems with Buddhism in Tibet. Lots of confusion and misunderstanding. Degeneration of Dharma in Tibet at that time. A Tibetan king invited Lama Atisha to Tibet. He has unbelievable devotion to Lama Atisha, tears came to his eyes just by hearing the name of Lama Atisha.

      He looked for gold in order to invite Lama Atisha to Tibet, but he was caught by another king. His nephrew went to get him freed from prison, to pay the ransom, and was told that there is not enough gold. The king said that he would rather die in prison, instead of paying the ransom. Use the gold to invite Lama Atisha to Tibet instead. The king died in prison.

      An entourage was sent to India to invite Lama Atisha, who heard the whole story. Lama Atisha consulted Tara, if I go to Tibet, will my life be beneficial to Tibet? Tara advised that his life would be highly beneficial but his lifespan will be shortened for seven years. Lama Atisha said that that does not matter to him. He went to Tibet, but first under the pretense of going on pilgrimage, because his own monastery in India would not allow him to leave.

      He was requested to give very simple teachings to the Tibetans, who were very ignorant. To give teachings on refuge and karma, didn’t ask for high teachings of shunyata.

      Lama Atisha integrated all Buddha teachings, Hinayana and Mahayana teachings, as well as the Mahayana tantra teachings, in a way as for one person’s gradual practice to achieve enlightenment. This cancelled all misconceptions in Tibet at that time. Buddhism in Tibet thereby became pure. That text composed by Atisha was sent subsequently to India, where the pundits were impressed by that. This came much later than Asanga’s writing of Maitreya’s five texts.

      Lama Atisha composed the lam rim and many other lamas composed lam rim teachings, this enables so many beings to become Buddhas, by practising those teachings from Maitreya, which were included in Atisha’s text. Numberless beings became Buddhas. This is due to compassion of Asanga. Great compassion of Asanga, when he picked up the worms.

      Just one person’s great compassion can lead to all these benefits to sentient beings. You should know that story in this way.

      I was going to say something for the beginners, but got mixed up.

      By knowing this, you know what is the great meaning of life. That is to practise the good heart. I am talking about the benefits of the good heart. You should understand the essence, the great meaning of life.

      Buddha said in the Dharmapada:

      The Dharma, existents, are created by mind.

      The mind is principal. It goes before action. It is preliminary to action.

      For example, with a good heart, when you speak to somebody with a good heart, what comes, the result is happiness, from that action, from talking to someone with good heart. The result is happiness.

      Like wherever the body is, the shadow comes. Also, there is a need of light. Wherever the body goes, the shadow follows.

      When the virtuous action is done, definitely there is result.

      Similarly,

      All existents are created by the mind.

      Mind is principal. It goes before, preliminary to action.

      By thinking with bad heart, bad motivation, when you talk to somebody, the result is suffering.

      Example given: it is like, in India, an ox has to pull a heavy carriage. Many people, with heavy luggages, on the carriage. The ox got beaten if it didn’t move. Until it died, can’t move, can’t stand, it got beaten all the time. It can’t express, unable to talk, its tiredness, etc. so much suffering like that. Buddha used that example. Bad motivation, talking to somebody with bad motivation, the result is suffering arises.

      The conclusion, for beginners, is that really you want happiness and don’t want suffering, similarly others are exactly the same. They don’t want suffering, even in their dreams, not even the smallest suffering. They want the smallest of pleasures. This is the same for you.

      In the text of Guru Puja, by Panchen Losang Chokyi Gyeltsen, the great enlightened being:

      Others want to be happy..

      You become happy when others become happy. Others being numberless.

      You don’t want the smallest suffering, others are the same.

      Here, even one sentient being, who is more precious? You or the other? We should analyze, we should meditate.

      The monk in the previous story, he didn’t think about I, he cherishes this lady, this one person. With unbearable compassion he carried her on his back. As a result, he achieved enlightenment in that life, on that day. The result is huge. Elimination of all obscurations and completion of all realizations. Wow wow wow.

      You think your happiness, like in the west, we think day and night, when can I be happy? When can I be happy? Like a mantra recited by tibetan beggars. When can I be happy? Self cherishing thought is of course not limited to the west, also in the east. But you see, when I heard the stories, the problems. So much are due to the self cherishing thought. There is a huge difference between self cherishing thought and bodhicitta.

      The main mental problem, depression, so many millions of people suffering from depression, problem of the mind.

      Even just one being, he benefits that one being and achieves enlightenment. There are so many stories like that.

      Even for one living being, if you cherish that other one, what happens… It is like the stories I have told so far. The benefits.

      In our lives, how to make your life happy, meaningful, beneficial? The question: how to make your life most beneficial to all sentient beings? To ALL sentient beings.

      That is to change the mind, the attitude of your life, from only cherishing self to cherishing others. Even if not all sentient beings, just one. With that motivation, dedicate your life to others.

      There is no question regarding meditation, even when you are walking, sleeping, etc., working at your job, live your life for others, even if it is only for one other being. Even for one other animal. You live your life to bring happiness to others, even if you cannot accept reincarnation. This is something you can do now, you can change. Do this now: live your life for others, pacify suffering. Live your life, working for government, for company, for Dharma centres, in this way. This brings inner happiness, satisfaction. Your mind is very calm. Self cherishing working only for yourself, working day and night, for just one sentient being which is you, then there would be so many problems and suffering. Life becomes very poor, like those of animals. Even if you have trillions of dollars, eating millions dollars food, your mind won’t be happy. Mind suffers a lot.

      Live your life with a kind heart for others, whatever you are doing, eating, sitting, working…

      I plan to go through and explain the meditation on lam rim, the rest of one’s life as a Dharma practice. What I have said would become a part of that. For the very beginner, who has never heard teachings or meditation, this is what I have to say. You do good things for others, your own happiness comes by the way, while you are working for others. Achieving happiness for others, relieving their problems, while you are doing that, your own happiness comes naturally, without any need to worry about it.

      One action, with two successes. This is very wise. Living with good heart is very wise. Whether you are a beggar or billionare, this is a very wise way. Billionares who have everything can have great suffering.

      Think of others first, happiness for others and happiness for you. This is true success.

      The other way: working only for yourselves. Shantideva, great bodhisattva, mentioned that working for yourselves you would not achieve enlightenment, even the happiness of this life would not succeed. It creates obstacles for happiness of this life. That is the experience.

      The good heart is very important. Even if you don’t accept reincarnation and karma, this one is most important. Because you don’t want to receive harm from others, you want love from others,…

      First, others need your help. From that cause, you would receive help from others, kindness from others.

      Create the cause for happiness.

      Due to all the past, present, and future merits collected by me, all the three time merits collected by numberless sentient beings and numberless buddhas,

      May bodhicitta, the source of all happiness and success including enlightenment for sentient beings, may it be generated in the hearts of all the six realm sentient beings, in the hearts of everybody in this world,

      Not only human beings, also the insects, hungry ghosts, devas, especially in the hearts of students of FPMT, centre benefactors, volunteers working for the centres,

      Especially all those who rely upon me, all those whose name has been given to me, all those for whom I have promised to pray for, in all their hearts, especially in all of us here including our family members who died and are living, in everybody’s hearts

      It seems that this prayer has…, not only to generate bodhicitta, doing this prayer like this, I noticed recently, in Italy, one lady’s dog was very sick. Supposed to be dead. Went to the vet, and they thought the dog would die. Asked her to take it back to home. They would have an idea, having worked with animals for a long time. That lady took her dog back home. She put my picture in front of the dog, and she relied upon me. With strong reliance, as a result, the dog got better and now it is healthy. It was supposed to be dead, according to the vet. I think, in the Blue Mountains, there was a small girl, who was sick. Someone gave her a picture of me, that the young girl placed on her heart, and she relied upon me and she got better. These are stories I heard recently. This is not because I am special, but it is due to that prayer of dedication to help sentient beings.

      Especially all those who rely upon me, all those whose name has been given to me, all those for whom I have promised to pray for, in all their hearts, especially in all of us here including our family members who died and are living, in everybody’s hearts,

      Especially those who come to Vajrayana Institute in the beginning, now, and in the future, ..

      May bodhicitta be generated in our hearts

      Without the delay of even a second and in whose heart it has been developed may it increase.

      Due to all the past, present, and future merits collected by me, all the three time merits collected by numberless sentient beings and numberless buddhas,

      Which exists in the mere name, may the I, who exist in mere name, achieve the total elimination of all obscurations and completion of all realizations, which exists in mere name, and lead all sentient beings, who exist in mere name, to that enlightenment, Buddhahood, total elimination of all obscurations and completion of all realizations, which exists in mere name, by myself alone who exist in mere name.

      Just as the brave Manjushri and Samantabhadra too, realized things as they are, also I dedicate all these merits in the best way, that I may follow their perfect example.

      I dedicate all these roots of virtue with the dedication praised as the best by the victorious ones thus gone of the three times, so that I might perform the noble bodhisattvas’ deeds.

      Thank you and good night.




      Đức Đalai Lama – NHẬP BỒ ĐỀ HẠNH LUẬN – Melbourne 2011

       – Thời gian: 11-13 tháng 6 năm 2011 –
      Địa Điểm: Melbourne – Australia –
      Nội Dung: Giảng về Nhập Bồ Đề Hạnh Luận của Shantideva.

      Dalai Lama

      Tài liệu Lưu Trữ:

      Chánh Văn :< Đọc & Nghe Nhập Bồ Đề Hạnh Luận >

      Thâu Âm< Nghe Bài Giảng >

       





      Lama Zopa Rinpoche – Sydney 2015

       Thời Gian: Tháng 6 năm 2015

      • Địa Điểm:
        • Liberty Palace (Bankstown)
        • Vajrayana Institute (Asfields)
        • Tịnh Xá Minh Đăng Quang (Cabramatta)

      Lama Zopa Rinpoche từ Blue Mountain về lại Sydney, lưu lại gần một tuần. Trong thời gian này, ngài dành nhiều thời gian cho người Việt. Đêm tiệc chay gây quỹ tượng Phật Di Lạc, ngày thuyết pháp tại Tịnh Xá Minh Đăng Quang.

      Huấn từ và hình ảnh của hai sự kiện này được lưu trữ tại đây.

      NGHE GIẢNG

      Hạ Tải Thâu Âm và nghe trực tuyến: < MP3: English – Viet >

      Video: https://youtu.be/QxZM6YvVEtg

      HÌNH ẢNH

      Xem hình ảnh của ngài tại chuyến Úc du này: < Hình Ảnh >


      ENGLISH TEACHINGS (BÀI GIẢNG TIẾNG ANH)




      Dza Patrul Rinpoche: CHÓI RẠNG ÁNH MẶT TRỜI (Cẩm Nang Hành Trì Nhập Bồ Đề Hạnh Luận)

       – A commentary on Shantideva’s Bodhisattva Way Of Life, by Patrul Rinpoche
      ༄༅། །བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་སྤྱོད་པ་ལ་འཇུག་པའི་སྒོམ་རིམ་རབ་གསལ་ཉི་མ་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ། ། –
      Tác Luận: Đức DZA PATRUL RINPOCHE
      Việt ngữ
      : Hồng Như, bản tháng 9/2013
      Hạ Tải PDF:  <<Chói Rạng Ánh Mặt Trời – Sách PDF  >>
      Điều kiện hành trì: Pháp phổ thông, mọi người đều có thể đọc và hành trì.

      Cẩm nang hành trì: Thọ Bồ Tát Giới – Tu Bồ Tát Hạnh theo Nhập Bồ Đề Hạnh Luận của ngài Tịch Thiên (Shantideva) –


      SƯỜN BÀI

      • A1. NGƯỜI TU                                           [=CHƯƠNG 1]
      • A2. TÂM NGƯỜI TU
        • B1. Bồ Đề Tâm Nguyện
        • B2. Bồ Đề Tâm Hành
        • B3. Thọ Bồ Tát Giới
          • C1. Chuẩn bị Thọ Giới
            • D1. Mở Tâm Hoan Hỉ
            • D2. Bảy Hạnh Phổ Hiền
              • E1. Cúng Dường           [=CHƯƠNG 2]
              • E2. Qui Y, Đảnh Lễ
              • E3. Sám hối
              • E4. Tùy hỉ                       [=CHƯƠNG 3]
              • E5-7. Thỉnh chuyển pháp luân, Thỉnh Phật trụ thế, Hồi hướng công đức
            • D3. Chuyển Tâm
          • C2. Thọ Giới Bồ Tát
          • C3. Hoàn Tất Thọ Giới
      • A3. NỘI DUNG PHÁP TU  Làm thế nào tu theo pháp hành của bồ tát
      • Dẫn nhập.
        • B1. Hạnh Thí                                    [=CHƯƠNG 4 & 5]
        • B2. Hạnh Giới
          • C1. Phương tiện giữ giới
          • C2. Vận dụng phương tiện giữ giới
            • D1. Giới Hạnh Bồ Đề Tâm Nguyện
              • E1. Điều cần tránh
              • E2.Điều cần giữ
            • D2. Giới Hạnh Bồ Đề Tâm Hành
              • E1. Điều cần tránh
              • E2.Điều cần giữ
        • B3. Hạnh Nhẫn                               [=CHƯƠNG 6]
        • Cơ hội tu hạnh nhẫn
          • C1. Ba lý do nên tiếp nhận khổ đau [an thọ khổ nhẫn]
          • C2. Ba lý do không nên bận tâm cho việc bị hại [nại oán hại nhẫn]
          • C3. Ba pháp quán thậm thâm [đế sát pháp nhẫn]
        • B4. Hạnh Tấn                                   [=CHƯƠNG 7]
          • C1. Diệt Yếu Tố Nghịch
          • C2. Nuôi Yếu Tố Thuận
        • B5. Hạnh Định                                  [=CHƯƠNG 8]
          • C1. Xả bỏ yếu tố nghịch
            • D1. Xả bỏ bận tâm thế tục
            • D2. Xả bỏ tán tâm
              • C2. Nhiếp tâm nơi đề mục
            • D1. Quán bình đẳng ngã tha
            • D2. Quán hoán chuyển ngã tha
        • B6. Hạnh Tuệ                                     [=CHƯƠNG 9]
          • C1. Nhận diện
          • C2. Áp dụng vào tánh không
            • D1. Nhân vô ngã
            • D2. Pháp vô ngã
              • E1. Thân niệm xứ
              • E2. Thọ niệm xứ.
              • E3. Tâm niệm xứ.
              • E4 Pháp niệm xứ.
      • A4. KẾT QUẢ PHÁP TU                           [=CHƯƠNG 10]

      BẢN VIỆT NGỮ

      I.1. Đệ tử đảnh lễ / Thiện Thệ, Pháp Thân,
      chư vị Trưởng tử / cùng người xứng đáng.
      Nay tôi kính xin / thuận theo lời Phật,
      tóm lược lối vào / giới hạnh bồ tát. [NBĐHL – I. 1]

      Ở đây có bốn tiêu đề

      • A1. Người tu
      • A2. Tâm người tu
      • A3. Nội dung pháp tu
      • A4. Kết quả pháp tu

      A1. NGƯỜI TU

      Thứ nhất, hành giả bước theo pháp hành này phải là một người hội đủ mọi tự tại và thuận duyên, phải có chánh tín và tâm từ bi.

      A2. TÂM NGƯỜI TU

      Thứ hai, tâm bồ đề có hai: bồ đề tâm nguyện và bồ đề tâm hành.

      B1. Bồ Đề Tâm Nguyện

      Về bồ đề tâm nguyện, kinh sách dạy rằng:

      Phát tâm bồ đề là / Vì lợi ích chúng sinh / Nguyện đạt chánh đẳng giác.
      [Hiện Quán Trang Nghiêm, chương 1, đoạn 18]

      Nói cách khác, đây là tâm nguyện vì lợi ích của chúng sinh mà cầu quả vị Phật.

      B2. Bồ Đề Tâm Hành

      Bồ đề tâm hành là lập chí bước theo pháp hành của bồ tát.

      B3. Thọ Bồ Tát Giới

      Để mang tâm bồ đề về khởi phát trong tâm, người tu cần thọ giới từ một đấng chân sư. Trong trường hợp này, cần theo đúng nghi thức thọ giới bồ tát, hoặc của Duy Thức tông, hoặc của Trung Quán tông. Ở đây hướng dẫn phương pháp tự thọ giới.

      Có ba phần: chuẩn bị; chánh lễ; hoàn tất.

      C1. Chuẩn bị Thọ Giới

      Có ba bước: mở tâm hoan hỉ; dâng bảy hạnh phổ hiền; chuyển tâm

      D1. Mở Tâm Hoan Hỉ

      Khởi tâm mừng vui vì hiểu lợi ích của tâm bồ đề được giải thích trong chánh văn chương

      D2. Bảy Hạnh Phổ Hiền

      Dâng bảy hạnh Phổ hiền để tích lũy công đức. Hãy nghĩ rằng mình và chúng sinh đang thật sự ở trước mặt phước điền với hết thảy chư Thế Tôn cùng chư bồ tát. Hướng tâm về vô vàn thiện đức nhiệm mầu của chư thánh chúng để dâng bảy hạnh Phổ hiền.

      E1. Cúng Dường

      Bày biện hoa, hương, đèn, nước sạch, thực phẩm, càng nhiều càng tốt. Rồi để hiện trong tâm hết thảy núi châu ngọc, rừng gỗ quí, cảnh thiên nhiên thanh tịnh đẹp rạng ngời của toàn cõi thế gian. Đây là phẩm vật cúng dường thuộc loại “không sở hữu”. Hãy cúng dường cả hai loại, phẩm vật sở hữu và không sở hữu, với các câu kệ sau đây:

      Với các câu kệ tiếp theo, mang thân khẩu ý về phụng sự:

      Với các câu kệ tiếp theo, tán dương đảnh lễ:

      Với đầy đủ tám phẩm cúng dường[1]. Để câu tụng xuất phát từ tận đáy tim sâu thẳm, cúng dường bằng trọn tấm lòng thiết tha chân thành.

      Cảnh giới thanh tịnh, là vì cúng phẩm này dâng lên Tam Bảo đang thật sự hiện diện. Chất liệu thanh tịnh, là vì phẩm cúng dường không bị việc bất chính hay ý tham lẫn làm cho ô nhiễm. Động cơ cũng thanh tịnh, là vì không mong hồi báo, không cầu công đức.

      E2. Qui Y, Đảnh Lễ

      Hướng về ruộng phước phi phàm này, là tam bảo tối thượng của cỗ xe đại thừa phi thường, khởi bằng cái tâm phi phàm vì lợi ích của hết thảy chúng sinh, phát nguyện từ nay cho mãi đến khi thành tựu quả vô thượng bồ đề, sẽ quay về nương dựa nơi Tam Bảo, và đọc ba lần câu kệ số 26:

      E3. Sám hối

      Với câu này, hướng về ruộng phước tối thượng để phát lộ sám hối, thỉnh chư vị rộng lượng đoái thương. Nghĩ rằng:

      • Hối hận cho ác nghiệp đã gieo, tựa như lỡ uống thuốc độc;
      • Tam bảo là nền tảng, là điểm dựa, tựa như thần y chữa lành mọi bệnh dữ do thuốc độc gây nên;
      • Chánh pháp là biện pháp hóa giải, tựa như thuốc giải độc;
      • Kiên quyết không tái phạm, tựa như nước cam lồ giúp thân thể phục hồi thể lực.

      Khởi bốn ý niệm trên, đọc như sau:

      Phát huy năng lực hối cải:

      Phát huy năng lực nền tảng

      Phát huy năng lực hóa giải

      E4. Tùy hỉ

      Khởi tâm chân thành mừng vui trước tất cả thiện căn công đức, cùng quả mà công đức này mang đến, đọc tụng như sau:

      E5-7. Thỉnh chuyển pháp luân, Thỉnh Phật trụ thế, Hồi hướng công đức

      Để hành trì hạnh thứ năm là thỉnh chuyển pháp luân,  hạnh thứ sáu là thỉnh Phật trụ thế, và hạnh thứ bảy là hồi hướng công đức, hãy đọc các câu kệ sau đây, để ý nghĩa lời kệ xuất phát từ tận đáy lòng:

      D3. Chuyển Tâm

      Nói về phần chuyển tâm, khởi từ câu kệ 11, hãy luyện tâm mình bằng cách dâng hiến trọn vẹn thân mạng, tài sản và công đức của cả ba thời quá khứ hiện tại và vị lai, phụng sự cho lợi ích của chúng sinh, không chút ngần ngại. Khởi tâm nguyện sâu xa rằng nhờ đó mà chúng sinh hữu tình ở khắp mọi nơi đều sẽ đạt tất cả mọi an vui thắng diệu, từ niềm vui trước mắt cho đến tận quả đại lạc cứu cánh.

      C2. Thọ Giới Bồ Tát

      Thứ hai, để khởi đầu phần thọ giới, cần thỉnh mời chư Phật đà Bồ tát đoái tưởng:

      Kính thỉnh hết thảy / mười phương Phật đà,
      Hết thảy Bồ tát / trên mười thánh địa,
      Hết thảy đạo sư / chấp giữ kim cang,
      Kính xin chư vị / thương tưởng cho con

      Rồi thọ giới bồ đề tâm nguyện và bồ đề tâm hành cùng một lúc, bằng cách đọc ba lần hai câu tụng dưới đây:

      C3. Hoàn Tất Thọ Giới

      Khởi tâm mừng vui, đọc từ câu 26 đến 33. Rồi mời người khác cùng vui và đọc câu kệ 34

      Sau đó, có thể đọc tụng bài nguyện sau đây:

      Bồ đề tâm trân quý
      Nơi nào chưa có, nguyện sẽ phát sinh
      Nơi nào đã sinh, nguyện không thoái chuyển
      Vĩnh viễn tăng trưởng / không bao giờ ngừng

      Ngang đây hoàn tất phần phát khởi tâm bồ đề trong tâm người tu.


      A3. NỘI DUNG PHÁP TU
      Làm thế nào tu theo pháp hành của bồ tát

      Dẫn nhập

      Hết thảy mọi pháp hành của bồ tát đều bao gồm trong sáu hạnh ba la mật [còn gọi là lục độ].

      Tinh túy sáu hạnh này có thể tóm lược như sau:

      1. Thí, bao gồm bốn đặc tính
      2. Giới, bao gồm bốn đặc tính
      3. Nhẫn, bao gồm bốn đặc tính
      4. Tấn, bao gồm bốn đặc tính
      5. Định, bao gồm bốn đặc tính
      6. Tuệ, bao gồm bốn đặc tính.

      Bốn đặc tính là gì? Kinh sách dạy bốn đặc tính là:

      1. phá tan mọi chướng ngại;
      2. đi chung với trí tuệ siêu việt khái niệm;
      3. toàn thành mọi nguyện ước;
      4. thành thục chúng sinh ba loại căn cơ.

      Chướng ngại có sáu, tương ứng với sáu hạnh ba la mật:

      • tham lẫn;
      • giới bất nghiêm;
      • sân hận;
      • lười biếng;
      • tán tâm;
      • ác tuệ.

      Toàn thành nguyện ước chúng sinh, là vì:

      • hạnh thí: cho ra mọi sở hữu;
      • hạnh giới: thành nơi chốn cho người phát khởi tín tâm;
      • hạnh nhẫn: tự tại trước nghịch cảnh;
      • hạnh tấn: làm được việc cần làm;
      • hạnh định: đạt thần thông, khiến chúng sinh tăng trưởng tín tâm
      • hạnh tuệ: biết điều cần làm, cần bỏ.

      Nhờ đó mang lại mọi điều chúng sinh nguyện mong, giúp tâm chúng sinh chín mùi một cách trực tiếp hay gián tiếp bằng cách đưa chúng sinh đạt quả giác ngộ, quả A la hán, Bích Chi Phật, hay quả vị Phật.

      Dưới đây hướng dẫn phương pháp đưa sáu hạnh ba la mật vào pháp chuyển tâm.

      B1. Hạnh Thí

      Một là hạnh thí, tu bằng cách nhớ đến hậu quả tai hại của lòng tham lẫn, của thói quen tham luyến thân thể, tài sản, công đức trong cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, đồng thời nhớ đến lợi ích của hạnh thí, lý do vì sao nên cho ra v.v…

      B2. Hạnh Giới

      Thứ hai là hạnh giới, lời khai thị nói rõ về hai việc: phương tiện giữ giới và vận dụng phương tiện này để giữ giới.

      C1. Phương tiện giữ giới

      Phương tiện giữ giới có ba:

      1. bất phóng dật là tâm cẩn trọng, tỉ mỉ quán xét điều cần lấy, cần bỏ (Skt.apramāda; Tib.བག་ཡོད་ bayö);
      2. chánh niệm là tâm ghi nhớ chính xác, không quên điều cần lấy, bỏ. (Skt.smṛti; Tib.དྲན་པ་ drenpa)
      3. chánh tri là tâm tỉnh giác, tự kiểm soát tình trạng của thân khẩu và ý (Skt.saṃprajanya; Tib.ཤེས་བཞིན་, she zhin)

      C2. Vận dụng phương tiện giữ giới

      Trước hết, vận dụng chánh niệm để luôn nhớ không quên điều cần lấy, cần bỏ.

      Tiếp theo, vận dụng chánh tri để tự kiểm soát thân khẩu và ý của chính mình, vừa chớm muốn lánh điều thiện, ham điều bất thiện, là có thể nhận biết được ngay.

      Lúc ấy, vận dụng tâm bất phóng dật để nhớ lại lợi ích của việc thiện mà làm ngay, hoặc nhớ lại hậu quả tai hại của việc bất thiện mà ngừng ngay.

      Niềm tự tín nơi nhân quả là nền tảng của mọi pháp hành, vì vậy cần nương lời của Như lai để khởi tâm thâm tín nhân quả. Từ tận đáy lòng, giữ tâm xác quyết sâu xa vể cảnh khổ sinh tử, biết rõ làm ác thì gặp ác, một khi sa cõi ác đạo rồi, khổ đau bức bách triền miên, đừng nói chi toàn thành lợi ích cho chúng sinh, ngay cả chính mình cũng không tự gánh nổi!

      D1. Giới Hạnh Bồ Đề Tâm Nguyện

      E1. Điều cần tránh

      Giới hạnh có nhiều loại, nhưng có ba nguyên tắc đặc biệt cần tránh vì đi ngược với bồ đề tâm nguyện:

      1. từ bỏ chúng sinh
      2. thoái chuyển thành tâm nhị thừa (thanh văn duyên giác)
      3. phạm bốn pháp bất tịnh

      Bốn pháp bất tịnh được nói rõ trong câu kệ sau đây:

      Lừa bậc đáng tôn kính / hối hận không đúng chỗ /
      Phỉ báng bậc thánh nhân / Lừa đảo chúng hữu tình /
      là bốn pháp bất tịnh / phải nỗ lực từ bỏ. /
      Nếu làm điều ngược lại / thì gọi là tịnh pháp.

      E2.Điều cần giữ

      Yếu tố thuận

      1. hướng quả vô thượng bồ đề cùng với nhân của quả này;
      2. vui cùng thiện hạnh của người khác, từ tận đáy lòng cảm thấy rất biết ơn khi chúng sinh làm việc lành;
      3. hồi hướng mọi thiện căn công đức về cho chúng sinh thành tựu Phật quả.

      Ba pháp quán đại thừa này cần được mang về giữ ở trong tim.

      D2. Giới Hạnh Bồ Đề Tâm Hành

      E1. Điều cần tránh

      Trong số những yếu tố nghịch với bồ đề tâm hành, nói chung cần phải từ bỏ tâm tác hại chúng sinh cùng tất cả mọi điểm tựa của tâm này. Đặc biệt đối với các trọng giới như xâm phạm sở hữu của Tam Bảo, phỉ báng bồ tát, từ bỏ chánh pháp, đều cần được giữ gìn thận trọng như giữ mạng sống của chính mình.

      E2.Điều cần giữ

      Nói về yếu tố thuận, đừng bao giờ chê việc thiện nhỏ mà không làm, và phải luôn xét kỹ xem mình có đang tu với ba nguyên tắc hay không.

       

      B3. Hạnh Nhẫn

      Cơ hội tu hạnh nhẫn

      Có nhiều trường hợp cần phải nhẫn, bắt đầu với bốn cảnh sau đây:

      • Bị người khinh khi
      • Bị người chửi mắng
      • Bị người dèm pha
      • Hay bị gây đau đớn

      Và, tương tự như vậy, khi bốn cảnh nói trên xảy ra cho sư phụ, bằng hữu hay người thân [cộng lại thành tám cảnh]

      Thêm vào bốn cảnh tiếp theo đây, xảy ra cho kẻ thù hay những kẻ đối đầu với ta:

      • Khi họ được an vui hạnh phúc
      • Khi họ được danh vọng, lợi lạc
      • Khi họ được tôn vinh
      • Khi họ người đời ngợi khen

      Thêm vào đó, có lúc cảnh trái ngược với mười hai cảnh nghịch ý này, nghĩa là mười hai cảnh thuận ý, bị ngăn trở, vậy tổng cộng có hai mươi bốn cơ hội để tu hạnh nhẫn.

      Bất kể thế nào, đừng bao giờ để tâm thoái chí nản lòng vì cảnh hiện trước mắt hay vì khổ đau phải gánh chịu, thay vào đó, hãy tiếp nhận khổ đau, đừng nổi giận với người gây hại, đừng bận tâm đến việc bị hại, giữ tâm vững vàng an định nơi tánh không thâm sâu của thực tại.

      Vậy, mỗi trường hợp nhân lên ba lần, thành 72 loại nhẫn cần tu.

      C1. Ba lý do nên tiếp nhận khổ đau [an thọ khổ nhẫn]

      • Nhờ khổ mà sạch được ác nghiệp. Vậy hãy nên tiếp nhận khổ đau, biết đây là cây chổi quét đi mọi lỗi lầm.
      • Nhờ khổ mà biết chán khổ sinh tử luân hồi, khởi tâm từ bi với chúng sinh, hướng thiện hạnh, tránh ác hạnh. Vậy hãy nên tiếp nhận khổ đau, biết đây sẽ là điều thúc đẩy mình đến với thiện đức.
      • Nhờ khổ mà quét tâm kiêu ngạo, dẹp nọc ganh ghen, thắng sức mạnh của tham chấp, đưa đến quả thành tựu. Vậy hãy nên tiếp nhận khổ đau, biết đây chính là phẩm trang nghiêm cõi tâm.

      C2. Ba lý do không nên bận tâm cho việc bị hại  /
      [nại oán hại nhẫn]

      • Vì lòng từ bi đối với người hại mình: thử nghĩ xem, chúng sinh mê muội bị phiền não khống chế, đối với chính bản thân họ còn tác hại, huống chi người khác.
      • Vì biết lỗi ở nơi mình: người ta hại mình bây giờ chỉ là do nghiệp của mình trong quá khứ và thái độ của mình trong hiện tại.
      • Vì biết rằng nhờ kẻ thù gây hại nên ta mới có cơ hội tích lũy công đức tu nhẫn, vốn là nền tảng của hết thảy mọi thiện hạnh bồ tát. Vậy kẻ thù chính là bạn lành, thật sự mang lợi ích lớn lao đến cho ta.

      C3. Ba pháp quán thậm thâm [đế sát pháp nhẫn]

      Hạnh nhẫn có thể huân dưỡng bằng cách quán niệm với lòng xác quyết về giáo pháp thậm thâm qua ba cách sau đây:

      • Quán về chân đế, là chân tánh không, siêu việt mọi khái niệm: tu hạnh nhẫn bằng cách quán chiếu việc bị hại và người gây hại, cả hai đều không thật có.
      • Quán về tục đế, cảnh hiện huyễn ảo của duyên sinh: tu hạnh nhẫn bằng cách chứng biết người gây hại và việc bị hại, không bên nào có một cách độc lập.
      • Quán về sự hợp nhất bất khả phân của chân tánh của tâm: tu hạnh nhẫn bằng cách nhận diện cơn sân hận này bản lai thanh tịnh, hoàn toàn không có nền tảng hay nguồn gốc.

      B4. Hạnh Tấn

      Ở đây có hai phần: diệt yếu tố nghịch với hạnh tấn, là ba loại giải đãi; và nuôi sáu lực, là yếu tố thuận với hạnh tấn.

      C1. Diệt Yếu Tố Nghịch

      1. nhờ móc câu vô thường thúc hối mà diệt được sự giải đãi thích ngồi không;
      2. nhờ vui cùng diệu Pháp mà diệt được sự giải đãi thích việc bất thiện;
      3. nhờ nâng đỡ lòng tự tin của chính mình mà diệt được sự giải đãi thoái chí nản lòng.

      C2. Nuôi Yếu Tố Thuận

      1. Phần chuẩn bị, ứng với năng lực chí nguyện: đây là chí nguyện tu theo Phật pháp, do thấy được lợi ích của việc thiện và hậu quả tai hại của việc bất thiện.
      2. Phần chính, ứng với năng lực tự tín: đây là nguồn nghị lực phát sinh từ sức mạnh của trái tim, bảo đảm một khi việc thiện đã bắt đầu là sẽ hoàn tất. Lực tự tín này có ba phương diện:
      3. Tự tín trong hành động: Như mặt trời ló dạng trên mặt đất, đừng để chướng ngại quấy nhiễu, cũng đừng để nghịch cảnh xô đẩy. Như mặt trời chuyển động một mình: tự mình chiến thắng sức mạnh của Ma Vương, đừng cậy nhờ ai khác, cứ thế, thành tựu quả vô thượng bồ đề. Cuối cùng, như mặt trời tỏa ánh sáng chan hòa trên toàn cõi thế, nhờ vận dụng trí, bi và nguyện của bồ tát mà tự mình, chính mình, đủ khả năng giữ gìn sự sống cho toàn thể chúng sinh. Nói cách khác, hãy hăng hái nỗ lực mang lợi ích về cho chúng sinh ở khắp mọi nơi, cùng tận không gian.
      4. Tự tín trong khả năng: Hãy ý thức mình thuộc dòng giống thượng căn, phát chí nguyện mãnh liệt không để bất kỳ một phá giới phạm giới nào, dù là nặng hay nhẹ, làm nhơ dòng giống Phật.
      5. Tự tín trước phiền não: Hãy xem nhẹ phiền não, đừng để bất cứ nghịch cảnh nào khiến phải bận tâm.
      6. Năng lực niềm vui: Luôn tu thiện pháp với trọn niềm hăng say vui thú, nhưng không mong cầu bất cứ quả lành nào, cứ hễ làm được việc lành là tâm đều rộn rã mừng vui.
      7. Năng lực chừng mực: Bao giờ thân nhọc tâm mệt, quét sạch mọi che chướng bằng cách buông nghỉ một thời gian, để rồi mau chóng tiếp tục làm việc thiện với trọn niềm hăng say.
      8. Năng lực chuyên cần: Tận diệt những gì cần diệt bỏ, tận tụy áp dụng chánh niệm và chánh tri để phá nhiễm tâm.
      9. Năng lực tự chủ: Tự luyện mình trong mọi giới luật, nhớ lời dạy về tâm bất phóng dật để tự giữ gìn ba cửa thân khẩu và ý của chính mình.

      B5. Hạnh Định

      Có hai phần: xả bỏ yếu tố nghịch với hạnh định, và nhiếp tâm vào đề mục thiền chỉ.

      C1. Xả bỏ yếu tố nghịch

      Phần đầu, xả bỏ yếu tố nghịch, có hai tiêu đề: xả bỏ bận tâm thế tục, và xả bỏ tán tâm.

      D1. Xả bỏ bận tâm thế tục

      Nói về các mối bận tâm thế tục, tâm sẽ không thể đạt định nếu còn luyến cha mẹ, thân nhân, bằng hữu, thị giả. Vậy cần xả bỏ thói quen lo toan và bận rộn, một mình ở chốn cách ly vắng vẻ thích hợp với pháp tu thiền.

      Để tâm tham lợi, tham danh, tham lời khen, tham vinh dự, tham nhu cầu vặt vãnh, đeo đuổi theo lòng tham chỉ tạo chướng ngại cho đường tu chân chính, vậy phải đoạn lìa mọi khuynh hướng mong cầu và âu lo tương tự [thiểu dục], luyện tâm biết vui với những gì mình có [hỉ túc].

      D2. Xả bỏ tán tâm

      Cho dù ở nơi cách ly, không khởi tâm mong cầu vật chất hay những thứ tương tự, nhưng nếu còn vướng ái dục thì vẫn không thể đạt định, tâm sẽ không có khả năng an trụ trong tịnh chỉ. Muốn đạt các tầng thiền tịnh chỉ, bắt buộc phải dứt bỏ ái dục, điều này rất quan trọng, vì vậy cần tuyệt hết tâm niệm mê luyến người khác phái, bằng cách quán về nhân, vốn không dễ kiếm; về tánh, vốn bất tịnh, và về quả, đưa đến nhiều hậu quả tai hại v.v…

      Hơn nữa, cần ý thức tám mối bận tâm thế tục [bát phong] và mọi ý nghĩ hướng về đời sống hiện tiền đều là kẻ thù chân chính. Vì vậy cần chiêm nghiệm về hậu quả của dục niệm, giữ nội tâm trang nghiêm, chân thành nỗ lực xả bỏ tất cả, bất kể dục niệm có trùng điệp đến mức nào.

      C2. Nhiếp tâm nơi đề mục

      Nói về nội dung của pháp tu định, tuy có nhiều phương pháp, nhưng ở đây chủ yếu là để huân dưỡng tâm bồ đề. Pháp tu này có hai mặt: quán bình đẳng ngã tha, và quán hoán chuyển ngã tha.

      D1. Quán bình đẳng ngã tha

      Cần thấy rằng nếu chỉ biết quan tâm cho bản thân mà bỏ mặc người khác, thái độ này thật trái lẽ. Là vì ta cùng người khác đều giống như nhau, đều mong cầu hạnh phúc, không muốn khổ đau. Vì vậy mà phải quán về sự bình đẳng giữa mình và người khác.

      Như kinh sách nói

      Niệm bình đẳng ngã tha
      cần tinh tấn huân dưỡng
      ngay từ đầu pháp hành.
      Vì ta và hữu tình
      đối với vui và khổ
      đều bình đẳng như nhau,
      cần gánh vác hữu tình
      như gánh vác bản thân.

      Vậy thì ở bước đầu hãy tu pháp quán tâm bồ đề bình đẳng ngã tha. Quán như sau:

      Chúng sinh hữu tình nhiều như không gian vô tận, tuy vậy không một chúng sinh nào không từng là cha, là mẹ, hay là bạn của ta. Đức Long Thọ dạy rằng:

      Mỗi người mẹ của ta
      trong các đời quá khứ
      nếu nhỏ bằng hạt mầm,
      số lượng nhiều vô tận,
      mặt đất toàn cõi thế
      cũng không sao chứa nổi.

      Dựa vào kinh sách và lý lẽ, ta có thể xác định rằng hết thảy chúng sinh đều đã từng rất thân thiết với mình.

      Mỗi khi vui, từ tận đáy lòng hãy khởi tâm nguyện: “nguyện khắp cả chúng sinh có được hạnh phúc, cùng nhân duyên tạo hạnh phúc.” Tương tự như vậy, mỗi khi khổ, từ tận xương tủy hãy khởi ước nguyện: “nguyện tôi cùng hết thảy chúng sinh thoát được khổ đau cùng nhân duyên gây khổ!”

      Ở giai đoạn này, có khi chướng ngại sẽ đến, người tu có thể sẽ khởi tâm nhị thừa, nghĩ rằng: “tôi sẽ diệt khổ đau của chính mình, tôi chẳng mong đợi gì nơi ai, cũng chẳng cần phí công cố gắng diệt khổ cho người.” Thế nhưng Nhập Bồ Đề Hành Luận có nói:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 97]

      Nói vậy cần gì lánh khổ tương lai,
      vốn chẳng phạm đến tôi trong hiện tại?

      Cần gì phải nỗ lực tích lũy tìm cầu sức khỏe, thực phẩm, y phục v.v… cho tương lai. Cái tôi này đây mỗi sát na đều đã không còn, sát na sau đã thành “kẻ khác”. Chỉ vì vô minh nghĩ rằng tôi trong tương lai cũng chính là tôi trong hiện tại, nhưng đó chỉ là vọng tưởng. Đúng như Nhập Bồ Đề Hành Luận có nói:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 98]

      Ý nghĩ: “Nhưng tôi là người chịu khổ!”
      thật ra chỉ là ý nghĩ sai lầm,
      là vì khi chết là một người khác,
      mà khi tái sinh lại là người khác.

      Lấy ví dụ, người mê muội nghĩ rằng: “Đây là dòng nước năm ngoái tôi làm rơi chiếc áo”, hay là “đây là con sông hôm qua tôi đi qua”. Nhưng nước cuốn trôi chiếc áo năm ngoái đâu phải là nước bây giờ, và sông của ngày hôm qua cũng đã khác. Tương tự như vậy, tâm của quá khứ đâu phải là tôi và tâm của tương lai cũng đâu phải là tôi, đều khác nhau cả.

      Ở đây ta có thể nghĩ rằng: “mặc dù tâm trong tương lai không phải là “tôi” trong hiện tại, nhưng đều cùng là một dòng tâm thức, vậy tôi phải lo cho an nguy của chính mình!” Đã nghĩ như vậy thì lại càng phải lo cho an nguy của người khác, là vì mặc dù chúng sinh hữu tình không phải là cá nhân tôi, nhưng đều là loài hữu tình trong cùng một cõi thế.

      Nếu nghĩ rằng: “Việc ai nấy lo, tuyết đầu ai nấy phủi chứ làm sao có thể giúp hết mọi người,” vậy hãy thử chiêm nghiệm câu này trong Nhập Bồ Đề Hành Luận:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 99]

      Vậy thì chân đau, tay đâu cần giúp?

      Như đã nói, chân đạp gai, việc gì tay phải tốn công lo nhổ? Tương tự như vậy, tay giúp khi mắt bị vướng bụi, cha mẹ nâng đỡ cho con, tay đút cơm cho miệng. Để lo cho mình, vốn phải làm hết những việc như vậy.

      Tóm lại, nếu việc ai nấy lo không cần quan tâm đến kẻ khác, làm như vậy nhất định việc gì cũng khó lòng làm xong. Biết điều này rồi, hãy hết lòng phụng sự lợi ích chúng sinh.

      D2. Quán hoán chuyển ngã tha

      Thứ hai, quán tâm bồ đề hoán chuyển ngã tha.
      Nhập Bồ Đề Hành Luận nói như sau:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 131]

      Không đổi vui mình / để lấy khổ người
      thì vô thượng giác / sẽ không thể đạt,
      trôi trong sinh tử / không chút niềm vui.

      Như sách nói, cần mang hạnh phúc của mình tặng cho chúng sinh, và nhận khổ chúng sinh về phần mình. Chi tiết quán tưởng, sách nói như sau:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 140]

      Lấy cảnh của người,
      thấp, bằng hay cao,
      đổi thành của tôi.
      Và đổi cảnh tôi
      thành của người khác.
      Dẹp hết tán tâm
      để mà quán chiếu:
      khởi tâm ganh tị
      cạnh tranh, kiêu căng

      Câu này có nghĩa như sau:

      Ở pháp quán đầu tiên, “người khác” là một người thấp kém hơn tôi, đối với người này, địa vị tôi cao quí hơn nhiều. Nhìn từ mắt nhìn của người địa vị thấp kém để cảm nhận lòng ganh ghen đối với tôi là kẻ địa vị cao sang. Sau khi quán như vậy, tự nhiên sẽ cảm nhận được điều sau đây:

      “Tôi cao, người ta thấp, chỉ mới tưởng tượng lòng ganh ghen của người khác thôi đã khiến tâm tôi khốn khổ thế này! Vậy có lý nào lại tự mình khởi tâm ganh ghen người khác để làm gì?” Cứ thế, lòng ganh ghen sẽ tan biến.

