Tag Archives: Phật

KINH THỦY SÁM – Thượng nhân Thích Trí Quang dịch giải

(1)
Thủy Sám
Trưởng lão Thích Trí Quang dịch giải

| (1) Lời ghi - Tiểu dẫn - Mục Lục - Tựa | 
| (2) Khai Kinh | (3) Chánh Văn | (4) Hồi Hướng |
[Ghi chú cho trang web này : Chánh văn nguyên bản Thủy sám chia thành 3 cuốn: trước, giữa và sau, mỗi cuốn có 3 phần: khai kinh, chánh văn, hồi hướng, có lẽ để tiện việc đọc tụng. Nay xin phép được gom chánh văn lại làm một, chia 3 phần: (2) Khai kinh, (3) Chánh văn và (4) Hoàn kinh, trên 3 trang web [(1) dành cho phần dẫn nhập trước chánh văn]. Mục lục chỉnh lại cho phù hợp. Mỗi khi đọc có thể đọc dài tùy ý, nhưng bất luận thế nào, xin hãy luôn bắt đầu bằng (2) khai kinh và kết thúc bằng (4) hoàn kinh.
Bản web hiện tại chưa có phần Ghi chú của nguyên bản. Sẽ bổ túc sau.]

Lời Ghi

Lời ghi

Dịch sách này tôi cố dùng câu 4 chữ. Là để dễ tụng. Dẫu rằng như thế có chỗ hơi thừa, có chỗ hơi thiếu, có chỗ phải vụng.

Trí Quang

Tiểu Dẫn

Tiểu dẫn

  • Thủy sám là tên tắt, do chính tác giả dùng trong văn. Tên tắt này gọi đủ là Từ bi thủy sám pháp. Sám pháp, gọi tắt là sám, nghĩa là phương pháp sám hối. Phương pháp này mệnh danh Từ bi thủy, gọi tắt là thủy, nghĩa là nước từ bi. Tại sao mệnh danh như vậy thì bài Tựa có nói rõ.
  • So với bản in thứ nhất, và thứ nhì, bản in thứ ba này chỉ để phần dịch nghĩa, bỏ phần dịch âm.
  • Nguyên văn Thủy sám, mà bản in thứ hai đối chiếu để chữa, nằm trong Đại tạng kinh, quyển 45, các trang 967-978, mang số hiệu 1910.
  • Thủy sám có 2 bản chú thích xưa, vào đời Thanh của Trung hoa, và 1 bản mới. 2 bản xưa, 1 của ngài Trí chứng, 1 của ngài Tây tôn. Cả 2 cùng nằm trong Tục tạng kinh, sách 129, liên tiếp từ tờ 145 đến tờ 263. Còn bản mới là của ngài Đế nhàn, nằm trong Đế nhàn đại sư di tập, trọn tập 10. Trong 3 bản chú thích này, bản trước nhất của ngài Trí chứng, cẩn trọng hơn cả. Sự sửa chữa trong bản in thứ hai đã tham chiếu tất cả tài liệu trên đây.
  • Ký hiệu dẫn dụng sẽ là, thí dụ: Chính 45/967, là trang 967, quyển 45 của Đại tạng kinh bản Đại chính; Vạn 129/145, là tờ 145, sách 129 của Tục tạng kinh bản chữ Vạn.
  • Thủy sám không nêu đại đề tiểu đề, nhưng trong lời văn lại có đủ và rõ. Nay tôi căn cứ lời văn ấy mà nêu đại đề tiểu đề cho dễ nhận. Khi tụng, chỉ tụng những chữ lớn. Mọi chữ nhỏ không tụng. [Ghi chú: ở đây, tụng chữ thường, không tụng đầu đề chữ đậm lớn]
  • Bản chữa và in lần thứ 3 này là định bản về Thủy sám tôi dịch.

Mục Lục

Mục lục

[1]: Lời ghi, Tiểu dẫn, Mục lục, Tựa
[2]: Khai kinh
[3]: Chánh văn

A1. Mở Đầu Sám Hối, có 7B

  • B1. Lý Do Sám Hối
  • B2. Căn Bản Sám Hối
  • B3. Những Điều Sám Hối
  • B4. Phương Tiện Sám Hối
  • B5. Nghĩ Nhớ Tam Bảo Để Sám Hối
  • B6. Cảnh Giác Vô Thường Và Khổ Báo Để Sám Hối
  • B7. Cảnh Giác Tội Lỗi Để Sám Hối

A2. Sám Hối Phiền Não, có 13B

  • B1. Sám Hối Căn Bản Của Phiền Não
  • B2. Sám Hối Tính Chất Qua Danh Nghĩa Của Phiền Não
  • B3. Sám Hối Nhân Duyên Của Phiền Não
  • B4. Lời Nguyện Về Sự Sám Hối Nhân Duyên Của Phiền Não
  • B5. Giá Trị Của Sự Sám Hối
  • B6. Lặp Lại Tâm Tư Để Sám Hối
  • B7. Lặp Lại Cảnh Giác Để Sám Hối
  • B8. Sám Hối Những Phiền Não Nặng Nhất
  • B9 Sám Hối Những Phiền Não Nặng Và Sâu
  • B10. Lời Nguyện Về Sự Sám Hối Những Phiền Não Trên
  • B11. Lạy Phật Và Lặp Lại Tâm Tư Để Sám Hối
  • B12. Sám Hối Sự Chướng Ngại Của Phiền Não
  • B13. Lời Nguyện Và Lạy Phật Về Sự Sám Hối Trên

A3. Sám Hối Ác Nghiệp, có 4B

  • B1. Giải Tọa Nghi Hoặc Bằng Cách Phân Loại Về Nghiệp
  • B2. Sám Hối Tổng Quát Về Ác Nghiệp
  • B3. Lời Nguyện Về Sự Sám Hối Trên
  • B4. Sám Hối Riêng Biệt Về Ác Nghiệp, có 5C
    • C1. Sám Hối 3 Ác Nghiệp Của Thân, có 3D
      • D1. Sám Hối Ác Nghiệp Sát Sinh, có 4Đ
        • Đ1. Lời Nói Đầu (Lý Do Sám Hối Sát Sinh Và Khổ Báo Của Ác Nghiệp Này)
        • Đ2. Nguyên Nhân Và Phương Tiện Của Ác Nghiệp Sát Sinh
        • Đ3. Sám Hối Ác Nghiệp Sát Sinh
        • Đ4. Lời Nguyện Và Lạy Phật Về Sự Sám Hối Trên
      • D2. Sám Hối Ác Nghiệp Trộm Cướp, có 3Đ
        • Đ1. Lời Nói Đầu (Định Nghĩa Trộm Cướp Và Khổ Báo Của Ác Nghiệp Này)
        • Đ2. Sám Hối Ác Nghiệp Trộm Cướp
        • Đ3. Lời Nguyện Về Sự Sám Hối Trên
      • D3. Sám Hối Ác Nghiệp Dâm Dục, có 3Đ
        • Đ1. Lời Nói Đầu (Nỗi Khổ Của Ái Dục Và Khổ Báo Của Ác Nghiệp Dâm Dục)
        • Đ2. Sám Hối Ác Nghiệp Dâm Dục
        • Đ3. Lời Nguyện Về Sự Sám Hối Trên
    • C2. Sám Hối 4 Ác Nghiệp Của Miệng, có 6D
      • D1. Lời Nói Đầu (Khổ Báo Ác Nghiệp Của Miệng)
      • D2. Sám Hối Ác Nghiệp Nói Thô Ác
      • D3. Sám Hối Ác Nghiệp Nói Dối Trá, có 2Đ
        • Đ1. Sám Hối Ác Nghiệp Nói Dối Trá Nặng
        • Đ2. Sám Hối Ác Nghiệp Nói Dối Trá Lớn
      • D4. Sám Hối Ác Nghiệp Nói Thêu Dệt
      • D5. Sám Hối Ác Nghiệp Nói Hai Lưỡi
      • D6. Lời Nguyện Về Sự Sám Hối 4 Ác Nghiệp Của Miệng
    • C3. Sám Hối Ác Nghiệp Của 6 Căn, có 2D
      • D1. Sám Hối Ác Nghiệp Của 6 Căn
      • D2. Lời Nguyện Về Sự Sám Hối Này
    • C4. Sám Hối Ác Nghiệp Đối Với Tam Bảo, có 6D
      • D1. Lời Nói Đầu (Lạy Phật Và Lặp Lại Tâm Tư Để Sám Hối)
      • D2. Sám Hối Ác Nghiệp Đối Với Phật Bảo
      • D3. Sám Hối Ác Nghiệp Đối Với Pháp Bảo có 2Đ
        • Đ1. Sám Hối Ác Nghiệp Vô Ý
        • Đ2. Sám Hối Ác Nghiệp Cố Ý,
      • D4. Sám Hối Ác Nghiệp Đối Với Tăng Bảo
      • D5. Sám Hối Ác Nghiệp Đối Với Cả Tam Bảo
      • D6. Lời Nguyện Về Sự Sám Hối Ác Nghiệp Đối Với Tam Bảo
    • C5. Sám Hối Ác Nghiệp Phức Tạp, có 10D
      • D1. Lời Nói Đầu (Tàm Quí Để Sám Hối)
      • D2. Sám Hối Ác Nghiệp Mê Tín
      • D3. Sám Hối Ác Nghiệp Ngạo Ngược
      • D4. Sám Hối Ác Nghiệp Nhậu Nhẹt
      • D5. Sám Hối Ác Nghiệp Tự Thị
      • D6. Sám Hối Ác Nghiệp Buôn Lường
      • D7. Sám Hối Ác Nghiệp Tàn Nhẫn
      • D8. Sám Hối Ác Nghiệp Phóng Túng
      • D9. Sám Hối Tổng Quát Về Các Ác Nghiệp
      • D10. Lời Nguyện Và Lạy Phật Về Sự Sám Hối Trên

A4. Sám Hối Khổ Báo, có 4B

    • B1. Lời Nói Đầu, có 4C
      • C1. Quả Báo Khó Tránh Nhưng Sám Hối Trừ Được
      • C2. Cảnh Giác Sự Chết Và Khổ Báo
      • C3. Cảnh Giác Vô Thường
      • C4. Cảnh Giác Luân Hồi Khổ Báo
    • B2. Sám Hối Khổ Báo Địa Ngục, có 3C
      • C1. Sám Hối Khổ Báo Địa Ngục A Tì
      • C2. Sám Hối Khổ Báo Các Địa Ngục Khác
      • C3. Lời Nguyện Và Lạy Phật Về Sự Sám Hối Khổ Báo Địa Ngục
    • B3. Sám Hối Khổ Báo 3 Ác Đạo Khác, có 5C
      • C1. Lời Nói Đầu (Cảnh Giác Kẻ Chỉ Lo Hiện Tại Mà Không Biết Lo Tương Lai)
      • C2. Sám Hối Khổ Báo Súc Sinh
      • C3. Sám Hối Khổ Báo Ngạ Quỉ
      • C4. Sám Hối Khổ Báo Quỉ Thần
      • C5. Lời Nguyện Về Sự Sám Hối Khổ Báo Của 3 Ác Đạo
    • B4. Sám Hối Dư Báo Nhân Gian, có 2C
      • C1. Lời Nói Đầu (Mọi Sự Trái Ý Đều Là Dư Báo)
      • C2. Sám Hối Dư Báo Nhân Gian

A5. Phát Nguyện Hồi Hướng, có 3B

    • B1. Tổng Kết Hồi Hướng
    • B2. Phát Nguyện Đặc Biệt
    • B4. Phát Nguyện Đồng Nhất

III. HỒI HƯỚNG


Tựa

Tựa (1)

Thiết nghĩ, ngoài thánh điển kinh luật luận được phiên dịch mà có, những tác phẩm của các ngài tiếp theo sau đó thì không thứ nào được viết ra mà không có chỗ sở cảm. Điều đó, nếu nhất nhất nêu lên thì khó mà ghi lại cho hết. Nhưng, ngay như bản linh văn này mà mệnh danh Thủy sám, là vì nguyên do mà tôi xin kể lại sau đây.

Xưa kia, đời Đường, triều vua Ý tông, có ngài Ngộ đạt quốc sư, pháp danh Tri huyền. Khi chưa là quốc sư, tại kinh đô, tình cờ ngài gặp một tăng nhân, nhưng quên hỏi chỗ ở của vị này. Vị này bị bịnh ca ma la (2) . Ai cũng gớm, chỉ ngài Tri huyền gần gũi, luôn luôn thăm hỏi săn sóc, chưa bao giờ có một vẻ ghê chán. Vì vậy, khi chia tay, vị ấy cảm cái nghĩa và tác phong của ngài, dặn rằng, sau này ngài sẽ bị nạn, lúc đó hãy tìm nhau tại núi Trà lũng (3) ở Bành thành, thuộc Tây Thục, chỗ có hai cây tùng làm dấu.

Sau đó, ngài Ngộ đạt đến chùa An quốc, đạo đức rực rỡ. Ý tông thân hành đến pháp tịch của ngài, ban pháp tọa bằng gỗ trầm hương và cung phụng rất hậu. Nhưng cũng từ đó, đầu gối của ngài tự nhiên mọc cái mụt “mặt người”, mắt mày răng miệng đủ cả, thỉnh thoảng đút cho đồ ăn thức uống thì cũng há miệng nuốt như người vậy. Danh y mời đủ cả mà ai cũng bó tay.

Ngài nhớ lại lời dặn của vị tăng nhân ở chung ngày trước, nên vào núi tìm. Nhằm lúc trời đã chiều tối, ngài bàng hoàng nhìn khắp bốn phía, thấy hai cây tùng ở trong chỗ mây khói. Tin lời ước hẹn là đúng, ngài bước ngay đến chỗ ấy. Thì là lầu cao, điện lớn, ánh sáng vàng và ngọc giao xen với nhau. Vị tăng nhân đã đứng đầu cửa, đón tiếp niềm nở, và mời ngài ngủ lại. Ngài đem cái khổ của mình nói với tăng nhân thì vị này bảo không hại gì, dưới núi này có một con suối, sáng ngày xuống rửa là khỏi.

Sáng sớm, đạo đồng dẫn ngài xuống suối, mới vốc nước, mụt ghẻ mặt người đã kêu lớn lên, khoan rửa đã, ngài là kẻ biết nhiều, hiểu rộng, đọc hết cổ kim, vậy mà ngài đã đọc cái chuyện Viên Án với Triệu Thố trong Tây Hán thư chưa? Đọc rồi, ngài Ngộ đạt trả lời. Cái mụt lại bảo, đọc rồi mà ngài không biết Viên Án đã giết Triệu Thố sao? Ngài là Viên Án, còn Triệu Thố là tôi đây. Triệu Thố bị chém ngang lưng ở chợ phía đông, oan khốc đến mức nào. Nên bao đời tôi đã tìm cách báo ngài. Nhưng ngài mười đời đều làm cao tăng, giới luật nghiêm tịnh, sự báo oán của tôi không có cơ hội. Nay ngài hưởng sự đãi ngộ của vua chúa quá xa xỉ, lòng danh lợi mống lên, cái đức có phần thương tổn, tôi mới hại ngài được. Ngày nay, mong ơn tôn giả Ca nặc rửa cho tôi bằng nước “từ bi tam muội”, từ nay sắp đi, tôi không còn là kẻ oan gia của ngài nữa.

Ngộ đạt quốc sư nghe mà cơ hồ hồn phách thoát khỏi cơ thể, luôn tay vốc nước mà rửa, đau thấu xương tủy, ngất đi hồi lâu mới tỉnh. Coi lại thì mụt ghẻ mặt người đã không còn nữa. Ngộ đạt quốc sư mới biết các vị hiền thánh xen lẫn dấu vết trong dân gian là điều mà người phàm khó lường biết nổi. Muốn trở lại chiêm bái, nhưng ngoái nhìn thì tự viện đã không còn. Vì vậy, Ngộ đạt quốc sư mới dựng thảo am ngay nơi chỗ ấy, và sau này thành một tự viện. Tống triều ta đây, niên hiệu Chí đạo, sắc tứ là Chí đức thiền tự, có vị cao tăng tên Tín, húy Cổ, viết bài ký sự ghi lại việc này rất rõ.

Ngộ đạt quốc sư, lúc ấy, cảm kích sự kỳ lạ của Ca nặc tôn giả, thấm thía rằng oan trái nhiều kiếp phi gặp thánh nhân không làm sao cởi mở cho được. Nhân đó mà thuật lời thánh giáo, viết ra sám văn này, để hôm sớm lễ bái trì tụng, và sau đó đã phổ biến khắp cả nhân gian. Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám, là Ngộ đạt quốc sư cảm sự kỳ lạ của Ca nặc tôn giả, nên chính xác cái tên và nêu lên cái nghĩa như thế để báo đáp ơn ngài. Nay kể rõ sự thật từ ngày xưa, nêu cao cống hiến của người trước, là mong những kẻ sau này, hoặc lễ bái hoặc trì tụng, hễ dở sám văn ra là đã biết sự tích người xưa vốn có lý do, và nhân quả nhiều đời vẫn không khuất mờ.

| (1) Lời ghi - Tiểu dẫn - Mục Lục - Tựa | 
| (2) Khai Kinh | (3) Chánh Văn | (4) Hoàn Kinh |

KINH ĐỊA TẠNG – Thượng nhân Thích Trí Quang dịch giải

Dịch từ hán văn: Tỷ Kheo Thích Trí Quang

| Mở Đầu | Chánh Văn | Ghi chú |         

MỞ ĐẦU

I. Dẫn Nhập
II. Địa Tạng Đại Sĩ
III. Nghi Thức Sám Nguyện Đơn Giản

I. Dẫn Nhập

Ghi Sau Khi Duyệt Địa Tạng

Nếu nói vì sự dấn thân mà được Phật đem chúng ta ký thác, thì đó là sự đặc thù của đức Địa tạng mà Phật tử thì phải học tập.