      Tương tự như vậy, quán về lòng cạnh tranh đối với người cùng địa vị với mình. Trong pháp quán này, tôi đổi vị trí cùng người ngang hàng với mình, nhìn từ quan điểm của người này để thấy tôi là kình địch. Tôi lấy vị trí của người kia, nung nấu cạnh tranh trên mọi phương diện. Khi ngưng pháp quán này, trong lòng sẽ cảm thấy như sau:

      “Nếu tôi là địch thủ, chỉ mới tưởng tượng thái độ cạnh tranh mờ ám của người khác thôi đã khiến tâm tôi kiệt quệ thế này, vậy còn tự mình khởi tâm cạnh tranh gây hại cho người khác để làm gì!” Làm như vậy sẽ tự nhiên chế ngự được tâm cạnh tranh của chính mình.

      Rồi lại theo cùng một phương pháp, quán về lòng kiêu mạn, ở đây tôi là người thấp kém, người khác là kẻ trên. Đặt mình vào chỗ của người khác ở trên, trong lòng phát sinh lòng kiêu căng khinh mạn đối với kẻ dưới, dựa vào gia thế học vấn v.v… Khi ngưng pháp quán này, trong lòng sẽ thấy rằng, “Chỉ mới tưởng tượng lòng khinh mạn của người khác mà đã khốn khổ thế này, vậy làm sao có thể tự mình khởi tâm khinh mạn người khác?” Làm như vậy sẽ tự nhiên hàng phục được thói kiêu căng.

      Có thể quán theo chi tiết hướng dẫn trong Nhập Bồ Đề Hành Luận.

      Nếu không thể tu các pháp quán này, muốn một pháp tu ngắn gọn hơn thì có thể chọn câu kệ trong Bảo Hành Vương Chánh Luận:

      Nguyện việc ác người / trổ quả nơi tôi;
      nguyện việc thiện tôi / trổ quả nơi người.
      Hễ còn chúng sinh / chưa được giải thoát,
      cho dù có đã / đạt vô thượng giác
      tôi cũng nguyện xin / vì một hữu tình /  mà vào sinh tử.

      Công đức lời này / nếu như có thân
      thì bao thế giới / số lượng nhiều như / số cát sông Hằng
      cũng không làm sao / có thể chứa hết.
      Điều này thuận theo / lời của Phật dạy,
      và cũng thuận theo / lý lẽ hiển nhiên.

      Nhập Bồ Đề Hành Luận nói rằng:
      [NBĐHL – chương X, câu 56]

      Nguyện cho khổ nạn / của khắp chúng sinh / trổ quả nơi tôi.
      Nương vào năng lực / chúng Tăng bồ tát
      nguyện khắp chúng sinh / hưởng được đầy nguồn
      an vui thắng diệu.

      Nên quán niệm ý nghĩa của những câu kệ này, đọc lớn tiếng nếu muốn. Quán bình đẳng và hoán chuyển ngã tha như vậy tương tự với pháp tu do Sakya Pandita soạn tác. Tuy có một vài khác biệt nhỏ nơi hầu hết các luận giải, nhưng khi tu cứ hãy tùy ý chọn cách nào thích hợp nhất với tâm của chính mình.

      B6. Hạnh Tuệ

      Tuệ trước tiên được nhận diện, sau đó được áp dụng vào đề mục vô ngã.

      C1. Nhận diện

      Trước tiên, tuệ là trí chứng biết vạn pháp giai không trong thời tọa thiền, và chứng biết vạn pháp như huyễn trong thời xuất thiền.

      C2. Áp dụng vào tánh không

      Sau đó, vận dụng trí tuệ này để quán vô ngã. Ở đây có hai pháp quán: quán nhân vô ngã và quán pháp vô ngã.

      D1. Nhân vô ngã

      Trước tiên, nhìn lại phàm phu ngu muội lấy kẻ gieo nghiệp và chịu quả mà gọi là ngã, là tôi, một cá nhân, một con người, một sinh thể. Vậy cũng nên tự hỏi cái được gọi là “tôi” đó là ứng vào với thân, với khẩu, với ý, hay là ứng với điều gì khác? Là vô tình hay hữu tình? Là vô thường hay thường còn? v.v…

      Quán như vậy, rồi sẽ thấy mặc dù không có “ngã” nhưng ta vẫn chấp ngã, không có “tha” nhưng ta vẫn chấp tha, chỉ vì đã để cho vọng tâm thao túng. Sự vật, thật ra, tự nó vốn không có cái gì để có thể gọi là “tôi” hay là “người khác”.

      D2. Pháp vô ngã

      Thứ hai, quán pháp vô ngã bao gồm bốn pháp thiền gọi là Tứ niệm xứ

      E1. Thân niệm xứ

      Tất cả mọi sự hiện ra và tồn tại trong toàn cõi luân hồi và niết bàn này, đều đơn thuần do tâm mà hiện, hoàn toàn không có một khả năng hiện hữu nào ngoài những gì do tâm gán đặt. Tâm này cũng tùy thuộc vào thân, vì vậy mà cần quán về thân bằng cách nêu những thắc mắc như sau:

      • Cái được gọi là “thân” này đây, vốn là đồng nhất hay dị biệt với tổng thể các thành phần cấu tạo?
      • Thân này sinh từ đâu?
      • Thân này trú ở đâu?
      • Thân này diệt về đâu?

      Cuối cùng, để tâm an trụ trong chánh định tánh không của thân.

      Bao giờ thân khởi ái dục, hãy quán về tánh bất tịnh và như huyễn của thân mình và thân người, nhờ đó dẹp được lòng ham muốn nhục dục.

      E2. Thọ niệm xứ

      Cảm giác khoái lạc hay đớn đau là cội rễ sinh ra tâm bất thiện như ái và thủ, vậy cần xét thử xem cảm giác này là đồng nhất hay là dị biệt với tâm… Quán về tánh chất không thật có của hai loại cảm giác này, cùng mọi cảm giác khác [ví dụ cảm giác dửng dưng], để biết rốt lại mọi cảm thọ đều chỉ là khổ đau, hoàn toàn không có chút thực thể nào cả.

      E3. Tâm niệm xứ

      Thử xét lại cái tâm sinh ra “sáu thức” và quán chiếu xem dòng tâm thức với muôn vàn biến hiện – thời điểm đi trước, thời điểm theo sau, thiện, bất thiện v.v… – là một thứ hay nhiều thứ. Xét xem nhiều trạng thái tâm thức hiện ra như vậy – thích và không thích, tín và bất tín, thuận và nghịch với chánh pháp, vui và buồn, tham và sân, v.v… – là cùng một tâm hay không cùng một tâm. Nếu nói rằng cùng một tâm, vậy thử xét xem vì sao cùng một tâm lại sinh ra nhiều trạng thái khác nhau như vậy, vui buồn, tham sân v.v… Nếu nói rằng những trạng thái tâm thức này tùy duyên sinh ra, vậy thử xét xem nếu không bị duyên chi phối, không tiếp với đối cảnh, thì tâm này thực chất ra sao? có hiện hữu hay không hiện hữu? Thường còn hay vô thường? Hãy dùng lý trí liên tục quán xét như vậy để có được niềm xác quyết rằng tâm này vốn vô sinh.

      E4 Pháp niệm xứ

      Chứng biết một cách xác quyết rằng những gì không phải là thân, thọ hay là tâm – nghĩa là tất cả những gì thuộc phạm vi của tưởng, hành và thức – đều tùy thuộc nhân duyên mà có, vì vậy hoàn toàn không tự tánh. Chúng đều đơn thuần là tánh không, siêu việt mọi phạm trù đối đãi phân biệt.

      a4. KẾT QUẢ PHÁP TU

      Chứng biết tướng hiện của tục đế chỉ đơn thuần là huyễn ảo, như trò ảo thuật, như một giấc mơ, từ đó thuần luyện công hạnh quảng đại, tận diệt bảy loại tham chấp. Chứng biết cảnh giới của chân đế dù chỉ một vi trần cũng không hề có tự tánh, từ đó mà đưa pháp hành về nơi tim, không chấp bám vào bất cứ điều gì.
      [NBĐHL, Chương X, câu 58]

      Nguyện cho chánh pháp,
      là thuốc duy nhất
      chữa lành bệnh khổ,
      là gốc rễ của
      mọi nguồn an vui,
      luôn được muôn loài
      hỗ trợ tôn kính,
      tồn tại dài lâu.

      Đây là lời của Ragged Abu – Nguyện mọi sự cát tường.

      Hồng như chuyển Việt ngữ – 18/07/2013

      ——————–

      Ghi Chú Phần Việt Ngữ:

      [1] Tám phẩm cúng dường: 1. phẩm sở hữu, 2. phẩm không sở hữu, 3. thân mạng, 4. tắm Phật, 5. cúng phẩm làm tươi đẹp giác quan, 6. cúng phẩm qua nguyện lực, 7. cúng phẩm vô thượng, 8. nnhạc, tán dương

      CHÁNH VĂN TẠNG NGỮ

      ༄༅། །བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་སྤྱོད་པ་ལ་འཇུག་པའི་སྒོམ་རིམ་རབ་གསལ་ཉི་མ་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ། །

      ༄༅། །བདེར་གཤེགས་ཆོས་ཀྱི་སྐུ་མངའ་སྲས་བཅས་དང༌། ཕྱག་འོས་ཀུན་ལའང་གུས་པས་ཕྱག་འཚལ་ཏེ། །བདེ་གཤེགས་སྲས་ཀྱི་སྡོམ་ལ་འཇུག་པ་ནི། །ལུང་བཞིན་མདོར་བསྡུས་ནས་ནི་བརྗོད་པར་བྱ། དེ་ལ་བཞི། གང་འཇུག་པ་པོ་རྟེན་གྱི་གང་ཟག གང་གིས་འཇུག་པའི་བསམ་པ། ཚུལ་ཇི་ལྟར་འཇུག་པའི་སྦྱོར་བ། དེ་ལྟར་ཞུགས་པའི་འབྲས་བུའོ།། དང་པོ་རྟེན་གྱི་གང་ཟག་ནི་དལ་འབྱོར་ཐོབ་ཅིང་དད་དང་སྙིང་རྗེ་ལྡན་པའོ།། གཉིས་པ་བསམ་པ་སེམས་བསྐྱེད་པ་འདི་ལ་སྨོན་འཇུག་གཉིས། དང་པོ་ནི། སེམས་བསྐྱེད་པ་ནི་གཞན་དོན་ཕྱིར། ཡང་དག་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་འདོད། ཅེས་གསུངས་པས་གཞན་དོན་དུ་སངས་རྒྱས་ཐོག་འདོད་ཀྱི་བསམ་པ། གཉིས་པ་འཇུག་པ་ནི། རྒྱལ་བའི་སྲས་ཀྱི་བསླབ་བྱ་ལ་སློབ་པར་དམ་བཅའ་བ། དེ་ལྟ་བུའི་སེམས་བསྐྱེད་དེ་རང་རྒྱུད་ལ་བཟུང་བར་བྱ་བ་ལ་བླ་མ་ལས་ལེན་ན་དབུ་སེམས་གང་རུང་གི་ཆོ་ག་ལྟར་བྱ། འདིར་སྡོམ་པ་རང་ཉིད་ཀྱིས་བླང་བའི་ཚུལ་ལ་སྦྱོར་དངོས་རྗེས་གསུམ། དང་པོ་སྦྱོར་བ་ལ་གསུམ། ཕན་ཡོན་གྱི་བྲོད་པ་བསྐྱེད་པ་སྤྱོད་འཇུག་ལེའུ་དང་པོ་ལྟར་བྱ། ཚོགས་བསགས་པ་ཡན་ལག་བདུན་པ་བྱ་བའི་དང་པོ་ཚོགས་ཞིང་རྒྱལ་བ་སྲས་བཅས་མངོན་སུམ་དུ་བཞུགས་པའི་སྤྱན་སྔར་རང་གཞན་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་ལྷན་ཅིག་ཏུ་རྒྱལ་བ་སྲས་བཅས་ཀྱི་ཡོན་ཏན་རྗེས་སུ་དྲན་པ་དང་བཅས་ཡན་ལག་བདུན་པ་འབུལ་བར་བསམ་ལ། དང་པོ་མཆོད་པའི་ཡན་ལག མེ་ཏོག་བདུག་སྤོས་མར་མེ་ཆུ་གཙང་གི་ཡོན་ཆབ་བཟའ་བཏུང་སྣ་ཚོགས་པའི་ཞལ་ཟས་ལ་སོགས་ཅི་འབྱོར་བའི་མཆོད་པ་དངོས་སུ་བཤམས། རིན་པོ་ཆེའི་རི་བོ་ཡིད་དུ་འོང་བའི་ནགས་ཚལ། དབེན་ཞིང་ཉམས་དགའ་བའི་ས་ཕྱོགས་སོགས་ཕྱོགས་བཅུའི་འཇིག་རྟེན་ན་ཡོད་པ་རྣམས་བློས་བླང་ནས་འབུལ་བ་བདག་པོས་ཡོངས་སུ་མ་བཟུང་བའི་མཆོད་པ་གཉིས་པོ་རིན་ཆེན་སེམས་དེ་སོགས་ཀྱིས་འབུལ། རྒྱལ་དང་དེ་སྲས་སོགས་ཀྱིས་རང་གི་སྒོ་གསུམ་བྲན་དུ་འབུལ་བའི་མཆོད་པ། ཁྲུས་ཀྱི་ཁང་བ་སོགས་ཀྱིས་ཡིད་ཀྱི་སྤྲུལ་པའི་མཆོད་པ། དེ་ལས་གཞན་ཡང་སོགས་ཀྱིས་སྨོན་ལམ་སྟོབས་ཀྱི་མཆོད་པ། ཇི་ལྟར་འཇམ་དབྱངས་སོགས་ཀྱིས་བླ་ན་མེད་པའི་མཆོད་པ། ཡོན་ཏན་རྒྱ་མཚོ་སོགས་ཀྱིས་བསྟོད་པ་དབྱངས་ཀྱི་མཆོད་པ། དུས་གསུམ་བཞུགས་སོགས་ཀྱིས་གུས་པ་ཕྱག་གི་མཆོད་པ་དང་བརྒྱད་པོ་ཚིག་རྗེས་དོན་དྲན་སྙིང་ཐག་པ་ནས་བྱ། དེ་དག་ཀྱང་ཞིང་དག་པ་དཀོན་མཆོད་གསུམ་གྱི་སྤྱན་སྔར། དངོས་པོ་དག་པ་སྡིག་པ་དང་མ་འདྲེས་ཤིང་སེར་སྣས་མ་བཅིང་བ། བསམ་པ་དག་པ་ལན་དང་རྣམ་སྨིན་ལ་རེ་བ་མེད་པའི་སེམས་ཀྱིས་འབུལ་བའོ།། གཉིས་པ་སྐྱབས་སུ་འགྲོ་བ། ཡུལ་ཁྱད་པར་ཅན་ཐེག་ཆེན་ཐུན་མོང་མ་ཡིན་པའི་དཀོན་མཆོག་གསུམ་ལ། བསམ་པ་ཁྱད་པར་ཅན་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་ཀྱི་དོན་དུ། དུས་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་མ་ཐོབ་བར་དུ་སྐྱབས་སུ་འགྲོ་སྙམ་པས་བྱང་ཆུབ་སྙིང་པོ་སོགས་ལན་གསུམ་བྱ། གསུམ་པ་སྡག་པ་བཤགས་པ་ཕྱོགས་རྣམས་སོགས་ཀྱིས་བཤགས་ཡུལ་ལ་མཁྱེན་པར་གསོལ་ཏེ། སྔར་བྱས་ཀྱི་སྡིག་པ་ལ་ཁོང་དུ་དུག་སོང་བ་ལྟ་བུ། རྟེན་དཀོན་མཆོག་གསུམ་ལ་དུག་ནད་གསོ་བའི་སྨན་པ་ལྟ་བུ། གཉེན་པོ་དམ་པའི་ཆོས་ལ་སྨན་ལྟ་བུ། ཕྱིན་ཆད་མི་བྱེད་པའི་སྡོམ་སེམས་ལ་ལུས་ཟུང་གསོ་བའི་བཅུད་ལེན་བདུད་རྩི་ལྟ་བུའི་འདུ་ཤེས་དང་བཞི་བསྐྱེད་ནས། ཐོག་མ་མེད་ལྡན་སོགས་ཀྱིས་སུན་འབྱིན་པའི་སྟོབས། དེ་བས་རྒྱལ་བ་སོགས་རྟེན་གྱི་སྟོབས། ཐ་མལ་ནད་ཀྱིས་སོགས་ཀྱིས་གཉེན་པོ་ཀུན་སྤྱོད་ཀྱི་སྟོབས། འདི་ནི་བཟང་པོ་ཞེས་རྐང་པ་གཉིས་ཀྱིས་སྡོམ་པའི་སྟོབས་རྣམས་སྙིང་ཐག་པ་ནས་བྱའོ།། བཞི་པ་རྗེས་སུ་ཡི་རང་བ་འཇིག་རྟེན་དང་འཇིག་རྟེན་ལས་འདས་པའི་དགེ་རྩ་འབྲས་བུ་དང་བཅས་པ་ཀུན་ལ་སྙིང་ཐག་པ་ནས་དགའ་ཞིང་རྗེས་སུ་ཡི་རང་བ་དང་བཅས། སེམས་ཅན་ཀུན་གྱི་སོགས། ལྔ་པ་ཆོས་ཀྱི་འཁོར་ལོ་བསྐོར་བར་བསྐུལ་བ་དང༌། དྲུག་པ་མྱ་ངན་ལས་མི་འདའ་བར་གསོལ་བ་འདེབས་པ། བདུན་པ་བསྔོ་བ་རྣམས་ཕྱོགས་རྣམས་སོགས་ཀྱིས་ཚིག་དོན་དྲན་པར་བྱ། དེ་ནས་བློ་སྦྱགས་པ་ལུས་དང་དེ་བཞིན་སོགས་ཀྱིས་རང་གི་ལུས་ལོངས་སྦྱོད་དུས་གསུམ་བསགས་པའི་དགེ་བ་དང་བཅས་པ་སེམས་ཅན་གྱི་དོན་བསྒྲུབ་པའི་ཕྱིར་དུ་ཕངས་པ་མེད་པར་བསྔོས་ཏེ་གནས་སྐབས་དང་མཐར་ཐུག་ཀུན་ཏུ་འགྲོ་བའི་ཉེར་འཚོ་བླ་ན་མེད་པའི་རྒྱུ་སྙིང་ཐག་པ་ནས་སྨོན་པ་ལ་བློ་སྦྱངས། གཉིས་པ་དངོས་གཞི་དགོངས་གསོལ་སྔོན་དུ་འགྲོ་བས་ཇི་ལྟར་སྔོན་གྱི་སོགས་ལན་གསུམ་གྱིས་སྨོན་འཇུག་སྟབས་གཅིག་ཏུ་བླང༌། གསུམ་པ་མཇུག་ལ། དེང་དུས་བདག་སོགས་ཀྱིས་རང་དགའ་བ་བསྒོམ། བདག་གིས་དེ་རིང་སོགས་ཀྱིས་གཞན་དགའ་བ་སྒོམ་དུ་གཞུགས། དེ་དག་གི་རྗེས་སུ་བྱང་ཆུབ་སེམས་མཆོག་སོགས་ཀྱིས་སྨོན་ལམ་ཀྱང་བྱའོ།། དེས་བསམ་པ་བྱང་ཆུབ་ཀྱི་སེམས་རང་རྒྱུད་ལ་བཟུང་བ་དེ་སོང༌། གསུམ་པ་ཚུལ་ཇི་ལྟར་འཇུག་པའི་སྦྱོར་བ་ལ་ཉམས་ལེན་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་དྲུག་ཏུ་འདུ་བས་ནེ་དག་གི་ངོ་བོ་རིམ་པ་བཞིན། ཁྱད་ཆོས་བཞི་དང་ལྡན་པའི་གཏོང་སེམས། སྤོངས་སེམས། མི་འཁྲུག་པའི་སེམས། སྤྲོ་བའི་སེམས། མི་གཡེང་བའི་སེམས། ཆོས་རབ་ཏུ་རྣམ་པར་འབྱེད་པ་རྣམས་ཡིན། ཁྱད་ཆོས་བཞི་ནི། སྦྱིན་པ་མི་མཐུན་ཕྱོགས་ཉམས་དང༌། རྣམ་པར་མི་རྟོག་ཡེ་ཤེས་ལྡན། འདོད་པ་ཐམས་ཅད་ཡོངས་རྫོགས་བྱེད། སེམས་ཅན་ཡོངས་སྨིན་བྱེད་རྣམ་གསུམ། ཞེས་གསུངས། མི་མཐུན་པའི་ཕྱོགས་ནི་རིམ་པ་བཞིན་སེར་སྣ། ཚུལ་འཆལ། ཁོང་ཁྲོ། ལེ་ལོ། རྣམ་གཡེང༌། ཤེས་འཆལ་དྲུག སེམས་ཅན་གྱི་འདོད་པ་ཡོངས་སུ་རྫོགས་ཚུལ་ནི། སྦྱིན་པས་ལོངས་སྤྱོད་སོགས་སྦྱིན། ཚུལ་ཁྲིམས་ཀྱིས་ཡིད་དྭངས་པར་བྱེད། བཟོད་པས་གནོད་པ་དྭང་དུ་ལེན། བརྩོན་འགྲུས་ཀྱིས་དགོས་པའི་གྲོགས་བྱེད། བསམ་གཏན་གྱིས་རྫུ་འཕྲུལ་དང་མངོན་ཤེས་ཀྱིས་འདུན་པར་བྱེད། ཤེས་རབ་ཀྱིས་བླང་དོར་གྱི་གནས་སྟོན་པར་བྱེད། དེ་དག་གིས་འདོན་པ་ཡོངས་སུ་རྫོགས་པར་བྱས་ཏེ་དངོས་སམ་བརྒྱུད་ནས་ཉན་ཐོས་རང་རྒྱལ་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་གསུམ་གང་རུང་ལ་འགོད་པ་སེམས་ཅན་ཡོངས་སྨིན་བྱེད་པ་ཡིན། དེ་ལྟ་བུའི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་དེ་དག་ཀྱང་སེམས་སྦྱོང་བའི་སྤྱོད་པ་ལ་འདུ་བའི་ཚུལ། དང་པོ་སྦྱིན་པ་ནི་རང་གི་ལུས་ལོངས་སྤྱོད་དུས་གསུམ་གྱི་དགེ་བའི་རྩ་བ་དང་བཅས་པ་ཐམས་ཅད་མ་བཏང་བའི་ཉེས་གམིགས། བཏང་བའི་ཕན་ཡོན། གཏོང་དགོས་པའི་རྒྱུ་མཚན་སོགས་ལ་བསམ་ནས་སྙིང་ཐག་པ་ནས་གཏོང་སེམས་སྦྱོང་བ་དེ་ཡིན། གཉིས་པ་ཚུལ་ཁྲིམས་ལ་སྲུང་བྱེད་ཐབས་དང། དེས་ཇི་ལྟར་བསྲུང་ཚུལ་གཉིས། དང་པོ་སྲུང་བྱེད་ཀྱི་ཐབས་ལ་འཇུག་ལྡོག་གི་གནས་ལ་གཟོབ་པའི་བག་ཡོད། བླང་དོར་མི་བརྗེད་པའི་དྲན་པ། སྒོ་གསུམ་གྱི་གནས་སྐབས་ལ་བརྟགས་པའི་ཤེས་བཞིན་དང་གསུམ། གཉིས་པ་དེས་ཇི་ལྟར་སྲུང་ཚུལ། དང་པོ་དྲན་པས་བླང་དོར་མི་བརྗེད་པར་བྱས་ཏེ་ཤེས་བཞིན་གྱིས་རང་གི་ལུས་ངག་ཡིད་དསུམ་གྱི་གནས་སྐབས་ལ་བརྟག་ནས་བསྒྲུབ་བྱ་དགེ་བའི་ཕྱོགས་དང་དུ་མི་ལེན་པ་དང༌། སྤང་བྱ་མི་དགེ་བ་ལ་འཇུག་འདོད་ཀྱི་བསམ་པ་སྐྱེས་ངོ་ཤེས་པར་བྱ། དེའི་ཚེ་བག་ཡོད་ཀྱིས་དགེ་བའི་ཕན་ཡོན་དྲན་ནས་དྭང་དུ་བླང་ཞིང༌། ཉེས་སྤྱོད་མི་དགེ་བའི་ཕྱོགས་ཀྱི་ཉེས་དམིགས་དྲན་ནས་སྤང་བར་བྱ་བ་ལ་བསླབ། དེ་དག་གི་རྒྱུ་ཡང་ལས་འབྲས་ལ་ཡིད་ཆེས་པ་ཡིན་པས་རྒྱལ་བའི་བཀའ་འཁྲུལ་བ་མེད་པའི་རྗེས་སུ་འབྲང་སྟེ་ཡིད་ཆེས་བསྐྱེད། དེ་ནས་མི་དགེ་བ་བྱས་ན་ངན་སོང་དུ་འགྲོ་ངེས། ངན་སོང་དུ་སྐྱེས་ན་སྡུག་བསྔལ་འདི་ལྟ་བུ་ཡོད་པས། གཞན་དོན་ལྟ་ཅི་རང་དོན་ཡང་མི་འགྲུབ་སྙམ་དུ་འཁོར་བའི་སྡུག་བསྔལ་དྲན་པ་འདི་སྙིང་ནས་རྒྱུད་ལ་སྐྱེ་ངེས་བྱ། བསྲུང་བྱ་རྣམ་གྲངས་མང་ཡང་སྨོན་སེམས་ཀྱི་མི་མཐུན་ཕྱོགས་སེམས་ཅན་བློས་བཏང་བ། ཉན་རང་གི་སར་སེམས་བསྐྱེད་པ། ནག་པོའི་ཆོས་བཞི་སྤང་བ་གསུམ་གཙོ་བོར་སྲུང༌། ནག་པོའི་ཆོས་བཞི་ནི། མཆོད་འོས་བསླུ་དང་འགྱོད་མེད་འགྱོད་པ་བསྐྱེད། དམ་པར་སྐུར་འདེབས་འགྲོ་ལ་གཡོ་སྒྱུས་སྤྱོད། ནག་པོའི་ཆོས་བཞི་སྤངས་ཤིང་ལྡོག་པ་ནི། དཀར་པོའི་ཆོས་བཞི་ཡིན་པས་ཀུན་ཏུ་སྤྱད། ཅེས་གསུངས། མཐུན་ཕྱོགས་འབྲས་བུ་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་དང༌། དེའི་རྒྱུ་བྱང་ཆུབ་ཀྱི་སྦྱོད་པ་ལ་སྙིང་ཐག་པ་ནས་མོས་པ། གཞན་གྱི་དགེ་བ་གང་བྱེད་ཀུན་ལ་སྙིང་ནས་སྤྲོ་བས་ཡི་རང༌། དེ་དག་གི་དགེ་རྩ་གཞན་དོན་རྫོགས་བྱང་དུ་བསྔོ་བ་སྟེ། ཐེག་ཆེན་གྱི་བསྒོམ་ལམ་གསུམ་པོ་འདི་ཁོ་ན་ཉམས་སུ་བླངས། འཇུག་སྡོམ་གྱི་མི་མཐུན་ཕྱོགས་སྤྱིར་གཞན་གནོད་གཞིར་བཅས་སྤོངས་པ་དང༌། ཁྱད་པར་ཉེས་དམིགས་ཆེ་ཤོས། དཀོན་མཆོག་གི་དཀོར་ཕྲོག་པ། བྱང་སེམས་ལ་སྐུར་བ་འདེབས་པ། ཆོས་སྤོང་གི་ལས་བྱེད་པ་སོགས་སྲོག་དང་བསྡོས་ཏེ་བསྲུང༌། མཐུན་ཕྱོགས་དགེ་རྩ་ཕྲ་མོ་ཚུན་ཆད་ཁྱད་དུ་མི་གསོད་པར་དམ་པ་གསུམ་གྱིས་ཟིན་པར་ཉམས་སུ་བླང་བར་བྱའོ།། གསུམ་པ་བཟོད་པའི་ཕ་རོལ་ཕྱིན་པ་ལ། བཟོད་པའི་ཡུལ་བདག་ལ་བརྙས་པ་བྱེད་པ་དང༌། ཚིག་རྩུབ་སྨྲ་བ། ལྐོག་ཏུ་མི་སྙན་སྨྲ་བ། སྡུག་བསྔལ་བྱེད་པ་དང་བཞི། བདག་གི་བླ་མ་དང་མཛའ་བཤེས་སོགས་ལ་དེ་ལྟར་བཞི་བྱེད་པ་དང༌། བདག་གི་དགྲ་དང་མི་མཐུན་པའི་ཕྱོགས་ལ་བདེ་བ་བྱེད་པ། རྙེད་བཀུར་བྱེད་པ། བསྟོད་པ། སྙན་པར་སྨྲ་བ་བཞི་སྟེ་མི་འདོན་པ་བཅུ་གཉིས། དེ་དག་ལས་ལྡོག་པ་འདོད་པ་བཅུ་གཉིས་ཀྱི་གེགས་བྱེད་པ་སྟེ་བཟོད་པའི་ཡུལ་ཉི་ཤུ་རྩ་བཞིའོ།། དེ་དག་རེ་རེ་བཞིན་ཡང་རྒྱུ་མཚན་དང་རྒྱུ་དེ་དག་ལས་བྱུང་བའི་སྡུག་བསྔལ་གྱིས་མི་སྐྱོ་བ་སྡུག་བསྔལ་དྭང་ལེན། བྱེད་པ་པོ་གང་ཟག་ལ་མི་ཁྲོ་བ་གནོད་བྱེད་ལ་ཅི་མི་སྙམ་པ་སྟོང་ཉིད་ཟབ་མོའི་དོན་ལ་བློ་འཇོག་པ་དང་གསུམ་གསུམ་གྱིས་བཟོད་པར་བྱེད་པའི་ནང་ཚན་བཟོད་པའི་རྣམ་གྲངས་བདུན་ཅུ་རྩ་གཉིས་ལ་གོམ་པར་བྱེད་པའོ།། དེ་ཡང་རྒྱུ་མཚན་གསུམ་གྱིས་སྡུག་བསྔལ་དྭང་དུ་ལེན་ཏེ། སྡུག་བསྔལ་ལ་བརྟེན་ནས་བདག་གི་སྡིག་པ་འཛད་པས་སྡུག་བསྔལ་སྡིག་པའི་ཕྱག་མར་ཤེས་ནས་དྭང་དུ་བླང༌། སྡུག་བསྔལ་ལ་བརྟེན་ནས་འཁོར་བ་ལ་ངེས་འབྱུང་སེམས་ཅན་ལ་སྙིང་རྗེ། དགེ་སྡིག་ལ་བླང་དོར་སོགས་སྐྱེ་བས་སྡུག་བསྔལ་དགེ་བའི་བསྐུལ་མར་ཤེས་ནས་དྭང་དུ་བླང༌། སྡུག་བསྔལ་གྱིས་ང་རྒྱལ་གྱི་མགོ་གནོན། དངོས་གྲུབ་ཀྱི་སྣ་འདྲེན་པས་སྡུག་བསྔལ་སེམས་ཀྱི་རྒྱན་དུ་ཤེས་ནས་དྭང་དུ་བླང༌། རྒྱུ་མཚན་གསུམ་གྱིས་གནོད་བྱེད་ལ་ཅི་མི་སྙམ་པའི་བཟོད་པ་སྒོམ་སྟེ། སེམས་ཅན་རྨོངས་པ་ཉོན་མོངས་ཀྱིས་དབང་དུ་གྱུར་ནས་རང་ལའང་གནོད་པ་བྱེད་ན་གཞན་ལ་ལྟ་ཅི་སྨོས་སྙམ་དུ་གནོད་བྱེད་སྙིང་རྗེའི་ཡུལ་དུ་བལྟས་ནས་བཟོད་པར་བྱ། དེའང་རང་གི་སྔོན་བྱས་ཀྱི་ལས་དང་འཕྲལ་གྱི་སྤྱོད་ལམ་མི་བཟོད་པས་བདག་ལ་གནོད་བྱེད་རྣམས་བྱུང་བ་ཡིན་སྙམ་དུ་ལེ་ལེན་ཐམས་ཅད་རང་ལ་བདའ་ཞིང་བཟོད་པ་སྒོམ། དགྲ་ལ་བརྟེན་ནས་བདག་གི་བཟོད་པའི་ཚོགས་རྫོགས་ཤིང་བྱང་ཆུབ་སྤྱོད་པའི་གྲོགས་སུ་འགྱུར་བས་ཕན་འདོགས་པའི་བཤེས་སུ་བསམ་ནས་བཟོད་པར་བྱའོ།། རྒྱུ་མཚན་གསུམ་གྱིས་ཆོས་ཟབ་མོ་ལ་ངེས་པར་བསམ་ནས་བཟོད་པ་སྒོམ་སྟེ། དོན་དམ་སྟོང་ཉིད་སྤྲོས་བྲལ་ལ་བསམ་ན་གནོད་བྱ་གནོད་བྱེད་རང་བཞིན་མེད་པ་ལ་བསམ་ནས་བཟོད་པ་སྒོམ། ཀུན་རྫོབ་རྟེན་འབྲེལ་སྒྱུ་མ་ལ་བསམ་ན་ཐམས་ཅད་རྐྱེན་གྱིས་བསྐུལ་བས་གནོད་བྱེད་དང་སྡུག་བསྔལ་རང་དབང་མེད་པ་ལ་བསམ་ནས་བཟོད་པ་སྒོམ། ཟུང་འཇུག་རང་གི་སེམས་ཉིད་ལ་བསམ་ན་ཁོང་ཁྲོ་གཞི་མེད་རྩ་བྲལ་དུ་དག་པ་ལ་བསམ་ནས་བཟོད་པ་སྒོམ་པར་བྱའོ།། བཞི་པ་བརྩོན་འགྲུས་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ལ། མི་མཐུན་ཕྱོགས་ལེ་ལོ་གསུམ་སྤང་བ། མཐུན་ཕྱོགས་སྟོབས་དྲུག་བསྐྱེད་པ་གཉིས་ལས། དང་པོ་ནི་མི་རྟག་པའི་ལྕགས་ཀྱི་བསྐུལ་ཏེ་སྦྱོར་བ་མེད་པའི་ལེ་ལོ་སྤང༌། དམ་པའི་ཆོས་ཀྱི་དགའ་བ་ལ་བསམ་ནས་བྱ་བ་ངན་ཞེན་གྱི་ལེ་ལོ་སྤང༌། རང་གི་སེམས་གཟེངས་བསྟོད་དེ་སྒྱིད་ལུག་གི་ལེ་ལོ་སྤང་ངོ༌།། གཉིས་པ་སྟོབས་དྲུག་ནི། དགེ་བའི་ཕན་ཡོན་དང་སྡིག་པའི་ཉེས་དམིགས་ལ་བསམ་ནས་ཆོས་ལ་མོས་པ་བསྐྱེད་པ་སྦྱོར་བ་མོས་པའི་དཔུང༌། སྙིང་སྟོབས་ཀྱི་དམ་བཅའ་བརྟན་པོས་བརྩམ་པའི་དགེ་རྩ་མཐར་དབྱུང་བ་དངོས་གཞི་བརྟན་པའི་དཔུང༌། འདི་ལ་གསུམ། འཇིག་རྟེན་ན་ཉི་མ་ཤར་བ་ལ་དཔེ་བྱས་ཏེ། བར་ཆད་གཞན་དབང་དུ་མི་གཏོང་བར་རྐྱེན་གྱིས་བརྫི་བ་མེད་པ་དང༌། ཉི་མ་གཅིག་པུར་རྒྱུ་བ་ལ་དཔེར་བྱས་ཏེ་བདག་ཉིད་གཅིག་པུ་གཞན་ལ་མི་སྟོས་པར་བདུད་སྡེ་ཕམ་པར་བྱས་ནས་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་བསྒྲུབ་པ་དང༌། ཉི་མ་ཀུན་ལ་སྣང་བ་ལྟར་བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་ཡེ་ཤེས་སྙིང་རྗེ་སྨོན་པ་གསུམ་གྱིས་རང་ཉིད་འགྲོ་བའི་ཉེར་འཚོར་བྱིན་གྱིས་བརླབས་ཏེ་མཁའ་མཉམ་གྱི་འགྲོ་དོན་དྭང་དུ་བླང་བ་དང་གསུམ་ལས་ཀྱི་ང་རྒྱལ། བདག་ཉིད་མཆོག་ཏུ་བལྟས་ཏེ་ལྟུང་བ་ཕྲ་རགས་ཀྱིས་མ་གོས་པར་བྱ་བ་ནུས་པའི་ང་རྒྱལ། ཉོན་མོངས་རྣམས་དམན་པར་བལྟས་ཏེ་མི་མཐུན་ཕྱོགས་ཁྱད་དུ་གསོད་པ་ཉོན་མོངས་པའི་ང་རྒྱལ་དང་གསུམ་མོ།། རང་གི་ལེགས་བྱས་དགེ་རྩ་སྒྲུབ་པ་ལ་མཆོག་ཏུ་དགའ་བར་བསམ་ནས་རྣམ་སྨིན་ལ་རེ་བ་མེད་པར་སྤྲོ་བ་དྭང་དུ་བླང་བ་ཁྱད་པར་དགའ་བའི་དཔུང༌། རང་ཉིད་སྟོབས་ཉམས་པ་དང་ཧ་ཅང་སྐྱོ་བར་གྱུར་པ་ན་སླར་བྱའི་དོན་དུ་རེ་ཞིག་དོར་བགེགས་སེལ་དོར་བའི་དཔུང༌། དྲན་པ་དང་ཤེས་བཞིན་གྱི་སྒོ་ནས་ཉོན་མོངས་འཇོམས་པའི་བྱ་བ་ལྷུར་བླང་ནས་སྤང་བྱ་འཇོམས་པ་ལྷུར་ལེན་གྱི་སྟོབས། རང་གི་སྒོ་གསུམ་ལ་དབང་བསྒྱུར་ཏེ་བག་ཡོད་ཀྱི་གཏམ་དྲན་པས་བསླབ་བྱ་ཀུན་ལ་རང་དབང་གིས་སློབ་པ་དབང་བསྒྱུར་གྱི་སྟོབས་དང་སྟོབས་དྲུག་གོ། ལྔ་པ་བསམ་གཏན་གྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ལ་བསམ་གཏན་གྱི་མི་མཐུན་ཕྱོགས་སྤངས་པ་དང༌། ཞི་གནས་ཀྱི་དམིགས་པ་ཡིད་ལ་བྱ་བ་གཉིས། དང་པོ་མི་མཐུན་ཕྱོགས་སྤང་བ་ལ་གཉིས། འཇིག་རྟེན་སྤང་བ་དང༌། རྣམ་རྟོག་དོར་བ་གཉིས། དང་པོ་འཇིག་རྟེན་སྤང་བ་ནི། རང་གི་ཕ་མ། གཉེན་བཤེས། འཁོར་གཡོག་ལ་སོགས་ནང་སེམས་ཅན་གྱི་ཚོགས་ལ་ཆགས་ནས་དེ་དག་གི དབང་དུ་གྱུར་ན་རང་གི་སེམས་རྩེ་གཅིག་ཏུ་མཉམ་པར་འཇོག་པར་མི་འགྱུར་བས་དེ་དག་དང་འབྲེལ་འདྲིས་འདུ་འཛི་ཐམས་ཅད་སྤངས་ཏེ་དགོན་པ་དབེན་པ་ལ་སོགས་པར་རང་ཉིད་གཅིག་པུར་གནས། དེར་ཡང་རྙེད་པ་དང་བཀུར་སྟི། བསྟོད་པ་དང་སྙན་གྲགས། འཕྲལ་དགོས་ཀྱི་ཡོ་བྱད་སོགས་ལ་ཆགས་ནས་དེ་དག་དོན་དུ་གཉེར་ན། ཡང་དག་པའི་ལམ་ལ་བར་དུ་གཅོད་པས་ཐམས་ཅད་ལ་རེ་དྭོགས་བཅད་དེ་གང་བྱུང་དེས་ཆོག་ལ་བསླབ། གཉིས་པ་རྣམ་རྟོག་དོར་བ་ནི། ལུས་དབེན་པར་གནས་ཤིང་ཧ་ཅང་ཡོ་བྱད་སོགས་དོན་དུ་མི་གཉེར་ཡང་སེམས་འདོད་པའི་དབང་དུ་གྱུར་ན་བསམ་གཏན་རྣལ་མ་རྒྱུད་ལ་མི་སྐྱེ་ཞིང་སེམས་མཉམ་པར་འཇོག་མི་ནུས་པས་དེ་དག་སྤང་དགོས། ཁྱད་པར་གོང་མའི་ཏིང་ངེ་འཛིན་ཁྱད་པར་ཅན་ཐོབ་པ་ལ་འདོད་པའི་འདོད་ཆགས་ལ་བློ་ལོག་པ་འདི་གལ་ཆེ་བས་རྒྱུ་བསྒྲུབ་པར་དཀའ་བ། ངོ་བོ་མི་གཙང་བ་ཡིན་པ། འབྲས་བུ་གནོད་པ་མང་བ་ལ་སོགས་ལ་བསམ་ནས་ཡུལ་བུད་མེད་ཀྱི་སྲེད་པ་ལས་བློ་ལོག་ངེས་བྱ། གཞན་ཡང་ཆོས་བརྒྱད་ཚེ་འདི་སྒྲུབ་པའི་རྣམ་རྟོག་ཐམས་ཅད་དགྲ་ལྟར་བལྟས་ཏེ་ཞེ་འདོད་ངན་པའི་རྟོག་ངན་ཇི་ཙམ་སྐྱེས་ཀྱང་དེ་དག་གི་ཉེས་དམིགས་ཡུན་རིང་དུ་བསམ་ནས་རང་ལ་རང་གི་ཁྲེལ་བཏབ་སྟེ་སྙིང་ཐག་པ་ནས་སྤང་བར་བྱའོ།། གཉིས་པ་དངོས་གཞི་བསམ་གཏན་བསྒོམ་པ་ལ། སྒོམ་ཚུལ་མང་ཡང་འདིར་བྱང་ཆུབ་ཀྱི་སེམས་བསྒོམ་པ་ལ་གཉིས། བདག་གཞན་མཉམ་པ་བསྒོམ་པ་དང༌། བདག་གཞན་བརྗེ་བ་བསྒོམ་པ་གཉིས། དང་པོ་ནི། བདག་དང་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་བདེ་བ་འདོད་མཉམ་དུ་གཅིག་སྡུག་བསྔལ་མི་འདོད་མཉམ་པ་ལ་བདག་གཅིག་པུ་བསྲུང་ཞིང་གཞན་མི་བསྲུང་བ་ནི་རིགས་པ་མ་ཡིན་པས་བདག་གཞན་མཉམ་པར་སྒོམ་དགོས་ཏེ། བདག་དང་གཞན་དུ་མཉམ་པ་ནི། དང་པོ་ཉིད་དུ་འབད་དེ་བསྒོམ། བདེ་དང་སྡུག་བསྔལ་མཉམ་པས་ནི། ཐམས་ཅད་བདག་བཞིན་བསྲུང་བར་བྱ། ཞེས་གསུངས་པ་ལྟར་ཐོག་མར་བདག་བཞན་མཉམ་པའི་བྱང་ཆུབ་སེམས་བསྒོམ་མོ།། དེའི་ཚུལ་འདི་ལྟར་དགོས་ཏེ། ནམ་མཁའི་མཐའ་དང་མཉམ་པའི་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་བདག་གི་ཕ་མ་གཉེན་ཚོར་མ་གྱུར་པ་གང་ཡང་མེད་དེ། སློབ་དཔོན་ཀླུ་སྒྲུབ་ཀྱིས། མ་ཡི་གྲངས་མཐའ་རྒྱ་ཤུགས་ཚིག་གུ་ཙམ། །རིལ་བུར་དྲིལ་ཀྱང་ས་ཡིས་ལང་མ་ཡིན། །ཞེས་གསུངས་པ་ལ་སོགས་པའི་ལུང་དང་རིགས་པས་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་རང་གི་ཉེ་དུར་ཐག་བཅད་ལ། དེ་ནས་བཟུང་བདག་ལ་བདེ་བ་སྐྱེས་པ་ན་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་བདག་གི་བདེ་བ་དང་བདེ་བའི་རྒྱུ་འདི་ལྟ་བུ་དང་ལྡན་པར་གྱུར་ཅིག་ཅེས་ཞེ་ཐག་པ་ནས་བསྒོམ། ཡང་བདག་ལ་སྡུག་བསྔལ་ཞིག་སྐྱེས་པ་ན། བདག་དང་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་སྡུག་བསྔལ་དང་སྡག་བསྔལ་གྱི་རྒྱུ་འདི་ལྟ་བུ་དང་བྲལ་བར་གྱུར་ཅིག་སྙམ་དུ་སྙིང་གི་ཁོང་རུས་པའི་གཏིང་ནས་བསྒོམ། དེའི་ཚེ་བསམ་པ་ལ་གེགས་འདི་ལྟ་བུ་སྐྱེ་སྲིད་དེ། བདག་གི་སྡུག་བསྔལ་སེལ་བ་གཞན་ལ་མི་རེ། གཞན་གྱི་སྡུག་བསྔལ་བསལ་བ་བདག་གིས་མི་འགྲུབ་སྙམ་པ་ཉན་ཐོས་ཀྱི་བློ་སྐྱེ་ན། སྤྱོད་འཇུག་ལས། མ་འོངས་པ་ཡི་སྡུག་བསྔལ་ཡང༌། །གནོད་མི་བྱེད་ན་ཇི་ལྟར་བསྲུང༌། །ཞེས་གསུངས་པ་ལྟར་རང་ཉིད་ཀྱིས་ནངས་པར་ཕན་ཆད་ཀྱི་ནད་མེད་པ་དང་ཟས་གོས་ལ་སོགས་ཐོབ་པའི་འབད་པ་ཇི་སྟེ་བྱེད། བདག་སྐད་ཅིག་གིས་འགགས་ནས་དེ་ཕན་ཆད་གཞན་དུ་འགྱུར་བའི་ཕྱིར་རོ།། དེ་ལ་འདི་སྙམ་དུ་མ་རིག་པའི་བག་ཆགས་ཀྱིས་ནངས་པར་ཕན་ཆད་ཀྱང་བདག་ཡིན་ནོ་སྙམ་ན་འཁྲུལ་ཏེ། སྤྱོད་འཇུག་ལས། བདག་གིས་དེ་ནི་མྱོང་སྙམ་པའི། །རྣམ་པར་རྟོག་པ་ལོག་པ་སྟེ། །འདི་ལྟར་སྐྱེ་བའང་གཞན་ཉིད་ལ། འཆི་བ་ཡང་ནི་གཞན་ཞིག་ཡིན། །ཞེས་གསུངས་པ་ལྟར་རོ།། དཔེར་ན་བླུན་པོ་དག་འབབ་ཆུ་འདིས་ན་ནིང་ངའི་གོས་ཁྱེར་རོ་སྙམ་པ་དང་ནངས་པར་ཆུ་འདི་བརྒལ་ལོ་སྙམ་དུ་སེམས་མོད་ཀྱང༌། ན་ནིང་གོས་ཁྱེར་བའི་ཆུ་དེ་ཡང་གཞན་ཡིན་ལ། ནངས་པར་བརྒལ་བའི་ཆུ་དེ་ཡང་གཞན་ཡིན་ནོ།། དེ་བཞིན་དུ་འདས་པའི་སེམས་ཀྱང་བདག་མ་ཡིན་ལ། མ་འོངས་པའི་སེམས་ཀྱང་བདག་མ་ཡིན་པར་གཞན་ཡི་ནོ།། དེ་ལ་འདི་སྙམ་དུ་མ་འོངས་པའི་སེམས་ད་ལྟར་གྱི་བདག་མ་ཡིན་ཡང་བདག་གི་སེམས་ཀྱི་རྒྱུན་ཡིན་ནོ་སྙམ་པའི་སེམས་ཀྱིས་རང་དོན་སྒྲུབ་བོ་ཞེ་ན། སེམས་ཅན་གཞན་བདག་མ་ཡིན་ཡང་བདག་གི་སེམས་ཅན་ཡིན་ནོ་སྙམ་པའི་འདུ་ཤེས་ཀྱི་གཞན་གྱི་དོན་ལ་འཇུག་པར་བྱའོ།། གལ་ཏེ་མགོ་གང་གི་ཁ་བ་སྤུག་སྙམས་པའི་ཚུལ་གྱིས་རང་རང་གི་དོན་ལ་འབད་ཀྱིས། ཕན་ཚུན་གཅིག་གི་དོན་གཅིག་གིས་བསྒྲུབ་མི་ནུས་སོ་སྙམ་ན། སྤྱོད་འཇུག་ལས། རྐང་པའི་སྡུག་བསྔལ་ལག་པས་མིན། ཞེས་གསུངས་པ་ཡང་རྐང་པ་ལ་ཚེར་མ་ཟུག་པ་ཡང་ལག་པས་ཅི་སྟེ་འདོན། དེ་བཞིན་དུ་མིག་ཏུ་རྡུལ་སོང་བ་ལག་པས་དང༌། བུ་ཚའི་དོན་ཕ་མ་དང༌། ཁར་ཟས་འཛུད་པ་ལག་པ་ལ་སོགས་པ་ཡང་རང་རང་གི་དོན་བྱེད་དགོས་པར་འགྱུར་ཏེ་ཧ་ཅང་ཐལ་ལོ།། མདོར་ན་ཕན་ཚུན་གཅིག་གིས་གཅིག་གི་དོན་མ་བྱས་པར་རང་རང་གི་དོན་བསྒྲུབ་དགོས་ན་འགྲུབ་པ་ཤིན་ཏུ་དཀའོ།། དེས་ན་དེ་ལྟར་ཤེས་པར་བྱས་ལ་སེམས་ཅན་གྱི་དོན་ལ་འཇུག་པར་བྱའོ།། གཉིས་པ་བདག་གཞན་བརྗེ་བ་བྱང་ཆུབ་ཀྱི་སེམས་བསྒོམ་པ་ཡང༌། སྤྱོད་འཇུག་ལས། བདག་བདེ་གཞན་གྱི་སྡུག་བསྔལ་དག །ཡང་དག་བརྗེ་བར་མ་བྱས་ན། །སངས་རྒྱས་ཉིད་དུ་མི་འགྲུབ་ཅིང༌། །འཁོར་བ་ན་ཡང་བདེ་བ་མེད། །ཅེས་གསུངས་པ་ལྟར་བདག་གི་བདེ་བ་སེམས་ཅན་ལ་སྦྱིན། སེམས་ཅན་གྱི་སྡུག་བསྔལ་བདག་གིས་བླང་ངོ༌།། དེའི་དམིགས་པ་ཡང༌། དམན་སོགས་བདག་ཏུ་བྱས་པ་དང༌། གཞན་ཉིད་དུ་ནི་བདག་བྱས་ནས། རྣམ་རྟོག་མེད་པའི་སེམས་ཀྱིས་སུ། ཕྲག་དོག་འགྲན་སེམས་ང་རྒྱལ་བསྒོམ། །ཞེས་གསུངས་པའི་དོན་ནི། རང་ལས་དམའ་བའི་གནས་སུ་དགྲ་བཞག དགྲ་འམ་གཞན་མཐོན་པོའི་གནས་སུ་རང་བཞག་ལ་རང་མཐོ་བ་དེ་ལ་དགྲ་དམའ་བ་དེས་ཕྲག་དོག་སྒོམ་དུ་གཞུག བསྒོམ་དེ་ཚར་བ་ན་འདི་ལྟ་བུའི་བསྒོམ་པའི་བསམ་པ་འབྱུང་སྟེ། རང་མཐོན་པོར་བསྒོམ་གཞན་དམའ་བར་བསྒོམ་པ་དེས་རང་ལ་ཕྲག་དོག་བྱས་པར་བསྒོམ་པ་ལ་ཡང་འདི་ལྟ་བུའི་སྡུག་བསྔལ་འབྱུང་ན་གཞན་ལ་ཕྲག་དོག་བྱེད་པ་ག་ལ་འཐད་ཅེས་ཕྲག་དོག་རང་ཞི་བར་འགྱུར་རོ།། དེ་བཞིན་དུ་བདག་དང་མཉམ་པ་ལ་བལྟས་ནས་འགྲན་སེམས་སྒོམ་པ་ཡང་བདག་དང་མཉམ་པའི་དགྲའི་གནས་སུ་རང་ཉིད་བཞག རང་གི་གནས་སུ་དགྲ་དེ་བཞག་ལ་དགྲ་དེས་ཕྱོགས་མཐའ་དག་གི་སྒོ་ནས་བདག་ལ་འགྲན་པར་བསྒོམ་མོ།། བསྒོམ་དེ་གྲོལ་ན་འདི་ལྟ་བུ་བསམ་པ་འབྱུང་སྟེ། རང་དགྲར་བསྒོམ་ནས་གཞན་གྱིས་གནོད་པ་དང་འགྲན་སེམས་བྱས་པར་བསྒོམ་པ་ལ་ཡང་འདི་ལྟ་བུའི་སྡུག་བསྔལ་འབྱུང་ན། གཞན་ལ་གནོད་པ་དང་འགྲན་སེམས་བྱར་ག་ལ་རུང་སྙམ་ནས་འགྲན་སེམས་རང་ཞིར་འགྱུར་རོ།། ཡང་དེ་བཞིན་ང་རྒྱལ་བསྒོམ་པ་ཡང་རང་བས་དམའ་བའི་གནས་སུ་བདག་ཉིད་བཞག རང་གི་གནས་སུ་རང་བས་དམའ་བ་དེ་བཞག་ལ་གཞན་མཐོ་བ་དེས་རང་དམའ་བ་དེ་ལ་རིགས་དང་ཡོན་ཏན་ལ་སོགས་པའི་སྒོ་ནས་ང་རྒྱལ་བྱེད་དུ་གཞུགས། བསྒོམ་དེ་ཚར་བ་ན་བདག་ལ་གཞན་གྱིས་ང་རྒྱལ་བསྒོམ་པ་ན་འདི་ལྟ་བུའི་སྡུག་བསྔལ་འབྱུང་ན་དེའི་ཕྱིར་བདག་གིས་གཞན་ལ་ང་རྒྱལ་བྱར་ག་ལ་རུང་སྙམ་དུ་ང་རྒྱལ་ངོ་བོ་ཉིད་ཀྱིས་ཞི་བར་འགྱུར་རོ།། འདི་དག་གི་དོན་ཞིབ་ཏུ་སྤྱོད་འཇུག་ནས་ཇི་ལྟར་འབྱུང་བ་བཞིན་ཉམས་སུ་བླང་བར་བྱའོ།། དེ་ཙམ་བསྒོམ་པར་མི་ནུས་པས་བསྡུས་ཏེ་བསྒོམ་པར་འདོད་ན། རིན་ཆེན་ཕྲེང་བ་ལས། བདག་ལ་དེ་དག་སྡིག་སྨིན་ཞིང༌། །བདག་བདེ་མ་ལུས་དེར་སྨིན་ཤོག །ཇི་སྲིད་སེམས་ཅན་འགའ་ཞིག་ཀྱང༌། །གང་དུ་མ་གྲོལ་དེ་སྲིད་དུ། །དེ་ཕྱིར་བླ་ན་མེད་པ་ཡི། །བྱང་ཆུབ་ཐོབ་ཀྱང་གནས་གྱུར་ཅིག །དེ་སྐད་བརྗོད་པའི་བསོད་ནམས་འདི། །གལ་ཏེ་དེ་ནི་གཟུགས་ཅན་འགྱུར། །གངྒའི་བྱེ་མ་སྙེད་ཀྱིས་ནི། །འཇིག་རྟེན་ཁམས་སུ་ཤོང་མི་འགྱུར། །འདི་ནི་བཅོམ་ལྡན་འདས་ཀྱིས་གསུངས། །གཏན་ཚིག་ཀྱང་ནི་འདི་ལ་སྣང༌། །ཞེས་བྱ་བ་དང༌། སྤྱོད་འཇུག་ལས། །འགྲོ་བའི་སྡུག་བསྔལ་གང་ཅི་ཡང་རུང༌། །དེ་ཀུན་བདག་ལ་སྨིན་གྱུར་ཅིག །བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་དགེ་བ་ཡིས། །འགྲོ་བ་བདེ་ལ་སྤྱོད་པར་ཤོག །ཅེས་བྱ་བའི་དོན་སྒོམ་ཞིང་ངག་ཏུའང་བརྗོད་པར་བྱའོ།། དེ་ལྟར་བདག་གཞན་མཉམ་བརྗེ་སྒོམ་ཚུལ་ནི། འཇམ་དབྱངས་ས་པ་གྱི་གསུང་ལས་བྱུང་བ་ལྟར་བཀོད་པ་ཡིན་ལ། འགྲེལ་པ་རྣམས་ལས་འདི་དང་སྒོམ་ཚུལ་མི་འདྲ་ཙམ་སྣང་ཡང་རང་གི་བློ་གང་བདེ་ལྟར་བསྒོམ་པར་བྱའོ།།