Đời Phật có 2 vị đại sĩ quan trọng. Một là đức Từ thị, sẽ thay Phật làm Phật. Hai là đức Địa tạng, thay Phật mà gánh vác chúng sinh.

Địa tạng đề cao niệm Phật và bất sát, và xếp vào loại bất khả tư nghị cái phước giúp người già, người bịnh và sản phụ. Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài, và cái phước là làm theo giáo huấn ấy.

Địa tạng nói đến quỉ thần. Quỉ thần thật thì không đáng nói lắm. Hãy nói quỉ thần hình người mặt người. Quỉ thần ác có thiện có. Nhưng con người đa số ác nên quỉ thần ác lộng hành. Vậy đối phó với quỉ thần ác thì phải đừng ác.

Phật giáo có cái thuyết tam tai – Tam tai là 3 tai nạn đao binh, tật dịch và cơ cẩn, mà tôi đã dịch là chiến tranh, nhiễm độc và nhân mãn. Đó là 3 điều đang là mối lo lớn nhất cho cả thế giới. Trước đây không lâu thì chiến tranh hạt nhân là mối lo lớn nhất, nhưng hiện nay thì mối lo lớn nhất là ô nhiễm môi trường và bùng nổ dân số. Mối lo ô nhiễm môi trường lại có những mối lo liên hệ mà vi khuẩn HIV chỉ là một. Phật giáo không nói tận thế như các tôn giáo khác, nhưng mô tả tam tai thì thật kinh hoàng. Và nói về Địa tạng đại sĩ thì tam tai được nói đến còn hơn nói đến ngũ trược.

Mồng 8 tháng tư, 2537
Trí Quang

*

Thứ Nhất, Tiểu Dẫn Về Tài Liệu

1. Kinh này dịch và in năm 2514 (1970) một cách bình thường. Nay được chữa lại khá kỹ dẫu không còn để phần dịch âm.

2. Tài liệu được sử dụng là Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu (ký hiệu là Chính) và Tục tạng kinh bản chữ Vạn (ký hiệu là Vạn).

3. Nguyên bản căn cứ để chữa là Chính 13/777 – 790. Nguyên bản này không chia 3 cuốn mà chia 2 cuốn thượng hạ. Bản in riêng của Phật giáo Trung hoa cũng được sử dụng. Địa tạng khoa chú (Vạn 35/197-336) lại càng được tham chiếu.

4. Quan trọng đến nỗi không thể thiếu được trong việc tìm hiểu về đức Địa tạng là kinh Thập luân (Chính 13/721-777). Bản dịch trước của kinh này (Chính 13/681-721) và kinh Chiêm sát (Chính 17/901-910) cũng được tham khảo.

5. Tài liệu để soạn nghi thức sám nguyện là Tán lễ Địa tạng bồ tát sám nguyện nghi (Vạn 129/68-71), nhưng kinh Thập luân vẫn là tài liệu chính.

Thứ Hai, Tìm Xét Về Dịch Chủ

Về dịch giả kinh Địa tạng, có thể có 3 thuyết. Thứ nhất, tôi nhớ khi nhỏ có thấy 1 bản ghi ngài Pháp cự dịch. Thứ hai, 1 bản dịch ghi là ngài Pháp đăng. Thứ ba, nhiều bản ghi là ngài Thật xoa nan đà.

Về ngài Pháp cự, niên đại dịch kinh là 290-306 (Chính 98/678). Xuất xứ này cũng ghi dịch phẩm của ngài, như những xuất xứ khác. Trong những dịch phẩm được ghi, không có kinh Địa tạng. Nhưng trong Chính 49/61, cũng như mấy xuất xứ nữa, ghi dịch phẩm của ngài có 132 bộ 142 cuốn ẫ mà không bản mục lục nào ghi được đầy đủ. Như vậy không rõ trong đó có kinh Địa tạng mà thất lạc, hay không?

Về ngài Pháp đăng, không thể tìm thấy tên, nên không thể nói gì được.

Về ngài Thật xoa nan đà, niên đại dịch kinh là 695-704 (Chính 98/668). Có đến 5 xuất xứ ghi ngài là dịch giả kinh Địa tạng: Chính 13/777, Vạn 35/220A, Chính 99/346, Chính 99/376, và Chính 100/1010.

Phần tôi, sau khi tra cứu gần hết sử truyện và mục lục, ghi lại như trên đây. Nhưng thấy vấn đề dịch giả kinh Địa tạng vẫn bất ổn. Tôi lại không có 1 bản giảng giải mới nào, nên không biết có sự tra cứu nào đáng kể không. Riêng ngài Thái hư thì cũng cho dịch giả kinh Địa tạng là ngài Thật xoa nan đà (Thái hư toàn thư, 29/2470).

Thứ Ba, Khái Lược Về Nội Dung

Như vừa nói, nguyên bản kinh này chia 2 cuốn: cuốn thượng có các phẩm 1-6, cuốn hạ có các phẩm 7-13. Xét ra chia như vậy mới có nghĩa. Chia 3 cuốn thượng trung hạ chỉ để trì tụng cho thích hợp thì gian mà thôi. Kinh này cốt nói đại nguyện đại lực của Địa tạng đại sĩ. Cuốn thượng kể như là phần chính thuyết, nói đại lược đã đủ, và cuối phẩm 6 đã kết thúc bằng sự đặt tên kinh. Còn cuốn hạ kể như là phần bổ túc, bổ túc một số chi tiết. Nay tóm lược tất cả dưới đây.

Phần Chính Thuyết

Phẩm 1: Thần thông tại cung Đao lợi.- Sát với chính văn thì phải dịch là thần thông tại cung trời Đao lợi. Cung trời Đao lợi là Thiện pháp đường, tức giảng đường của Đế thích, và là chỗ Phật thuyết pháp cho mẹ, trong pháp được thuyết có kinh Địa tạng. Thần thông là đại bộ phận của thần lực và nhiều lúc cũng gọi là thần lực. Vã lại chữ thần lực đủ và sát với phẩm này, nên phải đổi ra. Xét thần lực của phẩm này nói thì thấy có 3. Một, thần lực không nói mà thấy rõ, đó là biến cung Đao lợi vốn rất lớn và trang nghiêm lại càng lớn và trang nghiêm vô tận (như Bồ đề tràng trong Hoa nghiêm). Hai, thần lực ánh sáng và âm thanh mà Phật biểu hiện ở cung Đao lợi (như phóng quang và thần lực trong Pháp hoa). Ba, thần lực hóa độ và tác thành của đức Địa tạng mà tại cung Đao lợi Phật đã đề cao. Chính yếu của phẩm này là 2 thần lực sau. Ngoài 3 thần lực này, phẩm này cốt nói đại nguyện của đức Địa tạng, đại nguyện ấy cũng là một thần lực, mà là thần lực quan trọng.

Phẩm 2: Thân phân hóa qui tụ lại.- Phân thân là phương tiện quan trọng nhất trong những phương tiện mà đức Địa tạng đã vận dụng để giải thoát cho bao kẻ tội khổ như đại nguyện mà phẩm 1 đã nói. Cũng chính vì đại nguyện nghiêng nặng về bao kẻ tội khổ, nên phân thân mà phẩm này nói đã nhấn mạnh phân thân ở địa ngục. Nhưng phân thân của đức Địa tạng, theo kinh Thập luân thì đếm được 42 loại (Chính 13/725), còn kinh này có 20 loại, của Phật nhưng là điển hình cho các vị đại sĩ. Phân thân như vậy có 2 loại lớn là hữu tình và vô tình. Trong loại vô tình, kinh Thập luân chỉ nói” hiện những cảnh đẹp cho người vui thích”, còn kinh này nói rõ hơn: hiện ra làm núi rừng, dòng nước, đồng bằng, sông ngòi, ao hồ, suối giếng. Nói rõ mà không đủ, vì ngoài núi rừng và đồng bằng, chỉ nói toàn nước — Nói như vậy cũng không lạ, nếu ta biết đến vấn đề nước ở cái xứ nóng như Ấn độ. Nhưng phải nói như chính đức Địa tạng đã nói mới rõ và đủ hơn, dầu vắn tắt hơn, rằng thân đức Địa tạng là thân không biên cương, rằng tại mỗi thế giới hệ, ngài phân hóa trăm ngàn vạn ức thân hình. Và phân hóa thân hình là để thuyết pháp. Nhưng thuyết pháp ở đây không phải chỉ có một cách nói bằng lời, mà nói bằng nhiều cách: cách nào mà lợi người là thuyết pháp cả. Nên cảnh vật làm người vui thích, làm người được ích lợi, thì đó chính là sự thuyết pháp, là sự độ thoát. Đừng hiểu rằng hiện cảnh vật ích lợi mọi người để rồi sau đó thuyết pháp độ thoát cho họ. Mặt khác, vì đại nguyện và sự phân thân như vậy, nên trong phẩm này đức Địa tạng được đức Thế tôn đem chúng sinh, trong đó có chúng ta, ký thác cho ngài.

Phẩm 3: Quán sát nghiệp quả chúng sinh.- Nghiệp quả, hay nghiệp cảm, là hành vi và kết quả của hành vi. Nói quán sát nghiệp quả của chúng sinh, nhưng thật ra phẩm này lấy người Diêm phù chúng ta làm điển hình mà nói. Vì đại nguyện của đức Địa tạng chú trọng chúng sinh tội khổ, nên phân thân của ngài đã nhấn mạnh phân thân địa ngục, và bây giờ nói quán sát nghiệp quả, nhưng thật ra chỉ quán sát nghiệp quả địa ngục  đặc biệt địa ngục vô gián, nơi nghiệp dữ nhất và quả khổ nhất. Điều rất đáng tiếc là trong phần nói về nghiệp dữ nhất ấy đã không nói đến nghiệp dữ hơn hết, ấy là những chủ thuyết độc hại nhân loại mà chữ tà kiến hay ác kiến không diễn đạt hết được. Phản bội Phật pháp, đi theo các chủ thuyết ấy, cũng là nghiệp dữ nhất mà kinh này đã không nói đến.

Phẩm 4: Nghiệp quả của người Diêm phù.- Phẩm này tiếp tục phẩm trước, lấy người Diêm phù chúng ta làm điển hình mà nói về nghiệp quả của chúng sinh, nhưng nói rộng hơn: Một, về nghiệp quả, không phải chỉ nói nghiệp quả vô gián, nhưng vẫn chú trọng nghiệp quả đường dữ. Hai, nói về đại thệ (lời thề thực hiện đại nguyện) của đức Địa tạng. Ba, nói về cách giải thoát nghiệp quả cho chúng sinh của đức Địa tạng; trong cách này, ở đây đưa ra cách nói về nhân quả, nhưng chữ nói ấy không phải chỉ là nói, khuyên và răn, mà là nói bằng sự “vận dụng hàng trăm hàng ngàn phương tiện”. Hai phần đại thệ và cách nói như vậy là vài phương tiện của đức Địa Tạng.

Phẩm 5: Danh xưng địa ngục.- Danh xưng địa ngục là tên của các địa ngục. Chính tên của mỗi địa ngục biểu thị hình cụ và cực hình của địa ngục ấy. Phẩm này chỉ bổ túc cho phẩm 4, nói về các địa ngục, nơi nghiệp dữ phải chịu quả báo, sau khi chịu hoa báo và trước khi chịu dư báo. Nhưng đến đây, sau 3 phẩm 3, 4 và 5 nói về nghiệp quả, những điểm chính yếu sau đây phải được nhận rõ: địa ngục thật khổ, và ai làm nghiệp dữ thì người ấy tự chịu, chứ không ai có thể chịu thay cho; như vậy địa ngục là thật, nếu thật có nghiệp dữ; nhưng cũng không thật, nếu nghiệp dữ không có hay có mà được trừ bỏ; sự trừ bỏ cũng vẫn có thể hy vọng, nếu biết qui y đức Địa tạng và làm theo kinh này chỉ dẫn; và đức Địa tạng trừ bỏ cứu vớt cho cũng không phải chỉ trừ bỏ cứu vớt nơi cái nhân mà còn ngay nơi cái quả: Đó là sự đặc biệt, bất khả tư nghị của đức Địa tạng và kinh Địa tạng.

Phẩm 6: Thế tôn tuyên dương.- Các phẩm trước đã nói về thệ nguyện, phương tiện và sở độ của đức Địa tạng, phẩm này nói về sự ích lợi nhân thiên của ngài. Ích lợi nhân thiên là đem lại cho nhân thiên và mọi loài sự ích lợi mà phần chính là ở chính trong nhân thiên. Sự ích lợi ấy gọi là sự yên vui tuyệt diệu (thắng diệu lạc). Sự ích lợi ấy ích lợi cả nhân và quả, cả hiện tại và vị lai. Ích lợi này còn được nói đến trong phẩm 12 và rải rác ở các phẩm khác. Và, như đã nói, đến đây kể như đã lược đủ về đại nguyện và đại lực của đức Địa tạng, nên Phật đặt tên cho kinh này, tên ấy biểu thị đại nguyện và đại lực đã nói.

Phần Bổ Túc

Phẩm 7: Lợi ích người còn kẻ mất.- Phẩm này bổ túc cho chi tiết ích lợi kẻ mất: làm cách nào để kẻ mất được ích lợi mà người còn cũng được. Trong cách ấy, hại nhất cho kẻ mất, cái hại phải cố mà tránh, ấy là sự sát sinh cúng tế.

Phẩm 8: Chúa tôi Diêm la xưng tụng.- Diêm la là Diêm la thiên tử, cũng gọi là Diêm vương, thuộc loài quỷ, thống lãnh quỉ chúng và tổng quản địa ngục. Phẩm này bổ túc những chi tiết sau đây: Thứ nhất, bổ túc sự đại tinh tiến, cứu độ không chán mệt của đại nguyện đức Địa tạng. Thứ hai, bổ túc uy thần của đức Địa tạng đối với thế giới quỉ — thế giới rất mạnh và đa dạng, mạnh nên gây họa mạnh bao nhiêu thì giúp phước cũng mạnh bấy nhiêu, khi có uy thần của đức Địa tạng. Thứ ba, bổ túc ích lợi khi chết, nhất là lúc sinh. Trong chi tiết này có vài chi tiết nhỏ: Một, lúc sinh không được sát sinh tiệc tùng (phẩm trước mới nói khi chết không được sát sinh cúng tế); còn khi chết thì phẩm này nói đến một trong những cái gọi là “cách ấm mê”: sự bị mê hoặc dẫn dụ khi chết. Hai, chúa quỉ Chủ sinh mạng, vị bổ túc chi tiết thứ ba này được Phật gọi là một vị đại bồ tát và thọ ký cho: quan trọng biết bao. Điều cần phải đặc biệt nói thêm, là kinh này hết sức răn việc sát sinh (để cúng tế khi chết và tiệc tùng lúc sinh), coi việc sát sinh cùng loại với tội vô gián (chính văn : … ngoại trừ 5 thứ nghiệp dữ vô gián với nghiệp dữ sát sinh, còn những nghiệp dữ tương đối nhỏ hơn…).

Phẩm 9: Xưng tụng danh hiệu chư Phật.- Phẩm này bổ túc chi tiết nghe hay niệm danh hiệu Phật đà. Điều cần ghi chú, là mục đích bổ túc, cũng như lời kết thúc, tuy có vẻ nhấn mạnh giành cho sự chết — sắp chết, chết, sau khi chết; nhưng, những hiệu năng của mỗi hiệu Phật được nói đến lại không phải chỉ như vậy. Vậy mới biết, khi sắp chết, cái an ủi người chết, cái để cho người chết bám víu là danh hiệu của Phật, nhưng danh hiệu ấy cũng là, trước hết đã là, cái cho người sống bám víu, và từ đó thấy rõ cái phước được biết Phật và được niệm Phật cần thiết đến mức nào trong đời sống.

Phẩm 10: Trắc lượng công đức bố thí.- Phẩm này bổ túc nhân tố thánh thiện, đặc biệt còn chỉ cách biến nhân tố ấy từ hữu lậu thành vô lậu.

Phẩm 11: Thần đất hộ trì.- Phẩm này bổ túc chi tiết phụng thờ đức Địa tạng. Cách thức và ích lợi của sự phụng thờ ấy, phẩm này nói rõ. Trong phần ích lợi, sự đất đai được màu mỡ (thứ 1) và hay gặp dịp làm phước (thứ 10) đã đáng chú ý, nhưng đáng chú ý hơn nữa là ở phẩm này người nói về đức Địa tạng là một vị Địa thần: 2 chữ Địa như vậy không phải ngẫu nhiên mà trùng hợp.

Phẩm 12: Ích lợi của sự thấy nghe.- Thấy nghe là thấy hình tượng hay nghe danh hiệu của đức Địa tạng. Ích lợi của sự thấy nghe như vậy là bổ túc cho sự ích lợi nhân thiên của đức Địa tạng. Trước khi nói ích lợi ấy, Phật phóng ánh sáng đặc biệt, và vị phát khởi là chính đức Quan âm: như thế cũng đủ thấy sự ích lợi ấy bất khả tư nghị đến mức nào. Nên sự ích lợi nhân thiên chính là sự bất khả tư nghị: siêu việt và khác thường, tư tưởng và ngôn ngữ bình thường không thể tư duy và mô tả sự ích lợi ấy, nhất là tư duy mô tả theo cách thức bình thường.

Phẩm 13: Thế tôn ký thác.- Chính văn là chúc lụy nhân thiên: đem nhân loại và chư thiên, và bao chúng sinh tội khổ mà chúc lụy. Chúc, hay phó chúc, là giao phó, căn dặn. Lụy là mối lụy, trách nhiệm nặng nề. Chúc lụy là căn dặn mà giao phó trách nhiệm nặng nề. Nên tôi đổi ra chữ ký thác cho dễ hiểu. Nội dung phẩm này tổng kết sự ích lợi bất khả tư nghị của đức Địa tạng, nhưng quan trọng nhất là một lần nữa Phật lại đem chúng ta và chúng sinh ký thác cho ngài. Sự ký thác này thật đặc biệt: một là chỉ ký thác cho ngài, hai là chỉ kinh này có sự ký thác như vậy. Ngay như kinh Pháp hoa, sự ký thác ở đó cũng không như ở đây.

*

II. Địa Tạng Đại Sĩ

Tài liệu ghi về đại sĩ dưới đây toàn xuất từ kinh Thập luân. Cách ghi thì phần nhiều lược văn mà không lược ý, nhưng cũng có chỗ dẫn dụng chính văn. Chỗ nào dẫn kinh điển khác thì ghi tên rõ ràng.

1. Danh hiệu của đức Địa tạng.- Theo nghĩa đen, địa là đất, tạng là kho tàng: kho tàng đất, gọi là Địa tạng. Nếu đọc Địa tàng thì lại có nghĩa sự tàng trữ của đất. Nhưng nghĩa chính thì nên lấy cách đọc Địa tạng. Đại nhật kinh sớ nói Điạ tạng bồ tát chủ trì kho báu vô biên công đức phát khởi từ bản tánh của tâm địa. Định nghĩa này biến thành định nghĩa mà khoa nghi thường nói “khể thủ bản nhiên tịnh tâm địa, vô tận phật tạng đại từ tôn”. Còn 1 bài tựa của Địa tạng khoa chú (Vạn 35/206A) dẫn lời Phật nói dũng mãnh là Địa tạng. Lời này không thấy ghi xuất xứ, nhưng rất đúng với đại thệ nguyện và đại tinh tiến của đức Điạ tạng phân thân vào trong các đường dữ, nhất là vào trong địa ngục. Còn kinh Thập luân, khi tả đức tính của ngài về lục độ, có nói nhẫn thì vững như cõi đất to lớn, định thì sâu như kho tàng bí mật. Lời này thành định nghĩa của Phật học đại từ điển. Thế nhưng các định nghĩa ấy không bằng chính văn sau đây. “Vị đại sĩ này, bằng định lực, làm cho tất cả trái hạt phong phú. Tại sao, vì vị đại sĩ này đã qua vô số kiếp, nơi vô số Phật, phát cái nguyện cực kỳ tinh tiến và kiên cố; do năng lực của nguyện ấy, để hóa độ chúng sinh, ngài giữ gìn tất cả đất đai và mầm giống cho chúng sinh tùy ý hưởng dụng. Chính năng lực của ngài đã làm cho cả cõi đất to lớn này cỏ cây rau lá sinh trưởng tốt tươi, thóc lúa hoa quả đầy đủ chất lượng”. Lời này cho thấy Địa tạng là kho đất, là nghĩa đen thật sự. Và việc này rất liên hê đến sự tồn tại của Phật pháp, liên hệ một cách đặc biệt. “Địa tạng đại sĩ bạch đức Thế tôn, con nguyện tế độ tất cả bốn chúng đệ tử của đức Thế tôn. Con làm tăng trưởng hết thảy bạch pháp giải thoát, tăng trưởng cây trái thực phẩm và dược liệu, tăng trưởng đất nước gió lửa, nói tóm, con làm cho dòng giống Tam bảo trường tồn, rực rỡ và uy đức … Đức Thế tôn nói, Địa tạng đại sĩ làm được như vậy là vì đại sĩ đã được tuệ giác Bát nhã sâu xa, nắm chắc tính chất đối kháng và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình sinh diệt của đất nước gió lửa”.

Tư tưởng hệ Phật giáo về con người và thế giới con người không phải chỉ có một mặt: có mặt do phước báo mà có, đó là nhân quả dị thục; có mặt do nhân lực mới thành, đó là nhân quả sĩ dụng; nhưng còn mặt nữa, đó là thần lực của chư Phật chư đại bồ tát. Thần lực ấy thấy rõ nhất nơi Địa tạng đại sĩ, nên trong kinh đã dẫn, đức Thế tôn đề cao như sau, “giả sử có người đối với vô số đại bồ tát trì niệm và hiến cúng cả trăm kiếp, không bằng có người trong thì gian một bữa ăn chí tâm qui y, lễ bái, trì niệm và hiến cúng Địa tạng, vị đại sĩ có đại bi nguyện và đại tinh tiến quá hơn các vị bồ tát”.

Đến đây thì đã thấy khi xưng niệm ngài, nên thay những chữ thừa mà thiếu là đại bi đại nguyện đại thánh đại từ bằng những chữ đại bi đại nguyện đại định đại lực, đã thấy ngài là vị minh dương cứu khổ chứ không phải chỉ là u minh giáo chủ, đã thấy trì niệm ngài không phải chỉ để cầu siêu. Những điều này, dưới đây sẽ còn thấy rõ hơn nữa.

Trên đây là định nghĩa chính về danh hiệu của Địa tạng đại sĩ. Phần tôi, căn cứ tinh thần kinh Địa tạng, nhất là căn cứ câu “tất cả thân hình của Điạ tạng đại sĩ phân hóa tại các địa ngục của các thế giới hệ” trong phẩm 2, tôi lại muốn định nghĩa đơn giản, rằng Địa tạng là tàng hình trong điạ ngục. Tôi nói muốn định nghĩa như vậy, không nói đó là định nghĩa. Tuy nhiên, tôi thấy như vậy lại rất thâm thiết đối với hạnh nguyện của Địa tạng đại sĩ. Sau này có dịp được thấy Thái hư đại sư đã có ý kiến đó (Thái hư toàn thư tập 29 trang 2468).

2. Hình tượng của đức Địa tạng.- Địa tạng đại sĩ đến với Phật từ phương nam, bằng hình tướng Thanh văn, tức hình tướng xuất gia. Hình tướng ấy vừa tiêu biểu vừa hộ trì cho Tăng bảo và sự giải thoát của toàn bộ Phật pháp. Thị hiện hình tướng ấy, có nghĩa như Phật nói, “chỉ có chư Phật thế tôn và bồ tát đại sĩ mới hộ trì được 2 việc: hộ trì người xuất gia vì muốn tiếp nối dòng giống Tam bảo và hộ trì chánh pháp thuận với sự giải thoát của cả Tam thừa. Thế quyền không làm được việc ấy; đừng rình sơ hở mà hại đệ tử và chánh pháp của ta”.

Quốc độ này Tăng bảo là người xuất gia. Muốn làm cho Phật pháp tồn tại thì phải ái hộ người xuất gia. Ái hộ người xuất gia, trước hết và căn bản, là ái hộ giới pháp. “Người xuất gia dẫu tàn tệ đến nỗi chỉ là cái thây chết phá giới, không giới, sẽ đọa ác đạo, nhưng vẫn làm thiện tri thức cho nhân thiên ở chỗ có thể tuyên thuyết Phật pháp cho họ, lại vì có hình tướng và uy nghi của người xuất gia nên làm cho mọi người phát sinh cảm nghĩ quí báu”. Do đó, Phật không chấp nhận họ là đệ tử, nhưng cũng không chấp nhận thế quyền xúc phạm đến họ. Phật chỉ chấp nhận sự trừng trị theo giới luật của Tăng chúng thanh tịnh.

Ái hộ người xuất gia là, kế đó, ái hộ sự giải thoát và chánh pháp đem lại sự giải thoát ấy. Chánh pháp giải thoát là cọng tướng của toàn bộ Phật pháp gồm cả thanh văn tiểu thừa và vô thượng đại thừa, tuy nhiên, chánh pháp ấy căn bản vẫn là thanh văn tiểu thừa. “Như vậy những kẻ tự xưng đại thừa, khinh miệt và cản trở sự truyền bá tiểu thừa, những kẻ không tin, phỉ báng và cản trở cả tiểu thừa đại thừa, tất cả những kẻ này không được xuất gia, xuất gia rồi phải đuổi gấp, vì họ mới thật là kẻ đại tội ác gần với tội ác vô gián”. “Đừng vì lợi và danh mà lừa đảo thế gian, tự xưng đại thừa, phỉ báng tiểu thừa. Làm như vậy thì họ không còn là đồ chứa đựng chánh pháp, dầu là chánh pháp tiểu thừa hay chánh pháp đại thừa”. Nên đối với những kẻ phá hoại này Phật nghiêm khắc hơn cả với kẻ phá giới. Ngài đã biết trước và dạy thi hành sự bất cọng trú đối với họ: “Tăng chúng thanh tịnh và hòa hợp trục xuất rồi mà họ dùng tiền của, học thức, khéo miệng và mưu mô, làm cho thế quyền đứng về phía họ, buộc Tăng chúng thanh tịnh phải để họ ở chung như cũ, thì trong Tăng chúng những vị tỷ kheo giữ giới và hổ thẹn, hãy vì hộ trì giới pháp mà trình bày rõ ràng với thế quyền, đừng giận dữ thóa mạ những kẻ phá pháp ấy. Nếu thấy trình bày mà bị đàn áp, thì nên bỏ chỗ ấy mà đi ở chỗ khác”.

Ái hộ người xuất gia không phải chỉ ái hộ giới luật thanh tịnh và chánh pháp giải thoát, Địa tạng đại sĩ còn ái hộ bằng sự làm tăng thêm tư cụ để người xuất gia sống mà giữ giới, mà tu bạch pháp giải thoát, mà, nói tóm, tiếp nối dòng giống Tam bảo. Nên như đã thấy, “Địa tạng đại sĩ bạch đức Thế tôn, con nguyên tế độ tất cả 4 chúng đệ tự của đức Thế tôn. Con làm tăng trưởng hết thảy bạch pháp giải thoát, tăng trưởng cây trái thực phẩm và dược liêu, tăng trưởng đất nước gió lửa, nói tóm, con làm cho dòng giống Tam bảo trường tồn, rực rỡ và uy đức”.

Với sự tiêu biểu và hộ trì người xuất gia như trên đây, hình tướng xuất gia của đức Địa tạng đã thành vấn đề, và là vấn đề trọng đại, là phải.

3. Đại nguyện của đức Địa tạng.- Kinh đã dẫn tả đại nguyên này bằng những từ ngữ như sau. “Vị đại sĩ này có vô số những sự bất khả tư nghị, ích lợi chúng sinh một cách cần mẫn tinh tiến, là vì đối trước hằng sa chư Phật, để ích lợi chúng sinh, ngài đã phát khởi thệ nguyện đại từ bi, rất kiên cố, khó phá hoại, rất dũng mãnh, rất tinh tiến và vô cùng tận; do năng lực tăng thượng của thệ nguyện ấy mà trong mỗi thì gian bằng một ngày đêm hay một bữa ăn, ngài cứu độ được vô lượng chúng sinh, làm cho những sở cầu đúng như chánh pháp của họ đều thỏa mãn cả”.

4. Phân thân của đức Địa tạng.- Kinh đã dẫn nói, “Vị đại sĩ này, bằng vào những sự bất khả tư nghị đã hoàn thành, vào sự dũng mãnh tinh tiến của thệ nguyện kiến cố, để cứu độ chúng sinh, khắp trong thế giới hệ mười phương, ngài thị hiện đủ mọi thân hình”. Thân hình mà ngài thị hiện, không những đủ loài, đủ hạng trong mỗi loài, đủ từ thân Phật đà đến thân địa ngục, mà quan trọng và đặc biệt, còn “hiện những cảnh đẹp cho người vui thích”. Nhưng câu này phải nói như kinh Địa tạng mới rõ: thân của Địa tạng đại sĩ là thân không biên cương. Phẩm 2 của kinh ấy nói về sự phân thân của Phật, điển hình cho sự phân thân của chư Phật và đại bồ tát, lại nói, “hoặc hiện rừng núi, dòng nước, đồng bằng, sông ngòi, ao hồ, suối giếng, ích lợi khắp cả mọi người, ai cũng được độ thoát”. Chính văn câu này như sau, “hoặc hiện sơn, lâm, xuyên, nguyên, hà, trì, tuyền, tỉnh, lợi cập ư nhân, tất giai độ thoát”. Trước đây tôi đã chuyển văn một chút mà dịch như sau, “hoặc hiện núi sông, bình nguyên, ao hồ, suối giếng, ích lợi khắp cả, toàn là tác dụng hóa độ”. Chưa có kinh điển nào nói minh bạch được như vậy, dẫu rằng trong cách nói cũng có thể làm cho ta hiểu rằng sự phân thân của chư Phật và đại bồ tát là như thế đó, không phải chỉ có những thân hình như chúng ta hiểu theo nghĩa của chúng ta.

5. Định lực của đức Địa tạng.- Kinh đã dẫn nói, tại bất cứ thế giới hệ nào, Địa tạng đại sĩ cũng nhập các định, hoạt hiện vô biên diệu dụng, hóa độ vô lượng chúng sinh. Sau khi kể rõ 23 định (2) , nhập định nào có lực dụng gì, kinh đã dẫn nói, “nói tổng quát, vị đại sĩ này, hằng ngày mỗi buổi sáng sớm, vì cứu độ chúng sinh nên nhập vô số định. Định lực ấy tùy sở ưng mà ích lợi chúng sinh trong mọi thế giới hệ”, “đặc biệt là trong giai đoạn ngũ trược và những thế giới hệ không có Phật xuất hiện”.

6. Sở độ của đức Địa tạng.- Như lời kinh đã dẫn trên đây, đối tượng sở độ của Địa tạng đại sĩ có 3. Thứ nhất, nói tổng quát là chúng sinh trong hết thảy quốc độ và thì gian. Thứ hai, nói đặc biệt lại có 3, là chúng sinh ở những quốc độ không có Phật, ở những quốc độ có Phật nhưng thuộc giai đoạn ngũ trược (và dẫn đếm tam tai) và thuộc giai đoạn cách hở giữa 2 đức Phật (mà Phật pháp không còn). Thứ ba, nói thiết cận là châu Diêm phù, tức loài người chúng ta đây, và theo kinh Địa tạng thì quan trọng là chúng sinh tội khổ trong các ác đạo, nhất là ác đạo địa ngục, của châu Diêm phù. Do đó, Phật nói, Địa tạng đại sĩ ứng hiện khắp nơi, nhưng nghiêng nặng đối với giai đoạn dữ dội (Chiêm sát, Chính 17/902). Chính đại sĩ thì ngài nói, đã 13 đại kiếp đến nay, ngài nỗ lực cực nhọc loại trừ ngũ trược và tam tai cho chúng sinh. Còn kinh Địa tạng thì nói đi lặp lại, rằng đối với châu Diêm phù, ngài có một sự liên hệ lớn lao.

Vì châu Diêm phù, và giai đoạn ngũ trược dẫn đến tam tai (3) , là đối tượng sở độ đặc biệt của Địa tạng đại sĩ, nên ở đây phải nói sơ lược.

Như đã nói, Diêm phù là thế giới loài người chúng ta đây. Thế giới ấy là 1 trong 1 tỷ thành phần của thế giới hệ Sa bà. Đại bộ phận thế giới hệ này, cũng như các thế giới hệ tương tự, có như nhau một quá trình là thành: kết thành, trú: tồn tại, hoại: hư rã, không: tan biến. Nhưng không rồi lại thành, lại trú, lại hoại, lại không, luân chuyển như thế chứ không mất hẳn. Mỗi thời kỳ thành trú hoại không đều có thì gian như nhau, nhưng chỉ thời kỳ trú mới có chúng sinh sinh sống, chúng sinh mà trong đó loài người là đại bộ phận. Thời kỳ trú có 20 tăng giảm. Thời kỳ thành rồi thì có người sinh sống, và sống rất lâu, ấy là tăng; sau đó con người vì phát sinh ngũ trược mà sự sống giảm dần, giảm đến trung bình không quá trăm tuổi là ngũ trược tăng thì, và rồi sẽ giảm dần nữa cho đến dẫn ra tam tai, ấy là giảm. Tam tai là đao binh, tật dịch, cơ cẩn (chiến tranh, nhiễm độc, nhân mãn). Sau tam tai, con người sống sót rất ít, mới biết khủng khiếp và thương nhau, loài người lại phồn thịnh, trong đó có sự sống lâu tăng dần, nhờ sự thương nhau đó, đó lại là tăng. Và cứ như thế mà tăng rồi giảm, giảm lại tăng. Hiện nay là ngũ trược tăng thì của thời kỳ giảm thứ 9 trong 20 thời kỳ tăng giảm của thời kỳ trú. Như vậy thì trước nữa và sau nữa còn có vô tận những giai đoạn ngũ trược và tam tai. Trong ngũ trược, nhất là trong tam tai, Địa tạng đại sĩ cứu độ bằng định lực. Nguyên nhân chính của tam tai là sự tàn hại lẫn nhau, nên từ tâm thương nhau là nguyên nhân chính kết thúc tam tai. Do đó mà trong tam tai, ai tu từ tâm thì khỏi. Mà một trong vô số hiệu năng định lực của đức Địa tạng là làm cho con người “bỏ được tâm lý độc hại mà hướng về nhau bằng từ tâm”.