      དྲུག་པ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ལ། ཤེས་རབ་ཀྱི་ངོ་བོ་ངོས་བཟུང་བ་དེ་ཡུལ་བདག་མེད་ལ་འཇུག་པའོ།། དང་པོ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ངོ་བོ་ནི། མཉམ་བཞག་གི་དུས་སུ་ཆོས་ཐམས་ཅད་སྟོང་ཉིད་དུ་ཤེས་པ་དང༌། རྗེས་ཐོབ་ཏུ་སྒྱུ་མ་དང་རྨི་ལམ་ལྟར་བདེན་མེད་དུ་ཤེས་པ་ཉིད་ཤེས་རབ་ཀྱི་ངོ་བོ་ཡིན་ནོ།།

      གཉིས་པ་དེ་ཡུལ་བདག་མེད་ལ་འཇུག་པ་ནི། གང་ཟག་གི་བདག་མེད་དང༌། ཆོས་ཀྱི་བདག་མེད་བསྒོམ་པའོ།། དང་པོ་ནི་རྨོངས་པ་རྣམས་ལས་བསོག་པ་པོ་དང་འབྲས་བུ་མྱོང་བ་པོ་བདག་གམ་གང་ཟག་གམ་སྐྱེས་བུའམ་སེམས་ཅན་ལ་སོགས་པར་གདགས་པའི་གཞི་དེ་ཀ་ལུས་ངག་ཡིད་གསུམ་དང་གཅིག་པ་ཡིན་ནམ། ཐ་དད་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། བེམ་པོ་ཞིག་ཡིན་ནམ། ཤེས་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། རྟག་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། མི་རྟག་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ་སྙམ་པ་ལ་སོགས་རིགས་པ་དུ་མས་བརྟགས་ཤིང་དཔྱད་པ་བློ་འཁྲུལ་པའི་དབང་གིས་བདག་མེད་ལ་བདག་དང༌། གཞན་མེད་ལ་གཞན་དུ་བཟུང་བ་མ་གཏོགས་དོན་རང་ངོས་ནས་གྲུབ་པའི་བདག་གམ་སེམས་ཅན་ཅུང་ཟད་ཀྱང་མེད་པར་ཐག་བཅད་དོ།། གཉིས་པ་ཆོས་ཀྱི་བདག་མེད་སྒོམ་པ་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་བཞི་ལས། དང་པོ་ལུས་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་ནི། འདི་ལྟར་སྣང་སྲིད་འཁོར་འདས་ཀྱིས་བསྡུས་པའི་ཆོས་ཐམས་ཅད་ཀྱང་རང་གི་སེམས་ལ་སྣང་ཞིང་སེམས་ཀྱིས་བཏགས་པ་མ་གཏོགས་ཅུང་ཟད་ཀྱང་མེད་ལ། སེམས་དེ་ཉིད་ཀྱང་ལུས་ལ་བརྟེན། ལུས་ཀྱི་དབང་དུ་གྱུར་པ་ཡིན་པས་ན་ལུས་བརྟགས་པར་བྱ་སྟེ། ལུས་ཞེས་བྱ་བ་དེ་ཡན་ལག་ཚོགས་པ་འདི་དག་དང་གཅིག་གམ་ཐ་དད་དམ་ལུས་དེ་དང་པོ་གང་ནས་བྱང་བ་ཡིན། བར་དུ་ད་ལྟ་གར་གནས། མཐར་གར་འགྲོ་སོགས་བརྟགས་ལ་ལུས་རང་བཞིན་མེད་པའི་དོན་ལ་མཉམ་པར་བཞག ཡང་ལུས་ལ་ཞེན་པ་སྐྱེས་ན་རང་གཞན་གྱི་ལུས་མི་གཙང་བ་སྒྱུ་མ་ལྟ་བུ་སོགས་སུ་བསྒོམ་ལ་ལུས་ཀྱི་ཞེན་པ་སྤང་ངོ༌།། གཉིས་པ་ཚོར་བ་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་ནི། ཚོར་བ་བདེ་སྡུག་འདི་དག་ནི་སྲེད་ལེན་སོགས་ཉོན་མོངས་པ་ཐམས་ཅད་ཀྱི་རྩ་བ་ཡིན་པས་སེམས་དང་གཅིག་གམ་ཐ་དད་ལ་སོགས་པ་ལ་བརྟགས་ལ། ཚོར་བ་རང་བཞིན་མེད་པའི་དོན་སྒོམ་ཞིང་གཞན་ཚོར་བ་ཐམས་ཅད་སྡུག་བསྔལ་དང་སྙིང་པོ་མེད་པ་ལ་སོགས་པར་སྒོམ་པར་བྱའོ།། གསུམ་པ་སེམས་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་ནི། ཚོགས་དྲུག་གིས་བསྡུས་པའི་སེམས་རྣམ་པར་ཤེས་པའི་རིགས་རྒྱུན་འདི་ཉིད་སྔ་ཕྱི་དང་བཟང་ངན་ལ་སོགས་པ་དུ་མར་སྣང་བ་འདི་རྣམས་གཅིག་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། ཐ་དད་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། དགའ་དང་མི་དགའ། དད་དང་མ་དད། ཆོས་དང་ཆོས་མིན། དགའ་སྡུག་ཆགས་སྡང་ལ་སོགས་པར་སྣང་བའི་སེམས་འདི་དག་གཅིག་ཡིན་ནམ། ཐ་དད་པ་ཞིག་ཡིན་ལ་སོགས་པར་བརྟགས། གཅིག་ཡིན་ན་སེམས་གཅིག་ལ་དགའ་སྡུག་དང་ཆགས་སྡང་ལ་སོགས་དུ་མར་སྣང་བའི་རྒྱུ་ཅི་ཡིན་བརྟགས། དེ་དག་གནས་སྐབས་རྐྱེན་གྱི་དབང་གིས་བྱུང་བ་ཡིན་སྙམ་ན། རྐྱེན་ཅུང་ཟན་ཀྱིས་ཀྱང་མ་བསྒྱུར་ཞིང་ཡུལ་གང་དང་མ་འཕྲད་པའི་སེམས་རང་གི་ངོ་བོ་ཇི་ལྟ་བུ་ཞིག དེ་ཡོད་པ་ཞིག་གམ། མེད་པ་ཞིག་གམ། རྟག་པ་ཞིག་གམ། མི་རྟག་པ་ཞིག་སྙམ་པ་ལ་སོགས་པ་དུ་མས་ཡང་དང་ཡང་དུ་བརྟགས་ལ་སེམས་གཞི་མེད་རྩ་བྲལ་དུ་གཏན་ལ་ཕབ་བོ།། བཞི་པ་ཆོས་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་ནི། དེ་ལྟར་ལུས་ཚོར་སེམས་གསུམ་ལས་གཞན་པའི་འདུ་ཤེས་དང་འདུ་བྱེད་འདུས་མ་བྱས་གསུམ་གྱིས་བསྡུས་པའི་ཆོས་ཐམས་ཅད་ཀྱང་རྒྱུ་རྐྱེན་རྟེན་འབྲེལ་ལས་སྐྱེས་པའི་ཕྱིར་ན་རང་བཞིན་བདེན་པར་མ་གྲུབ་པའི་སྟོང་ཉིད་སྤྲོས་པའི་མཐའ་ཐམས་ཅད་དང་བྲལ་བར་གཏན་ལ་ཕབ་ནས་ཀུན་རྫོབ་སྒྱུ་མ་རྨི་ལམ་ལྟ་བུའི་རོལ་པས་ཆགས་བདུན་སྤང་བའི་སྤྱོད་པ་རྒྱ་མཚོ་ལ་བསླབ་ཅིང༌། དོན་དམ་པར་ཆོས་ཐམས་ཅད་རང་བཞིན་གྱིས་གྲུབ་པ་རྡུལ་ཙམ་ཡང་མེད་པར་ཤེས་པས་གང་ལ་ཡང་ཞེན་པ་མེད་པར་ཉམས་སུ་བླང་ངོ༌།། འགྲོ་བའི་སྡུག་བསྔལ་སྨན་གཅིག་པུ། །བདེ་བ་ཐམས་ཅད་འབྱུང་བའི་གནས། །བསྟན་པ་རྙེད་དང་བཀུར་སྟི་དང༌། །བཅས་ཏེ་ཡུན་རིང་གནས་གྱུར་ཅིག ཅེས་པ་འདིའང་ཨ་བུ་ཧྲལ་པོས་སྨྲས་སོ།། དགེའོ།། བཀྲ་ཤིས།། །།




      Shantideva: NHẬP BỒ ĐỀ HẠNH LUẬN

       Entering the Bodhisattva Way Of Life (English translation not available here) –
      Bước Vào Đường Đi của Bồ Tát
      Tác Luận: Thánh Giả Tịch Thiên [Shantideva] –
      Vìệt dịch: hồng như – Bản hiệu đính, 21/03/2014.
      Điều kiện hành trì: Pháp phổ thông, ai cũng có thể đọc và hành trì.

      Lời Dịch Giả

      Thầy tôi dạy rằng: “Cảnh giới chứng ngộ của ngài Shantideva, kẻ phàm như chúng ta đây không làm sao có thể tưởng tượng nổi. Vậy mà các con lại đủ túc duyên để nghe được những lời này, thật là phước báu khó tìm cầu, phải biết trân quí.”

      Bằng tấm lòng trân quí như vậy, tôi xin dịch bài pháp này. Là niềm tri ân sâu xa đối với Ân Sư cùng hết thảy những ai còn nán lại trong khổ đau sinh tử để cho kẻ chậm chân như tôi đây vẫn còn hy vọng phát khởi tâm bồ đề.

      đệ tử tại gia hồng như
      10/2013

      MỤC LỤC

      Tiểu Sử Tác Giả Shantideva

      Hai nguồn sử liệu chính về cuộc đời ngài Shantideva (Tịch Thiên) đến từ ngài Butön (1290-1364) – và ngài Jetsün Tāranātha (1575-1608). Ngoài ra còn một bản văn ngắn được tìm thấy trong các tác phẩm của học giả Yeshe Peljor (thế kỷ 18). Gần đây, các nhà nghiên cứu phát hiện thêm một đoản văn trong bản thảo chép tay ở Nepal thế kỷ 14.

      Ngài Kunzang Pelden trong bộ luận “Văn Thù Kim Khẩu Cam Lồ” đã dựa theo bản văn của ngài Butön để soạn tiểu sử của ngài Shantideva. Bản tiếng Việt lược dịch từ tiểu sử này.

      Nhập Bồ Đề Hạnh Luận (Bodhicaryāvatāra) do Bồ tát Shantideva (Tịch Thiên) trước tác. Ngài là bậc thầy uyên thâm hội đủ ba phẩm tính cần có của luận giả: trực chứng chân đế, trực kiến bổn tôn, thông làu ngũ minh. Khi còn tại thế, ngài Shantideva viên thành bảy công hạnh phi thường. Đặc biệt ngài là người được đấng bổn tôn Diệu Âm[1] trực tiếp hộ niệm gia trì.

      Ngài Shantideva vốn mang dòng máu đế vương. Vào khoảng đầu thế kỷ VIII tại miền Nam xứ Saurashtra (nay là Bang Gujarat tại Tây Bắc Ấn Độ), quốc vương Kalyanavarnam hạ sanh thái tử, đặt tên là Shantivarman. Từ nhỏ thái tử đã sớm hướng tâm về chư Phật trong các thời quá khứ, tự nhiên mang sẵn dòng giống Đại Thừa, dành trọn tấm lòng tôn kính phi thường cho chư Tăng sĩ, Đạo sư. Ngài phụng sự hiến cúng khắp cả, đặc biệt quan tâm chăm sóc cho người nghèo hèn, tật bệnh, đọa rơi. Với trái tim kiên định hướng về nẻo giác, ngài tích lũy tri thức, thông làu ngũ minh. Đặc biệt ngài thỉnh được nghi quỹ đức Văn Thù từ một vị khất sĩ khổ hạnh, hành trì miên mật và xem đức Văn Thù là bổn tôn.

      Khi Quốc vương băng hà, vương quyền trao về cho Thái tử Shantivarman. Ngai vàng được dựng lên lộng lẫy để chuẩn bị cho lễ Đăng quang. Ngay đêm hôm trước đại lễ, thái tử nằm mộng thấy đức Diệu Âm tọa trên ngai vàng, nhìn ngài mà nói như sau:

      Con yêu duy nhất, / ngai này của ta.
      Ta là Văn Thù / sư phụ con đây.
      Sao con có thể / sánh với sư phụ
      ngang vai ngang vế / ngồi cùng một ngai?

      Giật mình tỉnh giấc, thái tử Shantisarman hiểu rằng việc kế thừa vương vị là điều chẳng nên làm. Lòng không lưu luyến tài sản thế gian, ngài từ bỏ ngai vàng, đến học viện Na-lan-đà thọ giới cùng ngài Jayadeva, thượng thủ của năm trăm vị Hiền Thánh, và được sư phụ ban cho pháp hiệu Shantideva[2].

      Trong thời gian tu học tại Na-lan-đà, ngài được đức Văn Thù trực tiếp truyền cho Tam Tạng kinh điển. Ngài dựa theo đó tu tập miên mật, qui nạp nội dung chánh pháp thành hai bộ luận: Học Tập LuậnKinh Tập Luận. Mặc dù ngài Shantideva thành tựu vô lượng thiện đức từ cả hai pháp diệt và đạo, thế nhưng chư Tăng đồng học vẫn không hay biết, chỉ thấy người này hết ăn (Bhuj) lại ngủ (Sup), rồi lại đi lang thang (Kutimgata), nên gọi ngài là Bhu-su-ku. Họ vô cùng bất bình, than rằng, “cả ba việc của người xuất gia tại đây[3], người này chẳng được việc nào cả, sao đủ tư cách thọ trai tăng! Phải đuổi đi mới được!” Họ liền bàn cách đuổi ngài đi, bày ra việc chư Tăng thay phiên nói pháp, tin chắc rằng bao giờ đến phiên phải nói pháp, chắc chắn ngài sẽ xấu hổ mà trốn đi. Họ liên tục đến thúc dục, nhưng lần nào ngài cũng từ chối, bảo rằng không biết gì để nói. Họ kéo nhau đến thỉnh Viện trưởng ra lệnh cho ngài nói pháp. Viện trưởng vừa lên tiếng, ngài liền hứa ngay. Thấy vậy, một số tăng sĩ bắt đầu chột dạ. Để thách thức ngài, họ bày biện cúng phẩm cao như núi, mời thật đông người đến dự, dựng một tòa sư tử chênh vênh ngay chính giữa, rồi mời ngài đến. Bất ngờ thấy ngài đã tọa sẵn trên pháp tòa, họ kinh ngạc hoang mang, không hiểu ngài thượng lên pháp tòa bằng cách nào.

      Lúc bấy giờ ngài Shantideva điềm nhiên cất tiếng hỏi: “Các ông muốn nghe pháp nào, pháp thường nghe, hay pháp chưa từng nghe?”

      Cả pháp hội sững sờ. “Xin cho chúng tôi nghe pháp chưa từng nghe.”

      Học Tập Luận quá dài, Kinh Tập Luận lại quá ngắn, vì vậy ngài Shantideva thuyết Nhập Bồ Đề Hạnh Luận, nghĩa rộng nhưng văn gọn. Lúc bấy giờ đức Văn Thù hiện ra ngay giữa trời không, nhiều người thấy được, tín tâm trào dâng vô bờ. Khi đọc đến chỉnh cú 34, chương 9, “cả sắc và không / đều vắng trong tâm…”,  ngài Shantideva và đức Văn Thù cùng thăng lên không trung, cao dần, rồi biến mất, chỉ còn giọng nói ngài Shantideva vọng về cho đến cuối bộ luận.

      Trong chúng hội, các vị trí nhớ phi thường liền vội vã chép lại bài pháp, nhưng các bản văn dài ngắn không đồng: có vị chép thành bảy trăm chỉnh cú, có vị chép thành một ngàn chỉnh cú, có vị lại chép thành nhiều chỉnh cú hơn. Chư Hiền giả vùng Kashmir chép thành bảy trăm chỉnh cú và gom thành chín chương, trong khi đó chư vị ở Trung Ấn (Magadha – Ma Kiệt Đà) lại chép thành một ngàn chỉnh cú gom thành mười chương. Lúc ấy, bản văn có sự bất nhất như vậy. Hơn nữa, không ai biết gì về hai bộ luận mà ngài Shantideva dặn dò là cần phải đọc, bộ Học Tập LuậnKinh Tập Luận (xem chương 5, chỉnh cú 105-106).

      Về sau, nghe nói ngài Shantideva đang ở tại bảo tháp Shrīdakṣngahiṇa, vùng Nam Ấn, hai vị hiền thánh với trí nhớ thần thông đã lặn lội tìm đến gặp, xin ngài chuẩn xác lại bộ luận. Ngài xác định bản chép của chư Hiền giả vùng Magadha là chính xác. Khi hỏi đến Học Tập LuậnKinh Tập Luận, ngài bảo rằng hai vị sẽ tìm thấy hai bộ luận này giấu trên mái nhà trong tịnh xá của ngài tại Học Viện Na-lan-đà. Ngài cũng nhân dịp này truyền khẩu và ban lời khai thị cho hai vị.

      Ngài Shantideva sau đó du hành về hướng Đông, vận dụng thần thông hàng phục cuộc xung đột nghiêm trọng, mang lại hòa bình cho cả đôi bên.

      Ngài cũng độ cho năm trăm người ngoại đạo miền Tây gần xứ Magadha. Lúc ấy nhằm lúc thiên tai, cả làng lâm nạn đói. Dân làng bảo nếu được ngài cứu mạng, họ nguyện tin theo giáo pháp của ngài. Ngài khi ấy mang bình bát chứa cơm khất thực, cầm trong tay, gia trì bằng đại định. Chỉ với một bình bát, cả làng đều được thỏa thuê no đủ. Nhờ duyên lành này, cả làng bỏ mê tín để bước vào chánh pháp.

      Thêm một thời gian sau đó, lại trong một nạn đói kinh khiếp, ngài đã cứu mạng một ngàn hành khất.

      Về sau ngài làm cận vệ cho Quốc Vương Arivishana, lúc bấy giờ đang gặp nạn chiến tranh với giặc Machala phía Đông Ấn. Ngài đeo bên mình thanh kiếm gỗ đầy uy lực, đủ khả năng hàng phục mọi hiểm họa, mang an bình đến khắp mọi nơi, được sự nể trọng của khắp cả. Tuy vậy, một số quần thần sanh lòng ganh ghét, đến bẩm báo với vua rằng: “đây chỉ là tên bịp bợm, ngưỡng mong bệ hạ suy xét. Hắn nào có vũ khí gì đâu, chỉ đeo mỗi thanh kiếm gỗ, làm sao bảo vệ được cho bệ hạ!” Vua nghe xong nổi giận, xét vũ khí của từng người. Đến khi vua bảo ngài Shantideva tuốt kiếm, ngài từ tốn thưa rằng làm như vậy sẽ khiến vua bị thương.

      “Ta bị thương mặc lòng!  ngươi cứ hãy rút kiếm ta xem!” Vua ra lệnh.

      Không thể cãi lệnh, ngài mời vua đến nơi vắng vẻ, thỉnh vua lấy tay che một mắt, chỉ nhìn bằng con mắt còn lại. Khi thanh kiếm rút ra khỏi vỏ, hào quang rực rỡ chói lòa khiến mắt vua rơi ngay xuống đất. Vua cùng tùy tùng kinh hãi, xin ngài lượng thứ chở che. Ngài Shantideva lúc bấy giờ trả mắt lại cho vua, nhờ lực gia trì của ngài, mắt vua bình thường như cũ, không chút đau đớn. Cả vương quốc bấy giờ khởi tín tâm sâu xa, quay về quy thuận chánh pháp.

      Về sau ngài Shantideva đến vùng Shriparvata miền Nam, sống lẫn trong đám hành khất lõa thể. Ở đó ngài ăn nước rửa chén rửa nồi người ta đổ ra. Có một lần cô thị nữ của vua Khatavihara tên là Kachalaha đổ nước rửa chén, chợt thấy nước hắt lên người Shantideva thì lập tức sôi rít lên, chẳng khác gì đổ trên nền sắt nóng. Cô ta lấy đó làm lạ.

      Cũng vào lúc bấy giờ, có một vị sư phụ Ấn giáo tên là Shankaradeva tìm đến gặp vua để ra lời thách đố. Ông ta tuyên bố sẽ vẽ mạn-đà-la Maheshvara trên trời không, nếu Phật giáo không ai phá được thì mọi ảnh tượng kinh sách Phật giáo trong vương quốc đều phải vất vào lửa đỏ, trăm dân phải theo đạo của ông ta. Trước lời thách đố này, nhà vua lập tức triệu tập hết thảy cao tăng về báo việc, nhưng không một ai đủ khả năng nhận lời thách đố. Vua ăn ngủ không yên. Thấy vậy, thị nữ Kachalaha bẩm bạch cùng vua chuyện kỳ lạ về gã hành khất, vua liền ra lệnh tìm Shantideva. Quần thần vội vã tìm trong tìm ngoài, rốt cuộc tìm được ngài đang ngồi dưới một gốc cây. Khi nghe đầu đuôi câu chuyện, ngài nói rằng việc này chẳng khó gì, nhưng phải cho ta một bình đầy nước, hai tấm vải, và lửa. Mọi thứ đều được nhanh chóng chuẩn bị theo đúng ý của ngài.

      Buổi chiều ngày hôm sau, hành giả ấn giáo đến vẽ mấy lằn lên không trung rồi bỏ đi. Mọi người đều cảm thấy vô cùng bất an. Sáng sớm hôm sau, đương lúc mạn đà la còn đang thành hình, cửa Đông chưa kịp xong thì ngài Shantideva đã nhập vào đại định. Ngay tức thì, trận cuồng phong nổi lên, quét sạch mạn đà la vào hư không. Hết thảy cây cối, hoa màu, nhà cửa đều bị cuốn tan hoang. Vị hành giả Ấn giáo bị gió tốc như một con chim con. Bóng tối bao trùm khắp lãnh thổ. Rồi hào quang chiếu ra từ giữa hai lông mày của ngài Shantideva, soi lối cho vua và hoàng hậu. Cả hai đều bị gió cuốn, tuột hết siêm y, toàn thân đầy bụi. Và cứ thế, ngài Shantideva dùng lửa để sưởi, dùng nước để tắm, dùng vải để vua và hoàng hậu che thân. Ngài lại dùng thần lực của đại định gom hết dân chúng bị gió cuốn trở về lại, tắm rửa, chăm sóc, trấn an. Biết bao người khởi chánh tín, nhờ đó ngoại đạo suy tàn, chánh pháp hưng thịnh dài lâu. Vương quốc này vì vậy mà được gọi là nơi “hàng phục ngoại đạo.”

      Mặc dù ngài Shantideva lúc nào cũng tự cho mình chỉ là kẻ phàm phu, nhưng theo lời ngài Jetari, ngài Shantideva là hiện thân của đức Diệu Âm (Văn Thù). Theo lời ngài Prajnaka-ramati thì ngài Shantideva là bậc thánh tăng. Còn riêng nói về hành trạng của ngài, đức Vibhutichandra nói rằng:

      Trên cõi thế gian / đã từng xuất hiện
      nhiều đấng Pháp Vương, / vua của chánh pháp,
      thế nhưng xét về / thành tựu, kinh nghiệm,
      chẳng ai sánh bằng / Shan-ti-đê-va.

      Ngài Shantideva để lại cho hậu thế ba tuyệt tác: Hai tác phẩm đầu là Học Tập Luận (Shikṣhāsamucchaya) và Kinh Tập Luận (Sūtrasamucchaya), một phong phú, một ngắn gọn. Tác phẩm thứ ba tựa đề Nhập Bồ Đề Hạnh Luận (Bodhicaryāvatāra), hình thức ngắn gọn nhưng nội dung vô cùng phong phú. Ở xứ Ấn có hơn 108 luận giải viết về bài luận bất hủ này.

      ———–

      Ghi chú phần Tiểu Sử:

      [1] Bồ Tát Diệu Âm (Manjushosha) là tên khác của Bồ Tát Văn Thù (Manjushri)
      [2] Shanti- là một phần tên của ngài, và –deva là một phần tên của sư phụ, ghép lại thành Shantideva
      [3] Học, tu, và làm Phật sự như in sách, làm thuốc v.v…

      Xem Tiếp Chương 1 >>>

      Tựa đề tiếng Phạn:
      Bodhicaryāvatāra (còn gọi là Bodhisattvacaryāvatāra)

      Tựa đề tiếng Tạng:
      ༄༅། །བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་སྤྱོད་པ་ལ་འཇུགས་པ་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ།།

      Tựa đề tiếng Việt:
      Nhập Bồ Đề Hạnh Luận, (hay là Nhập Bồ Tát Hạnh Luận).


      CHƯƠNG MỘT: LỢI ÍCH TÂM BỒ ĐỀ

      I-1. Đệ tử đảnh lễ
      Thiện Thệ, Pháp Thân,
      chư vị Trưởng tử
      cùng người xứng đáng.
      Nay tôi kính xin
      thuận theo lời Phật,
      tóm lược lối vào
      giới hạnh bồ tát.

      I-2. Lời tôi nói đây
      chẳng có gì mới,
      cũng chẳng có gì
      khéo nói hơn ai.
      Tôi không viết vì
      lợi ích chúng sinh,
      mà chỉ là để
      tự tâm huân tập.

      I-3. Lời này có thể
      tăng chút tín tâm,
      cho tôi huân dưỡng
      thuận theo thiện đức.
      Ai người may mắn
      tương tự như tôi,
      nhờ đọc lời này
      đôi khi có lợi.

      I-4. Tự tại, thuận duyên
      là điều khó đạt,
      đủ sức toàn thành
      nguyện ước chúng sinh.
      Vậy nếu nay tôi
      thủ lợi riêng mình,
      kiếp sau đâu thể
      thuận duyên như vậy.

      I-5. Tựa như tia chớp
      giữa nền trời đen,
      trong một phút giây
      sáng soi khắp cả.
      Nhờ Phật gia hộ
      mà người thế gian
      đôi khi thoạt hiện
      một vài thiện đức.

      I-6. Cho nên tâm thiện
      bao giờ cũng yếu;
      tâm ác thì lại
      mạnh dữ vô cùng.
      Muốn điều ngự tâm,
      ngoài tâm bồ đề,
      thử hỏi có còn
      thiện tâm nào khác ?

      I-7. Mâu Ni nhiều kiếp
      thâm sâu chiêm nghiệm,
      thấy chỉ tâm này
      mới thật lợi sinh.
      Vô lượng chúng sinh
      nương vào tâm này,
      có thể dễ dàng
      viên thành đại lạc.

      I-8. Ai người mong cầu
      diệt trăm khổ nạn,
      mong quét bất hạnh
      của khắp chúng sinh,
      hay mong được hưởng
      vạn cảnh yên vui,
      tâm bồ đề này
      chớ nên lìa bỏ.

      I-9. Chúng sinh khốn khổ
      trôi lăn luân hồi
      mà phát được tâm,
      thì ngay lúc ấy
      sẽ được gọi là
      Như lai trưởng tử,
      thành nơi xứng cho
      trời, người hiến cúng.

      I-10. Tương tự thuốc tiên
      hóa sắt thành vàng,
      nay thân ô nhiễm
      nhờ tâm bồ đề
      mà thành thân Phật
      vô vàn trân quí.
      Vậy hãy giữ chắc
      tâm bồ đề này.

      I-11. Đấng độ quần sinh
      dùng trí vô lượng
      quán chiếu tận tường
      và đều thấy rõ:
      ai người muốn thoát
      cảnh khổ luân hồi,
      phải giữ cho chặt
      ngọc bồ đề tâm.

      I-12. Những thiện đức khác
      giống như thân chuối,
      ra quả một lần
      rồi là tàn rụi.
      Nhưng tâm bồ đề
      triền miên kết trái,
      không bao giờ tàn,
      vững vàng lớn mạnh.

      I-13. Sợ cảnh hung hiểm,
      ta nương anh hùng;
      cho dù phạm phải
      tội ác tột cùng,
      chỉ cần phát tâm
      tức thì vượt thoát.
      Vậy sao những kẻ
      sợ cảnh đọa rơi
      lại chẳng tìm đến
      nương tâm bồ đề ?

      I-14. Như lửa hoại kiếp
      thiêu rụi thế gian,
      tâm bồ đề này
      thiêu tan ác nghiệp.
      Lợi ích vô lượng,
      bất khả tư nghì,
      bậc trí Từ Thị
      dạy cho Thiện Tài.

      I-15. Cần biết tâm này
      nói gọn, có hai,
      một là ước muốn:
      bồ đề tâm nguyện;
      hai là thực hiện:
      bồ đề tâm hành.