7. Phó cảm của đức Địa tạng.- Diệu dụng của Địa tạng đại sĩ là như thế, như một ít điều đã ghi trên đây. Diệu dụng ấy, như vậy, toàn là để thỏa mãn mọi sự sở cầu, miễn mọi sự sở cầu ấy là “như pháp sở cầu” và xuất từ “chí tâm xưng niệm”, đó là 2 từ ngữ mà kinh Thập luân đã dẫn luôn luôn nói đến.

—o0o—

Địa Tạng Đại Sĩ và Kinh Địa Tạng

Bây giờ hãy nói vắn tắt về nội dung kinh Địa tạng và đức Địa tạng qua kinh này.

Kinh này được gọi là hiếu kinh của Phật giáo. Hiếu niệm của Phật giáo, chỉ cần nói, theo Bồ tát giới Phạn võng, cái tội nặng nhất là phải sinh ở những chỗ không được nghe cái tên Cha mẹ hay Phật pháp tăng, cũng đủ để ý thức. Gọi là hiếu kinh của Phật giáo, vì kinh này có nội dung sau đây.

Thứ nhất, kể lại hiếu hạnh của Địa tạng đại sĩ mà đại nguyện của ngài đã xuất phát từ hiếu hạnh ấy và hoàn thành hiếu hạnh ấy. Đại nguyện của Địa tạng đại sĩ đại khái có 2 cách nhìn: một, căn bản là “chúng sinh độ tận phương chứng bồ đề, địa ngục vị không thệ bất thành Phật”; hai, tùy thời, tùy căn và tùy cảnh, còn có những lời thề để thực hiện đại nguyện căn bản trên đây. Đối tượng của đại nguyện Địa tạng đại sĩ đương nhiên vô giới hạn, nhưng đặc biệt là chúng sinh tội khổ trong tam đồ, nhất là trong địa ngục; là người Diêm phù; và như đã nói, còn có những kẻ ở các thế giới hệ không Phật, hay có Phật mà thuộc giai đoạn ngũ trược, giai đoạn tam tai, và thời kỳ cách hở giữa 2 đức Phật.

Thứ hai, tóm tắt những ích lợi, những sự bất khả tư nghị của đại nguyện Địa tạng đại sĩ đem lại cho chúng sinh. Đại nguyện Địa tạng đại sĩ thể hiện qua danh hiệu, hình tượng và kinh điển (kinh Địa tạng) của ngài. Nên 3 pháp hạnh trì niệm danh hiệu, chiêm bái hình tượng và trì tụng kinh điển chính là trì niệm, chiêm bái và trì tụng đại nguyện của Địa tạng đại sĩ, và những sở cầu mà trong kinh nói rõ, sẽ được đại nguyện ấy làm cho như ý. Đặc biệt chữ sinh tử trong kinh này nói, ngoài cái nghĩa tổng quát như bao nhiêu kinh điển khác, còn có cái nghĩa rõ nhất là lúc sinh lúc chết, khi còn khi mất. Kinh này dạy rõ thực hành như thế nào về 3 pháp hạnh thì tiếp nhận được những gì về ích lợi mà đại nguyện Địa tạng đại sĩ đem lại cho, trong lúc sinh lúc chết và người còn kẻ mất. Do đó, khi cha mẹ hay thân nhân đau ốm, khi sắp chết, khi chết và sau khi chết, kinh này kể rõ đại nguyện Địa tạng đại sĩ tác thành hiếu niệm cho những người con hiếu hạnh như thế nào, và dạy rõ cách thức mà những người con hiếu hạnh có thể làm được để tiếp nhận sự tác thành ấy. Đó là đối với lúc chết và người mất. Đối với lúc sinh và người còn, kinh này càng rất quan tâm, bằng cách răn sự sát sinh, đề cao sự giúp đỡ sản phụ, bịnh nhân và người già, lại chỉ dạy những sự cần thiết, chỉ dạy cũng với thái độ nghiêm trọng.

Thứ ba, có một chi tiết quan trọng là kinh này rất trọng thắng diệu lạc (sự yên vui tuyệt diệu) ở trong nhân loại và chư thiên. Giải thoát, theo kinh này, là giải thoát ác đạo (nhất là địa ngục) và giải thoát luân hồi. Con cá sa vào dòng nước có lưới, thì thoát là thoát lưới và thoát cả dòng nước. Chỉ thoát lưới là thoát tạm, thoát rồi cũng có thể mắc lại. Phải giải thoát cả lục đạo luân hồi mới là giải thoát vĩnh viễn, nếu chỉ giải thoát ác đạo thì thoát rồi cũng có thể đọa lại. Lý lẽ là như vậy, nhưng cấp bách nhất vẫn là sự giải thoát ác đạo mà sinh lên nhân thiên, hưởng thắng diệu lạc. Đó là điều kinh này đặc biệt quan tâm. Điều ấy rất phù hợp với thái độ của Phật nói trước về giới luận và thí luận mỗi khi thuyết pháp cho người mới đến.

Thứ tư, việc cảm động nhất và nổi nhất của kinh này là do những điều trên, nhất là do đại nguyện, mà Địa tạng đại sĩ được Phật đem chúng sinh tội khổ ký thác cho. Không những như vậy, sự ký thác này, và kinh đại nguyện này của Địa tạng đại sĩ, được Phật thực hiện và tuyên thuyết khi ngài lên Đao lợi thuyết pháp cho mẹ, trước ngày nhập niết bàn. Như vậy, chính việc đem chúng sinh ký thác cho Địa tạng đại sĩ, và việc nói về đại nguyện của Địa tạng đại sĩ, là việc báo hiếu của Phật, đối với mẹ và đối với chúng sinh. Quan trọng biết bao! Kinh này phổ cập sâu rộng, chính là vì điều này đây.

Với nội dung trên đây, trọng tâm kinh Địa tạng là nói về đại nguyện của Địa tạng đại sĩ, nên Phật đã mệnh danh là kinh bản nguyện, và dạy thọ trì cùng truyền bá theo đại nguyện ấy. Mặt khác, kinh này nói giản dị, sự việc cần thiết và gần gũi lòng người, nhưng hạnh nguyện là hạnh nguyện thượng thừa, và triết thuyết thì cực kỳ viên đốn khi minh bạch nói rằng cảnh vật cũng là hóa thân và toàn là tác dụng hóa độ. Cảm kích nhất vẫn là việc kinh này được Phật nói lúc ngài thuyết pháp cho mẹ để nhập niết bàn, lại nói về đại nguyện của một vị đại sĩ như đức Địa tạng, và thiết tha đem chúng ta ký thác cho đại sĩ. Như vậy, qua kinh Địa tạng, đức Địa tạng mới thật bất khả tư nghị.


III. Nghi Thức Sám Nguyện Đơn Giản

Trước Khi Trì Tụng Kinh Địa Tạng

1. Phụng thỉnh qui y

Nhất tâm phụng thỉnh và qui y đức Phật bổn sư Thích ca mâu ni như lai, đức Phật đương lai Di lạc như lai, cùng Phật, Phật pháp và Tỷ kheo tăng khắp cả pháp giới.

Nhất tâm phụng thỉnh và qui y đức Phật bổn tôn A di đà như lai, cùng Quan thế âm bồ tát, Đại thế chí bồ tát, Thanh tịnh đại hải chúng bồ tát ở quốc độ Cực lạc.

Nhất tâm phụng thỉnh và qui y đức đại bi đại nguyện đại định đại lực Địa tạng bồ tát, cùng Bồ tát, Duyên giác và Thanh văn khắp cả pháp giới.

2. Tác bạch tâm nguyện

Đệ tử tên họ XX , pháp danh XX, nguyện vì cầu siêu cho XX, cầu an cho XX (4) , và cầu nguyện cho bản thân, cho người thân kẻ thù trong đời này và bao nhiêu kiếp khác, cho hết thảy Tăng ni Phật tử, cho mọi người và mọi loài, mà chí thành lễ bái và trì tụng kinh Địa tạng bản nguyện. Ngưỡng nguyện Tam bảo vô thượng và Địa tạng đại sĩ từ bi chứng minh, nhiếp thọ hộ trì, làm cho người còn kẻ mất đều được siêu thoát, an lạc.

3. Lễ bái chư Phật bồ tát

Kính lạy đức Phật bổn sư Thích ca mâu ni như lai, đức Phật đương lai Di lạc như lai, cùng hết thảy chư Phật như lai trong pháp hội tuyên thuyết kinh Địa tạng và trong thì hiện tại khắp các quốc độ mười phương.

Kính lạy đức Sư tử phấn tấn cụ túc vạn hạnh như lai, đức Giác hoa định tự tại vương như lai, đức Nhất thế trí thành tựu như lai, đức Thanh tịnh liên hoa mục như lai, cùng hết thảy chư Phật như lai trong thì quá khứ khắp các quốc độ mười phương.

Kính lạy đức Vô biên thân như lai, đức Bảo tánh như lai, đức Ba đầu ma thắng như lai, đức Sư tử hống như lai, đức Bảo thắng như lai, đức Bảo tướng như lai, đức Ca sa tràng như lai, đức Đại thông sơn vương như lai, đức Tịnh nguyệt như lai, đức Sơn vương như lai, đức Trí thắng như lai, đức Tịnh danh vương như lai, đức Trí thành tựu như lai, đức Vô thượng như lai, đức Diệu thanh như lai, đức Mãn nguyệt như lai, đức Nguyệt diện như lai, cùng chư Phật như lai nhiều đến số lượng không thể nói hết.

Kính lạy đức Tỳ bà thi như lai, đức Thi khí như lai, đức Tỳ xá phù như lai, đức Câu lưu tôn như lai, đức Câu na hàm mâu ni như lai, đức Ca diếp như lai, đức Thích ca mâu ni như lai, đức Di lạc như lai, cùng hết thảy chư Phật như lai trong ba thì quá khứ hiện tại và vị lai của quốc độ Sa bà.

Kính lạy đức Vô tướng như lai, cùng hết thảy chư Phật như lai trong thì vị lai khắp các quốc độ mười phương.

Kính lạy Văn thù sư lợi bồ tát, Tài thủ bồ tát, Định tự tại vương bồ tát, Vô tận ý bồ tát, Giải thoát bồ tát, Phổ hiền bồ tát, Phổ quảng bồ tát, Quan thế âm bồ tát, Hư không tạng bồ tát, cùng hết thảy bồ tát đại sĩ ở quốc độ Sa bà và khắp các quốc độ mười phương.

4. Lễ bái Địa tạng đại sĩ

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, được Phật đem chúng sinh ký thác.

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, thị hiện hình tướng xuất gia để tiêu biểu và hộ trì cho người xuất gia tiếp nối dòng giống Tam bảo, cho giới pháp của người xuất gia, cho chánh pháp giải thoát của toàn bộ Phật pháp.

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, tế độ bốn chúng đệ tử của Phật bằng cách làm tăng trưởng bạch pháp giải thoát, tăng trưởng cây trái thực phẩm và dược phẩm, tăng trưởng đất nước gió lửa, để dòng giống Tam bảo trường tồn, rực rỡ và uy đức.

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, tế độ chúng sinh bằng cách giữ gìn cõi đất to lớn, làm cho cây trái thực phẩm và dược phẩm đầy đủ chất lượng, để chúng sinh tùy ý hưởng dụng.

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, phân hóa thân không biên cương ra làm đủ loài đủ giống, làm cả cảnh vật, lợi ích khắp cả, ai cũng được độ thoát.

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, ứng hóa khắp nơi, đặc biệt ứng hóa trong địa ngục, trong châu Diêm phù, trong những quốc độ không có Phật xuất hiện, trong những quốc độ có Phật xuất hiện nhưng thuộc thời kỳ ngũ trược tam tai, thời kỳ cách hở giữa 2 đức Phật mà Phật pháp không còn.

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, ích lợi cho cả lúc tạo tác nguyên nhân và lúc hưởng chịu kết quả, cho cả người còn kẻ mất, cho cả lúc sinh lúc chết, tác thành hiếu đạo cho những người con hiếu hạnh.

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi nguyện và đại tinh tiến quá hơn các vị bồ tát, phó cảm hết thảy sở cầu như pháp của tất cả những người chí tâm xưng niệm.

5. Sám nguyện hồi hướng

Đệ tử chúng con
tuy được thân người,
nhưng lại tách rời
chánh tín chánh kiến,
tách rời bạn tốt
chỗ tốt thời tốt.
Không biết tùy hỷ
không tuân giới luật.
Xúc phạm các vị xuất gia
trở ngại chánh pháp giải thoát.
Tự phong đại thừa
phỉ báng thanh văn.
Lợi dụng xuất gia
phá người xuất gia,
ỷ thế thế quyền
phá Tăng thanh tịnh,
phá mọi chánh pháp
của cả tam thừa.
Tự gây vô số ác nghiệp
tự tạo vô lượng khổ báo.
Ngày nay chúng con
lòng rất hãi sợ,
phát lộ sám hối
dứt sự tiếp tục.
Chân thành tùy hỷ
công đức của người,
nỗ lực bền chí
tu tập bạch pháp.
Học đại bi nguyện
tập đại tinh tiến.
Tuân giữ giới pháp
hộ trì Tăng bảo,
hộ trì chánh pháp
thuận với giải thoát,
làm cho dòng giống
Tam bảo vô thượng
tồn tại lâu dài
rực rỡ uy đức.
Ngưỡng nguyện chư Phật
đại từ thế tôn,
ngưỡng mong Địa tạng
định lực đại sĩ,
từ bi nhiếp thọ
hộ trì chúng con.
Làm cho chúng con
thường gặp thiện hữu,
chừa tội phá giới
bỏ lỗi phá pháp,
tịnh trừ hắc nghiệp
siêu thoát u minh,
hiến cúng Tam bảo
phục vụ Phật pháp.
Nguyện cầu người còn kẻ mất
ước mong người thân kẻ thù
đồng được siêu thoát
đồng được an lạc,
thể hiện từ tâm
hỷ xả với nhau,
đời đời kiếp kiếp
không rời Tam bảo,
cùng nhau kết thành
bà con Phật pháp,
cùng nhau đạt đến
tuệ giác vô thượng.

Kính lạy đức Phật bổn sư Thích ca mâu ni như lai, đức Phật đương lai Di lạc như lai, cùng Phật, Phật pháp, Tỷ kheo tăng khắp cả pháp giới.

Kính lạy đức Phật bổn tôn A di đà như lai, cùng Quan thế âm bồ tát, Đại thế chí bồ tát, Thanh tịnh đại hải chúng bồ tát ở quốc độ Cực lạc.

Kính lạy đức đại bi đại nguyện đại định đại lực Địa tạng bồ tát, cùng Bồ tát, Duyên giác và Thanh văn khắp cả pháp giới.

Chân Dung Trưởng Lão HT Thích Trí Quang

DƯỢC SƯ KINH SÁM – Thượng nhân Thích Trí Quang dịch giải

Dược sư kinh sám

Trưởng lão Trí Quang dịch

Mục lục

Tiểu dẫn. 5
Lời đề khóa tụng kinh Dược Sư của Ngọc lâm quốc sư. 8
Kinh Dược  sư. 11
Sám  Dược  sư  cuốn trước. 68
Sám  Dược  sư  cuốn  giữa. 94
Sám  Dược  sư  cuốn  sau. 128
Lược giải kinh dược sư (có mục lục riêng) 153
Ghi chú. 222 

Tiểu dẫn

  1. Hiệu quả của kinh sám Dược sư là do tín tâm. Nhưng tin được là nhờ uy thần của Phật. Huống chi mọi hiệu quả đều “do năng lực phước đức và uy thần” của đức Dược sư. Kinh này không khinh thị đồ ăn, đồ mặc, đồ dùng, nhà cửa, bà con, bạn bè. Sống lâu, giàu có, quan chức và con cái, kinh này trọng thị. Nói tóm, kinh này quí sự sống và phương tiện để sống, cho cá nhân và cả tập thể. Không những như thế, kinh này còn cho sự sống và phương tiện để sống là công cụ đạt đến tuệ giác bồ đề tức làm Phật. Ðừng nói rằng đó là trước câu bằng dục lạc, sau hóa bằng chánh pháp (tiên dĩ dục câu hậu dĩ pháp trị). Dược sư nghĩa là thầy thuốc chữa bệnh, rất hiểu cái khổ của bịnh, lại càng rất quí thuốc chữa bịnh. Mà bịnh với thuốc đều có ý nghĩa vừa thực vừa rộng. Thiền tông có công án tôi nhớ như sau. Một hôm Văn thù đại sĩ bảo Thiện tài đồng tử, hãy coi cái gì là thuốc thì lấy đưa đây. Ðồng tử nhìn khắp vũ trụ, thưa, không có cái gì là thuốc cả. Ðại sĩ lại bảo, vậy cái gì không phải thuốc thì lấy đưa đây. Ðồng tử lại nhìn khắp vũ trụ, thưa, không có cái gì là không phải thuốc. Thuốc hay không phải thuốc, hiệu quả Dược sư có hay không có, căn bản là có hay không có “phát sanh tâm không dơ bẩn, tâm không giận dữ tác hại, nghĩa là đối với hết thảy chúng sanh khởi lên cái tâm lợi ích an lạc… “
  2. Sám Dược sư, quan trọng ở chỗ cho ta thấy tội lỗi và quả báo của tội lỗi đều không thật. Không thật mới hy vọng sám hối và sám hối được. Trong Phật giáo nguyên thỉ, câu chuyện A xà thế vương và Ương quật ma la chứng minh cái lẽ ấy(1). Nhưng vẫn chưa nói rõ tội tánh bản không. Phật giáo đại thừa nói rõ như vậy. Sám văn Dược sư càng nói rõ như vậy.
  3. “Xá lợi phất, ông nên biết ta đã ở trong giai đoạn dữ dội đầy cả 5 thứ dơ bẩn mà làm việc khó làm, ấy là thực hiện tuệ giác vô thượng, lại vì toàn thể thế gian nói cái pháp khó tin này (pháp môn tịnh độ Cực lạc) thì đó là việc rất khó”. Hoặc “công đức đức Dược sư là chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của Phật, tiếp nhận được là do uy lực Như lai”(2). Chỉ khi nào thấm thía những lời dạy như vậy của Phật, hơn là những biện lý chứng minh, mới thấy thích thú kinh và sám Dược sư.
  4. (a) Sách này mang tên “kinh sám Dược sư” là vì có cả kinh và sám Dược sư. (b) Tài liệu chính, dùng để đối chiếu, là kinh Dược sư của Ðại tạng (Chính 14/404-408) và sám Dược sư của Tục tạng (Vạn 129/55b-62a). (c) Nghi thức khai kinh và hoàn kinh là do tôi châm chước trích soạn. (d) Sự dịch nghĩa của tôi, những chữ dịch âm Phạn tự, phần nhiều dùng chữ thông thường, như Bí sô thì dùng Tỷ kheo, Dược xoa thì dùng Dạ xoa, vân vân.
  5. Sau đây là bảng viết tắt : 1. Ðại tạng kinh bản Ðại chính, thì thí dụ Chính 14/401, là đại tạng ấy, tập 14, trang 401 ; 2. Tục tạng kinh bản chữ Vạn, thì thí dụ Vạn 129/55a, là tục tạng ấy, tập 129, tờ 55 mặt trước ; 3. Thái hư đại sư toàn thư (tập 28), thì thí dụ TH 28/2241, là toàn thư ấy, tập 28, trang 2241 ; Phật học đại từ điển của Ðinh Phúc Bảo, thì thí dụ Pđ 123t, là đại từ điển ấy, trang 123, phần trên. Ngoài những tài liệu và ký hiệu này, phần lược giải kinh Dược sư sẽ kê tài liệu riêng.
  6. Khác với bản in cũ, bản chữa và in này không còn để phần Hoa văn và phần dịch âm của kinh và sám Dược sư. Bản chữa và in này là định bản.
Mục lục

Tiểu dẫn. 5
Lời đề khóa tụng kinh Dược Sư của Ngọc lâm quốc sư. 8
Kinh Dược  sư. 11
Sám  Dược  sư  cuốn trước. 68
Sám  Dược  sư  cuốn  giữa. 94
Sám  Dược  sư  cuốn  sau. 128
Lược giải kinh dược sư (có mục lục riêng) 153
Ghi chú. 222 

Lời đề khóa tụng kinh Dược Sư
của Ngọc lâm quốc sư

Tôi từ lúc bái biệt công ơn cha mẹ, đoạn tuyệt bụi bặm phiền não, thì không rảnh để coi đọc gì hết. Nhưng tình cờ coi vào Ðại tạng kinh, đọc kinh Dược sư như lai bản nguyện công đức, thì bất giác tay nâng ngang trán, thất thanh mà cầu nguyện mọi người cùng nhập vào biển cả đại nguyện của Như lai. Có kẻ hỏi tại sao đối với kinh ấy tôi kinh động tán thán đến như vậy, tôi trả lời, thấy thế nhân vì cảnh ngộ thuận tiện mà đắm chìm không ít. Nên giàu với sang đáng sợ hơn là nghèo và hèn. Nay, Dược sư như lai làm cho người ta sở cầu như nguyện, để rồi từ đó mà vĩnh viễn không còn lùi mất đạo tâm, thẳng tới bồ đề. Vậy, đối với hàng vương thần, trưởng giả, và hết thảy mọi người, muốn làm cái hạnh đồng sự trong 4 nhiếp pháp mà không dùng thuyền tàu đại nguyện của Dược sư như lai, thì làm sao đạt đến cho được.

Ðại phàm tu trì, phải tự lượng lấy mình, tự lượng lấy pháp, rồi thẳng một đường mà nghĩ, thẳng một đường mà làm. Thật chán sợ ba cõi, quyết chí vãng sanh, thì hãy chuyên tâm y theo kinh Di đà mà thâu nhiếp sáu căn, tịnh niệm liên tục, tức là chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn, thì quyết định vãng sanh. Ðó là việc làm của người tự lợi trước để sau lợi tha. Còn hiện tiền phú quí công danh toàn chưa quên nghĩ, dục vọng gái trai ăn uống cũng chưa biết chán, thì với pháp môn vãng sanh Cực lạc chưa dễ thâm tín. Có tin đi nữa thì thân tu tịnh độ mà tâm luyến Sa bà, phỏng có ích gì.

Như vậy, muốn cầu cái pháp môn không rời lưỡi câu dục lạc mà vẫn thành tựu tuệ giác Phật đà, ở trong cảnh thuận tiện mà không đến nỗi chìm đắm, thì cố nhiên không có chi hơn tu trì theo sự đặc biệt, siêu đẳng, và khó nghĩ bàn cho thấu, của đại nguyện Dược sư như lai. Nếu tin và làm được, mãi hoài mà không nhác, thì sẽ thấy chẳng những phú quí công danh, chuyển gái thành trai, thoát ly nguy khốn, đạt đến tốt lành, tất cả đều như được ngọc như ý, tùy ý thành tựu, mà còn được điều này : là chính nơi cái chỗ thành tựu mọi sự đó mà thẳng tới bồ đề, không còn thoái chuyển. Như vậy còn sự may mắn nào sánh bằng.

Nhân gian cũng có hạc Dương châu, chỉ cần đi bằng thuyền công đức của Như lai là kiếm được.  

Mục lục

Tiểu dẫn. 5
Lời đề khóa tụng kinh Dược Sư của Ngọc lâm quốc sư. 8
Kinh Dược  sư. 11
Sám  Dược  sư  cuốn trước. 68
Sám  Dược  sư  cuốn  giữa. 94
Sám  Dược  sư  cuốn  sau. 128
Lược giải kinh dược sư (có mục lục riêng) 153
Ghi chú. 222 

Kinh Dược  sư

 Khai  kinh

(Tán lễ Phật)
Ðại từ đại bi
thương xót chúng sanh,
đại hỷ đại xả
cứu vớt muôn loài,
hào quang diệu tướng
dùng tự trang nghiêm,
chúng con chí thành
qui y đảnh lễ.
Nhất tâm đảnh lễ Phật bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Pháp bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Tăng bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nhất tâm đảnh lễ Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ chư Phật Bồ tát trong pháp hội Dược sư.

(cúng hương)
Hương thơm tâm tánh
đủ cả năm phần,
vừa được đốt lên
bởi lửa bản thể,
thì cả pháp giới
đều được chan hòa,
phàm cùng với thánh
xông ướp tất cả ;
chính trong hương thơm
quyện lên như vậy,
mà các đức Phật
hiển lộ toàn thân.
Nam mô hương cúng dường bồ tát ma ha tát (3 lần).

(Chân ngôn làm sạch ngoại cảnh)
Án lam sa ha (21 lần)

(Chân ngôn làm sạch thân miệng ý)
Án sa phạ bà phạ thuật đà, sa phạ đạt ma sa phạ, bà phạ thuật độ hám (7 lần).

(Phát nguyện)
Kính lạy chư Thế tôn,
qui y các Phật đà,
nay con phát đại nguyện,
trì tụng kinh Dược sư,
trên trả bốn ơn nặng,
dưới giúp ba đường khổ,
những người thấy nghe được,
đều phát tâm bồ đề,
báo thân này kết thúc,
cùng sanh các tịnh độ.

(Niệm hiệu Phật)
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật  (3 lần)

(Kệ khai kinh)
Phật pháp tuyệt diệu,
cực kỳ cao xa,
trăm ngàn vạn kiếp,
khó mà gặp được ;
nay con thấy nghe,
lại được thọ trì,
nguyện cầu thấu hiểu,
ý thật của Phật.
Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát (3 lần)

kinh
Bản nguyện công đức của đức
Dược sư lưu ly quang như lai

Thời đại nhà Ðường, Tam tạng
pháp sư Huyền tráng dịch

Tôi nghe như vầy.
Một thời, đức Thế tôn du hóa các nước, đến thành Quảng nghiêm, dừng ở dưới cây Tiếng nhạc. Tám ngàn vị đại tỷ kheo, ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát, và các quốc vương, đại thần, đạo sĩ, cư sĩ, tám bộ thiên long, loài người và loài không phải người, đại chúng vô lượng như vậy, cung kính vây quanh đức Thế tôn để được Ngài thuyết pháp cho.

Lúc ấy, Mạn thù pháp vương tử vâng theo uy thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai áo bên trái, gối bên phải quì xuống sát đất hướng về đức Phật, cong mình, chắp tay mà thưa, bạch đức Thế tôn, con xin ngài nói về tướng loại như thế này, đó là danh hiệu, bản nguyện vĩ đại và công đức thù thắng của chư Phật, làm cho người nghe tiêu trừ những sự chướng ngại do nghiệp lực tạo ra. Là vì con muốn lợi lạc cho mọi người trong thời kỳ Phật pháp tương tự xuất hiện. Ðức Thế tôn tán dương Mạn thù đồng tử, lành thay Mạn thù, lành thay, ông đem lòng thương rộng lớn thỉnh cầu Như lai nói về danh hiệu, bản nguyện và công đức của chư Phật để cứu vớt những kẻ bị nghiệp chướng buộc thắt, lợi lạc mọi người trong thời kỳ Phật pháp tương tự. Ông hãy nghe kỹ, suy nghĩ rất khéo, Như lai sẽ nói cho. Mạn thù bạch Phật, dạ, xin Phật chỉ dạy, chúng con thích thú mà nghe.

Phật dạy Mạn thù, phía đông, cách thế giới hệ này bởi những thế giới hệ bằng số cát hơn mười sông Hằng, có một thế giới hệ tên Tịnh lưu ly. Ðức Phật ở đó danh hiệu là Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, phật : thế tôn.

Mạn thù, đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, xưa kia, khi làm hạnh bồ tát, đã phát ra mười hai đại nguyện, cốt làm cho mọi người thực hiện mọi sự mong ước.

Ðại nguyện thứ nhất, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì bản thân ánh sáng rực rỡ, chiếu soi vô số thế giới hệ. Thân ấy lại được trang hoàng bằng bâm hai tướng tốt của bậc đại trượng phu, và tám mươi tướng phụ. Lại làm cho mọi người không khác gì với con.

Ðại nguyện thứ hai, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì thân như ngọc lưu ly, trong ngoài trong suốt, không chút vẩn đục, ánh sáng to lớn và chiếu tỏa xa rộng. Công đức đồ sộ, lại khéo an trú. Những tia sáng rực rỡ, dệt nhau như mạng lưới, và tráng lệ quá hơn nhật nguyệt. Chúng sanh tối tăm được soi sáng cả, nên tùy ý hướng mà làm mọi sự nghiệp.

Ðại nguyện thứ ba, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì vận dụng vô lượng trí tuệ và phương tiện, làm cho mọi người cùng được vô tận những vật hưởng dụng, không để cho ai có sự thiếu thốn.

Ðại nguyện thứ tư, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì những kẻ đi theo tà đạo đều được làm cho ở yên trong đạo giác ngộ, những người tu theo thanh văn duyên giác đều được xây dựng bằng pháp đại thừa.

Ðại nguyện thứ năm, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì vô số người tu hành phạn hạnh trong chánh pháp của con, con làm cho tất cả được giới thể không thiếu sót, trọn vẹn giới pháp ba loại. Giả sử phá phạm đi nữa, nghe danh hiệu con rồi là phục hồi thanh tịnh, không rơi vào đường dữ.

Ðại nguyện thứ sáu, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ thân hình thấp kém, giác quan không đủ, xấu xí, u mê, mù điếc, câm ngọng, tay quắp, chân quẹo, lưng gù, phung lác, điên cuồng, đủ thứ bịnh khổ, nhưng nghe danh hiệu con rồi, tất cả đều đẹp đẽ, thông minh, giác quan hoàn bị, hết mọi bịnh khổ.

Ðại nguyện thứ bảy, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô  thượng, những kẻ bị mọi thứ bịnh khổ hành hạ mà không ai cứu giúp không nơi nương tựa, không có y sĩ, không có dược liệu, không có thân thuộc, không có nhà cửa, nghèo nàn lắm khổ, thì danh hiệu của con, một khi đi qua thính giác của họ, là bịnh khổ tan biến, thân tâm an lạc, nhà cửa, thân thuộc và đồ dùng, đầy đủ tất cả, cho đến thực hiện được tuệ giác vô thượng.

 Ðại nguyện thứ tám, nguyện con sau này, khi dược tuệ giác vô thượng, nếu có nữ nhân nào bị hành hạ bởi cả trăm thứ khổ sở của nữ nhân, nên cùng cực chán ngán, muốn thoát thân ấy, thì nghe danh hiệu con rồi, tất cả đều chuyển thân nữ nhân thành thân nam tử, đủ tướng trượng phu, cho đến thực hiện được tuệ giác vô thượng.

Ðại nguyện thứ chín, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì làm cho mọi người thoát khỏi mạng lưới của ma vương, cổi mở thắt buộc của ngoại đạo. Sa vào rừng rậm ác kiến thì sẽ được dẫn ra, đem đặt vào chánh kiến, và dần dần làm cho họ thực tập các hạnh bồ tát, để thực hiện một cách mau chóng tuệ giác vô thượng.

Ðại nguyện thứ mười, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô  thượng, thì những kẻ bị phép vua ghi sổ, xích trói đánh khảo, giam nhốt lao ngục, sắp bị hành hình, cọng với vô lượng tai nạn khổ nhục và bi thảm sầu muộn khác nữa, ngâm nấu bức bách, làm cho cả cơ thể lẫn tâm trí đều chịu thống khổ, nhưng nghe danh hiệu của con, thì vì năng lực phước đức và uy thần của con mà họ thoát hết mọi sự lo sợ khổ sở.

Ðại nguyện mười một, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ bị đói khát hành hạ, vì cầu cái ăn mà làm mọi ác nghiệp, nhưng nghe dược danh hiệu của con, nhất tâm thọ trì, thì trước hết con làm cho họ no đủ cơ thể bằng thực phẩm tuyệt diệu, sau đó con sẽ đem cái vui cứu cánh của pháp vị mà xây dựng cho họ.

Ðại nguyện mười hai, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ nghèo thiếu y phục, ngày đêm khổ sở vì muỗi mòng lạnh nóng, nếu nghe danh hiệu của con mà nhất tâm thọ trì, thì như sở thích của họ, họ được liền những thứ y phục tuyệt diệu, lại được những đồ trang sức bằng vàng ngọc. Hoa vòng, hương hoa, âm nhạc hòa tấu và mọi kỹ thuật biểu diễn, tùy ý họ thích, con làm cho đầy đủ tất cả.

Mạn thù, đó là mười hai đại nguyện tối thượng, nhiệm mầu, của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, đã lập ra khi còn làm hạnh bồ tát.

Mạn thù, những đại nguyện tối thượng của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai đã lập ra khi còn làm hạnh bồ tát, và những công đức trang nghiêm của thế giới hệ đức Phật ấy, Như lai diễn tả trong một đại kiếp, hay hơn một đại kiếp, cũng không thể cùng tận. Thế giới hệ của đức Phật ấy hoàn toàn thanh tịnh, không có nữ nhân, không có ác đạo không có cả đến cái tiếng thống khổ. Ðất làm bằng ngọc lưu ly. Ðường ngăn bằng giây vàng. Thành, cửa thành, cung điện, lầu gác, mái hiên, cửa sổ, lưới giăng, toàn bằng bảy thứ quí báu. Y như thế giới hệ Cực lạc ở phía tây, công đức trang nghiêm không khác gì cả. Thế giới hệ ấy có hai vị đại bồ tát, thứ nhất danh hiệu Nhật quang biến chiếu, thứ hai danh hiệu Nguyệt quang biến chiếu. Ðó là hai vị đứng đầu chúng bồ tát nhiều vô số lượng của thế giới hệ ấy, thứ lớp kế vị thành Phật, và cùng có khả năng nắm giữ kho tàng ngọc báu chánh pháp của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Thế nên, Mạn thù, những thiện nam hay thiện nữ có đức tin hãy nguyện sanh thế giới hệ của đức Phật ấy.

Lúc ấy, đức Thế tôn lại bảo Mạn thù đồng tử, Mạn thù, có những kẻ không nhận thức cái lẽ thiện ác, chỉ giữ thói tham lẫn mà không biết bố thí và phước báo bố thí. Ngu muội, không có trí tuệ, thiếu cả đức tin. Dồn chứa tài sản vàng ngọc cho nhiều, nỗ lực mà giữ. Thấy người xin đến, lòng họ không vui. Giả sử bất đắc dĩ mà bố thí, thì lúc đó đau tiếc sâu xa như cắt thịt mình. Lại còn lắm kẻ tham lẫn, dồn chứa tài sản mà đối với bản thân của họ, họ còn không hưởng dụng, huống chi có thể đem cho cha mẹ, vợ con, tôi tớ, người làm hay kẻ đến xin. Những kẻ ấy, sinh mạng kết thúc ở đây thì sanh trong thế giới quỉ đói hay súc vật. Nhưng xưa kia, khi ở trong loài người, từng được thoáng nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, nên ngày nay, dầu ở trong ác đạo, vẫn thoáng nhớ danh hiệu của đức Như lai ấy, và ngay khi nhớ thì chết ở ác đạo mà sanh lại loài người, được sự nhớ đời trước nên sợ nỗi khổ ác đạo mà không ham dục lạc, thích bố thí và ca tụng người bố thí. Có gì cũng không tiếc. Dần dần tiếp theo, đầu mắt, tay chân, máu thịt và những bộ phận khác của cơ thể, còn có thể đem cho người đến xin, huống chi những thứ tiền tài sản vật khác.