      I-16. Cũng như muốn đi
      khác với lúc đi,
      tương tự như vậy,
      kẻ trí cần hiểu
      thứ tự khác biệt
      giữa hai tâm này.

      I-17. Cho dù còn vướng
      ở trong sinh tử,
      bồ đề tâm nguyện
      đơm quả lớn lao,
      tuy nhiên cũng vẫn
      chưa được liên tục
      như là công đức
      bồ đề tâm hành.

      I-18. Bao giờ phát tâm
      không còn thoái chuyển,
      nguyện độ chúng sinh
      thoát khổ luân hồi,
      liền ngay lúc ấy,
      từ đấy trở đi,

      I-19. cho dù ngủ nghỉ,
      hay dù tán tâm,
      cả một suối nguồn
      công đức bất tận
      cũng vẫn trỗi mạnh
      rộng sánh không gian.

      I-20. Chính đức Như lai
      đã dạy điều này
      trong bộ Kinh Su-ba-hu Thỉnh Vấn,
      là để giúp cho
      những người tâm nhỏ
      có thể phát khởi
      tín tâm đại thừa.

      I-21. Vì muốn lợi người
      mà khởi tâm cầu
      thoát bệnh nhức đầu
      cho khắp chúng sinh,
      thì công đức này
      cũng đã vô tận.

      I-22. Huống chi công đức
      cầu khắp chúng sinh
      thoát vô lượng khổ,
      rồi đưa chúng sinh
      viên thành vô lượng
      thiện căn công đức.

      I-23. Thử hỏi tâm này
      mấy ai có được ?
      dù cha hay mẹ
      chư thiên, thiện giả,
      ngay cả Phạm Thiên
      biết có được chăng ?

      I-24. Tâm này chúng sinh
      chưa từng có được,
      dù là trong mơ,
      dù chỉ cho mình.
      Làm sao có thể
      có được tâm địa
      vì khắp chúng sinh ?

      I-25. Chúng sinh phàm phu
      chưa từng khởi tâm;
      Độ cho chính mình
      còn chưa nghĩ tới !
      Tâm bồ đề này
      mà khởi sinh được
      là điều nhiệm mầu
      chưa từng thấy qua !

      I-26. Là thuốc chữa lành
      mọi cơn bệnh dữ,
      là nguồn hạnh phúc
      cho khắp chúng sinh.
      Công đức bồ đề
      vô vàn quí giá,
      thật chẳng lấy gì
      cân đo cho được.

      I-27. Chỉ cần một niệm
      gánh vác chúng sinh,
      công đức quá hơn
      công đức cúng Phật,
      huống chi nỗ lực
      mang nguồn an lạc
      về cho chúng sinh.

      I-28. Là vì chúng sinh
      dù cầu thoát khổ,
      nhưng vẫn mê mải
      chọn khổ mà theo.
      Dù cầu an vui,
      thế nhưng an vui
      thì lại u mê
      hủy diệt tất cả
      như diệt kẻ thù.

      I-29. Ai mang vui đến
      cho người bất hạnh,
      ai quét khổ nạn
      cho kẻ khốn cùng,

      I-30. ai xua bóng tối
      mê muội vô minh,
      thiện đức này đây
      lấy gì sánh nổi ?
      có bạn nào hơn
      người bạn lành này ?
      chẳng công đức nào
      tương tự như vậy !

      I-31. Giúp người đền ơn
      mà còn được khen,
      huống chi bồ tát
      làm lợi chúng sinh
      chẳng đợi ai cầu.

      I-32. Bủn xỉn mang ra
      chút ít thực phẩm,
      khinh miệt bố thí
      cho đôi ba người,
      chỉ đủ ấm bụng
      nửa ngày mà thôi,
      cũng còn được khen
      là làm việc thiện.

      I-33. Huống chi vĩnh viễn
      tặng khắp chúng sinh
      suối nguồn hỉ lạc
      vô thượng bồ đề;
      chúng sinh trong tâm
      có ước nguyện gì,
      thì đều hết thảy
      làm cho như nguyện.

      I-34. Bậc trí dạy rằng:
      với chư trưởng tử
      từ bi của Phật
      mà khởi niệm ác,
      khởi bao ác niệm
      thì phải đọa rơi
      đủ bấy nhiêu kiếp
      vào cảnh địa ngục.

      I-35. Nhưng nếu khởi được
      tín tâm trong sáng,
      thời quả gặt hái
      tươi tốt xum xuê,
      vì bồ tát dù
      rơi vào nghịch cảnh,
      công đức bồ đề
      vẫn không suy thoái,
      thiện đức vững vàng
      tăng trưởng tự nhiên.

      I-36. Nay tôi nguyện xin
      đê đầu đảnh lễ
      tất cả những ai
      sinh tâm bồ đề.
      Nguyện xin quy y
      suối nguồn an lạc:
      người mang vui đến
      cho kẻ hại mình.

      / Hết Chương 1 /

      | Đọc Tiếp Chương 2 >>>

      Chương Hai: SÁM HỐI

      II-1. Nay để phát tâm
      vô thượng bồ đề,
      bao phẩm tốt lành
      tôi xin dâng hiến
      Như lai, Diệu Pháp
      vô cấu cực hiếm,
      cùng chư Trưởng tử
      thiện đức như biển.

      II-2. Nào hoa, nào quả,
      nào là diệu dược,
      bao nhiêu châu ngọc
      của khắp thế gian,
      hết thảy nguồn nước
      trong thanh thơm ngọt,

      II-3. bao núi châu bảo,
      bao rừng tịnh yên,
      bao nhiêu nhánh cây
      ngàn hoa kín rợp,
      bao nhiêu đại thụ
      trái nặng trĩu cành;

      II-4. hương thơm của khắp
      cõi tiên, cõi phàm,
      hương đốt, cây ngọc,
      cùng cây như ý,
      vụ mùa tốt tươi
      không người cấy trồng,
      phẩm lượng phong phú
      xứng dâng lên Phật;

      II-5. Này là ao hồ
      rực rỡ cánh sen,
      này là tiếng chim
      nhẹ nhàng thanh thoát,
      cùng bao phẩm vật
      không của riêng ai,
      thênh thang đầy khắp
      không gian vô tận.

      II-6. Nguyện xin dâng hiến
      từ giữa nơi tâm,
      dâng đức Mâu ni
      bậc lưỡng túc tôn
      cùng chư trưởng tử,
      kính xin chư vị
      thương tưởng cho tôi
      từ bi tiếp nhận.

      II-7. Vì công đức cạn
      nên tôi bần hàn,
      không có gì khác
      để mà dâng Phật.
      Chư Phật đã nguyện
      gánh vác chúng sinh,
      xin hãy vì tôi
      tiếp nhận cúng phẩm.

      II-8. Bao nhiêu thân mạng
      kể từ muôn kiếp,
      tôi xin kính dâng
      chư Phật, bồ tát,
      xin bậc đại hùng
      thu nhận cho tôi,
      với trọn lòng thành
      nguyện về phụng sự.

      II-9. Nếu chư vị thương
      thu nhận tôi về,
      thời tôi không còn
      khuất phục sinh tử,
      ngược lại có thể
      lợi ích chúng sinh.
      Bao nhiêu ác nghiệp
      vất bỏ phía sau,
      sẽ không bao giờ
      quay đầu trở lại.

      II-10. Nhà tắm ngát hương
      nguy nga tráng lệ,
      nền đất pha lê
      trong veo ngời sáng,
      cột trụ uy nghi
      khảm đầy châu báu,
      dù lọng kín rợp
      lấp lánh ngọc trai.

      II-11. Đây bình châu ngọc
      đầy ắp nước hương,
      nhã nhạc du dương,
      thỉnh Như lai tắm.

      II-12. Đây khăn thơm sạch,
      chất liệu phi phàm,
      đệ tử kính xin
      lau khô thân Phật.
      Dâng y cõi thiên
      sạch thơm tươi thắm,

      II-13. mang hết y phục
      mềm mại dịu êm,
      trang sức quí giá
      nhiều hàng trăm vạn,
      kính dâng chư tôn
      Phổ Hiền, Văn Thù,
      đức Quan Thế Âm
      cùng chư bồ tát.

      II-14. Hương xoa dịu ngát
      toàn cõi đại thiên,
      đệ tử kính xin
      thoa lên ngọc thể
      của đấng Mâu ni,
      rạng tỏa ánh vàng
      như là hào quang
      vàng ròng tinh luyện.

      II-15. Trước đấng Mâu Ni,
      ruộng phước tối thượng,
      đệ tử bày biện
      rực rỡ ngàn hoa,
      măn đa ra va,
      sen và ưu đàm…
      bao nhiêu hoa thơm
      kết dăng thành chuỗi.

      II-16. Đệ tử kính dâng
      trầm hương cuộn khói,
      ngút ngàn trời mây,
      ngây ngất hương bay.
      Kính dâng chư Phật
      yến tiệc cõi thiên,
      thực phẩm, thức uống,
      cao lương mỹ vị.

      II-17. Dâng bao đèn quí
      khảm đế sen vàng,
      trang nghiêm bày biện
      từng hàng thắp sáng.
      Mặt đất tẩy trần,
      tưới tẩm trầm hương,
      rải đầy thảm hoa
      tươi thơm thanh mát.

      II-18. Trước đấng đại bi,
      đệ tử kính dâng
      điện ngọc ngân vang
      tiếng lời xưng tán,
      trướng ngọc rèm treo
      lấp lánh châu bảo,
      trang nghiêm vô tận
      cùng khắp không gian.

      II-19. Bảo cái sáng quí,
      cán vàng viền ngọc,
      thẳng tắp, cân xứng,
      tươi đẹp mắt người,
      xin mang tất cả
      dâng hiến Như lai.

      II-20. Trùng điệp cúng phẩm,
      nhạc vọng ngàn mây,
      xoa dịu sầu khổ
      khắp chúng hữu tình.

      II-21. Nguyện rải mưa hoa
      ở trên pháp bảo,
      trên tháp xá lợi
      cùng mọi biểu tượng
      ruộng phước Như lai.

      II-22. Văn Thù Sư Lợi
      cùng chư bồ tát
      đã từng cúng dường
      Thế tôn ra sao,
      nay tôi nguyện xin
      làm theo như vậy,
      cúng dường Như lai
      cùng chư bồ tát.

      II-23. Với hải triều âm,
      tôi xin tán dương
      biển rộng công đức;
      nguyện diệu âm này
      theo mây lan rộng
      cùng khắp mọi nơi.

      II-24. Tam thiên thế giới
      có bao vi trần,
      tôi nay cũng nguyện
      hiện bấy nhiêu thân,
      kính lạy khắp cả
      chư Phật ba thời,
      lạy Pháp và Tăng,
      không hề thiếu sót.

      II-25. Tôi xin kính lạy
      tháp cùng trú xứ
      của tâm bồ đề,
      phương trượng truyền giới,
      đạo sư uyên thâm,
      hành giả thánh chúng.

      II-26. Từ nay đến ngày
      đạt quả bồ đề,
      tôi nguyện quay về
      qui y nơi Phật,
      qui y nơi Pháp
      cùng chư bồ tát.

      II-27. Xin chắp hai tay
      thành tâm khẩn nguyện,
      Phật và bồ tát
      trú ở mười phương,
      rộng lượng từ bi
      chứng giám cho tôi:

      II-28. Kể từ vô thủy
      sinh tử luân hồi,
      đời này đời khác,
      bao nhiêu việc ác,
      tôi đã tự làm,
      hay bảo người làm.

      II-29. Lại còn để cho
      vô minh thao túng,
      làm ác mà lại
      thích thú vui cùng.
      Nay đã biết lỗi,
      xin đấng chở che
      cho tôi quay về
      thành tâm sám hối.

      II-30. Bao nhiêu lầm lỗi
      do tâm phiền não
      động thân khẩu ý
      mà phát sinh ra,
      xúc phạm Tam Bảo,
      xúc phạm mẹ, cha,
      với cả đạo sư,
      cùng bao việc khác.

      II-31. Tôi, kẻ đọa rơi,
      vướng bao lầm lỗi,
      bao nhiêu ác nghiệp
      tôi đã làm nên,
      nay xin đối trước
      Thầy của trời người,
      nguyện không che đậy,
      một lòng sám hối.

      II-32. Lỡ như chết đi
      mà chưa kịp sám,
      thời biết làm sao
      thoát được ác nghiệp !
      tôi thành khẩn xin
      chư tôn che chở
      cho tôi sớm về
      sám hối qui y.

      II-33. Thần chết thì chẳng
      tin tưởng được đâu,
      việc xong hay chưa
      có bao giờ đợi.
      Ai bệnh ai khỏe,
      mạng sống phù du,
      làm sao có thể
      tin vào cho được.

      II-34. Rồi cũng phải đi,
      Lìa xa tất cả.
      Nhưng tôi thì có
      ý thức được đâu.
      Cứ bạn cứ thù,
      ân ân oán oán,
      trùng trùng điệp điệp,
      ác nghiệp đầy thân.

      II-35. Kẻ thù mà chi,
      rồi cũng sẽ tan.
      bằng hữu mà chi,
      rồi cũng sẽ mất.
      ngay chính tôi đây
      cũng sẽ không còn,
      tất cả mọi cảnh
      đều là như vậy.

      II-36. Hết thảy mọi sự
      hiện trong cõi đời,
      phù du ngắn ngủi
      như một giấc mơ,
      rồi tan biến hết
      vào trong ký ức,
      khi đã tan rồi
      tìm chẳng thấy đâu.

      II-37. Cứ mỗi phút giây
      trong đời sống này,
      kẻ thù bằng hữu
      cứ thế mà đi.
      vậy mà vì họ
      tôi gieo ác nghiệp,
      quả báo thì vẫn
      còn nằm phía trước.

      II-38. Thế nhưng tâm tôi
      chẳng hề nghĩ tới,
      rằng tôi đây cũng
      ngắn ngủi không bền.
      cứ vậy quay cuồng
      với tham cùng sân,
      gieo biết bao nhiêu
      ác nghiệp ác chướng.

      II-39. Hết ngày lại đêm,
      có bao giờ ngớt,
      mạng sống thúc ngắn
      đều đặn không ngừng,
      chẳng có cách gì
      nối cho dài lại.
      Làm sao khỏi chết
      người giống như tôi ?

      II-40. Khi ấy tôi nằm
      trên giường hấp hối,
      thân nhân bằng hữu
      dù ở cạnh bên,
      cũng chỉ mình tôi
      lìa xa cõi thế,
      nghe đời sống cạn
      mạng sống đoạn lìa.

      II-41. Đến khi thần chết
      đến bắt tôi đi,
      thân nhân bằng hữu
      liệu có ích gì ?
      chỉ còn thiện đức
      làm nơi che chở,
      vậy mà tôi đã
      khinh xuất bỏ qua.

      II-42. Lạy đấng chở che !
      tôi vì vô tâm,
      chẳng ngờ có cảnh
      kinh hoàng như vậy.
      Chỉ vì đời sống
      phù du không bền,
      mà gieo biết bao
      ác nghiệp chồng chất.

      II-43. Nếu như có người
      đang bị dẫn đến
      nơi chốn hành hình
      chặt chân chặt tay,
      chắc chắn kinh hãi
      cổ khô, mắt trợn,
      thần sắc biến đổi
      chẳng được như xưa.

      II-44. Huống chi là tôi.
      Khi ấy bị lũ
      ngục tốt diêm vương
      dị hình dị dạng
      túm lên lôi xuống,
      khổ bệnh hành hạ,
      bấn loạn hãi hùng.

      II-45. Ai cứu tôi đây,
      che chở cho tôi,
      giúp cho tôi thoát
      cảnh kinh hoàng này ?
      Mắt tôi hoảng hốt
      nhìn quanh tứ phía,
      hoang mang mong gặp
      một chốn chở che.

      II-46. Nhưng nhìn bốn phía
      vẫn chẳng tìm ra,
      có được chốn nào
      làm nơi nương dựa.
      Đớn đau tràn ngập,
      thất vọng vô bờ,
      không nơi che chở
      giờ biết làm sao !

      II-47. Vậy ngay hôm nay
      nguyện qui y Phật:
      là bậc chở che
      cho kẻ trầm luân,
      cứu vớt chúng sinh
      trôi lăn sinh tử,
      là bậc uy dũng
      ban sự vô úy.

      II-48. Tôi nguyện quay về
      qui y nơi Pháp:
      là mọi thành tựu
      Phật chứng trong tâm,
      phá tan hết thảy
      khổ nạn luân hồi.
      Tôi cũng quay về
      qui y bồ tát:

      II-49. vì quá kinh hãi
      bao mối hiểm nguy,
      tôi mang bản thân
      dâng đức Phổ Hiền;
      tôi cũng nguyện xin
      mang hết thân mạng
      kính dâng lên đức
      Diệu Âm bồ tát.

      II-50. Đấng đại chở che
      đức Quan Thế Âm,
      thiện hạnh từ bi
      không hề hư ngụy:
      tận cùng thống khổ
      tôi gọi thiết tha,
      “xin hãy cứu con
      kẻ bất thiện này.”

      II-51. Đức Hư Không Tạng,
      đức Địa Tạng Vương,
      cùng với hết thảy
      các đấng chở che,
      đại từ đại bi,
      lòng con hướng về
      thiết tha níu gọi,
      xin được qui y.

      II-52. Nguyện về nương dựa
      đức Kim Cang Thủ,
      thoáng thấy bóng ngài
      là lũ ác hung
      ngục tốt diêm vương
      hoảng chạy tứ phía.

      II-53. Trước kia lời Phật
      tôi chẳng chịu nghe,
      nhưng nay thấy cảnh
      kinh hãi thế này,
      xin cho tôi về
      tìm nơi nương dựa,
      xin hãy giúp tôi
      quét sạch hiểm nguy.

      II-54. Bệnh nhỏ đã phải
      nghe lời thầy thuốc,
      huống chi trăm vạn
      trọng bệnh trầm kha,
      do tham sân si
      tác hại tơi bời.

      II-55. Chỉ một bệnh thôi
      đã đủ hủy diệt
      toàn cõi Diêm Phù;
      kiếm khắp mọi nơi
      cũng chẳng thế nào
      tìm ra thuốc chữa.

      II-56. Vậy thì lời Phật,
      bậc đại y vương,
      đủ sức chữa lành
      mọi cơn bệnh dữ,
      nếu như tôi chẳng
      thuận ý làm theo,
      thì có phải là
      chí ngu không vậy !

      II-57. Đi cạnh vực thẳm
      bé nhỏ tầm thường
      mà đã ra công
      đề phòng hết sức,
      huống chi hiểm họa
      vực thẳm địa ngục,
      sa vào ngàn trượng
      rơi đọa triền miên.

      II-58. Chẳng thể nhởn nhơ
      nghĩ mình không chết,
      nhất định có ngày
      tôi phải ra đi.

      II-59. Vậy ai là người
      giúp được tôi đây ?
      làm sao có thể
      chắc mình thoát nạn ?
      Biết rồi có ngày
      cũng sẽ tan biến,
      làm sao có thể
      thanh thản ngồi yên ?

      II-60. Cảnh sống vừa đến
      là đã tan bay.
      Còn gì cho tôi ?
      Có gì ở lại ?
      Vậy mà cứ níu
      điều không còn nữa,
      tôi đã phụ lời
      dạy của Thầy tôi !

      II-61. Đến khi đời này
      bỏ lại phía sau,
      cùng với hết thảy
      thân nhân bằng hữu,
      một mình tôi phải
      lang thang vô định,
      thân nhân bằng hữu
      giữ có ích gì !

      II-62. “Làm sao có thể
      quét sạch ác nghiệp ?
      là điều chắc chắn
      mang quả khổ đau !”
      Đây mới là điều
      đáng phải quan tâm,
      ngày cũng như đêm
      đừng lo việc khác.

      II-63. Tôi bởi ngu si,
      tạo bao việc ác,
      phạm mười bất thiện,
      phá giới Phật cho,

      II-64. Vì sợ quả báo
      nhất định sẽ đến,
      tôi chắp hai tay,
      kính lạy không ngừng.
      thiết tha mong cầu
      các đấng chở che,
      chứng giám cho tôi
      phát lộ sám hối.

      II-65. Thỉnh Phật thương xót
      lấy nghiệp dùm tôi.
      Đối với hết thảy
      mọi điều bất thiện,
      từ nay tôi sẽ
      nhất định không làm.

      / Hết Chương 2 /

      || Đọc Tiếp Chương 3 >>>

      Chương Ba: NẮM LẤY TÂM BỒ ĐỀ

      III-1. Tôi xin vui cùng
      tất cả việc làm
      khiến vơi khổ đau
      trong cõi ác đạo;
      hay là khiến nơi
      khổ đau chưa đến
      có thể giữ nguồn
      hạnh phúc an vui.

      III-2. Tôi xin vui cùng
      công đức bồ đề,
      nhờ đó chúng sinh
      đoạn lìa phiền não,
      đạt quả giải thoát,
      thoát khổ thọ sinh.

      III-3. Tôi xin tùy hỉ
      quả vị Phật đà;
      vui cùng chứng địa
      của chư trưởng tử;

      III-4. Vui với biển cả
      công đức phát tâm,
      đưa hết chúng sinh
      đến bờ an lạc;
      vui cùng thiện hạnh
      nâng đỡ chúng sinh.

      III-5. Đối trước chư Phật
      ở khắp mười phương,
      tôi chắp hai tay
      thiết tha khẩn nguyện:
      xin vì chúng sinh
      thắp ngọn chánh pháp,
      soi cõi tối tăm
      khốn khổ hoang mang.

      III-6. Chư Phật Thế Tôn
      muốn hiện niết bàn,
      thì tôi chắp tay
      thiết tha khẩn nguyện:
      kính xin chư Phật
      sống cùng đời kiếp,
      đừng bỏ chúng tôi
      đui mù lang thang.

      III-7. Làm những điều này
      được bao công đức,
      tôi nguyện hồi hướng
      về khắp chúng sinh
      thoát mọi cảnh khổ.

      III-8. Chúng sinh có bệnh,
      bệnh nếu chưa lành,
      thời tôi còn vẫn
      theo làm thầy thuốc,
      làm người điều dưỡng,
      làm cả thuốc thang.

      III-9. Nguyện tôi mưa xuống
      đầy tràn thực phẩm
      giải cơn đói khát.
      Nguyện trong thời kỳ
      dữ dội kiếp nạn,
      thân tôi sẽ thành
      nước uống thức ăn.

      III-10. Chúng sinh có nghèo,
      khổ cực cơ hàn,
      nguyện tôi sẽ là
      kho bồ bất tận,
      hiện ngay trước mặt
      của khắp chúng sinh;
      bao nhiêu nhu cầu
      tôi cung ứng đủ.

      III-11. Tài sản, thân mạng,
      ba thời công đức,
      tôi mang cho hết,
      cầu lợi chúng sinh,
      không hề cảm thấy
      có gì mất mát.

      III-12. Muốn đạt niết bàn
      phải cho ra hết,
      trọn vẹn tâm tôi
      chỉ hướng quả này.
      Dù sao rồi cũng
      phải bỏ mà đi,
      chi bằng bây giờ
      mang ra bố thí.

      III-13. Thân mạng này đây
      tôi xin hiến cúng
      cho khắp chúng sinh
      tùy ý hưởng dụng.
      Dù giết, dù chê
      dù là đánh đập,
      tôi cũng cam tâm.

      III-14. Cứ mang tôi ra
      mà làm trò vui,
      tha hồ bỡn cợt,
      chê bai, chế nhạo.
      tấm thân này đây
      tôi đã hiến cúng,
      thì còn có gì
      đáng để quan tâm.

      III-15. Muốn làm gì tôi
      cứ mặc tình làm,
      miễn đừng làm điều
      tự hại mà thôi.
      Mỗi tâm mỗi niệm
      họ nhắm vào tôi,
      nguyện cho hết thảy
      đều thành lợi ích.

      III-16. Nếu nghĩ đến tôi
      mà tâm không yên,
      sùng sục nổi sân,
      nổi cơn ác hận,
      nguyện ác hận này
      luôn trở thành nhân
      giúp cho họ được
      sở cầu như ý.

      III-17. Cùng khắp những ai
      chỉ trỏ mặt tôi,
      gieo xuống cho tôi
      bao điều tổn hại,
      hoặc mang tôi ra
      dèm pha, chế diễu,
      nguyện cho họ đạt
      thiện duyên bồ đề.

      III-18. Ai thiếu chỗ nương,
      tôi làm chỗ nương;
      ai khách lữ hành,
      tôi xin dẫn lối;
      ai người đang cần
      vượt biển vượt sông,
      tôi đây xin nguyện
      làm ghe, thuyền, cầu.

      III-19. Ai ngóng đất liền,
      tôi làm hòn đảo;
      ai tìm ánh sáng,
      tôi sẽ là đèn;
      ai cần ngơi nghỉ,
      tôi là giường chiếu;
      ai cần giúp việc,
      tôi đây tôi đòi.

      III-20. Làm ngọc như ý,
      làm bình bảo quí,
      làm câu chân ngôn,
      thuốc quí, cây thần,
      làm trâu như nguyện,
      cho khắp chúng sinh.

      III-21. Như là đại địa,
      như là không gian,
      cùng các thành phần
      nước lửa và gió,
      nguyện thân tôi đây
      biến hiện phong phú,
      làm nền tảng sống
      cho khắp chúng sinh.

      III-22. Nguyện làm phương tiện
      giữ gìn sự sống
      cho khắp chúng sinh
      trên toàn cõi thế
      nhiều sánh không gian
      bao la vô tận,
      chờ khắp chúng sinh
      giải thoát niết bàn.

      III-23. Cũng như Như Lai
      trong thời quá khứ,
      đã vì chúng sinh
      phát tâm bồ đề,
      rồi về trú ở
      tu theo trình tự
      pháp hành bồ tát.

      III-24. Nay tôi cũng nguyện
      vì khắp chúng sinh
      phát tâm bồ đề,
      nơi pháp hành này
      tôi về trú ở
      tuần tự tu theo.

      III-25. Ai người vận dụng
      trí tuệ trong sáng
      để nắm lấy tâm
      thanh tịnh bồ đề.
      nắm rồi có thể
      tăng trưởng tâm này
      bằng lời sau đây:

      III-26. “Đời sống tôi nay
      tràn đầy ý nghĩa,
      tôi đã đạt kiếp
      làm người tốt đẹp,
      hôm nay tôi sinh
      vào giòng giống Phật,
      trở thành đứa con
      của đấng Thế Tôn.”

      III-27. “Nay dù ra sao
      quyết không làm ố
      giống Phật tuyệt hảo,
      hành động cẩn trọng
      xứng địa vị mình,
      không để lỗi lầm
      làm nhơ giống Phật.”

      III-28. Như kẻ mù lòa
      mò trong đống rác,
      không ngờ tìm được
      một khối ngọc châu.
      Chẳng hiểu nhờ đâu
      may mắn lạ kỳ,
      mà tâm bồ đề
      trong tôi lại khởi.

      III-29. Đây chính là nước
      cam lồ bất tử,
      chiến thắng Thần Chết
      của khắp chúng sinh;
      là cả kho tàng
      đầy tràn bất tận,
      phá cảnh bần cùng
      cho kẻ trầm luân.

      III-30. Đây là thuốc thần
      chữa mọi ác bệnh,
      của khắp chúng sinh
      trôi lăn sinh tử;
      là gốc đại thụ
      cho chúng hữu tình
      trên đường trôi lạc
      ghé đến nghỉ chân;

      III-31. là chiếc cầu chung
      đưa khắp chúng sinh
      vượt thoát khổ nạn
      ác đạo luân hồi;
      là trăng ngời sáng
      giữa nền trời tâm,
      xoa dịu cơn đau
      rát bỏng phiền não;

      III-32. và cũng chính là
      mặt trời chiếu sáng,
      quét sạch màn sương
      mê muội vô minh;
      là bơ kết tinh
      trên sữa diệu Pháp.

      III-33. Khách trần lang thang
      trên đường sinh tử,
      mong sao nếm thử
      chút vị an vui,
      thì đây là nguồn
      an vui thắng diệu,
      khách trần chắc chắn
      sẽ rất hài lòng.

      III-34. Hôm nay đối trước
      mọi nẻo qui y,
      tôi mời chúng sinh
      về làm khách quí,
      hưởng an vui đến
      vô thượng bồ đề.
      Chư thiên, thiện thần,
      cùng khắp mọi loài,
      kính xin chư vị
      tùy hỉ cho tôi.

      / Hết Chương 3 /

      || Đọc Tiếp Chương 4 >>>

      Chương Bốn: TÂM BẤT PHÓNG DẬT

      IV-1. Đã làm con Phật
      giữ tâm bồ đề,
      thì đừng bao giờ
      để cho thoái chuyển,
      cũng đừng bao giờ
      phá phạm giới tu.

      IV-2. Đối với những việc
      tùy hứng mà làm,
      vì tâm khinh xuất
      hay thiếu suy nghĩ,
      cho dù có đã
      thề thốt hứa hẹn,
      vẫn nên nghĩ lại
      nên làm hay không.

      IV-3. Thế nhưng điều mà
      hết thảy chư Phật
      cùng chư trưởng tử
      đã dùng diệu trí
      quán chiếu tận tường,
      chính bản thân tôi
      cũng cân nhắc kỹ,
      làm sao có thể
      đổi ý rút lui ?

      IV-4. Thề thốt hứa hẹn
      rồi lại không làm,
      thành trò lừa đảo
      khắp cả chúng sinh,
      mai sau ác báo
      biết tôi thế nào ?

      IV-5. Đức Phật dạy rằng:
      Ai người khởi tâm
      tặng món vật mọn,
      nhưng rồi không cho,
      nghiệp này sẽ khiến
      đọa sinh ngạ quỉ.

      IV-6. Vậy mà tôi đây,
      từ tận đáy lòng,
      mời hết chúng sinh
      về hưởng đại lạc,
      để rồi trở tâm
      dối gạt hết thảy,
      làm sao có thể
      mong hái quả lành ?

      IV-7. Thoái tâm bồ đề
      mà còn giải thoát,
      đường đi của nghiệp
      thậm thâm khó hiểu,
      chỉ chư Toàn Giác
      mới rõ mà thôi.

      IV-8. Bồ tát thoái tâm,
      không đọa rơi nào
      hơn đọa rơi này,
      vì nếu xảy ra
      thì mọi phúc lợi
      của khắp chúng sinh
      đều bị đánh mất.

      IV-9. Nếu như có ai,
      chỉ trong phút giây,
      cản trở công đức
      của một bồ tát,
      sẽ phải trầm luân
      đọa cõi ác đạo,
      là vì tổn hại
      lợi ích chúng sinh.

      IV-10. Phá niềm an lạc
      của một chúng sinh
      đã tự gieo nạn
      hủy hoại chính mình,
      huống chi phá hủy
      niềm an vui của
      vô lượng hữu tình
      cùng tận không gian.

      IV-11. Với lực phá giới,
      cho dù có chữa
      bằng lực phát tâm,
      cũng vẫn tới lui
      trong cõi sinh tử,
      khó lòng có thể
      bước vào chứng địa.

      IV-12. Vậy thì tôi nay
      vì lời đã hứa,
      nguyện mọi việc làm
      đều luôn cẩn trọng,
      từ đây về sau
      nếu không cố gắng,
      đọa ác đạo rồi
      lại đọa sâu hơn.

      IV-13. Chư Phật xuất thế
      nhiều hàng vô lượng,
      phổ độ chúng sinh,
      rồi hiện niết bàn.
      nhưng tôi phước cạn,
      nghiệp chướng sâu dày,
      đã chẳng thể nào
      hưởng nguồn ân phước.

      IV-14. Vậy nếu như tôi
      không biết sửa đổi,
      thì muôn đời vẫn
      cứ thế mà trôi.
      khổ đau ràng buộc
      sinh tử luân hồi,
      bị xé bị giết
      trong cõi ác đạo.

      IV-15. Được Phật xuất thế,
      lại được chánh tín,
      cùng với thân người,
      đều là thiện duyên
      vô vàn quí hiếm,
      có thể giúp cho
      thiện đức gia tăng,
      bao giờ tôi mới
      đủ duyên như vậy ?

      IV-16. Mặc dù tôi nay
      không đói, không bệnh,
      không gặp hiểm nguy,
      thế nhưng đời sống
      ngắn ngủi không bền,
      thân thể chỉ là
      món đồ vay mượn
      trong chốc lát thôi.

      IV-17. Vậy mà lại sống
      như thế này đây,
      chắc chắn chẳng thể
      lại sinh làm người.
      thân người quí giá
      một khi mất rồi,
      ác nghiệp càng đầy
      thiện đức càng vơi.

      IV-18. Đây chính là lúc
      đủ duyên làm thiện
      lại chẳng chịu làm.
      Đợi khi đọa rơi,
      trôi lăn vô tận,
      biết đến bao giờ !

      IV-19. Khi ấy cho dù
      mảy may thiện đức
      cũng chẳng thể đạt,
      ngược lại ác nghiệp
      lại thêm chồng chất.
      Muôn vạn thời kỳ
      đến chữ thiện đạo
      cũng chẳng hề nghe.

      IV-20. Vì thế Phật dạy,
      tựa như rùa mù
      giữa lòng đại dương,
      làm sao có thể
      chui đầu vào ách
      nổi trên mặt biển.

      IV-21. Cho mỗi việc ác
      phạm chỉ một lúc,
      địa ngục vô gián
      đã phải trầm luân
      vô lượng thời kỳ.
      Huống chi việc ác
      tôi đã gieo từ
      vô thủy sinh tử,
      chắc chắn chẳng thể
      đạt chốn an vui.

      IV-22. Khổ báo chịu rồi,
      nghiệp vẫn chưa dứt,
      càng khổ lại càng
      gieo nghiệp nhiều thêm.

      IV-23. Nay được lơi nghỉ
      lại không tu thiện,
      có nỗi ngu nào
      bằng nỗi ngu này ?
      chẳng thể đối xử
      với mình tệ hơn !

      IV-24. Nếu như đã biết
      mà vẫn không chừa,
      đến khi mạng chung
      khổ đau khó tránh.

      IV-25. Khi mà thân thể
      bị lửa hỏa ngục
      thiêu cháy lâu dài,
      tâm tôi nhất định
      triền miên thống khổ
      vì lửa ăn năn.

      IV-26. Thân người quí hiếm
      khó đạt biết bao,
      tôi đã đạt rồi.
      Đã biết như vậy
      mà vẫn còn kéo
      mình vào địa ngục.

      IV-27. Khác gì bùa chú
      khiến cho mất trí.
      tôi thật chẳng hiểu
      trong tôi thế nào !

      IV-28. Kẻ thù sân, tham,
      không chân không tay,
      không cả giác quan.
      Chúng chẳng gan dạ,
      cũng chẳng khôn ngoan,
      bằng cách nào đây
      tôi lại bị chúng
      biến thành nô lệ !

      IV-29. Chúng ngự trong tôi,
      tùy hứng hại tôi.
      Tôi lặng lẽ chịu,
      không chút oán hờn.
      Nhẫn nhịn thế này
      thật là trái chỗ !

      IV-30. Dù hết chư thiên
      cùng a tu la
      đồng loạt tấn công
      cũng không thể nào
      đẩy được tôi vào
      lửa ngục vô gián,

      IV-31. vậy mà phiền não
      chỉ trong thoáng chốc
      đã ném tôi vào
      sâu thẳm địa ngục,
      nơi mà ngay cả
      ngọn núi Tu di
      cũng cháy tan tro.

      IV-32. Phiền não chính là
      kẻ thù truyền kiếp,
      vô thủy vô chung
      bám dính theo tôi.
      Kẻ thù thế gian
      không bền như vậy.

      IV-33. Kẻ thù thế gian
      nếu tôi gần gũi
      xử tốt với họ,
      có khi họ cũng
      giúp đỡ cho tôi.
      Thế nhưng phiền não
      tôi càng chăm sóc
      chúng càng tác hại.

      IV-34. Triền miên, liên tục,
      luôn chỉ là thù,
      luôn ám hại tôi,
      khiến tôi thêm khổ.
      Kẻ thù này lại
      ngự trị trong tôi.
      Thử hỏi luân hồi
      sống yên sao được !

      IV-35. Hết thảy cai ngục
      trấn cửa sinh tử
      cùng bọn đồ tể
      ngục tốt diêm vương
      hành hạ tôi trong
      cảnh khổ địa ngục,
      bọn chúng đang ngồi
      ngay ở trong tôi,
      trong lưới tham dục.
      Thử hỏi phận tôi
      nào có vui gì !

      IV-36. Trận chiến này đây
      tôi quyết không bỏ,
      cho đến mãi khi
      tận diệt kẻ thù.
      Người ta bị hại
      chút ít mà thôi,
      đã nổi lôi đình,
      bỏ cả giấc ngủ,
      hung hăng quyết thắng.

      IV-37. Kẻ thù thế gian
      vốn đầy phiền não,
      cho dù không giết
      tự nhiên cũng chết.
      Vậy mà xông pha,
      giáo gươm chẳng sợ,
      chưa thắng kẻ thù
      chưa chịu thoái lui !

      IV-38. Huống chi tôi đây,
      với kẻ thù này,
      đâu thể phóng tâm,
      đâu quản gian khó !
      Chúng chỉ có một
      chức năng duy nhất
      là làm tôi khổ.

      IV-39. Cho những cuộc chiến
      vô nghĩa thế gian,
      thương tích còn được
      xem là thành tích.
      Huống chi trận chiến
      cứu cánh này đây,
      xá gì đôi chút
      thương vay trận mạc !

      IV-40. Vì chuyện áo cơm
      mà người đánh cá,
      đồ tể, nông dân,
      chịu nóng, chịu rét.
      Vậy nay tôi đây
      vì nguồn hạnh phúc
      của khắp chúng sinh,
      lẽ nào không thể
      chịu chút khổ này ?

      IV-41. Khi kia tôi nguyện
      chúng sinh mười phương
      cùng tận không gian,
      tôi đều độ thoát
      nhiễm tâm phiền não.
      Trong khi chính tôi
      chưa được như vậy !

      IV-42. Thật là không biết
      tự lượng sức mình !
      Chẳng phải đã quá
      điên rồ hay sao ?
      Nhưng đã trót thề
      thì trận chiến này
      chống thù phiền não
      càng không thể thua !

      IV-43. Là điều duy nhất
      nung nấu tâm can,
      tôi quyết khai chiến,
      lòng tràn oán hận !
      Não hận loại này
      sẽ diệt phiền não,
      vì vậy phải giữ,
      đừng vội quét đi.

      IV-44. Chẳng thà thân tôi
      chết vì lửa cháy,
      hay là đầu này
      bị chém lìa thân,
      quyết chẳng bao giờ
      hàng thuận tôn vinh
      kẻ thù truyền kiếp
      nhiễm tâm phiền não !

      IV-45. Kẻ thù thế gian
      khi bị đánh đuổi,
      có thể tháo lui
      ẩn binh xứ khác,
      củng cố lực lượng
      chờ dịp phản công.
      Nhưng thù phiền não
      lại không như vậy.

      IV-46. Phiền não tội nghiệp,
      nếu bị mắt tuệ
      tấn công tơi bời,
      đánh đuổi khỏi tâm,
      chúng biết trốn đâu ?
      bao giờ trở lại ?
      Cơ sự chỉ tại
      vì tôi yếu, lười !

      IV-47. Phiền não chẳng trú
      bên trong đối cảnh,
      hay nơi giác quan,
      hay ở chính giữa.
      Cũng chẳng trú ở
      nơi chốn nào khác.
      Vậy chúng ở đâu
      mà hại chúng sinh
      khốn đốn thế này ?
      Chỉ là ảo ảnh,
      có gì đáng sợ !
      Cứ hãy kiên trì
      khai tuệ, chứng tánh.
      Khổ đau địa ngục
      thật không cần thiết,
      chẳng cần phải theo !

      IV-48. Tư duy như vậy.
      Ra công như vậy.
      Nỗ lực thực hành
      giới hạnh như vậy.
      Người bệnh nếu không
      nghe lời thầy thuốc,
      bệnh làm sao lành ?

      / Hết Chương 4 /

      || Đọc Tiếp Chương 5 >>>

      Chương Năm: GÌN GIỮ CHÁNH TRI

      V-1. Muốn tu cần phải
      tự giữ lấy tâm.
      Không giữ được tâm
      thì mọi công phu
      đều không giữ được.

      V-2. Tâm như voi điên,
      nếu như thả lỏng
      sẽ đẩy ta vào
      địa ngục vô gián.
      Voi lớn bất thuần
      của khắp thế gian
      cũng không thể nào
      hại ta như vậy.

      V-3. Nhưng nếu voi này
      dùng dây chánh niệm
      trói chặt mọi bề,
      thì bao sợ hãi
      đều tan biến hết,
      tất cả thiện pháp
      rơi vào lòng tay.

      V-4. Cọp, sư tử, voi,
      gấu, rắn, kẻ thù,
      quỉ giữ địa ngục,
      các loài tà ma,
      quỉ ăn xác chết,
      cùng với tất cả
      mọi loài quỉ dữ,

      V-5. chỉ cần trói tâm
      là trói được cả,
      chỉ cần thuần tâm
      là thuần tất cả.

      V-6. Đức Phật là người
      nói đúng sự thật
      đã tuyên thuyết rằng:
      sợ hãi, khổ đau,
      hết thảy đều do
      nơi tâm mà có.

      V-7. Ai đã cố tình
      tạo ra binh khí
      hành hạ chúng sinh
      trong cõi địa ngục ?
      Nền sắt cháy đỏ
      là do ai nung ?
      Giống quỷ ăn thịt
      đội lốt mỹ nhân
      từ đâu mà có ?

      V-8. Bậc Đại Trí dạy:
      những điều nói trên
      đều do nơi tâm
      tạo sinh ác nghiệp.
      Nên khắp ba cõi
      ngoài tâm này ra
      thời không có gì
      đáng để sợ hãi.

      V-9. Nếu như nói rằng
      thí độ nghĩa là
      làm cho chúng sinh
      không còn nghèo khổ,
      thế thì hạnh thí
      chư Phật ngày xưa
      viên thành thế nào,
      để cho bây giờ
      vẫn còn kẻ đói ?

      V-10. Thí độ thật ra
      là mang tất cả
      những gì mình có
      tặng cho chúng sinh;
      được bao công đức
      cũng bố thí cả.
      Vì vậy mà nói
      viên mãn Thí độ
      ngay từ nơi tâm.

      V-11. Tôm cá các loại
      mang giấu đi đâu
      để khỏi bị giết ?
      Giới độ nghĩa là
      ngay từ nơi tâm
      không còn ý nghĩ
      tác hại chúng sinh.

      V-12. Những kẻ ác hiểm
      cùng khắp không gian,
      làm sao có thể
      hủy diệt tất cả ?
      Nhưng nếu hủy diệt
      ác hận nơi tâm
      thì cũng giống như
      diệt hết kẻ thù.

      V-13. Tìm đâu ra da
      phủ khắp mặt đất ?
      Chỉ cần miếng da
      lót dưới gót giày,
      thì cũng như là
      phủ da mặt đất.

      V-14. Tương tự như vậy,
      sự việc bên ngoài
      làm sao điều phục ?
      Điều phục được tâm
      thì chẳng còn gì
      để mà điều phục.

      V-15. Ý niệm trong sáng
      đủ sức tạo quả
      thọ sinh Phạm thiên.
      Quả thân, khẩu nghiệp
      đều không thể sánh.