Mạn thù, có kẻ dầu thọ giới pháp với Như lai mà lại phá giới pháp ấy. Có kẻ không phá giới pháp mà phá qui tắc. Có kẻ đối với giới pháp và qui tắc tuy được sự không phá hoại, nhưng lại phá hoại chánh kiến. Có kẻ không phá hoại chánh kiến mà bỏ phế đa văn, nên đối với nghĩa lý sâu xa của kinh Phật nói không thể lý giải. Có kẻ tuy đa văn mà thượng mạn : vì thượng mạn úp che tâm trí nên cho mình phải, bảo người trái, ghét chê cả chánh pháp, làm bè đảng với ma. Những kẻ ngu si như vậy tự mình đã làm theo tà kiến, lại làm cho vô số người khác rơi xuống hố lớn nguy hiểm. Những kẻ ấy đáng lý trôi lăn vô cùng trong địa ngục, súc sanh và loài quỉ. Nhưng nếu được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, thì bỏ ngay tánh ác, tu các pháp lành, và sẽ không sa vào các ác đạo. Giả sử có kẻ vẫn không thể bỏ ngay tánh ác, tu các pháp lành, và phải sa vào các ác đạo đi nữa, thì nhờ uy lực đại nguyện của đức Dược sư lưu ly quang như lai mà làm cho họ thoáng nghe được danh hiệu của ngài, sinh mạng kết thúc ở ác đạo, sanh lại trong loài người, được chánh kiến, tinh tiến, và ý thích khéo thuần hóa, nên thoát ly gia đình, đi đến phi gia đình, ở trong pháp Như lai mà thọ giới, giữ giới, không có phạm giới mà lại chánh kiến, đa văn, lý giải nghĩa lý cực kỳ sâu xa mà lại viễn ly thượng mạn, không chê chánh pháp, không làm bạn ma, dần dần tu hành các hạnh bồ tát và đầy đủ một cách mau chóng.

Mạn thù, có những kẻ tham lẫn ganh ghét, tán tụng bản thân, công kích kẻ khác, nên sẽ sa vào ba ác đạo, nhiều lần ngàn năm chịu mọi sự khổ sở khốc liệt. Chịu khổ sở khốc liệt rồi, sinh mạng kết thúc ở đó mà đến sanh trong loài người, thì làm trâu bò, lừa ngựa, lạc đà, thường bị đánh đập, đói khát hành hạ, lại luôn luôn mang nặng, chở nhiều, và đi theo đường phải đi, hoặc được làm người thì sinh nơi hèn hạ, làm tôi tớ người, bị người sai sử, thường mất tự do. Nhưng nếu xưa kia, khi còn làm người, từng nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì do nhân lành ấy mà nay nhớ lại, chí tâm qui y, nhờ thần lực của Ngài mà thoát hết khổ sở, giác quan tinh nhuệ, trí tuệ đa văn, thường cầu thắng pháp, thường gặp thiện hữu, đứt hẳn lưới ma, đập vỏ vô minh, khô sông phiền não, giải thoát hết thảy sinh lão bịnh tử, lo buồn khổ não.

Mạn thù, có những kẻ tính thích chống đối, ly gián, đấu tranh, kiện tụng, gây bực tức và rối loạn cho bản thân và kẻ khác. Ðem cả thân thể, lời nói và ý nghĩ mà tạo ra và thêm lớn đủ thứ ác nghiệp. Gây mãi cho nhau những sự bất lợi để mưu hại lẫn nhau. Cáo triệu những vị thần rừng núi, cây cối, mồ mả ; giết sinh vật lấy máu huyết mà cúng tế dạ xoa, la sát ; viết tên người mình oán, làm hình và ảnh của người ấy, đem chú thuật tàn ác mà thư ;  ếm phù chú, dùng thuốc độc, chú quỉ khởi thi – dùng mọi cách này mà làm đứt sinh mạng người ấy, làm chết thân họ. Người ấy nếu được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai thì mọi việc dữ trên không cách nào hại được. Lại cùng kẻ kia, tất cả đôi bên đều nổi dậy từ tâm đối với nhau, làm lợi ích an lạc mà không còn ý thức thương tổn hay tâm lý ghét giận. Ðôi bên cùng vui đẹp. Ðối với những thứ mình hưởng thụ, ai cũng thích vừa đủ thì thôi, không muốn lấn nhau, chỉ làm ích lợi cho nhau.

Mạn thù, trong bốn chúng tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, và những thiện nam thiện nữ khác có đức tin thuần tịnh, nếu ai có khả năng thọ trì Bát quan trai giới, bằng cách hoặc cả năm hoặc ba tháng, thọ trì giới ấy. Rồi đem thiện căn này nguyện sanh thế giới hệ Cực lạc ở phía tây, chỗ A di đà phật, để được nghe chánh pháp của ngài, nhưng chưa quyết định. Nếu nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì đến khi sinh mạng  kết thúc, có tám vị đại bồ tát, danh hiệu Văn thù sư lợi bồ tát, Quan thế âm bồ tát, Ðắc đại thế bồ tát, Vô tận ý bồ tát, Bảo đàn hoa bồ tát, Dược vương bồ tát, Dược thượng bồ tát và Di lạc bồ tát, tám vị đại bồ tát này lướt không gian mà đến, chỉ đường cho người ấy. Tức thì người ấy tự nhiên hóa sinh trong hoa sen bằng các thứ ngọc, và đủ mọi màu sắc xen lẫn với nhau, của thế giới hệ Cực lạc. Cũng có người nhờ sự ấy mà sanh lên cõi trời. Tuy sanh lên cõi trời, nhưng thiện căn xưa cũng chưa cùng tận, và không còn sanh lại tại các ác đạo. Mà sự sống lâu trên cõi trời chấm hết thì sanh lại trong nhân gian. Bằng cách hoặc sanh làm luân vương, thống nhiếp cả bốn đại châu, uy đức tự tại, xây dựng vô lượng trăm ngàn chúng sanh vào mười thiện nghiệp. Hoặc sanh vào dòng sát đế lợi, bà la môn, cư sĩ, đại gia, nhiều tiền tài, lắm vàng ngọc, kho bồ tràn đầy, thân hình và tướng mạo đều đẹp đẽ trang nghiêm, bà con và bạn bè cùng đầy đủ, trí tuệ thông minh, sức lực mạnh mẽ như đại lực sĩ. Nếu là phụ nữ mà được nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, nhất tâm thọ trì thì về sau không còn chịu lại thân thể phụ nữ.

(3)Mạn thù, khi đức Dược sư lưu ly quang như lai thành tựu tuệ giác vô thượng bồ đề, thì do năng lực đại nguyện xưa mà quán sát chúng sanh bị mọi bịnh khổ, như những bịnh gầy ốm, co quắp, tiêu khô, vàng nóng, hoặc bị trúng bùa ếm, thuốc độc, hoặc chết non, chết ngang trái. Muốn làm cho họ tiêu trừ những bịnh khổ ấy, sở cầu mãn nguyện, nên bấy giờ đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai nhập định danh hiệu Diệt trừ mọi khổ não của chúng sanh. Nhập định ấy rồi, từ trong nhục kế phóng ra ánh sáng lớn. Trong ánh sáng này diễn ra đà la ni vĩ đại sau đây : Nam mô, Bạc già phạt đế, bệ sát xã lũ rô – bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha : Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ – bệ sát xã – tam một yết đế, sa ha. Khi trong ánh sáng diễn ra đà la ni vĩ đại ấy rồi, đại địa chấn động, phóng ánh sáng lớn, hết thảy chúng sanh bịnh khổ tiêu trừ, hưởng được cái vui yên ổn. Mạn thù, nếu thấy nam tử hay nữ nhân, ai bị bịnh khổ, thì nên nhất tâm vì bịnh nhân ấy mà luôn luôn tinh khiết, tắm rửa, súc miệng, rồi đem thực phẩm, dược phẩm, hay nước không có trùng, trì chú này một trăm lẻ tám biến, cho họ uống, ăn, thì bịnh khổ họ có tiêu tan tất cả. Nếu có cầu gì, chí tâm tụng niệm thì cũng được như vậy, lại không bịnh, thêm tuổi, và sau khi sinh mạng kết thúc thì sanh thế giới hệ của đức Dược sư lưu ly quang như lai, được sự không còn thoái chuyển cho đến tuệ giác bồ đề. Vì vậy Mạn thù, nếu có nam tử nữ nhân nào đối với đức Dược sư lưu ly quang như lai mà chí tâm, tha thiết, cung kính, cúng dường, thì hãy thường trì chú này, đừng để bỏ phế, quên mất.

Mạn thù, nếu nam tử hay nữ nhân có đức tin thuần tịnh, được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến  tri, nghe rồi trì niệm. Sáng sớm đánh răng, tắm rửa, súc miệng sạch sẽ, đem các thứ hương hoa, trong đó có hương đốt, hương xoa, và diễn tấu kỹ nhạc mà cúng dường hình tượng của ngài. Ðối với kinh này, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, nhất tâm thọ trì, nghe học nghĩa lý. Ðối với pháp sư giảng giải kinh này, cũng nên cúng dường, mọi đồ giúp sống thân thể mà mình có, hãy cúng dường đầy đủ, đừng để vị ấy thiếu thốn. Như vậy thì được chư Phật hộ niệm, sở cầu mãn nguyện, cho đến thực hiện tuệ giác bồ đề(4).

Lúc ấy Mạn thù đồng tử bạch Phật, bạch đức Thế tôn, con nguyện khi thời kỳ Phật pháp tương tự xuất  hiện, thì dùng mọi cách làm cho những thiện nam hay thiện nữ có đức tin thuần tịnh được nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Cho đến trong lúc ngủ, con cũng đem danh hiệu Ngài thức tỉnh thính giác của họ. Bạch đức Thế tôn, đối với kinh này thì thọ trì đọc tụng hay tuyên thuyết khai thị cho người, tự chép hay bảo người chép, cung kính tôn trọng, đem hiến cúng những thứ hương hoa, hương xoa, hương vụn, hương đất, vòng hoa, chuỗi ngọc, tràng phan, bảo cái, và kỹ thuật biểu diễn, trong đó có âm nhạc. Lấy tơ lụa có năm màu sắc làm bao mà đựng. Quét rưới chỗ thanh tịnh, trần thiết dá cao mà để. Thì khi ấy bốn đại thiên vương, cùng tùy thuộc của họ, và vô số trăm ngàn thiên chúng, đều đến chỗ đó mà cúng dường, hộ vệ. Bạch đức Thế tôn, những chỗ kinh bảo này lưu hành, có ai thọ trì được, thì vì bản nguyện, công đức, và danh hiệu được nghe, của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, mà nên biết người ấy không còn chết ngang trái, không còn bị những quỉ thần ác đoạt mất tinh chất. Ðã bị đoạt thì được lại như cũ, thân tâm an  lạc. 

Phật dạy, Mạn thù, đúng như vậy, đúng như ông nói. Mạn thù, nếu có thiện nam thiện nữ đức tin thuần tịnh, muốn cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì trước hết, hãy tạo lập hình tượng của Ngài, trần thiết tòa thanh tịnh mà đặt để. Rải các thứ hoa, đốt các thứ hương, đem các thứ tràng phan mà trang hoàng chỗ ấy. Bảy ngày đêm thọ Bát quan trai giới, ăn đồ ăn thanh tịnh. Tắm gội cho sạch và thơm, mặc y phục sạch sẽ. Nên phát sanh tâm không dơ bẩn, tâm không giận dữ tác hại. Nghĩa là đối với hết thảy chúng sanh khởi lên cái tâm lợi ích an lạc, từ bi hỷ xả và bình đẳng. Rồi tấu nhạc và ca tụng, nhiễu quanh tượng phật Dược sư lưu ly quang như lai theo chiều hướng bên phải. Lại nên tưởng niệm bản nguyện và công đức của đức Như lai ấy, đọc tụng kinh này, tư duy nghĩa ý và diễn giảng khai thị. Như vậy thì mọi sở cầu đều toại ý : cầu sống lâu được sống lâu, cầu giàu có được giàu có, cầu quan chức được quan chức, cầu con trai dược con trai, cầu con gái được con gái. Nếu ai bỗng nhiên bị ác mộng, thấy đủ cảnh tượng khủng khiếp, hoặc bị những giống chim quái dị đến tập hợp lại, hoặc chỗ ở có cả trăm sự quái dị xuất hiện, kẻ ấy nếu đem những đồ tuyệt diệu cung kính cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì những ác mộng và những cảnh tượng khủng khiếp, những sự không cát tường, ẩn mất tất cả, không thể tác hại. Nếu ai bị những sự hãi sợ như thủy tai, hỏa hoạn, khí giới, độc chất, chơi vơi giữa chừng, sa xuống chỗ hiểm, voi dữ, sư tử, cọp, sói, gấu, bi, rắn độc, bò cạp, rít, sâu, muỗi, nhặng, mà chí tâm tưởng niệm được đức phật Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính cúng dường, thì mọi sự hãi sợ đều thoát được cả. Nếu ai bị nước khác xâm lăng, quấy nhiễu, nội bộ trộm cướp, phản loạn, tưởng niệm cung kính đức Như lai ấy cũng thoát hết thảy. 

Mạn thù, nếu có thiện nam thiện nữ đức tin thuần tịnh, cho đến hết đời, không thờ vị trời nào khác chỉ nhất tâm qui y Phật Pháp Tăng, thọ trì giới pháp, như năm giới, mười giới, bốn trăm giới của bồ tát, hai trăm năm mươi giới của tỷ kheo, năm trăm giới của tỷ kheo ni. Nhưng đối với giới pháp của họ thọ trì, hoặc có kẻ phá phạm nên sợ đọa lạc ác đạo. Nếu biết chuyên tâm trì niệm danh hiệu đức phật Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính cúng dường, thì quyết chắc không phải lãnh chịu đời sống trong ba ác đạo.

Nếu có nữ nhân nào, lúc gần sinh sản, chịu đựng đau đớn cùng cực, mà biết chí tâm trì niệm danh hiệu, lễ bái, ca tụng, cung kính, cúng dường đức Như lai ấy, thì mọi nỗi đau đớn tan biến tất cả. Ðứa con sinh ra, mọi bộ phận của thân hình đều hoàn bị, sắc tướng của thân hình ấy đẹp và nghiêm, ai thấy cũng hoan hỷ, giác quan tinh nhuệ, trí tuệ thông minh, yên ổn, ít bịnh, không có một kẻ không phải người đoạt mất tinh chất của đứa con ấy.

Lúc ấy đức Thế tôn bảo tôn giả A nan, công đức mà đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai có mà Như lai đã ca tụng, là chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật, khó mà lý giải, ông tin được không ? Tôn giả A nan bạch Phật, bạch đức Thế tôn uy đức cao cả, đối với khế kinh Ngài dạy, con không sinh tâm nghi ngờ. Tại sao, vì thân thể, lời nói và ý nghĩ của các đức Như lai, không động tác nào mà không thanh tịnh. Bạch đức Thế tôn, vầng nhật nguyệt kia có thể làm cho rơi rụng, và Tu di, hòn núi chúa tể trong các hòn núi, cũng có thể làm cho nghiêng đổ, nhưng lời nói của chư Phật thì không thể làm cho khác đi được. Tuy nhiên, bạch đức Thế tôn, có những kẻ đức tin không đủ nghe nói chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật thì nghĩ, tại sao chỉ trì niệm một danh hiệu Phật của đức Dược sư lưu ly quang như lai mà thu hoạch bao nhiêu công đức và ích lợi vượt bậc như vậy. Vì sự không tin này mà quay lại phỉ báng. Những kẻ ấy suốt đêm trường mất lợi lạc lớn, đọa lạc ác đạo trôi lăn không cùng. Phật dạy tôn giả A nan, những kẻ ấy nếu nghe dược danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, chí tâm thọ trì, không sinh nghi hoặc, mà vẫn đọa lạc ác đạo là điều không có. A nan, đó là chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật, khó thể tin và hiểu. Nay ông tiếp nhận được, phải biết toàn là do uy lực Như lai. A nan, hết thảy Thanh văn, Ðộc giác và các vị Bồ tát chưa bước lên thập địa, đều không thể tin và hiểu một cách đúng như sự thực, chỉ trừ các vị Bồ tát còn hệ thuộc một đời mà thôi. A nan, thân thể loài người khó mà có được, sự tin tưởng tôn kính Tam bảo càng khó mà có được, nhưng nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai lại khó được hơn những sự khó được ấy. A nan, vô lượng bồ tát hạnh, vô lượng thiện phương tiện, và vô lượng quảng đại nguyện, của đức Dược sư lưu ly quang như lai, trong một đại kiếp hay hơn một đại kiếp, Như lai nói một cách đầy đủ, thì đại kiếp ấy có thể kết thúc mau chóng, còn hạnh nguyện và phương tiện của đức Phật này vẫn không cùng tận. 

Lúc ấy trong chúng hội có một vị đại sĩ danh hiệu Cứu thoát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai áo bên phải, gối bên phải quì xuống sát đất, cong mình, chắp tay mà bạch Phật, bạch đức Thế tôn uy đức cao cả, khi thời kỳ Phật pháp tương tự xuất hiện, có những kẻ bị mọi thứ bịnh hoạn làm cho nguy khốn. Bịnh mãi, gầy ốm, ăn uống không được, cổ và môi đều khô nóng. Nhìn mọi phía đều đen tối. Tướng chết xuất hiện. Cha mẹ, anh em, bà con, bạn bè, quen biết, khóc lóc vây quanh. Nhưng bản thân bịnh nhân thì tuy vẫn nằm chỗ của mình, mà lại thấy sứ giả Diêm vương dẫn thần thức của mình đến trước vị vua chấp pháp này. Nguyên mọi người đều có vị thần cùng sanh, tùy việc họ làm, tội cũng như phước, ghi chép đầy đủ, và bấy giờ trao cả cho Diêm vương. Diêm vương tra hỏi kẻ ấy, tính việc họ làm, tùy tội và phước mà xử phán. Chính trong lúc này, thân thuộc hay quen biết của bịnh nhân, nếu biết vì họ mà qui y đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, cung thỉnh chư Tăng đọc tụng kinh này, đốt cây đèn bảy tầng, treo phan thần “tiếp nối mạng sống” bằng năm màu, thì hoặc có kẻ nơi đây thần thức về được, và như trong chiêm bao, tự thấy rõ ràng ; hoặc trải qua bảy ngày, hoặc hai mươi mốt ngày, hoặc ba mươi lăm ngày, hoặc bốn mươi chín ngày, khi thần thức về được thì như từ chiêm bao thức dậy, tự nhớ biết tất cả quả báo của thiện nghiệp ác nghiệp. Nhờ tự chứng kiến nghiệp báo, nên đến nỗi gặp phải tai nạn cho sinh mạng, cũng không tạo tác ác nghiệp. Vì vậy, những thiện nam thiện nữ đức tin thuần tịnh, hãy thọ trì danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, tùy sức có thể mà cung kính cúng dường.

Lúc ấy tôn giả A nan hỏi bồ tát Cứu thoát, thiện nam tử, nên bằng cách nào cung kính cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai ? Phan và đèn “tiếp nối mạng sống” nên làm cách nào ? Bồ tát Cứu thoát nói, đại đức, nếu bịnh nhân muốn thoát bịnh khổ, nên vì họ mà bảy ngày đêm thọ trì Bát quan trai giới. Nên đem đồ ăn, đồ uống và đồ dùng, tùy sức liệu biện mà cúng dường Tỷ kheo tăng. Ngày đêm sáu buổi lễ bái cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Ðọc tụng kinh này bốn mươi chín biến. Ðốt bốn mươi chín ngọn đèn. Tạo hình tượng đức Như lai ấy bảy vị. Trước mỗi hình tượng để bảy ngọn đèn, cái lượng mỗi ngọn đèn lớn như bánh xe. Và đến bốn mươi chín ngày đêm, ánh sáng không đứt. Còn làm phan năm màu thì dài bốn mươi chín gang tay. Nên phóng sanh đến bốn mươi chín giống khác nhau. Như vậy thì có thể qua được tai nạn nguy khốn, không bị mọi thứ ngang trái và quỉ dữ tác hại. 

 Ðại đức A nan, nếu giai cấp Sát đế lợi, các vị vua đã làm lễ quán đảnh, khi tai nạn nổi dậy, như dân chúng bịnh dịch, nước khác lấn ép, nước mình phản nghịch, tinh tú quái dị, nhật thực nguyệt thực gió mưa trái thì, quá thì không mưa, thì giai cấp Sát đế lợi, các vị vua đã làm lễ quán đảnh, lúc ấy, hãy phát khởi tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh, ân xá những người bị giam bị nhốt, và theo cách cúng dường tôi đã nói trên mà cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Nhờ thiện căn như vậy, và nhờ năng lực bản nguyện của đức Như lai ấy, mà làm cho quốc độ của họ tức khắc yên ổn, gió mưa điều hòa, lúa má thành thục, mọi  người vô bịnh, vui vẻ. Trong  quốc độ của họ không có những loại thần Dạ xoa bạo ác, tác hại chúng sanh. Mọi hiện tượng dữ ẩn mất tất cả và tức thì. Còn giai cấp Sát đế lợi, và những vị vua đã làm lễ quán đảnh, thì sự sống, tướng tốt, sức mạnh, vô bịnh và tự do, đều được tăng thêm. Nếu hoàng hậu, hoàng phi, đông cung, vương tử, đại thần, phụ chánh, thể nữ, bách quan và dân chúng, bị bịnh làm khổ, và bị những tai nạn khác, cũng nên làm phan thần năm màu và đốt đèn sáng liên tục, phóng các loại có sinh mạng, rải những bông hoa đủ màu, đốt những hương thơm nổi tiếng, thì bịnh hết, nạn khỏi. 

Lúc ấy tôn giả A nan lại hỏi bồ tát Cứu thoát, thiện nam tử, tại sao mạng sống đã hết mà có thể làm cho tăng thêm ? Bồ tát Cứu thoát nói, đại đức, ngài không nghe đức Thế tôn nói có chín sự chết ngang trái hay sao. Vì chín sự chết này mà tôi khuyên làm phan và đèn “tiếp nối mạng sống”, tu các phước đức. Nhờ tu các phước đức mà trọn đời không trải qua một cơn đau đớn hoạn nạn nào cả. Tôn giả A nan hỏi, chín sự chết ngang trái là gì ? Bồ tát Cứu thoát nói, có kẻ bị bịnh tuy nhẹ, nhưng không thầy, không thuốc, không ai coi sóc. Gặp thầy thì lại bị cho thuốc không đúng, nên thật không đáng chết mà chết một cách ngang trái. Lại tin thầy bà yêu nghiệt của tà ma ngoại đạo thuộc phạm vi thế gian nói  vớ vẩn về họa phước, nên đâm ra sợ hãi, dao động. Tâm thì không tự chánh nó lại, lại đi bói hỏi để tìm lấy tai họa. Giết hại sinh vật mà giải tấu thần minh, van vái yêu quái để xin làm phước giúp đỡ mong muốn thêm tuổi nhưng chung cục không thể đạt được. Ngu si mê lầm, tin theo cái thấy cong và ngược, nên làm chết mình một cách ngang trái, nhập vào địa ngục, không có kỳ hạn thoát ra. Ðó là sự chết ngang trái thứ nhất. Thứ hai, một cách ngang trái bị phép vua giết. Thứ ba, săn bắn, chơi bời, đam mê tửu sắc, phóng túng vô độ, một cách ngang trái bị những kẻ không phải người đoạt mất tinh chất. Thứ tư, một cách ngang trái bị lửa đốt. Thứ năm, một cách ngang trái bị nước chìm. Thứ sáu, một cách ngang trái bị các giống thú dữ ăn. Thứ bảy, một cách ngang trái rơi xuống sườn núi. Thứ tám, một cách ngang trái trúng chết bởi thuốc độc, ếm vái, chú thư, quỉ khởi thi. Thứ chín, chết một cách ngang trái vì đói khát nguy khốn, không được đồ ăn thức uống. Ðó là sự chết ngang trái mà đức Thế tôn nói vắn tắt có chín thứ như vậy. Ngoài ra còn có vô số những sự ngang trái khác, khó nói cho đủ.

 Ðại đức A nan, Diêm vương lãnh xét sự ghi chép về sách tịch của thế gian. Ai bất hiếu cha mẹ, làm năm tội nghịch, hủy nhục Tam bảo, phá phép vua tôi, làm hỏng tánh giới, thì Diêm vương theo tội nặng nhẹ xét mà phạt. Vì lý do ấy, nay tôi khuyến cáo mọi người đốt đèn, treo phan, phóng sanh, tu phước, làm cho họ qua khỏi khốn khổ, không gặp mọi sự hoạn nạn.

Lúc ấy trong chúng hội có mười hai vị đại tướng Dạ xoa, cùng có mặt ở đó, là đại tướng Cung tỳ la, đại tướng Phạt chiết la, đại tướng Mê xí la, đại tướng An để la, đại tướng Ngạch nễ la, đại tướng San để la, đại tướng Nhân đạt la, đại tướng Ba di la, đại tướng Ma hổ la, đại tướng Chân đạt la, đại tướng Chiêu đỗ la, đại tướng Tỳ yết la. Mười hai vị đại tướng Dạ xoa này, mỗi vị có bảy ngàn Dạ xoa làm tùy thuộc, cùng lúc cất tiếng bạch Phật, bạch đức Thế tôn, chúng con bây giờ nhờ uy lực của Ngài mà nghe được danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, không còn nỗi sợ hãi về ác đạo nữa. Chúng con đốc suất nhau, cùng nhau nhất tâm, suốt đời qui y Phật Pháp Tăng, thệ nguyện gánh vác hết thảy chúng sanh, tạo cho họ cái lợi chân thật, cái vui lợi ích. Tùy thôn làng, thị thành, thủ đô, và trong rừng thanh vắng, của bất cứ xứ nào, mà hoặc có kinh này lưu hành, hoặc có kẻ trì niệm danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính cúng dường Ngài, thì chúng con, và tùy thuộc của chúng con, hộ vệ người ấy, làm cho họ thoát mọi khổ nạn, mọi ước nguyện đều thỏa mãn.  Hoặc ai bị bịnh khổ mà cầu thoát qua, thì cũng   nên đọc tụng kinh này, dùng tơ sợi năm màu mà kết tên chúng con. Ðược toại nguyện rồi mới tháo kết ấy. 

Lúc ấy đức Thế tôn tán dương các đại tướng Dạ xoa, rằng lành thay các tướng Ðại dạ xoa, lành thay, các người nghĩ báo ân đức của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì thường nên như vậy mà lợi ích an lạc hết thảy chúng sanh.

Bấy giờ tôn giả A nan bạch Phật, bạch đức Thế tôn, nên mệnh danh như thế nào về pháp môn này, và chúng con nên phụng trì kinh này như thế nào ? Phật dạy tôn giả A nan, pháp môn này nên mệnh danh Nói về bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai, cũng nên mệnh danh Nói về sự kết nguyện thần chú để lợi ích chúng sanh của mười hai thần tướng, lại nên mệnh danh Bạt trừ hết thảy nghiệp chướng. Nên phụng trì như vậy. 

Khi đức Thế tôn nói lời này rồi, các vị đại bồ tát cùng các vị đại thanh văn, quốc vương, đại thần, đạo sĩ, cư sĩ, thiên chúng, long chúng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la dà, loài người và loài không phải người, toàn thể đại chúng như vậy nghe những điều Phật dạy, ai cũng cực kỳ hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát  (3 lần)

Hoàn kinh

(Ðảnh lễ)
Nhất tâm đảnh lễ bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nhất tâm đảnh lễ Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ chư Phật Bồ tát trong pháp hội Dược sư.
Nhất tâm đảnh lễ Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Văn thù sư lợi bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Quan thế âm bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Ðắc đại thế bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Vô tận ý bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Bảo đàn hoa bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Dược vương bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Dược thượng bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Di lạc bồ tát

(cầu nguyện.- I. Cầu nguyện cho bản thân)
Ðệ tử tên x x pháp danh x x, đem công đức thọ trì kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai, cầu nguyện bịnh chướng tiêu trừ, phước thọ tăng trưởng, đời này thiện căn không bị trở ngại, kiếp sau đích thân tiếp nhận sự thọ ký tối thượng của Phật. 

(2. cầu nguyện cho người khác)
Ðệ tử tên xx pháp danh xx, chí thành vì xx, pháp danh xx, thọ trì kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai, cầu nguyện xx nhờ công đức này mà bịnh chướng tiêu tan, phước thọ tăng thượng, chánh tín không bị phá hoại, thiện căn không bị trở ngại, đời này thân cận phụng sự Tam bảo, kiếp sau đích thân nhận được sự thọ ký của Phật.

(Hồi hướng)
Nguyện đem công đức này
hướng về khắp tất cả,
nguyện con và chúng sanh
đều trọn thành Phật đạo.

(Qui y Tam bảo)
Tự qui y Phật,
xin nguyện chúng sanh,
thể theo đạo cả,
phát lòng vô thượng.

Tự qui y Pháp,
xin nguyện chúng sanh,
thấu rõ kinh tạng,
trí tuệ như biển.

Tự qui y Tăng,
xin nguyện chúng sanh,
thống lý đại chúng,
hết thảy không ngại.

Mục lục

Tiểu dẫn. 5
Lời đề khóa tụng kinh Dược Sư của Ngọc lâm quốc sư. 8
Kinh Dược  sư. 11
Sám  Dược  sư  cuốn trước. 68
Sám  Dược  sư  cuốn  giữa. 94
Sám  Dược  sư  cuốn  sau. 128
Lược giải kinh dược sư (có mục lục riêng) 153
Ghi chú. 222 

 Sám  Dược  sư – cuốn trước

Khai kinh

(Tán lễ Phật)
Ðại từ đại bi
thương xót chúng sanh,
đại hỷ đại xả
cứu vớt muôn loài,
hào quang diệu tướng
dùng tự trang nghiêm,
chúng con chí thành
qui y đảnh lễ.
Nhất tâm đảnh lễ Phật bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Pháp bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Tăng bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nhất tâm đảnh lễ Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ chư Phật Bồ tát trong pháp hội Dược sư.

(cúng hương)
Hương thơm tâm tánh
đủ cả năm phần,
vừa được đốt lên
bởi lửa bản thể,
thì cả pháp giới
đều được chan hòa,
phàm cùng với thánh
xông ướp tất cả,
chính trong hương thơm 
quyện lên như vậy,
mà các đức Phật 
hiển lộ toàn thân.
Nam mô hương cúng dường bồ tát ma ha tát (3 lần)

( chân ngôn làm sạch ngoại cảnh)
Án lam sa ha. (21 lần)

(Chân ngôn làm sạch thân miệng ý)
Án sa phạ bà phạ thuật đà,
sa phạ đạt ma sa phạ, bà phạ thuật độ hám. (7 lần)

(Phát nguyện)
Kính lạy chư Thế tôn,
qui y các Phật đà,
nay con phát đại nguyện,
lễ bái Dược sư sám,
trên trả bốn ơn nặng,
dưới giúp ba đường khổ,
những người thấy nghe được,
đều phát tâm bồ đề,
báo thân này kết thúc,
cùng sanh các tịnh độ.

(Niệm hiệu  Phật)
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật. (3 lần)
Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Mở đầu vận dụng phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, chúng con ngày nay nên đem tánh mạng mà qui y đảnh lễ chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai :

Nam mô quá khứ Tỳ bà thi phật.
Nam mô Thi khí phật.
Nam mô Tỳ xá phù phật.
Nam mô Cầu lưu tôn phật.
Nam mô Câu na hàm mâu ni phật.
Nam mô Ca diếp phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô đương lai Di lạc tôn phật
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Dược sư hải hội Phật Bồ tát.

Phương pháp sám hối “Dược sư tiêu tai diên thọ”(5). cuốn trước

Hết thảy chư Phật thương tưởng chúng sanh, nên đã dạy cho phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”.  Là vì con người dơ bẩn quá nặng, bóng tối vô minh che khuất tâm trí, không hiểu nhân quả không siêng sám hối. Phóng túng tham lam sân hận ngu si, buông thả sát sanh trộm cắp dâm dục. Tội lỗi dơ bẩn đã tạo vô lượng vô biên, ác nghiệp oán cừu đã kết vô cùng vô tận, không hay không biết, ngày càng sâu dày. Ðến nỗi thúc ngắn đời sống lâu dài mà thành chết yểu chết oan, cách mất chức vị quan quyền mà thành thấp thỏi nghèo hèn, tước bỏ giàu sang sung túc mà thành nghèo khổ khốn cùng, chết non con trai con gái mà thành cô đơn lẻ chiếc. Mắc vào chín cái chết ngang trái, sa xuống ba con đường ác đạo. Khổ quả nhiều mối, tự tạo tác, tự lãnh chịu. ác báo nhiều cách, hoặc đời này, hoặc kiếp sau. Tơ tóc không sai, dầu mau dầu chậm chắn chắc phải trả.

Nên xưa kia, đức Thích ca  đã từ bi cứu vớt, bằng cách nói bản kinh về Bản nguyện và công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai(6), dạy người đọc tụng hãy tạo hình tượng đức Như lai  bảy vị, trước mỗi vị đặt bảy ngọn đèn, cái lượng mỗi ngọn đèn lớn như bánh xe, đốt đến bốn mươi chín ngày, ánh sáng không tắt. Nhưng việc ấy chỉ vua quan(7), cư sĩ đại gia, nhiều tiền lắm của, kho bồ tràn đầy mới làm nổi, còn người kém sức, lòng dẫu ưng muốn mà không có khả năng làm cho trang nghiêm đúng cách. Vì lý do ấy mà căn cứ chính trong kinh Bản nguyện công đức nói trên, diễn ra phương pháp sám hối “Tiêu tai diên thọ”, tiện cho mọi người tắm gội trai giới, hoặc trong chùa chiền, hoặc nơi nhà cửa, hoặc mời các vị xuất gia, hoặc cùng những người thiện niệm, rưới quét sửa dọn, hương hoa đèn nến, tùy sức hiến cúng, y văn đọc tụng, chí thành lễ bái, như thế thì không có sự mong cầu nào không ứng nghiệm, không có sự ước nguyện nào không hoàn thành.