      V-16. Bậc Biết Thực Tại
      dạy rằng: nếu như
      tâm ý xao lãng,
      thì dù miệng tụng,
      thân tu khổ hạnh
      trong thời gian dài
      cũng đều vô ích.

      V-17. Những ai không hiểu
      bí ẩn của tâm
      siêu việt vạn pháp,
      thì dù mong cầu
      an lạc, thoát khổ,
      cũng chỉ có thể
      trầm luân vô định
      trong cõi luân hồi.

      V-18. Vậy nay tôi xin
      giữ lấy tâm mình.
      tâm này chẳng giữ
      thì bao giới luật
      giữ có ích gì ?

      V-19. Giữa đám hỗn loạn,
      nếu thân bị thương,
      chắc chắn ta sẽ
      thận trọng giữ gìn.
      Vậy nay đứng giữa
      thế gian hiểm ác,
      tâm là vết thương
      cần được gìn giữ.

      V-20. Vết thương thân thể
      đau đớn là bao,
      mà ta vẫn sợ
      hết sức giữ gìn.
      Vậy sao chẳng sợ
      đớn đau cùng cực
      địa ngục núi đè,
      để lo giữ gìn
      vết thương nơi tâm ?

      V-21. Nếu cách hành xử
      luôn được như vậy,
      thì dù ở giữa
      ác nhân, nữ sắc,
      giới vẫn kiên định,
      không bị đọa rơi.

      V-22. Tài sản, danh dự,
      thân mạng, sinh kế,
      đều có thể mất,
      ngay như tất cả
      mọi thiện đức khác,
      có thể hư mòn,
      thế nhưng không thể
      để thoái chuyển tâm !

      V-23. Này người mong muốn
      gìn giữ tâm mình,
      tôi chắp hai tay
      thiết tha khẩn nguyện:
      hãy giữ chánh niệm,
      cùng với chánh tri,
      như thể giữ gìn
      chân tay, thân mạng.

      V-24. Thân này nếu bị
      bệnh khổ hành hạ,
      thì chẳng có sức
      để làm gì cả.
      Tương tự như vậy,
      tâm này nếu bị
      vô minh hành hạ,
      thì không đủ sức
      giữ gìn hành động.

      V-25. Tựa như bình rỉ
      chẳng giữ được nước,
      tâm thiếu chánh tri
      thì dù có nghe,
      tư duy, tu tập,
      trí nhớ cũng chẳng
      giữ được chút gì.

      V-26. Nhiều người đa văn,
      tinh tấn, chánh tín,
      nhưng vì sai lầm
      thiếu mất chánh tri,
      nên vẫn đọa rơi.

      V-27. Sự thiếu chánh tri
      tựa như kẻ trộm,
      rình rập lẻn vào
      cướp đi chánh niệm,
      cướp luôn tất cả
      phước đức tích tụ,
      khiến phải đọa rơi
      tận cùng ác đạo.

      V-28. Phiền não cũng như
      một lũ trộm cướp,
      rình rập thời cơ
      cướp đoạt thiện đức,
      khiến ta không thể
      sinh vào thiện đạo.

      V-29. Nên đừng bao giờ
      để cho chánh niệm
      xa rời cửa ý.
      nếu lỡ rời xa,
      hãy mau nhớ lại
      cảnh khổ ác đạo
      để gọi ngay về.

      V-30. Nhờ nghe lời khuyên
      phương trượng trụ trì,
      nhờ sợ ác đạo,
      và nhờ sống gần
      bên cạnh đạo sư,
      mà người thiện duyên
      với lòng thành kính
      dễ sinh chánh niệm.

      V-31. Chư Phật, Bồ Tát
      mắt không ngăn ngại,
      thấy biết khắp cả,
      luôn luôn có mặt
      ở cạnh bên tôi.

      V-32. Biết nghĩ như vậy
      sẽ biết kính sợ,
      sinh tâm tàm quí,
      nhờ vậy thường xuyên
      nhớ nghĩ đến Phật.

      V-33. Khi lấy chánh niệm
      để làm lối ngõ
      gìn giữ cửa tâm.
      chánh tri sẽ khởi.
      Những gì đã mất
      sẽ đều trở lại.

      V-34. Trước khi phát xuất
      lời nói, hành động,
      nếu như thấy tâm
      không được thanh tịnh,
      thì phải lập tức
      tự chế ngự mình:
      yên như khúc gỗ.

      V-35. Không để ánh mắt
      lơ đễnh nhìn quanh,
      hãy nên nhiếp tâm
      xuôi mắt nhìn xuống.

      V-36. Thỉnh thoảng để mắt
      thư thả nhìn quanh.
      Khi gặp người quen
      hãy nên nhìn thẳng,
      nói lời chào hỏi.

      V-37. Khi cần canh chừng
      nguy hiểm trên đường,
      hãy nên cẩn thận
      nhìn quanh bốn hướng.
      Khi cần nghỉ ngơi,
      hãy nên quay lại
      nhìn ở phía sau.

      V-38. Nhìn rõ trước sau
      để mà tới lui.
      Trong mọi hoàn cảnh,
      phải nên thấy rõ
      việc gì cần làm
      thì hãy nên làm.

      V-39. “Tôi giữ thân thể
      theo tư thế này,”
      rồi trở lại với
      những việc đang làm.
      Thỉnh thoảng xét lại
      xem thân thể đang
      trong tư thế nào.

      V-40. Tâm như voi điên,
      bây giờ trói chặt
      vào cột chánh pháp.
      Phải nên nỗ lực
      hết sức canh chừng,
      đừng cho sổng chạy.

      V-41. Nếu muốn cố gắng
      tu cho đạt định,
      thì dù một niệm
      cũng không để mất.
      Phải luôn quán sát
      xem tâm hiện tại
      đang ở nơi đâu.

      V-42. Nếu như không thể
      giữ được như vậy,
      vào lúc hiểm nghèo
      nguy hại tính mạng,
      hay lúc lễ lạt
      pháp hội cúng dường,
      thì hãy tùy cảnh,
      hành động thích đáng.
      Đức Phật có dạy,
      khi hành hạnh thí,
      có thể xả bỏ
      giới luật chi li.

      V-43. Toan tính việc gì,
      một khi bắt đầu
      thì đừng suy nghĩ
      đến những việc khác,
      chuyên chú cho xong
      việc mình đang làm.

      V-44. Có được như vậy,
      mọi việc mới thành,
      bằng không việc gì
      cũng chẳng làm xong.
      Làm theo như vậy,
      tâm bất chánh tri
      sẽ không phát triển.

      V-45. Khi đi vào nơi
      náo nhiệt vui vẻ,
      với nhiều chuyện phiếm,
      nhiều trò giải trí,
      thì đừng ham vui,
      dứt tâm mê luyến.

      V-46. Nếu như thấy mình
      tự nhiên vô cớ
      đào đất, bứng cỏ,
      vạch hình mặt đất,
      thì hãy nhớ lại
      lời đức Thiện thệ,
      để mà biết sợ,
      lập tức ngừng tay.

      V-47. Khi muốn cử động,
      hay muốn nói năng,
      hãy xét tâm trước:
      kiên định giữ gìn
      hành động đúng đắn.

      V-48. Tâm nổi tham luyến,
      hoặc nổi sân hận:
      thì đừng làm gì,
      cũng đừng nói gì.
      phải nên giữ mình
      lặng yên như cây.

      V-49. Khi tâm lăng xăng,
      mỉa mai, kiêu mạn,
      muốn nhạo báng người,
      muốn gây chia rẽ,
      lừa đảo, dối láo,

      V-50. muốn tự khen mình,
      chê bai người khác,
      dùng lời thô ác
      kiếm chuyện sinh sự,
      những lúc như vậy
      phải nên giữ mình
      lặng yên như cây.

      V-51. Khi tâm nổi tham,
      muốn danh, muốn lợi,
      muốn người tôn kính,
      thị giả đệ tử
      muốn họ chăm lo,
      muốn người hầu hạ,
      những lúc như vậy
      phải nên giữ mình
      lặng yên như cây.

      V-52. Khi tâm quẳng hết
      lợi ích của người,
      muốn nói những điều
      nhằm thủ lợi riêng,
      những lúc như vậy
      phải nên giữ mình
      lặng yên như cây.

      V-53. Khi thiếu kiên nhẫn,
      làm biếng, nhát gan,
      hay quá tự tin,
      ồn ào khinh mạn,
      hay là chấp thủ
      những thứ của mình,
      những lúc như vậy
      phải nên giữ mình
      lặng yên như cây.

      V-54. Hãy quán xét tâm,
      nhận diện phiền não
      và tính ưa thích
      những chuyện tào tạp
      để mà can đảm
      nắm giữ lấy tâm
      bằng thuốc đối trị.

      V-55. Tín tâm sâu xa,
      kiên định, cung kính,
      lễ độ, hổ thẹn,
      biết sợ quả báo,
      an định mang lại
      hạnh phúc chúng sinh.

      V-56. Đối trước tất cả
      đòi hỏi vô lý,
      tranh cãi ấu trĩ,
      bồ tát cũng không
      sinh tâm chán ngán,
      vì những điều này
      chỉ do phiền não
      tác động mà thành,
      cho nên phải hiểu
      để trải từ tâm.

      V-57. Vì chính bản thân
      và vì người khác
      mà giữ thiện hạnh
      cho thật toàn hảo,
      phải luôn ghi nhớ
      rằng chính tâm này
      vô ngã, như huyễn.

      V-58. Thường xuyên nghĩ rằng:
      “Khó khăn chờ đợi
      không biết bao lâu
      nay mới có được
      thân người quí hiếm,”
      giữ tâm bất động
      trong ý nghĩ này,
      kiên định vững vàng
      như ngọn núi vương.

      V-59. Này tâm, cho dù
      kên kên háu đói
      xâu xé thi thể,
      lôi kéo khắp nơi,
      ngươi cũng chẳng buồn.
      vậy sao bây giờ
      ngươi lại mải mê
      nuông chiều thân thể ?

      V-60. Này tâm, sao ngươi
      lại bám thân này
      gọi là “của tôi” ?
      Giữa ngươi và nó
      hoàn toàn khác biệt.
      nó nào có ích
      gì cho ngươi đâu ?

      V-61. Này tâm hư vọng
      sao chẳng chọn thân
      chạm trong gỗ sạch
      làm thân của mình,
      mà lại chọn lấy
      dụng cụ ô uế
      làm bằng của dơ ?

      V-62. Trước hết dùng trí
      mà lột lớp da;
      rồi hãy vận dụng
      lưỡi gươm trí tuệ
      để lóc hết thịt
      ra khỏi bộ xương;

      V-63. rồi xẻ cả xương
      tìm vào trong tủy,
      hãy tự hỏi mình:
      “Đâu là tinh túy ?”

      V-64. Cho dù truy tìm
      ráo riết như vậy,
      vẫn không thể thấy
      tinh túy ở đâu.
      Vậy sao cứ vẫn
      bám giữ tham luyến
      ở nơi thân này ?

      V-65. Thân này ô uế,
      chẳng thể nào ăn.
      Ngay cả máu này
      cũng không thể uống.
      Ruột gan phèo phổi,
      chẳng thể chấm mút.
      Thân này thử hỏi
      cần để làm chi ?

      V-66. Thật ra có thể
      giữ thân làm mồi
      cho chim kên kên
      hay cho chó rừng.
      Giá trị thân này
      chỉ nằm ở chỗ
      ta mang thân ấy
      dùng vào việc chi.

      V-67. Cho dù chắt chiu
      gìn giữ như vậy,
      đến khi Thần Chết
      đánh cắp mất đi,
      vất cho chim, chó,
      khi ấy thử hỏi
      biết làm thế nào ?

      V-68. Tôi tớ lười biếng
      không chịu làm việc,
      thì ta chẳng màng
      cho áo cho cơm.
      vậy tấm thân này
      vì sao ta lại
      phí công cung phụng ?
      Dù nuôi cách nào
      cũng sẽ có ngày
      bỏ ta mà đi

      V-69. Đã trả thù lao
      thì phải bắt làm
      cho thật xứng đáng.
      Còn như đối với
      loại vô tích sự
      ta cũng chẳng nên
      lãng phí làm gì.

      V-70. Hãy xem thân này
      tựa như chiếc thuyền
      đưa ta tới lui:
      chuyển thành dụng cụ
      thực hiện nguyện ước
      cho khắp chúng sinh.

      V-71. Vậy hãy tự chế,
      mặt luôn tươi cười,
      không bao giờ còn
      chau mày nhăn nhó;
      và hãy trở thành
      người bạn chân thành
      của khắp chúng sinh.

      V-72. Khi khiêng bàn ghế,
      đừng vô ý tứ
      tạo nhiều tiếng ồn.
      Mở cửa nhẹ nhàng,
      đừng nên thô bạo.
      Hãy ưa thích hạnh
      tế nhị kín đáo.

      V-73. Cò, mèo, kẻ trộm,
      làm được tất cả
      những gì muốn làm
      nhờ luôn tới lui
      âm thầm kín đáo.
      Kẻ trí khi tu
      cũng thường như vậy.

      V-74. Bậc trí khéo biết
      giáo huấn chúng sinh,
      nói lời lợi ích
      không đợi ai cầu,
      vậy ta hãy nên
      cung kính tiếp nhận.
      Với khắp mọi người
      hãy luôn học hỏi.

      V-75. Có ai nói lời
      khéo tạo lợi ích,
      hãy nên khen ngợi
      rằng “thật khéo nói !”
      Có ai làm điều
      mang lại lợi ích,
      hãy nên khuyến khích
      và tâm mừng vui.
      76. Khi ở sau lưng,
      hãy nên khen ngợi
      thiện đức người khác.
      Và khi có ai
      khen ngợi người khác,
      hãy khen ngợi theo.
      Nếu như lời khen
      là dành cho mình,
      thì hãy nghĩ về
      những thiện đức này
      với lòng tùy hỉ.

      V-77. Hết thảy thiện hạnh
      đều là nhân tố
      tạo nên niềm vui
      vô cùng quí hiếm.
      Bao nhiêu tài sản
      cũng chẳng thể mua.
      vậy hãy tận hưởng
      tất cả niềm vui
      đến từ thiện hạnh
      của khắp mọi người.

      V-78. Làm được như vậy
      thì trong đời này
      chẳng mất mát gì,
      và mọi đời sau
      được niềm vui lớn.
      Còn bới lỗi người
      chỉ khiến cho mình
      thành kẻ khó ưa,
      tâm trí khổ sở,
      đến những đời sau
      khổ đau càng lớn.

      V-79. Khi nói, hãy nên
      khởi tự đáy lòng,
      thốt lời mạch lạc,
      ý nghĩa rõ ràng,
      âm điệu dễ nghe,
      dẹp mọi tham, sân,
      nhẹ nhàng, vừa đủ.

      V-80. Khi nhìn, hãy nên
      nhớ rằng chính nhờ
      dựa vào chúng sinh
      mà ta có thể
      đạt quả giác ngộ,
      vậy hãy nhìn bằng
      ánh mắt chân thành
      chan chứa từ tâm.

      V-81. Hãy luôn giữ lấy
      tâm nguyện cao nhất,
      nỗ lực áp dụng
      năng lực đối trị,
      thì sẽ nhận được
      công đức lớn lao
      đến từ kỉnh điền
      ân điền, bi điền.[1]

      V-82. Hãy khéo hành sự,
      tín tâm thâm sâu,
      tự làm thiện hạnh,
      không ỷ nơi người.

      V-83. Thực hành hạnh Thí
      cùng với tất cả
      Ba La Mật khác,
      làm cho tăng trưởng
      từng hạnh, tuần tự.
      Không vì hạnh nhỏ
      mà bỏ hạnh lớn,
      quan trọng nhất là
      lợi ích cho người.

      V-84. Hiểu rõ như vậy,
      luôn nỗ lực vì
      lợi ích chúng sinh.
      Đức Phật Từ Bi
      thấy xa, cho phép
      bồ tát xả bỏ
      cả những điều cấm.

      V-85. Chỉ ăn vừa đủ;
      hãy nên chia sẻ
      cho người giữ giới,
      cho người rơi đọa,
      cho người khốn cùng
      không nơi nương tựa,
      ngoài ba bộ y
      hãy nên cho hết.

      V-86. Thân này dùng để
      hành trì diệu pháp,
      không thể vì những
      việc làm tào tạp
      mà hại đến thân.
      Làm được như vậy,
      bao nhiêu ước nguyện
      của khắp chúng sinh
      sẽ mau toàn thành.

      V-87. Nếu tâm đại bi
      chưa được thanh tịnh,
      nhất định không nên
      thí xả thân thể.
      Nhưng nếu là vì
      mục tiêu cứu cánh,
      thì nên cho hết
      đời này, kiếp sau.

      V-88. Không nên nói pháp
      cho người không có
      thái độ cung kính,
      hay cho những người
      không bệnh mà vẫn
      quấn khăn trùm đầu,
      cho người che dù,
      cầm gậy, binh khí,
      hay cho những người
      trùm khăn che mặt.

      V-89. Cho người trí cạn,
      không thuyết quảng, thâm;
      cũng không nói pháp
      cho người khác phái
      khi chỉ một mình.
      Đối với giáo pháp
      dù cạn hay sâu,
      cũng đều nói bằng
      tấm lòng cung kính.

      V-90. Không nói pháp nhỏ
      cho người tâm lớn.
      Không khiến cho người
      xả bỏ giới hạnh,
      lạc lối lầm đường
      với pháp hiển tông
      hay là mật tông.

      V-91. Khi nhổ nước bọt,
      vất tăm xỉa răng,
      phải phủ đất lại.
      Phân và nước tiểu,
      không thải vào nơi
      đất sạch, nước trong
      dành cho mọi người.

      V-92. Khi ăn, hãy đừng
      nhai nuốt ngồm ngoàm,
      ồn ào, há miệng.
      Khi ngồi, hãy đừng
      duỗi thẳng chân ra,
      hay khoanh tay lại.

      V-93. Không đi chung xe,
      không ngồi chung giường,
      hay ở chung phòng
      với người khác phái.
      Quan sát tìm hiểu
      điều gì khiến người
      sinh lòng thị phi,
      hãy từ bỏ hết.

      V-94. Chỉ đường cho người
      đừng nên vô lễ
      trỏ bằng ngón tay.
      Hãy nên cung kính
      mở bàn tay phải.

      V-95. Không vẩy mạnh tay,
      hay hét lớn tiếng,
      hãy tỏ ý mình
      bằng lời nhỏ nhẹ,
      kín đáo búng tay,
      bằng không sẽ thành
      vô lễ quá độ.

      V-96. Khi nằm, hãy chọn
      quay về hướng tốt,
      giống như tư thế
      Phật nhập niết bàn;
      và ngay từ đầu
      phải giữ ý niệm
      quyết chẳng bao lâu
      sẽ lại đứng lên.

      V-97. Trong số vô vàn
      thiện hạnh bồ tát
      đã được nhắc đến,
      hãy nên thực hành
      tất cả những hạnh
      thanh tịnh hóa tâm.

      V-98. Đọc Kinh Tam Tụ
      ba thời ban ngày,
      ba thời ban đêm.
      Nương vào chư Phật
      cùng tâm bồ đề,
      thanh tịnh tất cả
      giới phạm còn lại.

      V-99. Trong mọi hoàn cảnh,
      trong mọi hành động,
      dù là cho mình
      hay là cho người,
      hãy nên tinh tấn
      áp dụng tất cả
      pháp hành thích hợp
      với hoàn cảnh ấy.

      V-100. Không có pháp nào
      mà người con Phật
      không cần phải tu.
      Khéo tu như vậy
      thì chẳng việc gì
      lại không tạo phước.

      V-101. Dù là trực tiếp,
      hay là gián tiếp,
      đừng làm những việc
      không vì chúng sinh.
      Có làm được gì
      cũng vì chúng sinh
      hồi hướng tất cả
      về vô thượng giác.

      V-102. Dù xả thân mạng,
      bồ tát cũng không
      lìa thiện tri thức,
      là bậc thông tuệ
      pháp tu đại thừa;
      và cũng không lìa
      giới hạnh bồ tát.

      V-103. Phải học cách thức
      tôn kính đạo sư
      như đã nói trong
      Truyện Cát Tường Sinh.
      Những lời khuyên này
      và giáo pháp khác
      đều có thể học
      từ trong kinh luận.

      V-104. Mọi pháp hành trì
      đều có trong kinh,
      phải nên tìm đọc.
      Trước hết nên đọc
      Kinh Hư Không Tạng.

      V-105. Những điều cần tu
      đều được giải thích
      rõ ràng sâu rộng
      trong Học Tập Luận,
      vì vậy phải nên
      siêng năng đọc tụng.

      V-106. Thỉnh thoảng có thể
      học Kinh Tập Luận,
      là bộ tóm lược
      kinh điển đại thừa,
      cũng nên tìm đọc
      bộ luận cùng tên
      của ngài Long thọ.

      V-107. Tất cả những gì
      kinh luận không cấm,
      hãy nên tu học.
      Tất cả những gì
      dạy trong kinh luận,
      hãy nên thực hành
      để mà giữ gìn
      tâm của chúng sinh.

      V-108. Muốn giữ chánh tri,
      nói cho ngắn gọn
      phải làm như sau:
      hãy thường quán xét
      xem thân và tâm
      đang như thế nào.

      V-109. Những điều nói đây
      cần phải thực hành,
      nói suông thì chẳng
      lợi ích gì đâu !
      Phỏng như người bệnh
      chỉ đọc toa thuốc
      bệnh làm sao dứt ?

      / HẾT CHƯƠNG 5  /

      Ghi chú chương 5:
      [1] kỉnh điền: Phật và Bồ Tát; ân điền: cha mẹ, bằng hữu; bi điền: chúng sinh

      || Đọc Tiếp Chương 6 >>>

      Chương Sáu: HẠNH NHẪN

      VI-1. Bao nhiêu việc lành
      bố thí, cúng Phật,
      công đức tích lũy
      hàng trăm vạn kiếp,
      chỉ cần loé lên
      mỗi một niệm sân,
      cũng đủ làm cho
      tiêu tan hết thảy.

      VI-2. Không ác nghiệp nào
      như là nghiệp sân.
      không hạnh tu nào
      sánh bằng hạnh nhẫn.
      Vậy hãy đưa tâm
      vào trong hạnh nhẫn,
      khéo léo, phong phú
      miên mật kiên trì.

      VI-3. Ai để sân hận
      dày vò tâm can,
      thời tâm không còn
      biết đến bình an,
      đối với niềm vui
      thành kẻ xa lạ,
      chẳng thể chợp mắt
      chẳng ngớt bất an.

      VI-4. Cho dù ta có
      rộng rãi cho ra
      tiền tài, địa vị,
      nhưng nếu tâm trí
      cuồng điên vì sân,
      thời kẻ hàm ân
      vẫn sẽ bức trí
      mà hại đến mình.

      VI-5. Gia đình bè bạn
      mệt mỏi chán ngán,
      kẻ chịu ân cũng
      chẳng kính, chẳng tin.
      Người nhiều sân hận
      có bao giờ sống
      trong cảnh an bình.

      VI-6. Bao khổ đau này
      đều do kẻ thù
      sân hận gây nên.
      Ai biết túm lấy
      đập tan sân hận,
      đời này kiếp sau
      sẽ sống an bình.

      VI-7. Muốn mà không được;
      không muốn phải chịu;
      gặp điều nghịch ý
      nên tâm không vui:
      đây là lương thực
      nuôi cho sân hận
      trưởng thành lớn mạnh,
      đánh tôi tơi bời.

      VI-8. Nên phải làm sao
      cắt đường tiếp tế
      của kẻ thù này.
      Nó có mục đích
      nào khác hơn là
      đánh gục tôi đâu !

      VI-9. Nên tôi mặc kệ,
      ra sao thì ra,
      quyết không thể để
      sinh tâm buồn chán.
      luôn giữ nội tâm
      vui tươi trong sáng.
      Vì tâm không vui
      sẽ không thể đạt
      những điều mình muốn,
      ngược lại thiện đức
      sứt mẻ tan hoang.

      VI-10. Sự việc nếu vẫn
      còn phương cứu chữa,
      chẳng lý do gì
      tâm lại không vui.
      còn nếu thật sự
      vô phương cứu chữa,
      thử hỏi không vui
      liệu có ích gì ?

      VI-11. Đớn đau, lăng nhục,
      dèm pha, quở mắng,
      đều là những điều
      không ai mong cầu,
      dù là cho mình
      hay cho người thân.
      Cho người mình ghét
      lại là trái ngược.

      VI-12. Những điều tạo vui
      vốn là rất hiếm,
      việc sinh đau khổ
      thì lại rất nhiều.
      Nhưng không khổ đau
      thời chẳng thể nào
      khởi tâm thoát khổ.
      vậy tâm tôi ơi,
      hãy nên kiên định !

      VI-13. Người thờ Dur-ga,
      dân kar-na-ta,
      chịu bao khổ hạnh,
      tự thiêu tự cắt,
      chẳng lợi ích chi.
      Nay vì giải thoát
      sao tôi đây lại
      yếu đuối ương hèn.

      VI-14. Không có việc gì
      không thể làm quen,
      quen rồi chắc chắn
      nhẹ nhàng hơn trước.
      Nay dùng khổ nhỏ
      để mà huân tập,
      mai sau khổ lớn
      gánh vác dễ dàng.

      VI-15. Chút khổ thế gian
      đã là như vậy:
      muỗi mòng rắn rít
      cắn đau ngứa ngáy,
      chịu đói chịu khát
      da dẻ tấy sưng.

      VI-16. Dù là nóng rét,
      gió mưa, tật bệnh,
      chịu cảnh tù đày,
      hay bị hành hung,
      tâm hãy an vui,
      quyết đừng phật ý.
      Để tâm không vui
      việc sẽ tệ hơn.

      VI-17. Có người nhìn thấy
      máu của chính mình,
      tâm lại càng thêm
      quật cường dũng mãnh.
      Lại có những kẻ
      thoáng thấy máu người,
      tâm thần choáng váng
      bất tỉnh hôn mê.

      VI-18. Hoàn toàn tùy ở
      dũng lực nơi tâm,
      chọn tâm dũng mãnh
      hay tâm hèn yếu.
      Vậy tôi nào có
      sợ gì thương tích,
      khổ đau trùng điệp,
      quyết chẳng nao lòng.

      VI-19. Đớn đau ập đến,
      kẻ trí chẳng sờn,
      tâm không chao động,
      điềm tĩnh an nhiên.
      Dặm trường xông pha
      chống quân phiền não,
      gian lao trận mạc
      nào có xá gì.

      VI-20. Tâm không quản ngại
      khổ của chính mình,
      quét sạch hết thảy
      giặc thù ác sân.
      Đây mới chính là
      anh hùng đại thắng;
      anh hùng thế gian
      chỉ chém thây ma.

      VI-21. Là vì khổ đau
      cũng nhiều giá trị:
      nhờ khổ đau mà
      đánh mất tự kiêu;
      Tâm càng xót thương
      Chúng sinh luân lạc;
      Thêm sợ việc ác,
      Thêm vui việc lành.

      VI-22. Cơ thể vướng bệnh
      ta có hận đâu,
      mặc dù mang đến
      muôn vàn đau đớn.
      Việc chi phải hận
      những kẻ hại mình,
      họ chỉ kém trí,
      bị duyên ràng buộc.

      VI-23. Cho dù không muốn,
      bệnh vẫn phát sinh.
      cho dù không cầu,
      phiền não cứ khởi.

      VI-24. Chẳng ai nghĩ rằng
      bây giờ nên giận,
      chỉ là bất ngờ
      nổi giận thế thôi.
      Cơn giận cũng chẳng
      nghĩ mình cần khởi,
      chỉ là tự nhiên
      nổi trận lôi đình.

      VI-25. Nhiễm tâm phiền não,
      bất kể loại nào,
      mọi điều bất thiện
      của khắp thế gian,
      hết thảy đều do
      nhân duyên mà có,
      chẳng phải tự phát,
      cũng chẳng tự sinh.

      VI-26. Nhân duyên hội tụ
      không có ý nghĩ
      rằng “ta đây phải
      tạo quả, tác sinh.”
      Cái được tạo tác
      cũng không từng nghĩ
      rằng: “bản thân ta
      mới được sinh ra.”

      VI-27.  Điều được gọi là
      “bản thể nguyên sơ,”
      hay còn được gọi
      là “Ngã,” là “Tôi,”
      chỉ là giả danh
      không có ý nghĩ
      “Ta phải sinh ra”
      rồi mới phát sinh.

      VI-28. Là bởi chưa sinh
      thì không hiện hữu,
      làm sao có thể
      khởi ý muốn sinh ?
      Nếu đã thường còn
      mà tiếp cận cảnh,
      thì chẳng làm sao
      dứt được cảnh này.

      VI-29. Rõ ràng là Ngã
      nếu thật thường còn
      thì phải ù lì
      tựa như hư không;
      cho dù hội tụ
      với nhiều duyên khác,
      cũng chẳng đối tác,
      vì không biến động.

      VI-30. Dù duyên tác động
      ngã vẫn y nguyên.
      Làm sao có thể
      ảnh hưởng đến Ngã ?
      Nếu nói duyên là
      tánh chất của ngã,
      thời biết lấy gì
      kết nối hai bên ?

      VI-31. Mọi sự đều là
      tùy thuộc nhân duyên,
      vì tùy nhân duyên
      nên không tự phát.
      Hiểu được vậy rồi
      còn chi để hận,
      muôn sự chỉ là
      ảo ảnh mà thôi.

      VI-32. Nếu nói “trừ hận
      là việc dư thừa,
      vì nào có gì
      để ai trừ diệt,”
      thế nhưng khổ đau
      triền miên bất tận,
      nhờ vào hạnh nhẫn
      có thể đoạn lìa,
      nên nói trừ hận
      chẳng có gì sai.

      VI-33. Vậy dù kẻ thù
      hay là bằng hữu
      làm điều sai quấy,
      tôi vẫn an nhiên.
      Tâm vẫn yên vui
      tự mình nhắc nhở
      rằng khắp vạn pháp
      đều là duyên sinh.

      VI-34. Nếu như mọi sự
      tùy nơi ý mình,
      thì khổ đau này
      đã chẳng phát sinh.
      Thế gian có ai
      là người muốn khổ !

      VI-35. Vậy mà vô tâm
      không hề ý thức,
      tự dẫn mình vào
      những chốn chông gai,
      điên cuồng đuổi theo
      nữ nhân, sự nghiệp,
      đến nỗi không ăn
      bỏ đói chính mình.

      VI-36. Có kẻ tự treo
      có kẻ nhảy vực,
      tự uống thuốc độc,
      ăn của thối tha,
      tự tạo ác nghiệp,
      gieo họa cho mình.

      VI-37. Khi nổi oán hận,
      ngay chính bản thân
      cưng quí biết bao
      họ còn tự sát,
      làm sao có thể
      không gây họa lớn
      cho người xung quanh ?

      VI-38. Vậy với những người
      phiền não thao túng,
      có thể cuồng điên
      sát hại chính mình,
      đã chẳng quan tâm
      thương xót thì thôi,
      cũng đâu có gì
      để tôi phải hận.

      VI-39. Phàm phu ấu trĩ
      nếu từ bản chất
      là luôn hại người,
      thì ta giận họ
      khác gì giận lửa
      vì sao lại cháy.

      VI-40. Còn nếu như họ
      bản chất hiền lành,
      chỉ là lầm lỗi
      nhất thời mà thôi,
      vậy nếu giận họ
      khác gì nổi giận
      với bầu trời xanh
      sao dâng đầy khói.

      VI-41. Mặc dù cây gậy
      mới làm tôi đau,
      nhưng tôi lại hận
      chính người cầm gậy.
      Nhưng người cầm gậy
      thật ra là do
      ác hận thao túng,
      lẽ ra tôi phải
      oán ác hận này.

      VI-42. Quá khứ chính tôi
      đã từng như vậy,
      đánh đập ngược đãi
      khắp chúng hữu tình.
      Nay tôi bị đánh
      cũng là đáng thôi !

      VI-43. Gậy kia, thân này,
      đều là thủ phạm
      khiến tôi đau đớn.
      Gậy là của người,
      thân là của mình,
      thật sự chẳng biết
      phải hận ai đây !

      VI-44. Thân là vết thương
      sưng tấy lở loét
      mang tướng dạng người,
      chạm nhẹ cũng đủ
      đau nhức không nguôi.
      Tôi vì mù quáng
      bám chặt vào nó,
      đến khi nhức nhối
      hận ai bây giờ ?

      VI-45. Thật là ấu trĩ !
      tôi sợ khổ đau
      nhưng lại bám theo
      toàn nhân tạo khổ !
      Tự gieo lầm lỗi,
      tự hại lấy thân,
      vậy sao tôi lại
      nổi sân với người !

      VI-46. Sự thật là vậy,
      phải hận ai đây ?
      Hết khổ đau này
      toàn do tôi tạo:
      ngục tốt Diêm vương
      trong cõi địa ngục,
      hay cả rừng đao
      toàn là ác báo.

      VI-47. Họ đến hại tôi
      là vì nghiệp tôi
      kêu mời họ đến.
      Nếu như vì vậy
      họ phải đọa rơi
      cùng tận địa ngục
      thì có phải là
      tôi hại họ không !

      VI-48. Vì họ mà tôi
      tu được hạnh nhẫn,
      tịnh được ác nghiệp.
      Còn nhờ vào tôi
      mà họ đọa rơi
      vào cõi địa ngục.

      VI-49. Vậy thật ra tôi
      là kẻ gây hại,
      còn họ thì lại
      là kẻ ban ơn.
      Thử hỏi tâm tôi
      ác hiểm thế nào
      để còn tráo trở
      sinh lòng hờn oán !

      VI-50. Tâm mà có nhẫn
      sẽ khỏi đọa rơi
      vào cảnh địa ngục.
      Cứu mình được rồi,
      nhưng còn kẻ thù
      cứu cách nào đây !

      VI-51. Vậy nếu như tôi
      ăn miếng trả miếng,
      chắc chắn sẽ khiến
      cho họ đọa rơi,
      còn mình hạnh tu
      nhất định suy thoái,
      giới tu nhất định
      tan hoang không còn.

      VI-52. Tâm đâu có thân,
      có ai diệt được,
      nhưng vì tâm cứ
      tham chấp nơi thân,
      mà thân thì lại
      đớn đau quẫn bách.

      VI-53. Cho dù người ta
      dùng lời mắng chửi,
      nói lời thô ác,
      nói lời khó nghe,
      lời nói có làm
      gì được tôi đâu !
      Vậy tâm tôi ơi
      cớ sao oán hận ?

      VI-54. Người ta ghét tôi.
      sự thù ghét này
      đâu có làm sao
      nhai nuốt được tôi.
      Đời này chẳng thể
      đời sau cũng không.
      vậy tại sao tôi
      không thích bị ghét ?

      VI-55. Hay là không thích
      vì nó cản tôi
      đạt điều mình muốn ?
      Nhưng tài sản rồi
      phải bỏ phía sau,
      ác nghiệp thì lại
      bền bỉ theo đuổi.

      VI-56. Vậy thà tôi đây
      chết ngày hôm nay,
      còn hơn là sống
      để gieo tội nghiệt !
      Kẻ giống như tôi,
      dù sống nhiều ít,
      đến khi chết đến
      khổ cũng như nhau.

      VI-57. Có người nằm mơ
      thấy mình sống vui
      hơn một trăm tuổi,
      để rồi tỉnh mộng.
      lại có người mơ
      thấy mình sống vui
      được trong khoảnh khắc
      rồi cũng tỉnh mộng.

      VI-58. Mộng đã tỉnh rồi
      thì dù trăm năm
      hay dù khoảnh khắc,
      niềm vui kia cũng
      không còn trở lại.
      Tương tự như vậy,
      khi giờ chết điểm,
      đời sống dài ngắn
      chẳng khác gì nhau.

      VI-59. Cho dù giàu sang
      sống trong thế gian,
      nhiều năm an vui
      hưởng đời phú quí,
      nhưng rồi tựa như
      bị cướp hết cả,
      hai bàn tay trắng
      thân trần mà đi.

      VI-60. Hay ta nghĩ rằng:
      “Nhờ vào tiền tài
      mà được sống lâu,
      tích thiện, trừ ác.”
      Thế nhưng vì tiền
      lại nổi cuồng điên,
      thiện căn mất hết
      ác nghiệp thêm dày.

      VI-61. Ý nghĩa cuộc sống
      đánh mất cả rồi,
      cho dù sống nữa
      cũng chỉ hoài công,
      chỉ là để gieo
      thêm nhiều ác nghiệp.

      VI-62. Khi bị phỉ báng
      ta liền nổi nóng,
      rằng không thể để
      họ tự hại mình.
      Nhưng sao ta lại
      chẳng hề nóng giận
      khi lời phỉ báng
      là dành cho người ?

      VI-63. Khi ấy ngược lại
      kiên nhẫn vô cùng,
      nói rằng cơ sự
      chỉ vì nhân duyên.
      Vậy sao không nhẫn
      khi bị phỉ báng ?
      Cơ sự chỉ vì
      phiền não phát sinh.

      VI-64. Ngay cả những người
      phỉ báng Phật pháp,
      hủy diệt tượng Phật,
      phá hoại bảo tháp,
      cũng không có gì
      đáng để oán hận,
      vì chư Phật vốn
      chẳng hề hấn gì.

      VI-65. Cho dù đạo sư,
      thân nhân, bằng hữu
      là người bị hại,
      cũng không nên hận,
      vì, như đã nói:
      mọi sự đều là
      tùy thuộc nhân duyên.

      VI-66. Chúng sinh bị hại
      vì vật vô tình
      cùng loài hữu tình,
      vậy sao ta lại
      chỉ oán hữu tình ?
      Gặp việc ác hại,
      tốt hơn nên nhẫn

      VI-67. Người ta làm ác
      chỉ vì vô minh.
      tôi hận việc ác
      cũng vì vô minh,
      vậy ai không lỗi ?
      ai người có lỗi ?

      VI-68. Trước kia vì sao
      tôi gieo nhân ác,
      để nay phải chịu
      quả ác thế này ?
      Mọi sự chỉ là
      thuận theo nhân quả,
      đã biết vậy rồi
      còn hận ai đây ?

      VI-69. Thấy rõ vậy rồi,
      tôi nay bất kể,
      dù có thế nào,
      vẫn sẽ khư khư
      giữ gìn thiện pháp.
      Vì chúng sinh mà
      gìn giữ tấm lòng
      thương yêu lẫn nhau.

      VI-70. Khi nhà bốc lửa
      sắp sửa lan xa,
      thời bao rơm, rạ,
      cùng mồi bắt lửa
      đều nên dẹp hết.

      VI-71. Tương tự như vậy,
      khi lửa sân hận
      bốc cháy dữ dội,
      thời phải tức thì
      dẹp tan tham ái,
      bảo vệ công đức
      khỏi bị cháy tan.

      VI-72. Cho kẻ tử tội,
      nếu được chặt tay
      để đổi mạng sống,
      chẳng mừng lắm sao ?
      Đổi cảnh địa ngục,
      chỉ cần chịu chút
      khổ đau cõi người,
      thật là phước lớn !

      VI-73. Chút khổ đau này
      đã không kham nổi,
      vậy sao không gắng
      vất hết niệm sân ?
      Đây sẽ là nhân
      đẩy vào địa ngục,
      chịu khổ cùng tận
      sâu thẳm muôn trùng.

      VI-74. Vì để tranh dành
      những điều mình muốn
      mà cả ngàn lần
      tôi đã rơi sâu,
      lửa hỏa ngục đốt
      cùng cực đớn đau,
      chẳng chút lợi ích
      cho mình, cho người.

      VI-75. Chút khổ hôm nay
      nào có đáng gì,
      nhưng lại mang đến
      lợi ích lớn lao.
      chịu khổ nhỏ này,
      quét khổ chúng sinh,
      thử hỏi sao tâm
      không vui cho được.

      VI-76. Có người hoan hỉ
      cất lời khen ngợi
      việc lành người khác,
      này tâm tôi ơi,
      sao chẳng thấy vui
      cùng người khen ngợi ?

      VI-77. Niềm vui này đây
      chẳng vướng nhiễm ô,
      hết thảy thánh giả
      đều luôn khuyến khích,
      phương tiện thù thắng
      thu phục lòng người.

      VI-78. Nếu rằng “chỉ có
      họ hưởng vui thôi !”
      thế thì cần gì
      trả lương tôi tớ ?
      Giữ tâm như vậy
      chỉ có mình tôi
      đời này kiếp sau
      phải chịu thiệt thòi.

      VI-79. Khi chính tôi đây
      là người được khen
      thì tôi lại mong
      mọi người tùy hỉ.
      Nhưng nếu lời khen
      dành cho người khác,
      tâm tôi chẳng muốn
      tùy hỉ chút nào.

      VI-80. Tôi đã phát tâm
      mang nguồn hạnh phúc
      về cho chúng sinh,
      nguyện vì chúng sinh
      tu thành Phật quả,
      nay chúng sinh được
      đôi chút niềm vui,
      sao tôi nổi giận ?

      VI-81. Tôi nguyện chúng sinh
      trọn thành Phật đạo,
      được khắp ba cõi
      cất tiếng tôn vinh.
      Nay chúng sinh được
      đôi chút ngợi khen,
      sao tôi lại thấy
      khổ tâm như vậy ?

      VI-82. Có người phải sống
      nương nhờ vào tôi,
      nhờ tôi dưỡng nuôi
      mà họ sống tốt.
      Nay có người khác
      chăm lo cho họ,
      sao tôi chẳng mừng
      lại còn nổi sân ?

      VI-83. Bấy nhiêu đã khiến
      trái ý phật lòng,
      làm sao gánh nổi
      chí nguyện độ sinh ?
      Thấy người được lợi,
      lòng tôi vất vả,
      hỏi tâm bồ đề
      tìm đâu cho ra ?

      VI-84. Phẩm vật kia dù
      tặng cho người nhận,
      hay dù thí chủ
      giữ lại chưa cho,
      cũng có bao giờ
      thành của tôi đâu,
      vậy cho hay không
      cần gì chú ý ?

      VI-85. Công đức của mình,
      tín tâm của người,
      cùng thiện đức này,
      sao tôi vất hết ?
      Không biết giữ điều
      mang về thiện quả,
      này tâm tôi ơi
      sao chẳng hận mình ?

      VI-86. Chẳng những việc ác
      chưa từng buồn lo,
      lại còn so đo
      khi người làm thiện
      được nhiều công đức.

      VI-87. Kẻ thù bị hại,
      cớ sao tôi lại
      cảm thấy toại lòng ?
      Sự việc nào phải
      vì do tôi muốn
      mà thành thế đâu ?

      VI-88. Cho dù thật sự
      vì ý tôi muốn
      mà kẻ thù tôi
      gặp việc không may,
      thì điều như vậy
      nào có gì vui ?
      Nếu lòng thấy vui,
      thật chẳng có gì
      tồi tệ cho bằng.

      VI-89. Tựa như con cá
      đớp phải lưỡi câu,
      bén nhọn đớn đau.
      Thợ câu chính là
      nhiễm tâm phiền não.
      Lưỡi câu ác ý
      móc tôi ném thẳng
      vào chảo đồng nung.
      Ngục tốt diêm vương
      tha hồ xâu nướng.

      VI-90. Tiếng tăm lừng lẫy,
      vinh dự, ngợi khen,
      chẳng thể làm tăng
      công đức, thọ mạng,
      không giúp thân thể
      khỏe mạnh cường tráng,
      cũng chẳng khiến thân
      thoải mái khinh an.

      VI-91. Nếu tôi biết nghĩ,
      sẽ tự hỏi mình
      những điều như vậy
      được lợi ích chi ?
      Nếu như là vì
      giúp tâm thoải mái,
      vậy sao chẳng kiếm
      cờ bạc, rượu chè !

      VI-92. Tôi vì chút danh
      mà bỏ tài sản,
      bỏ cả tánh mạng.
      Người đã chết rồi,
      chôn sâu đáy huyệt,
      chút lời ca tụng
      dành cho ai nghe ?

      VI-93. Lâu đài bằng cát
      bị biển cuốn tan,
      trẻ con tuyệt vọng
      lớn tiếng òa khóc.
      Tâm tôi cũng vậy,
      khi mà danh vọng
      bắt đầu rã tan.

      VI-94. Lời nói chóng tan,
      vốn chẳng có tâm,
      cho nên chẳng thể
      tự mình tác ý.
      Hay là nói rằng
      người ta khen bằng
      tấm lòng hoan hỉ
      nên tôi thấy vui.

      VI-95. Tâm người hoan hỉ
      việc gì đến tôi ?
      dù là khen người,
      hay là khen mình.
      Tâm người ta vui
      thì người ta hưởng,
      tâm tôi chẳng thể
      chia được phần nào.

      VI-96. Nếu như tôi vui
      vì người hoan hỉ,
      vậy cả thế gian
      đã khiến tôi vui.
      Thế nhưng khi người
      vui vì người khác,
      tôi luôn bực bội
      chẳng thấy vui cùng.

      VI-97. Có phải là tôi
      thấy vui như vậy,
      chỉ vì ý nghĩ
      chính mình được khen.
      Nghĩ lại mà xem,
      thật là vô nghĩa !
      Chỉ như đứa trẻ
      ấu trĩ mà thôi.

      VI-98. Danh vọng chỉ làm
      tâm thêm xao lãng,
      không còn biết chán
      cảnh khổ luân hồi.
      Cạnh tranh ganh tị
      với người làm thiện,
      khiến cho công đức
      thất tán hao mòn.

      VI-99. Vậy thì những ai
      ờ cạnh bên tôi,
      bôi nhọ tên tôi,
      mới thật là người
      bảo vệ cho tôi
      khỏi rơi ác đạo.

      VI-100. Tôi đã phát tâm
      mong cầu giải thoát,
      không muốn để mình
      vướng bả lợi danh.
      Họ lại cứu tôi
      thoát vòng ràng buộc,
      sao tôi có thể
      sinh tâm oán thù ?

      VI-101. Tôi đang chúi đầu
      rơi sâu ác đạo,
      may nhờ có họ
      cản lại dùm tôi.
      Tựa như ân đức
      của mười phương Phật,
      làm sao có thể
      sinh tâm oán thù ?

      VI-102. Đừng nên bực bội
      nghĩ vì họ cản
      mà điều công đức
      tôi chẳng thể làm.
      Có hạnh tu nào
      hơn là hạnh nhẫn,
      chẳng phải tôi cần
      trú ở hay sao ?

      VI-103. Nếu như không thể
      trú ở hạnh ,nhẫn
      đó cũng chỉ vì
      lầm lỗi nơi tôi.
      Việc công đức lớn
      đã vào tầm tay,
      chính tôi đây mới
      là người cản trở.

      VI-104. Việc này nếu không
      thì việc kia không,
      Việc này hễ có
      thì việc kia sinh.
      Vậy việc này là
      nhân sinh việc kia,
      làm sao có thể
      gọi là chướng ngại ?

      VI-105. Hành khất xuất hiện
      ngay đúng thời điểm,
      chẳng làm trở ngại
      cho hạnh bố thí.
      Chẳng thể nói rằng
      đạo sư truyền giới
      là gây chướng ngại
      cho người xuất gia.

      VI-106. Hành khất trên đời
      hằng hà sa số,
      nhưng người hại tôi
      lại chẳng bao nhiêu.
      Là vì nếu tôi
      không hại người khác
      thì cũng chẳng ai
      gây hại cho mình.

      VI-107. Như là kho báu
      nằm sẵn trong nhà,
      chẳng nhọc công tìm
      mà vẫn kiếm ra.
      Kẻ thù giúp tôi
      tu hạnh bồ tát,
      nên gặp kẻ thù
      lòng thật mừng vui.

      VI-108. Nhờ họ mà tôi
      tu thành hạnh nhẫn,
      cho nên công đức
      có được bao nhiêu,
      xin mang tặng hết,
      báo đền ơn nặng,
      vì họ là nhân
      mang đến quả này.

      VI-109. Nếu nói kẻ thù
      chẳng đáng đền ơn,
      vì họ nào muốn
      tôi tu hạnh nhẫn.
      Nếu vậy cần gì
      biết ơn Diệu Pháp,
      là nhân mang đến
      mọi thành tựu tu.

      VI-110. Lại rằng “họ vốn
      cố tình hại tôi”
      nên đối với tôi
      nào có ơn gì !”
      Vậy nếu như họ
      giống như y sĩ,
      thì tôi lấy gì
      tu hạnh nhẫn đây ?

      VI-111. Chính vì tâm họ
      chất đầy hiểm ác
      nên tâm tôi mới
      được hạnh nhẫn này.
      Ơn nặng khác gì
      ơn sâu Diệu Pháp,
      vì nhờ vào đó
      mà hạnh nhẫn sinh.

      VI-112. Đức Thế Tôn dạy
      Phật và chúng sinh
      đều là ruộng phước
      cần được hiến cúng.
      Nhờ làm đẹp dạ
      cả hai ruộng phước
      mà nhiều người đã
      đến bờ bên kia.

      VI-113. Quả vị bồ đề
      tùy thuộc cả hai,
      Phật cùng chúng sinh
      đều quan trọng cả.
      Thử hỏi tôi đây
      tu lối tu nào
      mà chỉ kính Phật
      xem thường chúng sinh ?

      VI-114. Chúng sinh và Phật
      thiện đức không đồng,
      nhưng mà tác dụng
      ngang bằng với nhau.
      do đó mà nói
      chúng sinh như Phật.

      VI-115. Hiến cúng chư vị
      trú tâm đại từ,
      là điểm thù thắng
      ở nơi chúng sinh.
      Công đức đến từ
      tín tâm nơi Phật,
      là điểm thù thắng
      nơi đấng Phật đà.

      VI-116. Muốn tu thành Phật
      cần có cả hai,
      vì vậy mà nói
      chúng sinh như Phật.
      Chứ chúng sinh nào
      có thể sánh với
      biển cả công đức
      của đấng Như lai.

      VI-117. Biển công đức này
      ai mà có được,
      dù chỉ mảy may,
      thì với người ấy,
      cho dù ba cõi
      đều mang hết ra,
      cũng vẫn không đủ
      để mà hiến cúng.

      VI-118. Chúng sinh vốn là
      mang đến cho ta
      quả vô thượng giác.
      chính vì như vậy
      mà ta cần phải
      hiến cúng chúng sinh.

      VI-119. Đức Phật chính là
      người bạn chân thành,
      ban cho chúng sinh
      vô lượng ân phước.
      Muốn đền ơn Phật,
      ngoài giúp chúng sinh,
      thử hỏi còn gì
      khiến Phật hoan hỉ ?

      VI-120. Phật xả thân mạng,
      vào ngục vô gián.
      để trả ơn này
      tôi nguyện độ sinh.
      Vậy dù họ có
      ngàn lần hại tôi,
      tôi vẫn một lòng
      giữ gìn gánh vác.

      VI-121. Cho những người mà
      đến cả chủ tôi
      cũng còn cưu mang
      không tiếc thân mạng,
      sao tôi có thể
      kiêu căng ngạo mạn,
      không chịu theo hầu,
      làm thân tôi tớ !

      VI-122. Chư Phật hoan hỉ
      khi chúng sinh vui;
      Chư Phật xót thương
      khi chúng sinh khổ;
      Giúp chúng sinh vui
      là khiến Phật vui;
      tác hại chúng sinh
      là tổn hại Phật.

      VI-123. Người bị lửa đốt
      thì mọi giác quan
      đâu còn lạc thú.
      Làm sao có thể
      khiến chư Phật vui,
      nếu chính tôi đây
      hại chúng sinh khổ.

      VI-124. Vậy ra tôi đã
      khiến Phật buồn lòng,
      gây bao việc ác,
      tác hại chúng sinh.
      Nay xin phát lộ,
      thành tâm sám hối,
      xin Phật tha thứ
      cho lỗi lầm này.

      VI-125. Từ nay sẽ làm
      đẹp lòng Như lai,
      luôn tự chế ngự
      luôn làm tôi tớ.
      dù người thế gian
      dẫm đạp đầu tôi,
      cướp mạng sống tôi,
      quyết không trả miếng.
      Xin đấng hộ trì
      tùy hỉ cho tôi.

      VI-126. Các đấng đại từ
      xem khắp chúng sinh
      ngang bằng với Phật.
      điều này đã rõ.
      Dù tướng chúng sinh,
      nhưng là tánh Phật,
      sao tôi chẳng thể
      thành tâm cung kính ?

      VI-127. Chỉ vậy là đủ
      đẹp lòng Như lai.
      Chỉ vậy là đã
      chu toàn tự lợi.
      Chỉ vậy là xóa
      khổ đau cõi thế.
      Nên tôi kiên trì
      chỉ vậy mà tu.

      VI-128. Khi mà quân binh
      gây điều nhiễu hại,
      ai người có trí
      hiểu rộng nhìn xa,
      cho dù đủ sức
      cũng không khinh xuất
      làm điều vọng động.

      VI-129. Là vì quân binh
      đâu chỉ một mình,
      phía sau lưng họ
      còn có lệnh vua.
      Cho nên tôi chẳng
      thể nào khinh xuất,
      khi kẻ hèn kém
      sinh sự hại tôi.

      VI-130. Sau lưng họ có
      ngục tốt diêm vương,
      lại có hết thảy
      mười phương Phật đà.
      Như là thần dân
      nể mặt bạo chúa,
      tôi đây hết dạ
      cung phụng chúng sinh.

      VI-131. Huống chi dù làm
      nhà vua nổi giận,
      thời cảnh địa ngục
      cũng chẳng rơi vào.
      Chẳng giống như là
      yác hại chúng sinh.

      VI-132. Hay dù có làm
      nhà vua vừa ý,
      quả vị bồ đề
      vua chẳng thể ban.
      Quả này chỉ có
      nhờ mang phúc lạc
      về cho chúng sinh.

      VI-133. Đến như quả vị
      bồ đề cứu cánh,
      cũng có được nhờ
      tâm muốn lợi sinh.
      Huống chi thiện báo,
      vinh quang, danh vọng,
      sở cầu như ý
      ngay trong đời này.

      VI-134. Trú tâm hạnh nhẫn,
      thì dù vướng kẹt
      trong cõi sinh tử,
      vẫn hưởng quả lành,
      tướng hảo, khang an,
      danh tiếng lừng vang,
      sống đời trường thọ
      hưởng đầy phước lộc,
      chuyển pháp luân vương.

      / HẾT CHƯƠNG 6 /

      || Đọc Tiếp Chương 7 >>>

      Chương Bảy: HẠNH TẤN

      VII-1. Với tâm an nhẫn,
      nỗ lực tinh tấn.
      Nhờ tinh tấn mà
      đạt quả giác ngộ.
      Gió kia không thổi
      thì vật không lay,
      công đức chẳng tăng
      nếu không tinh tấn.

      VII-2. Tinh tấn là gì ?
      Vui cùng thiện pháp.
      Ngược với tinh tấn
      gọi là biếng lười,
      thích điều có hại,
      chán nản, tự khinh.

      VII-3. Nếm vị ở không,
      ưa thích ngủ nghỉ,
      nên chẳng biết chán
      cảnh khổ luân hồi.

      VII-4. Đã lỡ rơi vào
      cạm bẫy phiền não,
      nên vướng kẹt giữa
      mạng lưới thọ sinh,
      đưa mình vào trong
      miệng của thần chết,
      làm sao có thể
      không biết cho được !

      VII-5. Đồng loại từng người
      lần lượt bị giết.
      Vậy mà có thể
      không thấy thật sao ?
      Vẫn ngủ no nê
      giống như loài trâu
      bên cạnh đồ tể.

      VII-6. Thần chết nay đã
      khép mọi nẻo đường
      mở mắt chờ ta.
      Lẽ nào ăn ngon !
      Lẽ nào ngủ yên !

      VII-7. Biết rồi sẽ chết
      thời phải mau mau
      tích lũy tư lương.
      Đợi chết mới chịu
      buông tâm lười biếng,
      nhỡ như chết sớm
      biết làm thế nào ?

      VII-8. Này việc mới khởi,
      này việc chưa làm,
      này việc dở dang,
      đột nhiên chết đến,
      khi ấy kinh hoàng:
      “Ôi, ta tiêu mạng !”

      VII-9. Mắt đỏ đớn đau,
      lệ tràn trên má.
      Người thân bên cạnh
      tuyệt vọng vô bờ.
      Riêng tôi nhìn thấy
      thần chết cạnh bên.

      VII-10. Ký ức tràn ngập
      việc ác đã làm.
      hoảng sợ điên cuồng
      thân trào phẩn uế
      vì bởi tai nghe
      tiếng kêu địa ngục,
      biết phải làm sao ?

      VII-11. Khổ nạn đời này
      đã khiến chơi vơi
      như cá mắc cạn,
      huống chi địa ngục
      do nghiệp gây nên !

      VII-11. Đã gieo đủ nghiệp
      khiến sẽ đọa rơi,
      nơi mà xương thịt
      sẽ bị đốt nung,
      nước sôi xối bỏng,
      làm sao có thể
      nhởn nhơ sống vui ?

      VII-13. Muốn được hưởng quả
      nhưng không gắng công.
      Kẻ yếu hèn này
      sẽ gặp họa lớn.
      Đến khi gần chết
      lại giống chư Thiên
      cất tiếng khóc than:
      “Ôi, sao quá khổ !”

      VII-14. Thân là thuyền bè
      đủ sức đưa ta
      vượt qua biển khổ.
      Nếu lỡ mất rồi
      làm sao tìm lại ?
      Hỡi kẻ ngu muội,
      ngay lúc này đây
      chớ nên mê ngủ !

      VII-15. Hạnh phúc thù thắng
      cùng với chánh pháp,
      đều là nhân duyên
      tạo quả an lạc.
      Sao không thiết tha
      lại đi ưa thích
      lơ đễnh, tán tâm ?
      đều là nhân duyên
      tạo nên quả khổ

      VII-16. Tâm không buồn nản:
      đấy là tinh quân.
      Với lòng chân thật
      hàng phục chính mình,
      bình đẳng ngã tha,
      hoán chuyển ngã tha.

      VII-17. Đừng nên nản chí
      nghĩ rằng “như ta
      làm sao có thể
      đạt quả giác ngộ !”
      Như lai là người
      nói đúng sự thật,
      đã dạy điều này:

      VII-18. Cho dù có thành
      ruồi muỗi ong bọ
      mà đủ tinh tấn,
      thời cũng có thể
      đạt được quả vị
      vô thượng bồ đề.

      VII-19. Còn như tôi đây
      được sinh làm người,
      biết điều thiện ác,
      nếu không nản chí
      từ bỏ đường tu
      thì chẳng lý nào
      không thể giác ngộ.

      VII-20. Nói rằng “tại vì
      phải thí thân mạng,
      cho cả chân tay,
      nên tôi thấy sợ.”
      Đó là không biết
      phân biệt trọng khinh.
      Vì vô minh nên
      phát sinh sợ hãi.

      VII-21. Vô lượng đời kiếp
      cũng đã nhiều phen
      bị đâm, đốt, xẻ
      thế nhưng chẳng thể
      đạt quả bồ đề.

      VII-22. Nay vì tu chứng
      phải chịu khổ đau.
      Khổ này có hạn,
      ví như giải phẫu
      để trị liệt thân.

      VII-23. Y sĩ gây đau,
      chữa lành bệnh dữ.
      Chịu được khổ nhỏ,
      khổ lớn tiêu trừ.

      VII-24. Huống chi thần y
      lại không như vậy,
      dùng cách dịu nhẹ
      chữa bệnh nan y.

      VII-25. Dạy ta lúc đầu
      tập cho rau củ,
      cho quen rồi mới
      bố thí thịt xương.

      VII-26. Khi tâm chứng được
      thân, rau chẳng khác,
      thời thí thân thể
      nào khó chi đâu.

      VII-27. Cũng chẳng đớn đau,
      vì nghiệp đã đoạn.
      cũng không nghịch ý,
      vì luôn thiện xảo.
      Cho nên, vọng kiến,
      cùng việc bất thiện
      là điều tác hại
      đến thân và tâm.

      VII-28. Nếu thân an lạc
      nhờ công đức tăng,
      tâm cũng an lạc
      nhờ luôn thiện xảo,
      Trú ở luân hồi
      là vì chúng sinh,
      làm sao có thể
      mỏi mệt cho được ?

      VII-29. Nghiệp cũ đã cạn
      nhờ tâm bồ đề.
      Công đức như biển,
      hơn hàng Thanh Văn.

      VII-30. Bồ tát cưỡi trên
      lưng ngựa bồ đề,
      biến tan mỏi mệt.
      Từ cảnh vui này
      vào cảnh vui khác,
      làm sao có thể
      thoái chí nản lòng ?

      VII-31. Tác thành chúng sinh
      có bốn lực lượng:
      nguyện, định, vui, nghỉ.
      Nguyện có được nhờ
      thiền quán khổ đau,
      và hiểu lợi ích.

      VII-32. Diệt mọi trở lực,
      tăng cường tinh tấn,
      được là nhờ nguyện,
      tự tín, vui, nghỉ,
      và nhờ năng lực
      chuyên tâm, tự chủ.

      VII-33. Cần diệt bỏ hết
      vô biên ác nghiệp
      của mình của người.
      Diệt một ác nghiệp
      đã phải gắng công
      hàng vô lượng kiếp,

      VII-34. vậy mà mảy may
      sám hối nghiệp chướng
      cũng vẫn chưa hề.
      Biến mình trở thành
      kho tàng ác nghiệp,
      sao tim lại chẳng
      từng mảnh nổ tung ?

      VII-35. Cần thành tựu đủ
      vô lượng thiện đức
      cho mình cho người.
      Tu một thiện đức
      đã phải gắng công
      hàng vô lượng kiếp,

      VII-36. vậy mà một thoáng
      huân tập thiện đức
      cũng vẫn chưa từng.
      Thật là kỳ lạ !
      Thân người này đây
      quí giá biết bao,
      lại biến nó thành
      hoàn toàn vô nghĩa !

      VII-37. Chưa từng hiến cúng
      mười phương Như lai;
      chưa từng mang đến
      niềm vui lễ đàn;
      chưa từng góp sức
      làm nên pháp hội;
      chưa từng chu toàn
      cho người gian nan;

      VII-38. chưa giúp kẻ nguy
      thoát cơn sợ hãi;
      chưa mang vui đến
      cho kẻ khốn cùng.
      Điều tôi đã làm
      đó là trong thai
      đã khiến mẹ tôi
      chịu bao khổ sở !

      VII-39. Vì trong quá khứ
      và trong hiện tại
      từ bỏ chí nguyện
      mong cầu Phật Pháp,
      nên nay mới phải
      khốn khổ thế này.
      Vậy ai còn muốn
      bỏ chí nguyện tu ?

      VII-40. Đức Mâu ni dạy:
      nguyện là cội rễ
      của mọi thiện đức.
      Nguyện này sinh ra
      từ sự liên tục
      quán về quả báo.

      VII-41. Thân đau, tâm khổ,
      đủ loại hiểm nguy,
      những điều mong muốn
      đều phải xa lìa,
      chẳng qua chỉ vì
      nghiệp dữ đã tạo.

      VII-42. Cố gắng dụng tâm
      làm nên việc lành,
      với công đức này,
      dù sinh ở đâu
      cũng đều hưởng đủ
      mọi điều thắng diệu.

      VII-43. Đã làm việc dữ,
      mặc dù muốn vui
      với ác nghiệp này,
      dù sinh ở đâu,
      đao kiếm khổ đau
      cũng đều bủa xuống.

      VII-44. Trú giữa lòng sen
      dịu mát ngát hương;
      thực phẩm diệu âm
      thuần dưỡng rạng ngời;
      hào quang Phật chiếu;
      nở từ lòng sen;
      thân tướng nhiệm mầu;
      diện kiến Như lai;
      làm bậc trưởng tử;
      tất cả đều nhờ
      công đức thiện nghiệp.

      VII-45. Thống khổ biết bao,
      bị quỉ diêm vương
      lột da lôi xuống,
      chảo đồng nung sôi
      đổ vào thân thể,
      đao kiếm cháy đỏ
      đâm xẻ thịt da,
      cắt nát vụn ra
      thành hàng trăm mảnh,
      rớt cả xuống nền
      sắt nung cháy rực,
      tất cả chỉ vì
      nghiệp dữ đã gieo.

      VII-46. Vì vậy cần phải
      tin nơi thiện đức
      với trọn kính ngưỡng,
      tu tập chuyên cần.
      Khởi bằng nghi thức
      Kinh Kim Cang Tàng,
      tu tâm tự tín.

      VII-47. Trước khi bắt đầu
      phải nên cân nhắc
      nên làm hay không.
      Không làm thì hơn,
      nhưng nếu đã làm
      chớ nên bỏ dở,

      VII-48. bằng không đời sau
      sẽ luôn quen thói,
      khổ nghiệp càng tăng,
      khả năng càng giảm,
      đến khi sắp đạt
      việc lại không thành.

      VII-49. Một là hành động;
      hai là nhiễm tâm;
      ba là khả năng:
      tu tập tự tín
      theo ba điểm này.
      Nói rằng: “tôi sẽ
      một mình gánh vác.”
      Đây chính là tâm
      tự tín hành động.

      VII-50. Người phàm phu bị
      nhiễm tâm ràng buộc,
      cả chính bản thân
      cũng không gánh nổi.
      Họ chẳng như tôi
      cho nên tôi phải
      tự mình cáng đáng.

      VII-51. Thấy người làm việc
      lao nhọc thấp hèn,
      sao lại ngồi yên ?
      Chẳng nên kiêu mạn.
      Đừng bao giờ để
      khởi lòng tự tôn.

      VII-52. Khi gặp rắn chết,
      quạ cũng thành ưng ;
      khi tâm nhu nhược,
      cả lỗi lầm nhỏ
      cũng gây hại lớn.

      VII-53. Kẻ sớm nản lòng,
      không biết kiên trì,
      làm sao thoát khổ ?
      Biết tu tự tín
      thì dù chuyện lớn
      cũng vẫn ung dung.

      VII-54. Vậy hãy kiên tâm
      diệt mọi lầm lỗi.
      Mới gặp lỗi nhỏ
      đã vội nản lòng,
      vậy thì chí nguyện
      hàng phục ba cõi
      chẳng phải chỉ là
      trò cười hay sao ?

      VII-55. Tôi sẽ là người
      chinh phục vạn pháp.
      Sẽ chẳng có gì
      xô ngã được tôi.
      Tôi là đứa con
      của sư tử chúa,
      luôn luôn an định,
      tự tín tột cùng.

      VII-56. Nếu vì tự tôn
      mà gặp tổn hại,
      thì đó chỉ là
      nhiễm tâm phiền não,
      chẳng phải tự tín.
      Ai có tự tín,
      trăm vạn kẻ thù
      không thể thao túng.
      Còn những kẻ khác
      thường bị tự tôn
      tác hại tơi bời.

      VII-57. Để cho tự tôn
      thổi phồng tâm trí,
      thời sẽ trôi lăn
      vào trong ác đạo,
      dù sinh làm người
      cũng chẳng an vui,
      làm tôi tớ ăn
      cơm thừa canh cặn.

      VII-58. Ngu si, xấu xí,
      thấp kém, yếu hèn,
      trở thành trò cười
      của khắp thiên hạ.
      Tự tôn tự đại
      mà gọi anh hùng,
      chẳng biết ai mới
      là người tội nghiệp.

      VII-59. Tự tín hàng phục
      kẻ thù tự tôn
      mới thật xứng đáng
      là đại anh hùng.
      Vĩnh viễn đoạn diệt
      kẻ thù tự tôn,
      viên thành Phật quả,
      thành đấng chiến thắng,
      như là chúng sinh
      vẫn hằng đợi mong.

      VII-60. Ở trong phiền não
      mà vẫn giữ tâm
      muôn phần kiên định,
      không để phiền não
      xâm phạm đến mình,
      như sư tử đứng
      giữa bầy lang sói.
      Gặp cảnh hiểm nguy
      thời che đôi mắt,
      tương tự như vậy,
      gặp cảnh hung hiểm
      cũng chẳng để cho
      phiền não tấn công.

      VII-62. Chẳng thà chết cháy,
      hay bị chém đầu,
      còn hơn qui hàng
      kẻ thù phiền não.
      Vậy trong mọi cảnh
      phải luôn giữ gìn
      hành động thích đáng.

      VII-63. Như trò chơi vui,
      Bồ tát làm gì
      cũng đều vui thích,
      tâm không thấy thỏa.

      VII-64. Khổ công làm lụng,
      mưu cầu hạnh phúc,
      thế nhưng hạnh phúc
      biết có được chăng !
      Gặp việc chắc chắn
      tạo quả hạnh phúc,
      làm sao có thể
      không ưa thích làm ?

      VII-65. Lạc thú giác quan
      tựa như mật ngọt
      trên đầu lưỡi dao,
      người đời nếm vào
      còn chưa biết đủ.
      Huống chi công đức
      tạo quả an lạc,
      làm sao có thể
      thấy đủ cho được.

      VII-66. Muốn làm xong việc,
      thời phải bắt đầu
      giống như là voi
      giữa trời trưa nắng
      gặp được ao trong
      vội vã dầm mình.

      VII-67. Bao giờ yếu mệt
      thời phải buông nghỉ,
      rồi lại bắt đầu.
      Hay khi làm xong
      phải biết buông nghỉ,
      vì đây là việc
      sẽ lại muốn làm.

      VII-68. Như tướng ra trận
      cùng địch so gươm,
      gạt mọi nhát đâm
      của kiếm phiền não,
      nhanh nhẹn tấn công,
      chiến thắng kẻ thù.

      VII-69. Đương khi lâm trận
      lỡ tay rơi kiếm,
      kinh hoàng sợ hãi
      vội vã nhặt lên.
      Tương tự như vậy,
      chánh niệm lỡ rơi,
      phải sợ ác đạo
      mà lượm ngay về.

      VII-70. Thuốc độc vào máu
      sẽ lan toàn thân;
      lỗi lầm có dịp
      sẽ ngập tràn tâm.

      VII-71. Như ôm trong tay
      hũ dầu đầy ắp
      đi trước lưỡi gươm,
      sẽ không dám rơi
      dù chỉ một giọt.
      Người tu phải nên
      thận trọng như vậy.

      VII-72. Như rắn chạm chân,
      lập tức hất ra.
      Tương tự như vậy,
      nếu tâm trì trệ,
      buồn ngủ, hôn trầm,
      phải mau chận đứng.

      VII-73. Mỗi khi phạm lỗi,
      phải tự trách mình,
      cương quyết lập tâm
      để không tái phạm.

      VII-74. Ở trong mọi lúc,
      trong mọi hoàn cảnh,
      sao cho chánh niệm
      thành thói quen đây ?
      Nghĩ rằng tôi sẽ
      cầu gặp đạo sư,
      làm theo tất cả
      việc làm thích đáng.

      VII-75. Để đủ sức mạnh
      trong mọi việc làm,
      hãy nhớ lời dạy
      về bất phóng dật,
      nhẹ nhàng khởi công.

      VII-76. Như sợi tơ bông
      nhẹ bồng trong gió,
      để mình phất phới
      nhẹ giữa niềm vui,
      thời có việc gì
      lại không làm được.

      / HẾT CHƯƠNG 7 /

      || Đọc Tiếp Chương 8 >>>

      Chương Tám: HẠNH ĐỊNH

      VIII-1. Tu tinh tấn rồi
      hãy chuyên tu định.
      Để tâm tán loạn
      thời nanh phiền não
      nhất định rơi vào.

      VIII-2. Nếu cả thân tâm
      đều giữ cách ly
      thì không thể nào
      sinh tâm tán loạn.
      Cần lìa xa mọi
      bận tâm thế tục,
      dứt bỏ tất cả
      loạn tưởng vọng tâm.

      VIII-3. Bận tâm thế tục
      rất khó xa lìa,
      vì luyến người thân
      và tham danh lợi,
      đây là điều nên
      từ bỏ trước hết,
      kẻ trí vẫn thường
      làm theo như vậy.

      VIII-4. “Quán đi với chỉ,
      phát hủy nhiễm tâm.”
      Hiểu điều này rồi,
      trước tiên tu chỉ,
      có được là nhờ
      vui vẻ lìa xa
      bận tâm thế tục.

      VIII-5. Chính bản thân mình
      vốn đã vô thường,
      lại còn mê luyến
      những kẻ vô thường.
      Mai sau dù có
      tái sinh ngàn lần,
      cũng chẳng cách nào
      gặp được người thân.

      VIII-6. Không gặp người thân
      thời tâm không vui,
      và không thể nào
      trú ở nơi định;
      cho dù có gặp
      tâm cũng chẳng nguôi,
      cũng vẫn khốn khổ,
      đòi hỏi, đợi chờ.

      VIII-7. Để tâm mòn mõi
      mê luyến người thân,
      thời không thể thấy
      đúng như sự thật;
      tâm chán sinh tử
      rồi sẽ đánh mất;
      rốt lại khổ lụy
      cùng cực đớn đau.

      VIII-8. Bao nhiêu tâm trí
      dồn cho người thân,
      thời gian thấm thoát
      trôi trong vô nghĩa.
      Vì chút tình thân
      ngắn ngủi không bền
      mà pháp trường tồn
      lại không giữ được.

      VIII-9. Đeo đuổi những việc
      phàm phu ấu trĩ,
      chắc chắn ác đạo
      sẽ phải rơi vào,
      sẽ khiến cho ta
      xa lìa thiện pháp,
      phàm phu ấu trĩ
      gần gũi làm chi ?

      VIII-10. Mới đang là bạn
      thoắt biến thành thù,
      vui vẫn chuốc oán,
      phàm phu ấu trĩ
      chẳng thể làm sao
      khiến họ vừa lòng.

      VIII-11. Khuyên điều lợi ích
      họ giận không nghe,
      ngược lại muốn tôi
      lìa xa điều thiện.
      Những lời họ bảo
      nếu chẳng làm theo,
      họ liền nổi sân
      đọa sinh ác đạo.

      VIII-12. Ai hơn thì ganh,
      bằng thì cạnh tranh,
      thua thì khinh mạn,
      khen thì tự đại,
      nghe chê thì lại
      đùng đùng nổi sân.
      Ấu trĩ như vậy,
      chơi thân làm gì ?

      VIII-13. Thân gần với kẻ
      phàm phu ấu trĩ,
      mọi điều bất thiện
      chắc chắn phát sinh:
      tự tôn, tự đại,
      kiêu mạn, khinh người,
      luận việc thế tục
      mê mải không thôi.

      VIII-14. Giao du như vậy
      liệu có ích gì ?
      Rốt lại chỉ toàn
      bất hạnh mà thôi.
      Họ chẳng mang điều
      lợi ích cho tôi,
      tôi cũng chẳng mang
      lợi ích cho họ.

      VIII-15. Vậy hãy lánh xa
      phàm phu ấu trĩ,
      mỗi khi gặp mặt
      vui vẻ cười chào,
      nhưng không trở nên
      quá đỗi thân mật,
      cung cách lịch sự
      như người bình thường.

      VIII-16. Chỉ nhận lấy điều
      lợi cho chánh pháp,
      như con ong mật
      mà hút nhụy hoa.
      Chẳng ai là người
      thân thiết với ta,
      ai cũng như người
      mới vừa gặp mặt.

      VIII-17. “Nhưng tôi là kẻ
      giàu sang danh vọng,
      có biết bao người
      rất mực quí tôi.”
      Nếu giữ cái tâm
      tự tôn như vậy,
      sau khi chết rồi
      xiết bao kinh hãi !

      VIII-18. Tâm vì mê muội
      tham chấp đủ điều.
      Cứ mỗi niệm tham
      phát sinh nỗi khổ
      ngàn lần lớn hơn.

      VIII-19. Vì vậy kẻ trí
      chẳng hề luyến tham.
      Bởi vì tham luyến
      mà sinh sợ hãi,
      tìm cầu bao nhiêu
      rồi cũng trôi tan,
      tâm nên vững vàng
      tư duy như vậy.

      VIII-20. Có biết bao người
      nhiều tiền lắm của,
      lại biết bao người
      danh vọng vẻ vang,
      rồi ôm danh lợi
      một mớ hành trang
      mà đi về đâu,
      nào ai có biết !

      VIII-21. Được khen đã sao ?
      đâu có gì vui ?
      Còn biết bao người
      chê bai chỉ trích.
      Bị chê đã sao ?
      đâu có gì buồn ?
      Còn biết bao người
      nghĩ tốt cho tôi.

      VIII-22. Mỗi người mỗi ý,
      cả đức Thế tôn
      cũng chẳng thể khiến
      thế gian vừa lòng,
      huống chi là kẻ
      tội nghiệp như tôi.
      Vậy hãy để tôi
      lìa xa thế tục.

      VIII-23. Nghèo thì khinh thị,
      giàu thì chê bai,
      làm sao có thể
      có chút gì vui
      khi gần những kẻ
      khó chơi như vậy.

      VIII-24. Như lai nói rằng:
      “Phàm phu ấu trĩ
      chẳng phải bạn lành.”
      Họ có bao giờ
      xử tốt với ai,
      nếu chẳng phải vì
      lợi riêng cho họ.

      VIII-25. Vào rừng sống cùng
      chim muông cây cỏ,
      không còn nghe nữa
      tiếng lời thị phi,
      đây mới thật là
      bạn hiền chân thật.
      Bao giờ tôi mới
      đi vào rừng sâu ?

      VIII-26. Bao giờ tôi mới
      đoạn lìa tất cả,
      sống trong hang đá,
      hay nơi miếu hoang.
      Hay là ngồi xuống
      ở dưới gốc cây,
      quyết không bao giờ
      quay đầu trở lại.

      VIII-27. Bao giờ tôi mới
      sống giữa thiên nhiên,
      một vùng mênh mông
      không ai làm chủ.
      Tự ý tới lui,
      tự do đi, ở,
      không gì câu thúc,
      không chút buộc ràng.

      VIII-28. Bao giờ tôi mới
      sống không âu lo,
      vỏn vẹn bình bát
      cùng vài vật dụng,
      khoát lớp áo rách
      không ai thèm mặc,
      và cũng chẳng cần
      nơi chốn che thân.

      VIII-29. Vào bãi tha ma,
      bao giờ tôi mới
      nhìn lại thân mình,
      so với xương trắng
      chất thành đống kia,
      bản chất hư hoại
      thật ra chẳng khác.

      VIII-30. Thân thể này đây
      rồi sẽ hư rửa,
      nồng nặc bốc mùi
      cực kỳ hôi thối,
      đến cả sói lang
      cũng chẳng dám gần.
      Thân này thật sự
      chỉ thế mà thôi.

      VIII-31. Cho dù sinh ra
      trông thật vẹn toàn,
      nào thịt, nào xương,
      kết thành đời sống,
      nhưng sẽ có ngày
      tất cả rã tan.
      Thân còn như vậy,
      huống chi bằng hữu.

      VIII-32. Làm thân con người
      một mình vào đời.
      Đến khi lìa đời
      cũng một mình thôi.
      Nào có ai người
      chia sẻ nỗi đau.
      Bằng hữu mà chi,
      chỉ càng thêm vướng.

      VIII-33. Tựa khách viễn du
      trên con đường dài,
      bước vào quán trọ
      làm chốn nghỉ chân.
      Khách trần viễn du
      luân hồi sinh tử,
      lấy kiếp tái sinh
      làm nơi ở trọ.

      VIII-34. Vậy thì trước khi
      có bốn kẻ đến
      khuân xác tôi đi
      giữa tiếng khóc than,
      hãy để cho tôi
      vào rừng trú ẩn.

      VIII-35. Hãy để tôi sống
      lặng lẽ một mình,
      không ai làm bạn,
      không ai oán thù.
      Tất cả xem tôi
      như người đã chết,
      đến khi lìa đời
      không kẻ tiếc thương.

      VIII-36. Không có một ai
      khóc than tràn lệ
      khiến tôi xao xuyến;
      cũng chẳng có ai
      khiến tâm tán loạn
      mất chánh niệm Phật
      cùng với pháp tu.

      VIII-37. Hãy để tôi sống
      đơn độc một mình.
      Rừng xanh tươi đẹp
      ít phiền, nhiều vui.
      Bao nhiêu tán tâm
      đều thanh tịnh cả,

      VIII-38. cho tôi buông hết
      bao mong cầu khác,
      chuyên tâm nhắm đến
      chỉ một nguyện thôi:
      cố gắng làm sao
      giữ tâm an tĩnh,
      tu tập thiền chỉ
      để mà thuần tâm.

      VIII-39. Đời này, kiếp sau
      ái dục sinh họa.
      Kiếp này sinh cảnh
      chém, giết, tù đày.
      Kiếp sau sinh cảnh
      địa ngục, đau thương.

      VIII-40. Ráo riết cậy nhờ
      ông tơ bà nguyệt,
      tới lui mai mối
      kết chỉ se duyên.
      Chỉ vì nữ sắc,
      việc ác không chừa,
      tiếng nhơ không sợ,

      VIII-41. mọi cảnh nguy hiểm
      đều chẳng từ nan,
      kể cả tài sản
      cũng đều không tiếc,
      chỉ để đổi lấy
      đôi chút ngất ngây,
      ấp ủ trong tay
      tấm thân ngà ngọc.

      VIII-42. Thật ra chỉ là
      cả một túi xương.
      Nào phải tự khởi,
      nào có tự tánh,
      sao đây lại là
      điều ngươi luyến ái ?
      hướng quả niết bàn
      chẳng tốt hơn sao ?

      VIII-43. Khó khăn biết bao
      mới được vén khăn,
      nâng lên khuôn trăng
      e ấp thẹn thùng.
      Dung mạo xưa nay
      dấu sau khăn phủ,
      bất kể thế gian
      có nhìn hay không.

      VIII-44. Mong đợi biết bao !
      Khao khát biết bao !
      Nay khuôn mặt này
      kên kên vạch khăn
      cho ngươi nhìn ngắm,
      sao ngươi hoảng chạy ?

      VIII-45. Xưa có ai nhìn
      là ngươi không vui,
      sùng sục nổi ghen,
      vội vàng che dấu.
      Nay sao chẳng hề
      ra tay bảo vệ
      người yêu thành mồi
      cho loài kên kên ?

      VIII-46. Một đống thịt này
      chim kên rỉa rói,
      thử hỏi khi trước
      vất vả mà chi,
      mang bao vòng hoa,
      trầm hương, châu ngọc,
      phí công trang điểm
      làm mồi cho chim !

      VIII-47. Thử hỏi mà xem,
      đống xương người chết
      dù chẳng cử động,
      ngươi vẫn hoảng sợ.
      Vậy sao không sợ
      tử thi biết đi ?

      VIII-48. Xương bọc thịt da
      thì ngươi yêu dấu,
      nay trần xương trắng
      ngươi lại không ham.
      Bây giờ lại nói
      thôi không cần nữa.
      Nhưng mớ xương bọc
      lại thích ái ân.

      VIII-49. Phân và nước miếng
      đến từ thức ăn,
      vậy sao nước miếng
      ngươi lại đê mê,
      còn phân thì lại
      chê là gớm ghiết ?

      VIII-50. Gối bông mềm mại,
      nhưng ngươi nào muốn
      cùng gối giao tình.
      Lại còn nói là
      thân người không hôi.
      Điên đảo vì tình,
      chẳng còn phân biệt
      đâu là thanh tịnh.

      VIII-51. Cảm xúc dịu êm,
      chiếc gối bông mềm,
      nhưng vì dục tình
      khiến cho mê muội,
      chẳng thể cùng gối
      mở cuộc giao hoan,
      đến nỗi cuồng điên
      hận cả chiếc gối.

      VIII-52. Không thích của dơ,
      lại ôm trong lòng
      cả một túi xương,
      cột bằng bắp thịt,
      bọc mớ thịt bùn.

      VIII-53. Chính thân ngươi đây
      đều là của bẩn,
      ngụp lặn chưa đủ,
      vốn đã sợ dơ
      lại còn đèo thêm
      một túi dơ khác.

      VIII-54. Ngươi bảo “nhưng mà
      tôi thích thịt da
      để mà vuốt ve,
      để mà nhìn ngắm.
      Nhưng sao ngươi lại
      chẳng hề ưa thích
      nếu thịt da kia
      vô tri không hồn ?

      VIII-55. Hay điều ngươi thích
      chính là cái tâm ?
      Thế nhưng cái tâm
      làm sao có thể
      vuốt ve, nhìn ngắm ?
      Có thể sờ, ngắm,
      thì nhất định là
      chẳng phải cái tâm.

      VIII-56. Thân của người khác
      dơ bẩn thế nào,
      không thấy thì thôi,
      cũng chưa mấy lạ,
      nhưng thân của mình
      toàn là của bẩn
      mà không tự thấy
      mới thật lạ kỳ !

      VIII-57. Tại sao tâm này
      chạy theo của bẩn ?
      Chẳng để mắt đến
      đóa sen tinh khôi
      giữa trời nắng mới,
      mà lại vui thú
      với túi phân người ?

      VIII-58. Chỗ nào trét phân
      ngươi nào muốn rờ,
      nhưng ngươi lại thích
      sờ mó tấm thân,
      từ đó sinh ra
      đủ thứ dơ bẩn.

      VIII-59. Chẳng thích của bẩn
      mà lại ôm ấp
      tấm thân chui ra
      từ chỗ dơ bẩn,
      kết tụ từ những
      hạt giống dơ bẩn.

      VIII-60. Dòi sinh từ phân
      ngươi nào ưa thích,
      vậy mà ưa thích
      thân xác người yêu,
      vốn cũng sinh ra
      từ nơi dơ bẩn,
      và vốn chứa đựng
      đầy tràn của dơ.

      VIII-61. Của dơ thân mình
      không gớm đã đành,
      lại còn khát khao
      một túi bẩn khác.

      VIII-62. Nếu cho vào miệng
      nhai xong lại nhổ,
      thì món thanh tịnh
      cơm trắng, rau xanh,
      cũng sẽ trở thành
      rác dơ mặt đất.

      VIII-63. Điều hiển nhiên này
      nếu vẫn chưa tin,
      hãy thử bước ra
      nghĩa trang mà nhìn
      xác chết hôi thối
      vất nằm nơi đó.

      VIII-64. Thử lột da ra,
      nhìn lại mà xem,
      có phải sẽ làm
      hồn kinh phách tán ?
      Những điều như vậy
      làm sao có thể
      tạo nguồn khoái cảm ?

      VIII-65. Mùi hương trên da
      chỉ là dầu xoa,
      nào có phải là
      hương thơm thân thể.
      Làm sao có thể
      nghe mùi hương này
      mà lại tơ tưởng
      đến tấm thân kia ?

      VIII-66. Đã thích mùi thơm
      cớ sao lại thích
      thân xác người tình
      bốc toàn mùi hôi.
      Người cõi thế gian
      thích điều vô lý.
      Vì sao lại thích
      tẩm hương thân thể ?

      VIII-67. Huống chi trầm hương
      đâu phải hương người.
      Sao mùi hương gỗ
      lại gợi dục tình
      với điều gì khác ?

      VIII-68. Nếu để tự nhiên,
      thân thể trần truồng,
      tóc móng lê thê,
      răng vàng hôi thối
      thật đáng kinh hãi.

      VIII-69. Nhưng tôi đây lại
      cố công trau chuốc,
      như mài vũ khí
      tự đâm chính mình.
      Toàn cõi thế gian
      rối loạn điên cuồng,
      chỉ vì nỗ lực
      của người u mê.

      VIII-70. Xương chất nghĩa trang,
      ngươi nhìn thấy sợ.
      Lại tìm khoái lạc
      nơi thành phố chết,
      giao du với toàn
      tử thi biết đi.

      VIII-71. Mớ túi phân kia
      nào phải miễn phí.
      Giá trả thật đắt:
      kiếp này kiệt quệ,
      kiếp sau địa ngục
      trầm luân khổ đau.

      VIII-72. Khi còn thơ ấu
      chẳng thể có tiền,
      đến tuổi thanh niên
      bận rộn đủ việc,
      bao nhiêu thời gian
      lo toan lập nghiệp,
      đến lúc về già
      ân ái còn đâu.

      VIII-73. Có kẻ mặc dù
      sung mãn ái dục,
      nhưng cả ngày trời
      vất vả mưu sinh,
      cuối ngày trở về
      kiệt quệ mệt mỏi,
      nặng nề giấc ngủ
      như một thây ma.

      VIII-74. Có người lại phải
      phương xa lập nghiệp,
      khổ đau cách biệt,
      khoắt khoải nhớ thương,
      cứ vậy nhiều năm,
      vợ con không gặp.

      VIII-75. Có kẻ cầu lợi
      mà chẳng biết cách,
      nên gửi bán thân,
      hạnh phúc mất hết,
      không còn tự chủ,
      trôi nổi dật dờ
      theo ngọn gió nghiệp.

      VIII-76. Có kẻ thân mình
      cũng mang ra bán,
      chịu cảnh nô lệ
      khốn khổ bần hàn.
      Vợ sanh con dưới
      gốc cây hoang vu
      đìu hiu gió lộng.

      VIII-77. Có kẻ ngu xuẩn,
      mặc dù sợ chết,
      vẫn lập sự nghiệp
      bằng cách đầu quân.
      Tưởng sẽ vinh quang,
      ngờ đâu rơi cảnh
      nô lệ buộc ràng.

      VIII-78. Có kẻ chỉ vì
      chạy theo ham muốn
      mà bị cắt, xẻ,
      đóng cọc, dao đâm,
      hay bị lửa đốt.

      VIII-79. Khổ vì gầy dựng,
      vì giữ, vì mất:
      tài sản vốn là
      khổ nạn triền miên.
      Để tâm tán loạn
      luyến tham tài sản,
      thời chẳng cơ hội
      thoát khổ luân hồi.

      VIII-80. Vì nhiều ham muốn
      nên nhiều vất vả,
      nhưng mà kết quả
      lại chẳng bao nhiêu.
      Giống như loài trâu
      khuân vác cực nhọc,
      cũng chỉ được cho
      vài ba nắm cỏ.

      VIII-81. Thật chẳng đáng gì,
      chẳng phải quí hiếm,
      cả loài thú vật
      cũng biết tìm ra.
      Vậy mà phải đổi
      bằng bao thiện nghiệp,
      phí uổng thân người
      tự tại, thuận duyên
      cực kỳ quí hiếm.

      VIII-82. Những điều ham muốn
      rồi cũng sẽ mất.
      Vậy mà vì tham,
      đọa rơi địa ngục,
      chịu bao khổ lớn,
      chỉ vì lợi nhỏ.

      VIII-83. Chỉ một phần triệu
      nỗ lực này thôi
      cũng đủ để tôi
      đạt quả vị Phật.
      Người ta vì tham
      chịu bao cực khổ,
      vất vả còn hơn
      cả bậc chân tu.
      Thế nhưng quả Phật
      lại không thể có.

      VIII-84. Thử nghĩ mà xem
      hết thảy khổ đau
      địa ngục, ác đạo,
      biết bao khổ nạn
      lửa, độc, bùa chú,
      hay là kẻ thù,
      cũng chẳng thể nào
      sánh với nạn tham.

      VIII-85. Tham dục tôi đã
      mõi mòn chán ngán,
      nay muốn quay về
      vui hạnh cách ly.
      Giữa rừng hoang vắng
      an vui thanh tịnh,
      lìa xa hết thảy
      phiền não thị phi.

      VIII-86. Bước cùng những tảng
      đá cao chất ngất,
      ánh trăng thanh mát
      ngào ngạt trầm hương.
      Gió rừng yên ả
      cùng tôi thả gót,
      thong dong quán chiếu
      về chuyện lợi sinh

      VIII-87. Rồi trong hang núi,
      hay dưới gốc cây,
      hay là nhà hoang,
      tha hồ trú ở.
      Khỏi cần vất vả
      đau đáu canh chừng,
      ung dung thanh thản
      thoát mọi âu lo.

      VIII-88. Chẳng chút luyến tham,
      không ai buộc ràng,
      an nhiên tự tại,
      ít muốn nhiều vui.
      Cảnh này Đế Thích
      dù có tìm cầu,
      cũng vẫn khó lòng
      tìm cho ra được.

      VIII-89. Cứ thế chiêm nghiệm
      về hạnh cách ly,
      quét tan hết thảy
      nhiễm tâm vọng tưởng,
      để rồi tu tập
      phát bồ đề tâm.

      VIII-90. Trước tiên quán pháp
      bình đẳng chúng sinh:
      ai chẳng như tôi
      trong cơn vui, khổ ?
      cho nên cần phải
      bảo vệ người khác
      như bảo vệ mình.

      VIII-91. Dù tay khác chân
      nhưng đều là thân,
      cần phải giữ gìn.
      Tương tự như vậy,
      chúng sinh tuy khác,
      thế nhưng vui buồn
      đều cũng như tôi,
      đều mong hạnh phúc.

      VIII-92. Khổ đau của tôi,
      đâu ai khác chịu,
      chỉ mình tôi gánh,
      đè nặng khó kham.
      Là vì vướng vào
      khái niệm chấp ngã,
      nên lấy khổ này
      gọi là của mình.

      VIII-93. Khổ đau của người
      tôi nào phải chịu,
      thế nhưng nếu cũng
      lấy làm của mình,
      tự nhiên sẽ thấy
      trĩu nặng khó kham.

      VIII-94. Cho nên khổ người
      tôi sẽ quét sạch
      như quét khổ mình.
      Và tôi cũng sẽ
      làm lợi khắp cả,
      đều là hữu tình
      cũng giống như tôi.

      VIII-95. Tôi và hữu tình
      đều cầu an lạc,
      bình đẳng như nhau,
      nào có gì khác ?
      Vậy sao tôi lại
      chỉ muốn tôi vui ?

      VIII-96. Tôi và hữu tình
      đều không muốn khổ,
      bình đẳng như nhau,
      nào có gì khác ?
      Vậy sao tôi lại
      chỉ cứu mình tôi ?

      VIII-97. Nói rằng khổ người
      chẳng hại đến tôi,
      nên tôi chẳng cần
      bận tâm che chở.
      Nói vậy cần gì
      lánh khổ tương lai,
      vốn chẳng phạm đến
      tôi trong hiện tại.

      VIII-98. Ý nghĩ “nhưng tôi
      là người chịu khổ !”
      thật ra chỉ là
      ý nghĩ sai lầm.
      Là vì khi chết
      là một người khác,
      mà khi tái sinh
      lại là người khác.

      VIII-99. Nếu như nói rằng
      “người nào chịu khổ,
      người nấy tự lo.”
      Vậy thì chân đau,
      cần gì tay giúp ?

      VIII-100. Lại rằng “đúng vậy
      thật là vô lý,
      chỉ do chấp ngã
      huân tập mà thôi.”
      Nếu nói như vậy
      những điều vô lý
      chấp ngã chấp tha
      đều phải bỏ hết.

      VIII-101. Cái được gọi là
      một chuỗi, một nhóm,
      như là tràng hạt,
      hay là đội binh,
      đều không thật có.
      Vốn chẳng có ai
      là người chịu đau,
      vậy ai là chủ
      của khổ đau này ?

      VIII-102. Khổ đau không chủ
      chẳng cần phân biệt.
      Hễ có khổ đau
      thì cần diệt khổ,
      đâu cần xác định
      [khổ này của ai]

      VIII-103. “Nói vậy, cần gì
      diệt khổ chúng sinh ?”
      Lời này vô cớ.
      Khổ mình muốn diệt
      thì khổ đau người
      cũng cần phải diệt.
      Không lo khổ người
      thì khổ đau mình
      cũng chẳng cần lo.

      VIII-104. Hỏi rằng “từ bi
      khiến cho khổ não.
      Vậy sao lại cố
      phát khởi làm gì ?”
      Thật ra nếu đã
      biết khổ luân hồi
      thì khổ phát tâm
      làm sao sánh nổi.

      VIII-105. Chịu một khổ này
      thay cho vạn khổ.
      Ai có tâm từ
      tự lợi, lợi tha,
      nhất định sẽ vui
      cam tâm gánh khổ.

      VIII-106. Đức Diệu Hoa Nguyệt
      biết vua sẽ giết,
      nhưng vẫn cam tâm
      chấp nhận khổ đau
      cho biết bao người
      diệt trừ khổ não.

      VIII-107. Tâm tu như vậy
      thì vạn khổ người
      đều luôn gánh vác,
      sâu thẳm địa ngục
      hoan hỉ đi vào,
      tựa như chim trời
      sà xuống đầm sen.

      VIII-108. Chúng sinh giải thoát
      thì có phải là
      được cả đại dương
      an vui hạnh phúc ?
      Chẳng đủ lắm sao ?
      Còn chưa thấy thỏa ?
      Nào đáng gì đâu
      giải thoát riêng tôi ?

      VIII-109. Vậy thì dù tôi
      gánh vác chúng sinh,
      cũng không thể nào
      sinh tâm kiêu ngạo.
      Lấy hạnh phúc người
      làm quà cho mình,
      chẳng hề chờ mong
      thiện báo nào khác.

      VIII-110. Chỉ chút thị phi,
      tôi đã hết lòng
      tự bảo vệ mình.
      Tương tự như vậy,
      bảo vệ hữu tình
      bằng trọn tấm lòng
      thương mến quan tâm.

      VIII-111. Vì tâm mê muội
      huân tập sâu dày,
      nên tinh huyết người,
      tôi lại xem là
      chính bản thân tôi,
      mặc dù tự nó
      vốn không tự tánh.

      VIII-112. Vậy thì tại sao
      với thân người khác
      lại chẳng thể thấy
      đây cũng là mình ?
      Và tại làm sao
      chẳng thể xem mình
      chính là người khác ?

      VIII-113. Nay đã thấy được
      rằng “ngã” là quấy,
      thấy biển thiện đức
      nằm ở nơi “tha,”
      vậy xin buông hết
      khuynh hướng ái ngã,
      để mà huân tập
      nơi lòng vị tha.

      VIII-114. Đã thấy tay chân
      đều là thân thể,
      vậy sao chẳng thể
      thấy khắp chúng sinh
      đều là hữu tình
      trong cùng cõi thế ?

      VIII-115. Vì lực huân tập
      mà nhìn thân này
      lại khởi khái niệm
      thấy đó là tôi.
      Vậy sao không thể
      khởi khái niệm tôi
      với thân thể khác ?

      VIII-116. Cho nên khi ta
      làm lợi cho người,
      cũng chẳng có gì
      để mà khoe khoang.
      Cũng giống như là
      tự đút mình ăn,
      chẳng hề khởi tâm
      mong cầu hồi báo.

      VIII-117. Khi gặp nghịch cảnh,
      tôi luôn ra sức
      gìn giữ cho mình.
      Tương tự như vậy,
      nay tôi tập quen
      khởi lòng từ bi
      gìn giữ chúng sinh.

      VIII-118. Đức Quan Thế Âm
      vì lòng từ bi,
      tự mang tên mình
      làm chốn hộ trì
      cho khắp chúng sinh
      thoát mọi sợ hãi
      giữa chốn đông người.

      VIII-119. Vậy đừng thoái chí,
      cứ tập cho quen.
      Có người ban đầu
      nghe nhắc đến tên
      tôi đã thấy sợ,
      nhưng quen thân rồi,
      tôi lại kém vui
      khi phải xa cách.

      VIII-120. Ai muốn chính mình
      thành nơi nương dựa
      của mình và người,
      thì nên thâm nhập
      diệu pháp kín mật
      hoán chuyển ngã tha.

      VIII-121. Vì tôi tham luyến
      chấp bám thân này
      mà việc cỏn con
      cũng gây kinh hãi.
      Thân này sinh ra
      biết bao sợ hãi,
      sao chẳng ghét nó
      như ghét kẻ thù ?

      VIII-122. Cũng vì phải giữ
      cho thân khỏi bệnh,
      cho miệng khỏi đói,
      cho cổ khỏi khô,
      mà tôi sát hại
      cá, chim, nai rừng,
      rình rập bên đường
      [Chờ dịp cướp bóc]

      VIII-123. Vì lợi vì danh
      có người thậm chí
      giết cả mẹ cha,
      cướp phẩm cúng dường,
      tự đẩy mình vào
      địa ngục vô gián.

      VIII-124. Ai người có trí
      lại muốn chiều lòng
      cung phụng tấm thân !
      Lại chẳng thấy đây
      chính là kẻ thù
      rất đáng khinh miệt !

      VIII-125. “Nếu cho ra rồi
      còn gì để hưởng ?”
      Đây chính là lời
      ái ngã của quỉ.
      “Nếu như giữ hết
      còn gì để cho ?”
      Đây chính là lời
      vị tha của trời.

      VIII-126. Vì thủ lợi mình
      mà hại đến người,
      sẽ phải đọa rơi
      khổ đau địa ngục.
      Vì lợi ích người
      mà hại đến mình,
      phước đức gặt hái
      rực rỡ bao la.

      VIII-127. Tranh lợi cho mình,
      rốt lại đọa rơi
      vào cõi ác đạo,
      thấp kém, ngu muội,
      vậy sao tôi chẳng
      đổi thành lợi người
      để sinh vào cõi
      tôn vinh hạnh phúc ?

      VIII-128. Ép người hầu mình
      sẽ phải chịu cảnh
      nô lệ tôi đòi.
      Hiến mình hầu người
      thì sẽ có được
      địa vị, quyền uy.

      VIII-129. Hết thảy hạnh phúc
      trong cõi thế gian
      đến từ nơi tâm
      cầu lợi cho người.
      Hết thảy khổ nạn
      trong cõi thế gian
      đến từ ham muốn
      thủ lợi riêng mình.

      VIII-130. Phàm phu ấu trĩ
      thủ lợi riêng mình,
      còn chư Phật đà
      luôn vì lợi tha.
      Khác biệt ra sao
      có cần phải nói ?

      VIII-131. Không đổi vui mình
      để lấy khổ người,
      thì vô thượng giác
      sẽ không thể đạt,
      trôi trong sinh tử
      không chút niềm vui.

      VIII-132. Đừng nói đời sau,
      ngay cả kiếp này
      cũng không trọn vẹn.
      Kẻ dưới thì luôn
      biếng lười trốn việc,
      chủ trên thì lại
      trốn trả tiền lương.

      VIII-133. Bao nhiêu niềm vui
      đời này kiếp sau,
      bao la rạng rỡ
      đều vất bỏ hết.
      Nào tôi có ngờ !
      vì bởi vô minh
      tổn hại hữu tình
      mà tự chuốc lấy
      khổ nạn triền miên.

      VIII-134. Bao nhiêu thương tổn
      trong cõi thế gian,
      bao niềm sợ hãi,
      bao nỗi đớn đau,
      đều đến từ tâm
      vô minh chấp ngã.
      Thứ quỉ dữ này
      giữ lại làm chi ?

      VIII-135. Không triệt bỏ đi
      thì bao khổ đau
      chẳng thể tận diệt.
      Lửa chẳng vất đi
      thì chẳng làm sao
      khỏi bị đốt cháy.

      VIII-136. Muốn mình thoát khổ
      và diệt khổ người,
      nên tôi mang thân
      dâng cho người khác,
      và trân quí người
      như quí bản thân.

      VIII-137. Này tâm tôi ơi
      hãy nên đoan chắc
      rằng nay tôi đã
      tùy thuộc nơi người.
      Ngoài tâm vị tha
      bây giờ không thể
      có tâm nào khác.

      VIII-138. Mắt này, tai này,
      cùng các giác quan,
      nay đã trở thành
      sở hữu người khác.
      Dùng riêng cho tôi
      không được nữa rồi.
      Huống chi là dùng
      chống lại chủ nhân.

      VIII-139. Hữu tình từ nay
      trở thành trọng yếu.
      Thân này có gì
      đều hãy cướp sạch
      đưa cho hữu tình
      hưởng dụng tùy nghi

      VIII-140. Lấy cảnh của người
      thấp, bằng, hay cao,
      đổi thành của tôi.
      Và đổi cảnh tôi
      thành của người khác.
      Dẹp hết tán tâm
      để mà quán chiếu:
      khởi tâm ganh tị,
      cạnh tranh, kiêu căng

      VIII-141. Hắn được tôn vinh,
      còn tôi cùng đinh,
      không giàu như hắn,
      không chút tài sản.
      Người ta kính hắn
      mà khinh miệt tôi.
      Hắn sống an vui,
      tôi khổ cay đắng.

      VIII-142. Tôi phải làm lụng,
      còn hắn ngồi không.
      Ai cũng biết hắn
      là bậc vĩ đại.
      Ai cũng biết tôi
      là kẻ bất tài.

      VIII-143. Khoan đã ! Sao lại
      là kẻ bất tài ?
      Thật ra tôi cũng
      được chút điều hay.
      So với người này
      thì tôi thấp kém,
      nhưng với người kia
      tôi vẫn trội hơn.

      VIII-144. Giới, kiến sa đọa,
      nhưng phải đâu là
      lỗi ở nơi tôi.
      Tôi chỉ là bị
      nhiễm tâm quấy phá.
      Hắn giỏi sao không
      cứu nạn dùm tôi.
      Hắn mà cứu tôi,
      khổ đau cỡ nào
      tôi cũng cam chịu.

      VIII-145. Nhưng hắn có hề
      muốn cứu tôi đâu.
      Sao lại nhìn tôi
      xem thường khinh miệt ?
      Thiện đức mà hắn
      kiêu ngạo biết bao,
      đối với tôi đây
      phỏng có ích gì ?

      VIII-146. Không chút đoái thương
      cho kẻ trôi lăn,
      lạc chốn hung hiểm
      cùng tận ác đạo.
      Vậy mà ra vẻ
      ung dung đạo đức,
      còn muốn sánh vai
      với bậc thánh nhân !

      VIII-147. Hắn với tôi đây
      cùng chung địa vị.
      để thắng được hắn,
      tôi không từ nan,
      chiếm đoạt tài sản,
      tiếng tăm, danh vọng.

      VIII-148. Bằng đủ mọi cách
      tôi sẽ làm cho
      khắp cả thế gian
      biết tôi tài giỏi
      và sẽ khiến cho
      tài năng của hắn
      vĩnh viễn vùi chôn.

      VIII-149. Lỗi tôi, tôi dấu.
      Tôi, chẳng phải hắn,
      được người cung phụng.
      Tôi, chẳng phải hắn,
      được hưởng lợi danh.
      Tôi, chẳng phải hắn,
      được đời ca tụng.

      VIII-150. Tôi sẽ thích thú
      khi hắn đọa rơi ;
      sẽ biến hắn thành
      trò cười thiên hạ,
      để cho thế gian
      dèm pha chế diễu.

      VIII-151. Người ta nói rằng
      kẻ vô minh này
      ganh đua với tôi.
      Học rộng, thông minh,
      tướng mạo, tài sản,
      làm sao có thể
      sánh bằng tôi đây.

      VIII-152. Mỗi khi thiên hạ
      cất lời khen tôi,
      tiếng thơm lừng vang
      ở khắp mọi nơi,
      lòng tôi rúng động,
      niềm vui tê dại,
      rợn cả lông tóc,
      thỏa mãn đầy tràn.

      VIII-153. Cho dù hắn có
      được chút tài sản,
      nhưng hắn là người
      giúp việc cho tôi,
      tôi để cho hắn
      vừa đủ nuôi thân,
      dư được chút nào,
      tôi dùng quyền uy
      mà tước đoạt cả.

      VIII-154. Hạnh phúc của hắn,
      tôi sẽ phá tan.
      Làm cho tan hoang,
      luôn gây tổn hại.
      Đó là vì hắn
      ở trong sinh tử
      đã từng trăm lần
      gây hại cho tôi.

      VIII-155. Tâm của tôi ơi,
      từ vô lượng kiếp
      vì muốn thủ lợi
      đã quá mỏi mòn,
      chỉ để chuốc lấy
      toàn là bất hạnh.

      VIII-156. Vậy thì giờ đây
      hãy nên cương quyết
      dốc tâm dồn sức
      hướng về lợi tha.
      Phật luôn là người
      nói đúng sự thật.
      Tôi nên ghi nhớ
      lợi ích pháp này.

      VIII-157. Nếu trong quá khứ
      từng tu như vậy,
      chắc chắn hôm nay
      quả Phật đại lạc
      không thể chưa thành.

      VIII-158. Vì vậy, cũng như
      tôi đã từng lấy
      tinh huyết của người
      mà thấy là mình,
      bây giờ cứ hãy
      lấy khắp hữu tình
      làm chính bản thân.

      VIII-159. Hãy vì người khác
      mà canh chừng mình.
      Thân có được gì
      hãy cướp sạch cho
      chúng sinh hưởng dụng.

      VIII-160. Tôi được an vui,
      người khác thống khổ.
      Tôi cảnh cao sang,
      người khác thấp hèn.
      Tôi được nâng đỡ,
      còn người đơn chiết.
      Vậy sao tôi chẳng
      hờn ghen chính mình ?

      VIII-161. Hạnh phúc tôi nay
      mang ra cho hết,
      khổ đau người khác
      tôi sẽ ôm về.
      Chất vấn lỗi mình,
      canh chừng nghiêm ngặt
      xem đang làm gì !

      VIII-162. Khi người phạm lỗi
      tôi sẽ nhận về
      chịu lời quở mắng ;
      còn tôi làm sai
      dù chỉ mảy may
      cũng sẽ phát lộ
      cho khắp mọi người.

      VIII-163. Danh tiếng của người
      tôi sẽ thăng hoa
      để cho cao trội
      vượt quá danh tôi.
      Như kẻ thấp hèn
      làm thân ở đợ,
      tôi đây phục dịch
      cho khắp chúng sinh.

      VIII-164. Cái ngã này đây
      vốn đầy lầm lỗi,
      ngẫu nhiên có được
      đôi chút điều hay
      thì chớ ngợi khen,
      hãy chôn dấu kỹ
      đừng cho ai biết.

      VIII-165. Hết thảy khổ nạn
      mà vì lợi riêng
      tôi hại hữu tình,
      nay xin hết thảy
      đổ về nơi tôi.
      Xin vì hữu tình
      một mình tôi chịu.

      VIII-166. Đừng để lộng quyền,
      khinh thường, kiêu mạn,
      mà hãy giống như
      cô dâu mới cưới,
      rụt rè, kín đáo,
      e thẹn, ngại ngần.

      VIII-167. Làm như thế này,
      giữ như thế kia,
      việc ấy liệu hồn
      chớ nên xâm phạm.
      Tự quản thúc mình
      gắt gao như thế,
      nếu lỡ vi phạm
      phải quất phạt ngay.

      VIII-168. Đã bảo như vậy
      nếu chẳng chịu nghe,
      này tâm ta ơi,
      chính từ nơi ngươi
      sinh bao việc ác,
      nên phải nghiêm khắc
      trừng phạt nặng tay.

      VIII-169. Khi xưa ngươi cứ
      tha hồ hại ta.
      Thuở đó đã xa,
      không còn thế nữa.
      Nay ta đã thấy !
      Ngươi liệu trốn đâu ?
      Ta đạp cho ngươi
      Chừa thói kiêu mạn

      VIII-170. Hễ vừa khởi tâm
      thủ lợi cho mình,
      phải ngay tức thì
      dẹp bỏ hết đi.
      Ngươi đã mang thân
      bán cho người ta,
      chớ khá than van,
      lo mà làm việc.

      VIII-171. Là vì nếu ta
      lỡ tâm sẩy ý,
      không mang ngươi ra
      cống hiến cho người,
      thì nhất định là
      ngươi sẽ bắt ta
      giao cho ngục tốt,
      trầm luân địa ngục.

      VIII-172. Đã biết bao lần
      ngươi phản bội ta,
      đã biết bao đời
      ta triền miên khổ,
      nay ký ức ta
      tràn đầy oán hận,
      nhất định hủy diệt
      quân ngã ái này.

      VIII-173. Bao giờ muốn vui
      thì đừng khi nào
      vui cho riêng mình.
      Tương tự như vậy,
      bao giờ bảo vệ
      thì phải luôn là
      bảo vệ người khác.

      VIII-174. Thân thể này đây
      hễ càng nuông chiều
      nó càng đổ đốn,
      ương hèn, cáu kỉnh.

      VIII-175. Để rơi cảnh này,
      dù được mọi sự
      trên toàn mặt đất
      cũng chưa toại lòng.
      Nỗi ái dục này
      lấy gì thỏa mãn ?

      VIII-176. Vì không thỏa mản
      tâm loạn, không vui.
      Còn với những ai
      tâm không mong cầu
      thời nguồn phước đức
      vô biên không cạn.

      VIII-177. Vậy đừng bao giờ
      cho phép thân thể
      tăng nỗi khát khao.
      Những món tầm thường
      không ai thèm muốn,
      đó mới thật là
      món đồ hữu dụng.

      VIII-178. Thân thể này đây
      chỉ là tro bụi,
      không thể cử động,
      chờ người khuân đi,
      xấu xí, thối tha,
      sao tôi lại xem
      đây là chính mình ?

      VIII-179. Sống hay là chết
      có khác gì đâu.
      Bộ máy này đây
      liệu có ích gì ?
      So với cục đất
      thật ra không khác.
      Tôi ơi, sao chẳng
      vất lòng kiêu hãnh ?

      VIII-180. Vì cung phụng nó
      mà tôi phải chịu
      khổ đau vô lý.
      Bao nhiêu mong cầu,
      bao nhiêu chán ghét,
      chẳng qua chỉ vì
      một khúc gỗ khô.

      VIII-181. Dù là nuông chiều,
      hay để chim gặm,
      thân chẳng hề vui,
      cũng không hề ghét.
      Cần gì tôi phải
      vất vả nâng niu ?

      VIII-182. Bị chê chẳng giận,
      được khen chẳng vui,
      dù khen hay chê,
      thân nào hay biết.
      Cần gì tôi phải
      nhọc công giữ gìn.

      VIII-183. Nếu như nói rằng
      nâng niu là để
      cho bạn tôi vui.
      Thế nhưng bạn tôi
      với thân của họ
      đều cảm thấy thích,
      vậy sao tôi lại
      chẳng thấy vui cùng ?

      VIII-184. Hãy cởi luyến tham
      để mang thân ra
      làm lợi cho người.
      Dù nhiều khuyến điểm
      vẫn phải giữ gìn
      để làm dụng cụ.

      VIII-185. Ấu trĩ bấy nhiêu
      đã đủ lắm rồi.
      Nay nguyện noi theo
      gót chân bậc giác,
      nhớ kỹ lời dạy
      về bất phóng dật,
      quyết tâm quét hết
      trì trệ hôn trầm.

      VIII-186. Như chư trưởng tử
      của đấng Phật đà
      vô vàn từ bi,
      nay tôi nguyện xin
      gánh vác tất cả,
      làm việc cần làm.
      Nếu không cố gắng
      nỗ lực ngày đêm,
      biết đến bao giờ
      khổ đau mới dứt ?

      VIII-187. Vậy để phá tan
      hết mọi che chướng,
      tôi phải đưa tâm
      thoát lối mê lầm.
      luôn luôn giữ tâm
      ở nơi đề mục,
      nhập định tối hảo,
      liên tục không ngưng.

      / HẾT CHƯƠNG 8 /

      || Đọc Tiếp Chương 9 >>>

      Chương Chín: HẠNH TUỆ

      Ghi chú người dịch: Xin lưu ý chữ “không thật có” ở đây có nghĩa là “không hiện hữu có tự tánh dị biệt.” Trung Quán không hề phủ nhận sự vật thật có qua duyên sinh và giả danh.

      IX-1. Đức Mâu Ni thuyết:
      mọi hạnh tu này,
      mục đích là để
      hướng về hạnh tuệ.
      Vậy muốn diệt khổ
      thì phải phát tuệ.

      IX-2. Tướng là tục đế.
      Tánh là chân đế.
      Hai chân lý này
      gọi là nhị đế.
      Chân đế không là
      đối tượng của tâm,
      vì tâm ứng với
      cảnh hiện tục đế.

      IX-3. Cho nên thế gian
      có hai loại người:
      một là hành giả,
      hai là phàm phu.
      Tri kiến hành giả
      phá bỏ hết thảy
      tri kiến phàm phu.

      IX-4. Tri kiến hành giả
      cũng có thấp cao,
      bậc trên phá bỏ
      tri kiến bậc dưới.
      Dựa vào tỉ dụ
      hai bên đều nhận.
      Muốn đạt kết quả
      thì không quán chiếu.

      IX-5. Đối với sự vật,
      phàm phu tiếp cảnh
      luôn thấy thật có,
      chẳng phải hư vọng.
      Điểm này hành giả
      khác với phàm phu.

      IX-6. Mặc dù thấy sắc,
      nhưng đây chỉ là
      cái thấy qui ước,
      chẳng phải chân thật.
      Cũng là hư vọng
      như [thân] bất tịnh
      mà người thế gian
      đều thấy là tịnh.

      IX-7. Để giúp người đời
      dễ dàng hội nhập,
      nên Phật nói rằng
      sự vật thật có.
      Thật ra chân đế
      vốn không phải là
      sát na sinh diệt.
      Hỏi: “vậy chẳng lẽ
      sát na sinh diệt
      lại là tục đế ?”

      IX-8. Điều này không sai:
      sát na sinh diệt
      là cảnh tục đế
      của bậc hành giả ;
      đối với thế gian
      lại là chân đế.
      Bằng không hành giả
      thấy thân bất tịnh,
      sẽ bị tri kiến
      thế gian phá bỏ.

      IX-9. Công đức đến từ
      đức Phật hư huyễn,
      so với công đức
      từ Phật thật có,
      đều là như nhau.
      Hỏi: “nếu chúng sinh
      chỉ là hư huyễn,
      vậy khi chết rồi
      làm sao tái sinh ?”

      IX-10. Duyên còn hội tụ
      thì cảnh huyễn còn,
      cho dù kéo dài
      bao lâu chăng nữa,
      cũng đâu vì vậy
      mà thành thật có.

      IX-11. Giết kẻ hư huyễn
      sinh từ huyền thuật
      thì không tạo nghiệp,
      vì nào có tâm.
      Thế nhưng chúng sinh
      vốn mang tâm huyễn,
      cho nên phước nghiệp
      vẫn sẽ phát sinh.

      IX-12. Bùa chú không thể
      tạo ra tâm huyễn.
      Từ vạn nhân duyên
      sinh vạn cảnh huyễn.

      IX-13. Chưa từng có chuyện
      chỉ từ một nhân
      mà sinh nhiều cảnh.
      Hỏi: “nếu chúng sinh,
      nhìn từ chân đế,
      vẫn trú niết bàn,
      nhưng trong tục đế
      lại trú sinh tử,

      IX-14. nói vậy vô lẽ
      Phật cũng luân hồi ?
      Vậy hạnh bồ tát
      tu để làm chi !”
      Thật ra nhân duyên
      nếu chưa đoạn lìa
      thì chẳng thể nào
      đoạn lìa huyễn ảo.

      IX-15. Còn nếu nhân duyên
      hết thảy đoạn lìa
      thì cho dù là
      cảnh huyễn tục đế
      cũng chẳng phát sinh.
      Hỏi: “nếu tâm huyễn
      vốn không thật có,
      vậy biết lấy gì
      để tiếp cảnh đây ?”

      IX-16. Chính các anh nói
      cảnh là hư huyễn,
      vậy bảo tiếp cảnh
      là tiếp cảnh gì ?
      Nếu như nói rằng:
      “cảnh thì lại khác,
      là vì cảnh hiện
      cũng chỉ là tâm.”

      IX-17. Nói vậy vô lẽ
      tâm cũng là cảnh ?
      Vậy dùng cái gì
      để thấy gì đây ?
      Chính đức Thế tôn
      đã dạy điều này:
      tâm chẳng tự thấy[1].

      IX-18. Cũng như lưỡi dao,
      chẳng thể tự cắt,
      tâm cũng tương tự,
      chẳng thể tự thấy.
      Hay lại nói rằng:
      “tâm như ngọn lửa
      tự soi sáng mình.”

      IX-19. Nhưng mà ngọn lửa
      có bao giờ tối
      để mà sáng soi ?
      Hay lại nói rằng:
      “vật gì vốn xanh,
      tự nó đã xanh
      chẳng cần gì khác,
      chẳng phải giống như
      là khối pha lê.

      IX-20. Nhận thức cũng vậy
      có thứ tùy thuộc,
      có thứ lại không.”
      Nhưng nếu vốn xanh,
      vô lẽ một mình
      tự trở thành xanh.

      IX-21. Khi anh nói rằng
      “lửa tự soi sáng,”
      lửa này do tâm
      thấy biết nói ra.
      Nhưng khi nói rằng
      “tâm tự soi sáng,”
      thì biết lấy gì
      thấy biết như vậy ?

      IX-22. Đã không có gì
      có thể thấy biết,
      lại còn tranh cãi
      xem tâm có tự
      soi sáng hay không,
      thật là vô nghĩa,
      như xem dung mạo
      đứa con của người
      phụ nữ không con.

      IX-23. Hỏi: “nếu tâm này
      không thể tự biết,
      làm sao có thể
      nhớ tâm đã qua ?”
      Thì cũng giống như
      nọc độc chuột nước,
      nhờ mối tương quan
      với việc đã qua
      mà nay nhớ lại.

      IX-24. Hay anh nói rằng:
      “tâm này có khi
      có thể thấy được
      [tâm của người khác]
      lẽ nào không thể
      tự thấy chính mình ?”
      Mắt bôi thuốc thần,
      tuy thấy bình báu
      nhưng lại chẳng thể
      thấy được thuốc bôi.

      IX-25. Tâm vẫn thấy, nghe,
      điều này đã hẳn,
      không ai chối cãi.
      Ở đây nói đến
      vọng niệm chấp vào
      tự tánh của tâm,
      là gốc rễ của
      vạn nỗi khổ đau,
      đây mới là điều
      cần phải phá bỏ.

      IX-26. Các anh cho rằng:
      “cảnh huyễn là tâm
      và cũng chẳng thể
      nói là không khác.”
      Tâm nếu thật có
      sao có thể khác ?
      Nếu nói không khác,
      thì không thật có.

      IX-27. Cảnh hiện dù huyễn
      vẫn có thể thấy.
      Tâm cũng như vậy.
      Các anh cho rằng:
      “luân hồi phải dựa
      trên điều thật có,
      bằng không rỗng rang
      như là hư không.”

      IX-28. Đã không thật có,
      làm sao có thể
      dựa vào điều có
      để thành thật có ?
      Nói như các anh
      thì tâm trở thành
      hoàn toàn đơn độc,
      chẳng có đối cảnh.

      IX-29. Nếu như tâm này
      đã không đối cảnh,
      vậy thì ai ai
      cũng đã là Phật,
      cần gì phải nói
      đến thuyết duy tâm !

      IX-30. Hỏi: “cho dù biết
      sự vật hư huyễn,
      làm sao có thể
      dứt bỏ nhiễm tâm ?
      Thuật sĩ tạo ra
      mỹ nhân tuyệt sắc,
      biết là không thật
      mà vẫn luyến thương.”

      IX-31. Đó chỉ là vì
      thuật sĩ chưa đoạn
      tập khí phiền não
      đối với sắc trần.
      Thấy mỹ nhân ảo
      mà lực huân tập
      đối với tánh không
      hãy còn quá yếu.

      IX-32. Tuy vậy, chỉ cần
      quen với tánh không,
      từ từ dứt bỏ
      thói quen chấp sắc.
      Rồi khi quen với
      “nhất thiết pháp không”
      thì cả điều này
      cũng sẽ từ bỏ.

      IX-33. Nói “không” là vì
      quán chiếu truy lùng,
      thấy chẳng có gì
      hiện ra trong tâm.
      Chứ tánh “không” này
      đâu thể tự mình
      hiện ở trong tâm
      như là thật có.

      IX-34. Cả sắc và không
      đều vắng trong tâm,
      cũng chẳng hề có
      trường hợp nào khác,
      cho nên yên lắng
      vào trong tịch tịnh.

      IX-35. Như ngọc như ý,
      như cây như nguyện,
      toại tâm ý người
      dù chẳng tác ý.
      Phật trong quá khứ
      nhờ phát đại nguyện,
      nay hiện sắc thân
      trước chúng đệ tử.

      IX-36. Như kẻ dựng nên
      đền kim sí điểu,
      Người chết đã lâu
      thế nhưng đền thần
      vẫn đủ khả năng
      chữa lành tà độc.

      IX-37. Bồ tát cũng vậy,
      nương hạnh bồ tát
      dựng nên thân Phật,
      rồi nhập niết bàn.
      Nhập diệt đã lâu,
      thế nhưng cũng vẫn
      toàn thành nguyện ước
      cho khắp chúng sinh.

      IX-38. Hỏi: “nếu như Phật
      vốn không tác ý,
      làm sao cúng Phật
      lại được công đức ?”
      Là vì Phật dạy
      cúng xá lợi Phật,
      so với cúng Phật,
      công đức bằng nhau.

      IX-39. Kinh Phật nói rõ,
      cho dù huyễn, thật,
      kết quả như nhau,
      cũng như công đức
      cúng Phật thật có.

      IX-40. Hỏi: “chứng diệu đế
      là đủ giải thoát,
      Cần gì phải chứng
      tri kiến tánh không ?”
      Vì kinh Phật nói
      không có lối này
      thì chẳng thể nào
      đạt chánh đẳng giác.

      IX-41. “Nhưng kinh đại thừa
      chưa được minh xác.”
      Thế kinh các anh,
      minh xác cách nào ?
      “Vì cả hai bên
      đều nhận là đúng.”
      Vậy thì đâu phải
      minh xác từ đầu.

      IX-42. Các anh nhờ đâu
      khởi tín tiểu thừa,
      tôi cũng y vậy
      khởi tín đại thừa.
      Nếu như chỉ cần
      hai bên chấp nhận,
      nói vậy vô lẽ
      cả kinh Vệ đà
      cũng được minh xác ?

      IX-43. Hay là nói rằng:
      “kinh điển đại thừa
      không thể chấp nhận
      vì gây nghi vấn.”
      Nhưng mà ngoại đạo
      nghi vấn kinh Phật,
      ngay chính các anh
      cùng nhiều người khác
      cũng còn nghi vấn,
      chẳng lẽ vất đi ?

      IX-44. Tỷ kheo chân chính
      là gốc chánh pháp,
      nhưng muốn chân chính
      thật khó muôn vàn.
      Tâm còn đối cảnh
      thì chẳng thể nào
      đến bờ bên kia.

      IX-45. Các anh cho rằng
      “hễ phiền não đoạn
      tức thì giải thoát.”
      Thế nhưng cho dù
      đoạn dứt phiền não,
      nghiệp báo vẫn còn.

      IX-46. Nói: “chỉ tạm thôi.
      vì ái đã đoạn
      nên chẳng thọ sinh.”
      Ái dục phiền não
      đúng thật đã đoạn,
      thế nhưng ái dục
      loại không phiền não
      vẫn chưa thể đoạn
      vì còn vô minh.

      IX-47. Ái sinh từ thọ,
      mà thọ vẫn còn.
      Niệm vẫn sinh khởi.
      Tâm vẫn chấp niệm.

      IX-48. Tâm chưa chứng không
      thì dù có đoạn
      cũng chỉ tạm thời,
      vẫn sẽ tái khởi,
      tương tự như người
      nhập định phi tưởng.
      Vì vậy nhất định
      phải quán tánh không.

      IX-49. Kinh điển kiết tập
      đều được nhìn nhận
      chính là lời Phật,
      vậy sao không nhận
      giáo lý Đại thừa,
      so với kinh điển
      không hề mâu thuẫn.

      IX-50. Vì một không thuận
      mà bỏ tất cả,
      đã vậy, sao chẳng
      vì một thuận mà
      nhận hết tất cả
      đều là lời Phật ?

      IX-51. Diệu pháp này đây
      cả đức Ca Diếp
      cũng chưa thể lường
      mức độ thâm sâu.
      Đâu thể chỉ vì
      chính mình không hiểu
      mà từ bỏ hết.

      IX-52. Hết thảy ái, sân,
      đều đã tự tại,
      nhưng vẫn nán lại
      trú ở luân hồi,
      vì thương hữu tình
      khổ trong vô minh:
      đây chính là quả
      tánh không mang đến.

      IX-53. Sai lầm biết bao
      nếu thấy tánh không
      có gì không đúng.
      Vậy hãy quét sạch
      hết thảy hoài nghi
      để mà quán không.

      IX-54. Bóng tối trùng điệp
      của phiền não chướng
      cùng với trí chướng,
      đều nhờ tánh không
      mà quét sạch cả.
      Ai người mong cầu
      chóng thành chánh quả,
      làm sao có thể
      bỏ mất tánh không !

      IX-55. Điều tạo khổ đau
      mới là đáng sợ,
      trong khi tánh không
      là điều diệt khổ,
      sao lại khiến ta
      hoảng hốt âu lo ?

      IX-56. Nếu “ngã” thật có,
      thì sợ cũng đúng.
      Thế nhưng “ngã” này
      vốn chẳng hề có,
      vậy nào có gì
      để ai âu lo ?

      IX-57. Răng, tóc hay móng
      chẳng phải là ngã.
      Ngã có phải đâu
      là xương hay máu,
      hay là đờm, giãi,
      huyết trắng, mủ xanh.

      IX-58. Ngã chẳng phải là
      mỡ hay mồ hôi,
      chẳng phải phổi, gan,
      chẳng là nội tạng,
      cũng chẳng phải là
      phân hay nước tiểu.

      IX-59. Thịt hay là da,
      đâu phải là ngã.
      Thân nhiệt, hơi thở,
      cũng đâu phải ngã.
      Lỗ trong thân thể
      cũng không là ngã.
      Sáu thức cũng vậy,
      có phải ngã đâu.

      IX-60. Nếu như nhĩ thức
      vốn dĩ thường còn,
      lẽ ra lúc nào
      cũng tiếp âm thanh.
      Đối cảnh không có,
      nhận biết gì đây ?
      Làm sao có thể
      gọi đó là thức ?

      IX-61. Nếu không cần tâm
      cũng vẫn nhận biết,
      vô lẽ khúc gỗ
      cũng biết hay sao ?
      Đối cảnh không có
      thì thức cũng không.

      IX-62. Các anh nói rằng
      “thức này thấy sắc,”
      vậy sao lúc ấy
      chẳng còn nghe thanh ?
      Hay là nói rằng:
      “đã hết âm thanh ?”
      Không có âm thanh
      làm gì có thức.

      IX-63. Vốn là nhĩ thức,
      làm sao có thể
      biến thành nhãn thức ?
      Cho dù nói rằng:
      “một người có thể
      vừa cha, vừa con.”
      Nhưng nói như vậy
      chỉ là lập danh,
      không phải tự tánh.

      IX-64. Tương tự như vậy,
      “khổ,” “trung tánh,” “lạc”
      vốn không là cha,
      cũng không là con.
      Chưa hề tìm ra
      có nhãn thức nào
      lại thấy âm thanh.

      IX-65. Các anh nói rằng:
      “giống như diễn viên
      sắm nhiều vai tuồng.”
      Nếu vậy đâu thể
      gọi là thường còn.
      Trước sau bất nhất
      mà gọi đồng nhất,
      việc này đúng thật
      chưa từng thấy qua !

      IX-66. Các anh nói rằng:
      “chỉ là tướng huyễn.”
      Vậy xin giải thích
      tánh thì ra sao ?
      “Chỉ thuần là biết.”
      Nói vậy vô lẽ
      hết thảy chúng sinh
      đều chỉ là một ?

      IX-67. Sự vật có tâm
      hay không có tâm,
      lẽ nào giống nhau
      vì đều hiện hữu.
      Nếu tướng của tâm
      hết thảy không thật,
      thử hỏi còn gì
      làm nền tảng chung ?

      IX-68. Đã là vô tri
      thì không phải ngã,
      chỉ là món vật
      giống như chiếc bình.
      Nếu như cho rằng:
      “phối hợp với thức
      thì sẽ nhận biết,”
      vậy thì đâu còn
      là vật vô tri.

      IX-69. Hơn nữa, nếu như
      ngã vốn bất động,
      vậy biết lấy gì
      phối hợp với thức ?
      Ngã mà như vậy,
      thì cả hư không
      ù lì vô tri
      cũng gọi là ngã.

      IX-70.  Các anh cho rằng:
      “ngã nếu không có,
      thì chẳng có gì
      nối nghiệp với quả.
      Nếu không có ai
      là người gieo nghiệp,
      vậy biết lấy ai
      làm người chịu quả ?”

      IX-71. Cả anh và tôi
      đều chấp nhận rằng
      chủ thể của việc
      gieo nghiệp, chịu quả
      vốn không đồng nhất,
      và cũng chấp nhận
      ngã không tạo tác,
      vậy còn tranh biện
      ở chỗ nào đây ?

      IX-72. “Nhân đồng với quả”
      là điều không có
      phải là cùng chung
      một dòng tâm thức
      mới có thể nói
      đến việc gieo nhân
      thì phải gặt quả.

      IX-73. Tâm của quá khứ,
      hay của tương lai,
      đều không phải ngã,
      vì đã không còn,
      hay là chưa đến.
      Nếu cho rằng ngã
      là tâm hiện tại,
      vậy khi tâm này
      tan vào quá khứ,
      ngã cũng tan theo.

      IX-74. Cũng như thân chuối,
      xẻ hết thân ra
      chẳng tìm thấy lõi.
      Tương tự như vậy,
      quán chiếu tận cùng
      vẫn không làm sao
      tìm thấy được ngã.

      IX-75. Hỏi: “nếu chúng sinh
      đều chỉ là không,
      vậy tâm từ bi
      còn phát với ai ?”
      Là vì chúng sinh
      vô minh chấp ngã,
      nên cần phát nguyện
      cứu vớt khắp cả.

      IX-76. Hỏi: “nếu chúng sinh
      đều chỉ là không,
      vậy ai là người
      thành tựu Phật quả ?”
      Đúng là như vậy.
      Việc này chỉ do
      vô minh thấy có !
      Nhưng để diệt khổ,
      thì Phật quả mà
      vô minh thấy có,
      chẳng thể quét đi.

      IX-77. Khổ đau đến từ
      tự tín chấp ngã,
      lại được tăng bồi
      bởi niệm vô minh.
      Cho dù nghĩ rằng
      chẳng thể nào khác,
      nhưng quán vô ngã
      vẫn là cao hơn.

      IX-78. Điều gọi là “thân,”
      chẳng phải chân, cẳng,
      chẳng phải đùi, hông,
      chẳng phải lưng, bụng,
      cũng chẳng phải là
      lồng ngực, cánh tay.

      IX-79. Thân chẳng phải là
      xương sườn, bàn tay,
      chẳng phải là nách,
      chẳng phải là vai,
      chẳng là nội tạng,
      ruột gan, đầu, cổ,
      vậy thật ra thân
      trú ở nơi nào ?

      IX-80. Nếu thân trú ở
      khắp mọi bộ phận,
      mỗi bộ phận ứng
      với một phần thân,
      còn chính thân kia
      trú ở chỗ nào ?

      IX-81. Nếu nói rằng: “thân
      đơn nhất, trọn vẹn,
      nằm ở bàn tay,
      ở từng bộ phận,”
      vậy thì vô lẽ
      bao nhiêu bộ phận
      là bấy nhiêu thân ?

      IX-82. Không ở bên trong,
      chẳng ở bên ngoài,
      làm sao đồng nhất
      với từng bộ phận ?
      cũng chẳng thể khác
      với các bộ phận,
      hỏi thân như vậy
      làm sao thật có ?

      IX-83. Thân chẳng hề có.
      Chỉ vì vọng tâm
      nhìn vào bàn tay
      cùng các bộ phận
      mà lại khởi niệm
      thấy rằng có thân.
      Cũng như nhìn đá
      khéo chất thành đống
      giả làm bù nhìn,
      tưởng có người ta.

      IX-84. Hội đủ nhân duyên
      thì gã bù nhìn
      thấy thành người ta.
      Hội đủ bộ phận
      thì từ nơi đó
      hiện ra thân người.

      IX-85. Tương tự như vậy,
      bàn tay chỉ là
      tổ hợp các ngón
      chứ nào tự có;
      ngón tay cũng vậy,
      do đốt hợp thành;
      cả đốt tay cũng
      gồm nhiều bộ phận.

      IX-86. Mỗi bộ phận này
      gồm nhiều phân tử.
      Phân tử bao gồm
      thành phần phương hướng.
      Mỗi thành phần này
      chẳng đâu tìm thấy
      mẩu bất khả phân,
      giống như không gian,
      cho nên phân tử
      cũng không tự tánh.

      IX-87. Sắc thể, vì thế,
      đều như huyễn mộng.
      Đã thấy vậy rồi
      luyến ái ai đây ?
      Thân đã không có
      thì còn nói gì
      đến là thân nữ
      hay là thân nam ?

      IX-88. Khổ, nếu thật có,
      tại sao lại chẳng
      choáng hết niềm vui ?
      Vui, nếu thật có,
      tại sao món ngon
      lại chẳng mang vui
      cho người thoi thóp ?

      IX-89. Nếu như nói rằng:
      “cảm thọ tuy có
      nhưng bị che khuất
      bởi điều mạnh hơn.”
      Đã không cảm được,
      làm sao có thể
      gọi là cảm thọ ?

      IX-90. Hay là nói rằng:
      “vi tế vẫn còn,
      nhưng khổ thô lậu
      đã bị lấn át:
      tuy thấy là vui
      nhưng trong vi tế
      vẫn đang là khổ.”

      IX-91. Đã nói: “vì có
      yếu tố đối nghịch
      mà khổ không hiện,”
      đó chẳng phải là
      nói rằng cảm thọ
      vốn chỉ do tâm
      lập danh mà có ?

      IX-92. Vì lý lẽ này
      mà gọi thiền quán
      là pháp đối trị.
      Định sinh từ quán,
      đây là thức ăn
      nuôi dưỡng hành giả.

      IX-93. Giữa căn với trần,
      nếu có khoảng cách,
      làm sao tiếp xúc ?
      Nếu không khoảng cách
      thì đã là một,
      biết lấy cái gì
      tiếp xúc gì đây ?

      IX-94. Phân tử không gian
      vì không khối lượng
      nên chẳng thể nào
      nhập vào trong nhau.
      Đã không thể nhập
      thì không thể hòa.
      Đã không thể hòa,
      chẳng thể tiếp xúc.

      IX-95. Có ai lại nói
      vật vô thành phần
      mà lại có thể
      tiếp xúc với nhau.
      Ở đâu thấy được
      sự tiếp xúc này,
      xin hãy vui lòng
      chỉ cho tôi thấy !

      IX-96. Chẳng thể nói rằng
      tâm phi vật thể
      mà lại có thể
      chạm vào cái tâm.
      Ngay cả tổ hợp
      cũng không thể có
      như là trước đây
      đã từng nói rõ.

      IX-97. Xúc này từ đầu
      vốn đã không có,
      vậy thì thọ này
      từ đâu sinh ra ?
      Thử hỏi có gì
      để dày vò ai ?
      Việc gì ta phải
      lao đao như vậy !

      IX-98. Vốn chẳng có ai
      là người cảm thọ.
      Chính cảm thọ này
      cũng không tự có.
      Đã thấy vậy rồi
      thì ái và thủ,
      cách gì lại chẳng
      quay đầu rút lui.

      IX-99. Điều thấy trước mắt,
      nắm ở trong tay,
      hết thảy đều như
      là cơn mộng huyễn.
      Nếu thọ và tâm
      đến cùng một lúc,
      thì tâm đã chẳng
      tiếp được thọ này.

      IX-100. Nếu cái này trước,
      cái kia đến sau,
      vậy chỉ còn là
      kinh nghiệm nhớ lại.
      Thọ cũng chẳng thể
      tự tiếp chính mình;
      cũng chẳng gì khác
      có thể tiếp thọ.

      IX-101. Chủ thể cảm thọ
      vốn không thật có,
      nên thọ này cũng
      không có tự tánh.
      Vậy thì cảm thọ
      làm sao có thể
      gây tổn hại cho
      khối vô ngã này ?

      IX-102. Tâm không trú ở
      bên trong các căn;
      cũng không trú ở
      sắc trần bên ngoài;
      tâm cũng không hề
      trú ở chính giữa:
      không trong, không ngoài,
      không nơi nào khác.

      IX-103. Không ở nơi thân,
      cũng không tách lìa.
      Không là đồng nhất,
      cũng không dị biệt.
      Tâm dù mảy may
      cũng không thật có:
      chúng sinh vốn dĩ
      nằm ngoài cảnh khổ.

      IX-104. Nếu như tâm thức
      đi trước sắc trần,
      vậy thì lấy gì
      để sinh ra thức ?
      Nếu thức và trần
      đồng loạt với nhau,
      vậy thì lấy gì
      để sinh ra thức ?

      IX-105. Nếu thức sau trần,
      thì cũng vậy thôi,
      chẳng biết lấy gì
      để sinh ra thức.
      Cho nên vạn pháp
      từ đâu sinh ra,
      là điều vượt ngoài
      khả năng nhận biết.

      IX-106. Hỏi: “nói vậy thì
      còn gì tục đế ?
      Tục đế đã không,
      nhị đế làm sao ?
      Hơn nữa tục đế
      nếu đến từ tâm,
      làm sao có thể
      đạt được niết bàn !”

      IX-107. Thật ra chỉ là
      vọng cảnh nơi người
      nào có phải là
      tục đế tâm ta ?
      niệm còn nối niệm,
      tục đế còn hiện,
      bằng không tục đế
      đương nhiên không còn.

      IX-108. Chủ thể, đối tượng
      tùy thuộc lẫn nhau
      nên vẫn có thể
      dựa lẽ qui ước
      để nói đến sự
      quán chiếu, tầm tư.

      IX-109. Hỏi: “vậy phải lấy
      sự tầm tư này
      để mà quán chiếu,
      rồi lại quán chiếu
      sự quán chiếu này,
      cứ làm như vậy
      có bao giờ xong.”

      IX-110. Nếu biết đúng cách
      quán chiếu sự vật,
      thì có còn gì
      để mà quán chiếu.
      Đối tượng đã vắng,
      nên chủ thể tan,
      đó mới chính là
      niết bàn chân thật.

      IX-111. Ai người nói rằng
      hai bên đều thật,
      sẽ khó bảo vệ
      cho luận kiến này.
      Nếu dùng tâm thức
      xác định sự vật,
      vậy biết lấy gì
      xác định tâm thức ?

      IX-112. Nếu dùng đối cảnh
      xác định tâm thức,
      vậy biết lấy gì
      xác định đối cảnh ?
      Nếu nói hai bên
      tùy thuộc lẫn nhau,
      thì sao còn gọi
      là có tự tánh ?

      IX-113. Nếu không có con
      đâu thể có cha,
      vậy đứa con này
      từ đâu mà có ?
      Làm gì có cha,
      nếu không có con,
      nên cả hai bên
      không thể thật có.

      IX-114. Hay là nói rằng:
      “cây đến từ hạt,
      chỉ cần nhìn cây
      là biết có hạt.
      Thức đến từ cảnh,
      sao lại không thể
      nhìn vào nơi thức
      biết cảnh thật có ?”

      IX-115. Việc này không thể.
      Nếu muốn nhìn cây
      để biết có hạt,
      phải do tâm thức,
      khác với cây này,
      suy ra như vậy.
      Nay biết lấy gì
      nhìn thức tiếp cảnh
      để suy ra rằng
      thức này thật có ?

      IX-116. Lẽ thường cho thấy
      sự việc trong đời
      đều là có nhân.
      Hoa sen nhiều cánh
      đều sinh ra từ
      nhiều nhân phối hợp.

      IX-117. Hỏi: “vậy nhân này
      từ đâu mà có ?”
      Từ nhân đi trước.
      Lại hỏi: “nhân này
      sao sinh quả kia ?”
      Là vì tùy thuộc
      vào nhân đi trước.

      IX-118. Tin rằng Thượng đế
      sinh ra hữu tình,
      vậy xin nói rõ
      Thượng đế là gì ?
      Nếu nói chỉ là
      thành phần thiên nhiên,
      thì thôi, cần gì
      phí công tranh cãi !

      IX-119. Tuy nhiên, đất cùng
      các thành phần khác
      vốn không đơn nhất,
      sinh diệt, ù lì,
      chẳng phải thần thánh,
      vật dẫm dưới chân,
      dơ bẩn bất tịnh,
      sao lại có thể
      cho là Thượng đế ?

      IX-120. Không gian vô năng
      chẳng phải Thượng đế.
      Ngã cũng không phải,
      điều này đã rõ.
      Nói rằng: “Thượng đế
      ngoài tầm thấy, biết ?”
      Vậy bảo rằng “có”
      là dựa vào đâu ?

      IX-121. Thượng đế thật ra
      muốn tạo những gì ?
      Hay là Thượng đế
      tạo sinh ra ngã
      và các thành phần ?
      Các anh chẳng nói
      ngã và các đại
      cũng là thường còn
      giống như Thượng đế ?
      Tâm thức là từ
      đối cảnh sinh ra.

      IX-122. Kể từ vô thủy
      sướng khổ đều do
      nơi nghiệp mà có.
      Thử hỏi Thượng đế
      sinh được những gì ?
      Nhân không khởi thủy,
      thì quả chẳng thể
      có điểm bắt đầu.

      IX-123. Thượng đế nếu không
      tùy thuộc gì cả,
      tại sao vạn vật
      chẳng đồng loạt sinh ?
      Không một thứ gì
      Thượng đế không tạo,
      vậy còn gì để
      Thượng đế tùy vào ?

      IX-124. Nếu nói Thượng Đế
      tùy thuộc thứ khác,
      vậy thì vạn vật
      sinh từ nhân duyên,
      đâu phải Thượng đế.
      Hội đủ nhân duyên
      thì Thượng đế tạo,
      không đủ thì thôi,
      không thể tạo sinh.

      IX-125. Nếu nói: “Thượng đế
      không khởi ý muốn
      nhưng vẫn tạo sinh,”
      vậy là tùy thuộc
      vào quyền năng khác.
      Còn nếu nói rằng:
      “do muốn mà tạo,”
      vậy chịu chi phối
      của lòng ham muốn,
      thử hỏi Thượng đế
      vạn năng chỗ nào ?

      IX-126. Riêng về tri kiến
      phân tử thường còn  [Mimamsaka theory]
      đã được phá bỏ
      ở phần trước đây.
      Số Luận thì nói  [Samkyas]
      vạn vật sinh từ
      vật thể nguyên thủy

      IX-127. Cái được gọi là
      “vui,” “khổ,” “trung tánh”[2]
      ở thế quân bình,
      thì được gọi là
      vật thể nguyên thủy;
      khi mất quân bình,
      thì sinh vạn vật.

      IX-128. Đã là đơn nhất
      mà lại có ba,
      là điều không có.
      Cho nên ba tánh
      không thể hiện hữu,
      mỗi tánh lại phải
      bao gồm cả ba.

      IX-129. Ba tánh đã không,
      vậy thì âm thanh
      hãy còn rất xa !
      Những vật vô tri
      như là mảnh vải,
      chẳng thể là nơi
      chứa được niềm “vui.”

      IX-130. Nếu như nói rằng:
      “những vật như vải
      mang tánh của nhân.”
      Trước đây đã chẳng
      quán “vật” rồi sao ?
      Các anh cho rằng:
      “sự vật là do
      “vui” và đại loại
      làm nhân mà có.”
      Vải có bao giờ
      từ vui sinh ra !

      IX-131. Đúng ra phải nói:
      “vui” đến từ “vải.”
      Vải đã không có,
      thì “vui” cũng không.
      “Vui” và đại loại
      mà gọi thường còn,
      đây thật là điều
      chưa từng thấy qua !

      IX-132. Nếu “vui” thường còn,
      tại sao lại chẳng
      liên tục thấy “vui” ?
      Hay là nói rằng
      ““vui” có khi về
      dưới dạng vi tế.”
      Làm sao có thể
      vừa tế, vừa thô ?

      IX-133. Hay là nói rằng:
      “hết thô lại tế.”
      Vậy thô và tế,
      không phải thường còn,
      đã vậy sao chẳng
      nói thẳng mọi sự
      đều là vô thường ?

      IX-134. Các anh còn nói:
      ““thô” chính là “vui.””
      Rõ ràng khẳng định
      “vui” cũng vô thường.
      Nếu như nói rằng:
      “đã không hiện hữu,
      thì không khởi hiện,
      vì chưa từng có.”

      IX-135. Dù đã phủ định
      “việc chưa từng có
      chẳng thể phát sinh,”
      nay các anh lại
      khẳng định điều này.
      Nói quả và nhân
      đồng loạt hiện hành,
      không lẽ ăn cơm
      cũng là ăn phân ?

      IX-136. Đã vậy cần gì
      phí tiền mua vải,
      mua nắm hạt gòn
      chẳng tốt hơn sao ?
      Nói: “vì kẻ phàm
      u mê chẳng thấy,
      phải do bậc trí
      dạy lại điều này.”

      IX-137. Nhưng mà trí này
      kẻ phàm cũng có,
      sao họ không thấy ?
      Nếu như nói rằng:
      “cái thấy kẻ phàm
      không thể tin nhận.”
      Nói vậy, đối cảnh
      mà kẻ phàm thấy
      cũng là hư vọng.

      IX-138. Hỏi: “nếu nhận thức
      đã không giá trị,
      vậy thì đối cảnh
      chẳng phải đều là
      hư vọng hết sao ?
      Vậy quán tánh không
      thật là vô lý !”

      IX-139. Nhưng mà thật ra
      nếu như đã thấy
      đối cảnh là không,
      thì biết tánh không
      của đối cảnh kia
      chẳng thể chấp vào.
      Đối cảnh hư vọng,
      bất kể loại nào,
      tánh không của nó
      cũng là hư vọng.

      IX-140. Như trong giấc mộng
      thấy con mình chết,
      ý tưởng “đã chết”
      thay thế vào cho
      ý tưởng “còn sống,”
      mặc dù cả hai
      đều là hư vọng.

      IX-141. Vì vậy sau khi
      quán chiếu tận tường,
      biết chẳng có gì
      là không có nhân, [vô nhân sinh]
      cũng không có gì
      cùng ở trong nhân,
      dù là riêng lẽ [tự sinh]
      hay là tổ hợp, [cộng sinh]

      IX-142. cũng không có gì
      sinh từ nơi khác. [tha sinh]
      Không từng ở lại
      cũng chẳng từng đi,
      vọng tâm nhìn vào
      cho rằng thật có.
      sự vật như vậy
      xét cho rốt ráo
      khác gì ảo ảnh ?

      IX-143. Cảnh tượng hư ảo
      thuật sĩ tạo ra
      Hay là cảnh ảo
      do nhân duyên tạo
      biết sinh từ đâu ?
      biết diệt về đâu ?
      đây là điều nên
      quán chiếu tận tường.

      IX-144. Đủ duyên thì sinh,
      bằng không chẳng có.
      Không chút tự tánh,
      như ảnh trong gương.
      Làm sao có thể
      thật có cho được.

      IX-145. Nếu đã thật có,
      đâu cần đến nhân ?
      Nhưng cần gì nhân
      nếu không thật có ?

      IX-146. Cho dù hội tụ
      cả vạn ức nhân,
      cũng không biến đổi
      được vật không có.
      Đã không hiện hữu
      thì biết lấy gì
      trở thành hiện hữu ?
      Trở thành gì đây ?

      IX-147. Nếu đã là “không,”
      lấy gì thành “có” ?
      Thành “có” như vậy
      là từ bao giờ ?
      Nếu “có” không đến
      thì “không” chẳng đi.

      IX-148. “không” này không đi
      “có” làm sao đến ?
      Vật “có hiện hữu”
      thì chẳng thể nào
      thành “không hiện hữu,”
      bằng không hai tánh
      chẳng lẽ hiện hành.

      IX-149. Vì vậy mà nói
      vạn pháp vô sinh,
      và cũng nói là
      vạn pháp vô diệt.
      Hết thảy hữu tình
      không hề sinh ra,
      cũng không mất đi.

      IX-150. Chúng sinh hữu tình
      tựa như giấc mơ,
      quán chiếu truy tìm
      chỉ như thân chuối.
      Nói cho rốt ráo,
      luân hồi, niết bàn,
      chẳng thể phân biệt.

      IX-151. Sự vật như vậy
      vốn đã là không,
      thì đâu có gì
      để mà được, mất ?
      Có ai ở đó
      hưởng vinh, chịu nhục,
      cũng nào có ai
      khen ngợi, chê bai.

      IX-152. Sướng khổ này đây,
      từ đâu mà đến ?
      Có gì để phải
      mừng rỡ, đớn đau ?
      Xét cho rốt ráo
      thì nào có ai
      là người tham luyến ?
      tham luyến gì đây ?

      IX-153. Quán chiếu đời sống
      của chúng hữu tình,
      thấy đâu có ai
      là người đã mất ?
      cũng chẳng có gì
      sẽ đến, đã qua,
      nào có ai là
      thân nhân, bằng hữu ?

      IX-154. Mong người như tôi
      có thể hiểu rằng
      hết thảy mọi sự
      như là hư không.
      Nhưng người thế gian
      lại thích tìm cầu
      hạnh phúc an lạc
      bằng sự níu, đẩy.

      IX-155. Khi thì hoảng loạn
      lúc lại mừng vui,
      khốn khổ bức bách,
      đấu đá, cạnh tranh,
      đâm chém lẫn nhau,
      chửi rủa, thóa mạ,
      sống trong tội ác
      ngụp lặn đắm chìm.

      IX-156. Thỉnh thoảng có khi
      trồi lên cõi thiện,
      buông thả mình trong
      khoái lạc an vui,
      để rồi chết đi,
      đọa rơi cõi dữ,
      chịu khổ cùng cực
      đăng đẳng triền miên.

      IX-157. Cõi thế gian này
      biết bao vực thẳm !
      Nơi này chẳng thể
      tìm thấy tánh như.
      Luôn là mâu thuẫn,
      luôn là từ khước,
      tánh như vạn pháp
      có thế bao giờ.

      IX-158. Ở đây biển khổ
      rộng không bến bờ,
      không có lời nào
      nói cho hết được.
      Ở đây sức yếu,
      mạng sống phù du,

      IX-159. đổ dồn tâm sức
      băn khoăn gìn giữ
      mạng sống, sức khỏe,
      cho khỏi đói, mệt.
      Phí hết thời gian,
      để mà ngủ nghỉ,
      để mà phiền muộn,
      để mà giao du
      với kẻ ấu trĩ.

      IX-160. Đời sống vô nghĩa
      thấm thoát trôi qua.
      Trí tuệ phải đâu
      dễ dàng có được !
      Thử hỏi cách gì
      tìm ra phương cách
      để đoạn tán tâm ?

      IX-161. Đã vậy còn thêm
      biết bao tà ma
      sẵn sàng đẩy ta
      sa vào địa ngục ;
      còn bao đường đi
      dối láo hư ngụy ;
      còn tâm hoài nghi
      rất khó dẹp bỏ.

      IX-162. Thân người tự tại
      khó lòng tìm lại ;
      bổn sư xuất thế
      lại càng khó hơn ;
      càng hiếm biết bao
      đoạn dòng phiền não.
      Than ôi, cứ thế
      chịu khổ đau hoài.

      IX-163. Đớn đau cùng cực,
      ngụp lặn dòng đời,
      biển khổ mù khơi,
      trầm luân đuối ngạt.
      Vậy mà khổ mình
      lại không tự thấy.
      Ôi chúng hữu tình,
      thật đáng thương thay !

      IX-164. Cũng như có người
      tắm rồi lại tắm,
      để rồi liên tục
      lửa nóng xông vào,
      cứ vậy mà chịu
      đớn đau khốn khổ,
      nhưng lại tưởng là
      khoái lạc an vui.

      IX-165. Có người lại sống
      như thể sẽ không
      bao giờ già, chết,
      để rồi, trước tiên,
      mất đi mạng sống,
      tiếp theo rơi đọa
      ác đạo hãi hùng.

      IX-166. Bao giờ tôi mới
      có thể dập tắt
      ngọn lửa khổ đau
      thiêu bỏng chốn này
      bằng trận mưa to
      của niềm hỉ lạc,
      dào dạt xuống từ
      biển mây công đức ?

      IX-167. Kho tàng công đức
      tôi đã tích lũy
      với trọn lòng thành,
      tâm không niệm khởi,
      bao giờ tôi mới
      vén được tánh không
      cho khắp những ai
      vì chấp niệm khởi
      mà khổ trầm luân
      trong biển luân hồi.

      / HẾT CHƯƠNG 9 /

      Ghi chú chương 9:
      [1] Trích Luận giải của ngài Kunzang Pelden:  “Điểm then chốt ở đây là nếu đã cho rằng tâm có tự tánh dị biệt và đơn nhất, vậy tâm này vốn không thể phân hai để có thể vừa là đối tượng vừa là chủ thể nhìn thấy đối tượng ấy.” Điều nói ở đây không ứng với cái tâm duyên sinh giả danh.
      [2] sattva, rajas, tamas. Là ba tánh theo thuyết Số Luận.

      || Đọc Tiếp Chương 10 >>>

      Chương Mười: HỒI HƯỚNG

      X-1. Soạn tác luận này,
      Nhập Bồ Đề Hạnh,
      được bao công đức,
      nguyện xin hồi hướng
      cho khắp chúng sinh
      dấn thân bước vào
      pháp hành bồ tát.

      X-2. Nương công đức này,
      nguyện cho chúng sinh
      ở khắp mọi nơi,
      đang chịu khổ đau
      tinh thần thể xác,
      tìm được đầy tràn
      hạnh phúc an vui.

      X-3. Còn trong luân hồi,
      nguyện cõi thế gian
      được nguồn hạnh phúc
      không bao giờ tàn,
      không hề gián đoạn,
      hưởng nguồn an lạc
      như là sóng cả
      của chư bồ tát.

      X-4. Nguyện cho chúng sinh
      khổ đau trong cõi
      địa ngục trùng điệp
      trên toàn cõi thế
      hưởng được niềm vui
      Tây phương cực lạc.

      X-5. Nguyện cho kẻ lạnh
      tìm được hơi ấm,
      nguyện cho kẻ nóng
      dịu mát cơn đau
      nhờ mây bồ tát
      mưa xuống biển mưa
      bao la vô tận.

      X-6. Nguyện rừng lá chém
      thành rừng đẹp vui;
      nguyện cây giáo gươm
      thành cây như ý;

      X-7. địa ngục trở thành
      cảnh giới an lạc;
      hồ sen bao la
      ngọt ngào thơm ngát,
      thanh thoát tiếng chim
      hạc, ngỗng, thiên nga…

      X-8. Nguyện núi than hồng
      trở thành núi ngọc;
      nguyện đất nung đỏ
      thành nền pha lê;
      nguyện dãy núi đè
      thành cung điện ngọc
      đầy ắp Như lai.

      X-9. Nguyện mưa núi lửa
      thành trận mưa hoa;
      nguyện cõi đẳng hoạt
      hung tàn vũ khí,
      thành chốn nô đùa
      tung hoa làm vui.

      X-10. Nguyện người trầm luân
      nơi dòng sông lửa,
      thịt da tan chảy,
      xương trắng trần phơi,
      nương công đức này
      có được thân trời,
      cùng bao thiên nữ
      bên dòng sông thiên
      êm đềm dịu chảy
      thanh thản nằm phơi.

      X-11. Tự hỏi “vì đâu
      ngục tốt diêm vương
      đầu quạ đầu ó
      bỗng nhiên hốt hoảng ?
      Do diệu lực nào
      quét tan bóng tối,
      mang lại an vui
      cho cõi địa ngục ?”
      Ngẩng đầu lên nhìn
      thấy giữa trời rộng
      sáng ngời hình bóng
      đức Kim Cang Thủ.
      Tâm khởi mừng vui
      nên hắc nghiệp tan,
      theo cùng bồ tát
      rời xa chốn này.

      X-12. Bao giờ thạch nham
      bỗng nhiên tan biến
      nhờ trận mưa hoa
      tẩm đầy nước hương.
      Tự hỏi nhờ đâu ?
      mà tràn niềm vui ?
      Nguyện cho chúng sinh
      trong cõi địa ngục
      thấy được trước mắt
      đấng Cầm Hoa Sen[1].

      X-13. Bạn hiền tôi ơi
      hãy mau đến đây,
      không cần hoảng chạy.
      Ai ở trên kia ?
      Chính đức Diệu Âm[2]
      là bậc bồ tát
      hộ trì chúng sinh
      ban sự vô úy.
      Nhờ lực của ngài
      khổ đau tan sạch,
      suối an lạc chảy
      và bồ đề sinh.

      X-14. Xin hãy nhìn xem:
      ở trong điện ngọc
      trăm vạn chư thiên
      đảnh lễ gót sen;
      trăm vạn thiên nữ
      rền lời xưng tán.
      Đôi mắt của ngài
      từ hòa ướt đẫm.
      Từ đỉnh đầu ngài
      rơi trận mưa hoa.
      Chúng sinh địa ngục
      thấy được cảnh này
      cất tiếng reo vui.

      X-15. Tương tự như vậy,
      nương thiện căn này,
      trùng điệp biển mây
      chư đại bồ tát,
      như đức Phổ Hiền
      cùng chư vị khác,
      mưa xuống biển mưa
      an vui thơm mát,
      cho cõi địa ngục
      đầy ắp niềm vui.

      X-16. Nguyện cõi súc sinh
      thoát cảnh hãi hùng
      nhai nuốt lẫn nhau.
      Nguyện cõi ngạ quĩ
      được nguồn an lạc
      Bắc Câu Lư Châu,

      X-17. no đủ, tắm mát,
      nhờ dòng sữa ngọt
      rót từ ngón tay
      đức Quan Thế Âm.

      X-18. Nguyện cho người mù
      thấy được hình sắc;
      nguyện cho người điếc
      nghe được âm thanh;
      nguyện cho sản phụ
      được giống như là
      Hoàng Hậu Ma Da,
      không gặp đớn đau
      trong lúc lâm bồn.

      X-19. Nguyện người thân trần
      tìm được y áo.
      Nguyện người đang đói
      kiếm được miếng ăn.
      Nguyện người đang khát
      tìm ra thức uống,
      cùng nguồn giải khát
      thơm ngon tuyệt diệu.

      X-20. Nguyện cho người nghèo
      tìm được tài sản.
      Nguyện người yếu khổ
      thấy được niềm vui.
      Nguyện kẻ tuyệt vọng
      gặp nguồn hy vọng,
      vĩnh viễn sống trong
      bình an hạnh phúc.

      X-21. Nguyện người tật bệnh
      thoát mọi bệnh khổ.
      Nguyện nạn thiên tai
      vĩnh viễn không còn.

      X-22. Nguyện kẻ khiếp sợ
      dứt cơn sợ hãi.
      Nguyện kẻ tù đày
      thoát cảnh cùm gông.
      Nguyện kẻ yếu hèn
      tìm ra sức mạnh.
      Nguyện cho chúng sinh
      sống trong cõi thế
      đều biết quay về
      nâng đỡ lẫn nhau.

      X-23. Nguyện cho lữ hành
      trên mọi bước đường
      đều gặp hạnh phúc,
      không nhọc công vẫn
      làm được tất cả
      những gì muốn làm.

      X-24. Nguyện người đi biển
      tìm được hết thảy
      mọi điều mong muốn,
      trở về đất liền
      bình an vô sự,
      sum vầy đoàn tụ
      cùng với thân nhân.

      X-25. Nguyện khách lữ hành
      lạc bước lỡ chân,
      sớm gặp đồng hành,
      không sợ cướp bóc,
      hùm, beo, thú dữ,
      đường đi thong dong
      không chút mỏi mệt.

      X-26. Nguyện kẻ lạc loài
      ở nơi hoang dã
      không bóng người qua,
      hãi hùng hoang vắng,
      kẻ say, kẻ điên
      trẻ thơ, người già,
      không nơi nương dựa,
      đều được chư Thiên
      che chở hộ trì.

      X-27. Nguyện cho chúng sinh
      thoát cảnh ràng buộc,
      có được chánh tín,
      trí tuệ, từ bi,
      lương thực đầy tràn,
      cung cách uy nghi,
      luôn nhớ đời trước.

      X-28. Nguyện cho mọi người
      tài sản bất tận,
      như hư không tạng,
      không hề mang lại
      tranh chấp, tổn hại,
      hưởng dụng tùy ý.

      X-29. Nguyện kẻ xấu xí
      được tướng trang nghiêm.
      Nguyện người dị dạng
      được thân toàn hảo.

      X-30. Nguyện kẻ mạng thấp
      trong cõi thế gian
      sanh vào mạng cao.
      Nguyện kẻ thấp kém
      có được địa vị.
      Nguyện kẻ kiêu căng
      trở thành khiêm tốn.

      X-31. Nương công đức này,
      nguyện khắp chúng sinh
      từ bỏ ác hạnh,
      vĩnh viễn làm theo
      những việc tốt lành,

      X-32. và không bao giờ
      lìa bồ đề tâm,
      luôn đi sâu trong
      pháp hành bồ tát,
      luôn được chư Phật
      hộ niệm giữ gìn,
      tận diệt hết thảy
      ác hạnh ma vương.

      X-33. Nguyện  khắp chúng sinh
      sống đời trường thọ,
      an vui hạnh phúc,
      đến cả chữ “chết”
      cũng chưa hề nghe.

      X-34. Nguyện khắp mọi nơi,
      có biết bao nhiêu
      vườn cây như ý,
      pháp âm ngân vang
      lời giảng của Phật
      cùng chư trưởng tử.

      X-35. Nguyện cho mặt đất
      ở khắp mọi nơi
      không đá gập ghềnh,
      như ngọc lưu ly,
      như lòng bàn tay
      muốt trơn phẳng mịn.

      X-36. Trong hàng đệ tử,
      nguyện chúng bồ tát
      nhiều đến vô lượng,
      ngồi kín mọi nơi,
      uy nghi trang điểm
      khắp mặt đất này.

      X-37. Nguyện cho chúng sinh
      lắng nghe không ngừng
      âm thanh diệu pháp
      đến từ chim muông,
      đến từ cây rừng,
      đến từ ánh sáng,
      hay từ không gian.

      X-38. Nguyện luôn thấy Phật
      cùng chư trưởng tử.
      trùng điệp trời mây,
      cúng phẩm vô tận,
      mang hết kính dâng
      bậc Thầy cõi thế.

      X-39. Nguyện xin chư Thiên
      cho mưa đúng thời,
      cho khắp mùa màng
      xanh tốt sum xuê.
      Nguyện cho quốc vương
      thuận theo chánh pháp.
      Nguyện cho con dân
      thịnh vượng cát tường.

      X-40. Nguyện thuốc chữa lành
      mọi cơn bệnh dữ.
      Nguyện cho mật chú
      luôn được thành công.
      Nguyện đà kì ni,
      quỉ ăn thịt người
      khởi được từ tâm.

      X-41. Nguyện khắp chúng sinh
      không có một ai
      phải chịu nạn khổ,
      tạo tác ác nghiệp,
      gặp cảnh tật bệnh,
      khổ vì sợ hãi,
      hay vì bị người
      sỉ nhục khinh khi.
      Cũng không bao giờ
      khổ vì trầm cảm.

      X-42. Nguyện cảnh chùa chiền
      luôn được thanh tịnh,
      trường tồn hưng thịnh
      tu học, tụng kinh.
      Nguyện cho tăng đoàn
      sống trong lục hòa,
      chí nguyện xuất gia
      toàn thành viên mãn.

      X-43. Nguyện người xuất gia
      có chí nguyện tu,
      được chốn lan nhã,
      xả bỏ tán tâm,
      an trú trong định
      thuần tâm nhu nhuyễn.

      X-44. Nguyện cho chư ni
      được đủ vật chất,
      thoát hết tất cả
      tranh chấp tổn hại.
      Tương tự như vậy,
      nguyện người xuất gia
      trang nghiêm giới hạnh.

      X-45. Nguyện người phá giới
      sám hối tội này,
      tiêu trừ nghiệp lực
      sinh cõi bình an,
      uy nghi giới hạnh,
      không còn suy thoái.

      X-46. Nguyện cho kẻ trí
      luôn được tôn vinh,
      được người giữ gìn,
      hiến cúng rộng rãi,
      tâm luôn thanh tịnh,
      danh lừng mười phương.

      X-47. Nguyện không còn ai
      chịu khổ ác đạo,
      cũng không bao giờ
      nhọc nhằn vất vả,
      mau chóng viên thành
      thắng thân của Phật,
      thù thắng hơn cả
      thân của chư thiên.

      X-48. Nguyện khắp chúng sinh
      cúng dường chư Phật
      nhiều vô số kể,
      luôn hưởng được nguồn
      an vui thắng diệu
      của chư Như Lai.

      X-49. Hết thảy bồ tát
      vì khắp chúng sinh
      có tâm nguyện gì,
      nguyện đều thành tựu.
      Và xin nguyện cho
      khắp cả chúng sinh
      hưởng được tất cả
      tâm ý của Phật
      cùng chư bồ tát
      hướng về chúng sinh.

      X-50. Tương tự như vậy
      nguyện Bích Chi Phật
      cùng chư Thanh Văn
      được nguồn an vui.

      X-51. Và cho đến khi
      đạt hoan hỉ địa,
      nguyện nương lòng từ
      của đức Diệu Âm
      mà tôi luôn được
      nhớ lại đời trước,
      vui hạnh xuất gia.

      X-52. Nguyện tôi luôn sống
      với chút lương thực
      đơn giản thông thường.
      Nguyện mọi đời kiếp
      tìm được nơi trú
      thanh tịnh toàn hảo.

      X-53. Mỗi khi trong tôi
      khởi tâm muốn thấy
      hay là muốn hỏi,
      nguyện được diện kiến
      bồ tát Diệu Âm,
      không chút ngăn ngại.

      X-54. Như đức Văn Thù
      toàn thành mục tiêu
      cho khắp chúng sinh
      cùng tận không gian,
      nay tôi cũng nguyện
      làm theo như vậy.

      X-55. Không gian vẫn còn,
      chúng sinh vẫn còn,
      thì tôi còn vẫn
      ở lại chốn này,
      quét tan khổ nạn
      của khắp chúng sinh.

      X-56. Nguyện cho khổ nạn
      của khắp chúng sinh
      trổ quả nơi tôi.
      Nương vào năng lực
      chúng Tăng bồ tát,
      nguyện khắp chúng sinh
      hưởng được đầy nguồn
      an vui thắng diệu.

      X-57. Nguyện cho chánh pháp
      là thuốc duy nhất
      chữa lành bệnh khổ,
      là gốc rễ của
      mọi nguồn an vui,
      luôn được muôn loài
      hỗ trợ tôn kính,
      tồn tại dài lâu.

      X-58. Tôi xin kính lạy
      bồ tát Diệu Âm:
      nhờ ơn của ngài
      mà tâm thiện khởi.
      Kính lạy đạo sư
      cùng chư đạo hữu:
      nhờ ơn chư vị
      tâm thiện phát huy.

      / HẾT CHƯƠNG MƯỜI /

      Ghi chú chương 10:
      [1] Bồ tát Quan Thế Âm.
      [2] Manjughosha: một tên khác của đức Manjushri, là đức Văn Thù Sư Lợi.

      <<< Trở Lại Trang Đầu  ||

      CUỐI SÁCH:
      Đến đây chấm dứt bài pháp Bodhicharyavatara, Nhập Bồ Đề Hạnh Luận, do đại sư Shantideva soạn tác.
      Sách này do học giả xứ Ấn Sarvajnadeva và tỷ kheo kiêm dịch giả Kawa Peltsek chuyển Tạng ngữ và hiệu đính thành định bản dựa trên bản chép tay đến từ Kashmir. Về sau bản dịch này lại được học giả xứ Ấn Dharmashibhadra và hai vị tỷ kheo kiêm dịch giả xứ Tây Tạng, Rinchen Zangpo và Shakya Lodro hiệu đính dựa theo nguyên bản đến từ  Magadha đi kèm với luận giải. Về sau, thêm một lần nữa bản dịch này lại được học giả xứ Ấn Sumatikirti và vị tỷ kheo kiêm dịch giả Ngok Loden Sherab hiệu đính.


      Hồng Như chuyển Việt ngữ – Bản hiệu đính, 21/03/2014

      Mọi sai sót là của người dịch
      Mọi công đức xin hồi hướng pháp giới chúng sinh.

      Ghi chú của dịch giả:
      Sách này có thể đọc chung với bài pháp Chói Rạng Ánh Mặt Trời của ngài Patrul Rinpoche, là cẩm nang hành trì của Nhập Bồ Đề Hạnh Luận.