Trong kinh dạy rằng, bộc bạch sám hối tội ác đã làm, là điều mà Tịnh danh đại sĩ ưa chuộng. Vì vậy mà sửa chứa quá khứ, tu tỉnh tương lai, tẩy giặt thân tâm, đoạn tuyệt ác pháp, thề không làm lại, tội lỗi nhiều kiếp sạch hết không còn, nên tùy nguyện cầu thỏa mãn tất cả. Ðệ tử chúng con chí tâm đảnh lễ khẩn cầu sám hối :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi lại sám hối tiếp. Nghĩ lại thời kỳ Phật pháp tương tự xuất hiện, nếu mọi người vì muốn lợi ích an lạc, nhổ trừ tất cả nghiệp chướng, xây dựng công đức hơn lạ ; muốn tu tập một cách đầy đủ đại nguyện của chư Phật, và thọ trì một cách trọn vẹn danh hiệu và kho báu chánh pháp của chư Phật ; muốn được vô thượng chánh biến giác, bâm hai tướng tốt và tám mươi tướng phụ trang hoàng cơ thể ; muốn được vô lượng trí tuệ phương tiện để làm cho chúng sanh đứng yên trong pháp đại thừa ; muốn tu hành phạn hạnh, được giới thể không thiếu sót, trọn vẹn giới pháp ba loại, tuyệt đối thanh tịnh không có phá phạm ; muốn được các giác quan đều hoàn bị, không mọi tật nguyền và bịnh khổ, nhà cửa, thân thuộc và đồ dùng đều đủ và nhiều ; muốn phá rách mạng lưới của ma vương, cổi mở ràng buộc của ngoại đạo, phát nhổ rừng rậm của mọi thứ ác kiến(9) ; nếu có nữ nhân muốn chuyển nữ thành nam, đầy đủ hình tướng trượng phu ; muốn cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái, cầu sống lâu được sống lâu ; hoặc bị phép vua làm tội mà muốn giải thoát mọi sự lo sợ thống khổ ; muốn được đồ ăn đồ uống tuyệt diệu, pháp vị no đủ, mọi thứ y phục tuyệt diệu và tất cả đồ trang sức bằng vàng ngọc ; muốn thực hành bố thí, mọi thứ mình có toàn không ham tiếc, hiến cả cho người đến xin ; muốn được chánh kiến, tinh tiến và ý thích khéo thuần hóa, đa văn thông lợi, lý giải nghĩa lý cực kỳ sâu xa, thường cầu thắng pháp, thường gặp thiện hữu ; muốn thọ trì giới pháp, nguyện sanh thế giới hệ Cực lạc ở phía tây, chỗ A di đà phật, để được nghe chánh pháp của ngài ; nếu có giới pháp đã phá hủy mà muốn phục hồi thanh tịnh, sinh mạng đã hết mà muốn cứu muốn nối ; cho đến quốc độ  và dân chúng bị mọi sự ngang trái và mọi sự tai nạn mà muốn tiêu trừ cho ẩn mất để mưa gió thuận thời, dân chúng vui vẻ, thì hãy trang nghiêm đúng cách, qui y và đảnh lễ đức Dược sư lưu ly quang như lai, nhất tâm tinh tiến, tu tập chánh định. Tại sao, vì đức Như lai ấy, khi làm hạnh bồ tát, đã phát mười hai đại nguyện tối thượng và nhiệm mầu, tạo ra công đức thù thắng, nên làm cho những người nghe được thì nghiệp chướng tiêu trừ, hết thảy sở cầu đều được mãn nguyện. Ðiều này chỉ các vị bồ tát còn hệ thuộc một đời mới có khả năng tin và hiểu đúng như sự thực, tu hành đúng như Phật dạy. Nên phải đem thân thể, tính mạng(10) và tài sản ra, không lẫn không tiếc, tận lực trang nghiêm, thì quyết chắc được kết quả và toại nguyện. Vì nghĩ lại như vậy, nên ngày nay đệ tử cùng những người hiện diện, tất cả đều chí tâm qui mạng đảnh lễ :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi lại sám hối tiếp. Nguyện xin chư Phật Bồ tát đồng vận từ bi, giáng lâm đạo tràng ; toàn thể tám bộ thiên long, các tướng Dạ xoa, cùng sinh thương tưởng, đi đến đạo tràng. Các thánh chúng như vậy, xin cùng chứng minh. Chúng con ngày nay, muốn vì chúng sanh khắp cả mười phương và toàn thể lục đạo, mà tu hành tuệ giác vô thượng, đoạn trừ hết thảy nghiệp chướng, cùng vào biển cả đại nguyện của đức Như lai, để hiện sắc thân khắp nơi, nơi trong một niệm mà cúng dường hết thảy Tam bảo khắp cả mười phương, nơi trong một niệm mà hóa độ cùng khắp tất cả chúng sanh trong lục đạo, làm cho họ nhập vào tuệ giác vĩ đại và bình đẳng. Vì muốn như vậy nên ngày nay nhất tâm tinh tiến, tu hành đúng như Phật dạy. Nguyện xin chư Phật, Bồ tát, đức Dược sư như lai, đem năng lực bản nguyện mà nhận cho sự sám hối của con, làm cho việc con làm quyết định phá trừ nghiệp chướng, viên thành hạnh nguyện. Như kinh đã dạy, nguyện xin chứng minh, “Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh viên mãn, quang minh quảng đại. Công đức đồ sộ thân khéo an trú. Lưới sáng tráng lệ quá hơn nhật nguyệt. Chúng sanh tối tăm được soi sáng cả… Tùy mong cầu gì cũng đều toại nguyện… Bao nhiêu bịnh khổ đều tiêu tan cả… Vô lượng bồ tát hạnh, vô lượng thiện phương tiện, và vô lượng quảng đại nguyện, của đức phật Dược sư, trong một đại kiếp hay hơn một đại kiếp, ta, Thích ca như lai, nói một cách đầy đủ thì đại kiếp ấy có thể kết thúc mau chóng, còn hạnh nguyện và phương tiện của đức Phật này vẫn không cùng tận”. Vì thế mà chúng con chí tâm qui mạng đảnh lễ :

Nam mô, Bạc già phạt đế, bệ sát xã lũ rô – bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha : Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ – bệ sát xã – tam một yết đế, sa ha. (3 lần)

Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát. ( 3 lần)

Hoàn kinh

(Tán Phật)
Kính lạy đức Dược sư,
chánh giác rất vi diệu,
ở cõi Tịnh lưu ly,
thuộc phía đông cõi này ;
Ngài thật khó nghĩ bàn,
đủ ba vô số kiếp,
và không ai sánh bằng,
với mười hiệu tôn xưng.
Trong nhân đã phát ra
mười hai môn đại nguyện
trong quả đã viên mãn
trăm ngàn loại tướng hảo ;
biển từ bi rộng lớn
khó ai lường cho nổi,
núi công đức cao cả
không thể khen cho cùng.
Nam mô đông phương Tịnh lưu ly giới, Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh  biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, phật : thế  tôn(11).

(Niệm Phật)
Nam mô Dược sư lưu ly quang phật. (30 đến 108 tiếng)
(từ đây sắp xuống, mỗi danh hiệu 3 tiếng)
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát. 
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.

( cầu nguyện 1. Cầu nguyện cho bản thân )
Ðệ tử tên xx pháp danh xx, đem công đức bái sám theo phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, cầu nguyện bịnh chướng tiêu trừ, phước thọ tăng trưởng, đời này thiện căn không bị trở ngại, kiếp sau đích thân tiếp nhận sự thọ ký tối thượng của Phật.

(2. cầu nguyện cho người khác)
Ðệ tử tên xx pháp danh xx, chí thành vì xx, pháp danh xx, bái sám theo phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, cầu nguyện xx nhờ công đức này mà bịnh chướng tiêu tan, phước thọ tăng thượng, chánh  tín không bị phá hoại, thiện căn không bị trở ngại, đời này thân cận phụng sự tam bảo, kiếp sau đích thân nhận được sự thọ ký của Phật.

(Hồi hướng)
Nguyện đem công đức này
hướng về khắp tất cả,
nguyện con và chúng sanh
đều trọn thành Phật đạo.

(Qui y Tam bảo)
Tự qui y Phật,
xin nguyện chúng sanh,
thể theo đạo cả,
phát lòng vô thượng.

Tự qui y Pháp,
xin nguyện chúng sanh,
thấu rõ kinh tạng,
trí tuệ như biển.

Tự qui y Tăng,
xin nguyện chúng sanh,
thống lý đại chúng,
hết thảy không ngại.

Mục lục

Tiểu dẫn. 5
Lời đề khóa tụng kinh Dược Sư của Ngọc lâm quốc sư. 8
Kinh Dược  sư. 11
Sám  Dược  sư  cuốn trước. 68
Sám  Dược  sư  cuốn  giữa. 94
Sám  Dược  sư  cuốn  sau. 128
Lược giải kinh dược sư (có mục lục riêng) 153
Ghi chú. 222 

Sám  Dược  sư – cuốn  giữa

Khai kinh

(Tán lễ Phật)
Ðại từ đại bi
thương xót chúng sanh,
đại hỷ đại xả
cứu vớt muôn loài,
hào quang diệu tướng
dùng tự trang nghiêm,
chúng con chí thành
qui y đảnh lễ.
Nhất tâm đảnh lễ Phật bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Pháp bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Tăng bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nhất tâm đảnh lễ Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ chư Phật Bồ tát trong pháp hội Dược sư.

(cúng hương)
Hương thơm tâm tánh
đủ cả năm phần,
vừa được đốt lên
bởi lửa bản thể,
thì cả pháp giới
đều được chan hòa,
phàm cùng với thánh
xông ướp tất cả,
chính trong hương thơm 
quyện lên như vậy,
mà các đức Phật 
hiển lộ toàn thân.
Nam mô hương cúng dường bồ tát ma ha tát (3 lần)

( chân ngôn làm sạch ngoại cảnh)
Án lam sa ha. (21 lần)

(Chân ngôn làm sạch thân miệng ý)
Án sa phạ bà phạ thuật đà,
sa phạ đạt ma sa phạ, bà phạ thuật độ hám. (7 lần)

(Phát nguyện)
Kính lạy chư Thế tôn,
qui y các Phật đà,
nay con phát đại nguyện,
lễ bái Dược sư sám,
trên trả bốn ơn nặng,
dưới giúp ba đường khổ,
những người thấy nghe được,
đều phát tâm bồ đề,
báo thân này kết thúc,
cùng sanh các tịnh độ.

(Niệm hiệu  Phật)
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật. (3 lần)
Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Phương pháp sám hối Dược sư tiêu tai diên thọ, cuốn giữa.

Hết thảy chư Phật thương tưởng chúng sanh, dạy cho phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, nên ngày nay chúng con đem tánh mạng mà qui y đảnh lễ hết thảy chư Phật :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi lại sám hối tiếp. Ðệ tử chúng con khắp vì bốn ơn(12) ba cõi(13) và pháp giới chúng sanh, nguyện đoạn trừ cả ba thứ chướng ngại(14), nên qui tánh mạng về nơi Phật, đảnh lễ mà sám hối. Con với chúng sanh, vô thỉ đến giờ, do ái và kiến(15) mà trong chấp nhân ngã, ngoài vì bạn xấu, nên không tùy hỷ ai cả, dầu là một điều thiện bằng tơ tóc, chỉ biết khắp  cả thân miệng ý cùng làm đủ các ác nghiệp. Việc tuy không rộng mà ác ý bủa khắp. Ngày đêm liên tục, không có gián đoạn. Che giấu lỗi lầm, không muốn ai hay. Không sợ ác đạo, không hổ không thẹn. Bài bác, cho rằng không có nhân quả. Tội chướng như vậy mà chưa hề trải qua sự sám hối nào cả. Chúng con ngày nay dối trước chư Phật khắp cả mười phương, trước đức Dược sư như lai, tin tưởng sâu xa nguyên lý nhân quả, phát sanh hổ thẹn hệ trọng và phát sanh sợ hãi to lớn mà bộc bạch sám hối. Ðoạn tâm liên tục mà phát tâm bồ đề. Ðoạn ác tu thiện, siêng năng thúc dục cả thân miệng ý. Ðổi bỏ tánh xấu nặng nề ngày xưa mà tùy hỷ đối với người phàm cũng như bậc thánh, dầu chỉ một điều thiện bằng tơ tóc mà thôi. Nghĩ nhớ đức phật Dược sư có cái sức của thệ nguyện to lớn, có thể cứu vớt con, đem con ra khỏi biển hai chết(16) mà đặt lên trên bờ ba đức(17), nên nguyện xin Ngài từ bi, thương xót nhiếp thọ. Tất cả đều chí tâm qui mạng đảnh lễ :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi lại sám hối tiếp. Ðệ tử chúng con từ vô thỉ đến ngày nay, có cái bịnh tham lam sân hận và tật đố, cái bịnh kiêu mạn ngạo ngược, cái bịnh không biết thiện ác, cái bịnh không tin tội phước, cái bịnh bất hiếu ngũ nghịch(18), cái bịnh phá phạm trai giới, cái bịnh phá phạm thi la(19), cái bịnh khen mình chê người, cái bịnh ham được không chán, cái bịnh say mê tiếng hay và chạy theo sắc đẹp, cái bịnh ham hố hơi thơm và ưa thích đụng chạm, cái bịnh tin theo sự thấy cong và ngược(20) cái bịnh đam mê tửu sắc mà phóng túng vô độ, cái bịnh dầu gặp thầy mà lại cho thuốc không đúng, cái bịnh vô lượng tai nạn, khổ nhục, và bi thảm sầu muộn khác nữa, ngâm nấu bức bách, làm cho cả cơ thể lẫn tâm trí đều chịu  thống khổ. Muốn làm cho những bịnh khổ ấy tiêu trừ, sở cầu mãn nguyện, nên bấy giờ đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai nhập định danh hiệu Diệt trừ mọi khổ não của chúng sanh. Nhập định ấy rồi, từ trong nhục kế phóng ra ánh sáng lớn. Trong ánh sáng này diễn ra đà la ni vĩ dại sau đây : Nam mô, Bạc già phạt đế, bệ sát xã lũ rô – bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha : Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ – bệ sát xã – tam một yết đế, sa ha. Khi trong ánh sáng diễn ra đà la ni vĩ  đại ấy rồi, đại địa chấn động, phóng ánh sáng lớn, hết thảy chúng sanh bịnh khổ tiêu trừ, hưởng dược cái vui yên ổn.

Do đó mà biết công năng sám hối là tễ thuốc linh nghiệm làm lành bịnh thân tâm, là toa thuốc thần kỳ làm thoát khổ sinh tử. Có vị đại y vương theo bịnh đặt thuốc : từ bi hỷ xả là thuốc, nhẫn nhục nhu hòa là thuốc, chánh tín Tam bảo là thuốc, siêng tu phước tuệ là thuốc, sáu ba la mật là thuốc, ăn no cam lộ là thuốc, ham cầu pháp vị là thuốc, tu chân dưỡng khí là thuốc, phản bản hoàn nguyên là thuốc, có lỗi đổi được là thuốc, phương tiện khôn khéo là thuốc, không động vì tiếng hay sắc đẹp là thuốc, lắng lòng tuyệt dục là thuốc. Thường dùng những thứ thuốc như vậy giã ra, giần đi, rồi hợp lại mà thường thường đem uống.

Nhưng, chúng sanh nếu bịnh lẽ ra cùng một bịnh, chúng sanh cần thuốc lẽ ra cùng một thuốc. Nếu nói có nhiều pháp thì thế là điên đảo. Nếu căn cứ thật tướng của nhất thừa(21) mà nói, thì đâu có thêm có bớt, có dơ có sạch, có lành có dư, có tội có phước, có bịnh có thuốc. Nhìn lại phương tiện trước đã áp dụng, thật như người trong chiêm bao : chiêm bao thấy thân bị bịnh nên tìm thầy uống thuốc mà được hết được lành ; đến lúc tỉnh giấc chiêm bao thì rõ ra vốn là không bịnh, sự không bịnh cũng không, huống chi thầy với thuốc. Nên bịnh của chúng sanh toàn là bịnh huyễn, thuốc của chư Phật toàn là thuốc huyễn. Do đó mà biết, pháp mà Như lai thuyết ra toàn là một tướng một vị, tướng vị giải thoát, tách rời, diệt sạch, cứu cánh niết bàn, chung qui về Không(22). Ví như từ một đám mây mà mưa xuống, thì cây thuốc lớn nhỏ gì cũng được tốt tươi, chúng con ngày nay nhờ ơn Phật mà được nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, không còn có nữa cái nạn bịnh khổ, mới có khả năng đạt đến một cách trọn vẹn tuệ giác vô thượng bồ đề. Vì vậy, ngày nay chúng con đốc suất nhau, cùng nhau nhất tâm, suốt đời qui y Phật Pháp Tăng. Và bây giờ qui y đảnh lễ hết thảy chư Phật :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi lại sám hối tiếp. Nếu người nào muốn thoát bịnh khổ, nên vì họ mà bảy ngày đêm thọ trì Bát quan trai giới. Nên đem đồ ăn, đồ uống và đồ dùng, tùy sức liệu biện mà cúng dường Tỷ kheo tăng. Ngày đêm sáu buổi lễ bái hành dạo, cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu  ly quang như lai. Ðọc tụng bản kinh tôn quí(23) bốn mươi chín biến. Ðốt bốn mươi chín ngọn đèn. Ðến bốn mươi chín ngày đêm, ánh sáng không đứt. Như vậy thì có thể qua được tai nạn nguy khốn, không bị mọi thứ ngang trái và quỉ dữ tác hại. Vì vậy, ngày nay đệ tử cùng với những người hiện diện, tất cả đều cùng cực tinh tiến(24), đốt hương rãi hoa, thắp đèn treo phan(25), phóng sanh tu phước, để được qua khỏi khốn khổ, không gặp mọi sự hoạn nạn. Nguyện xin đức Như lai chứng minh cho sự sám hối của con.

Ðệ tử chúng con từ vô thỉ đến ngày nay, làm gì cũng không vừa ý. Nên biết tất cả đều vì quả báo sót lại của ác nghiệp từ quá khứ đến nay, mà gây ra. Vì vậy, ngày nay cần phải nỗ lực mà cầu xin sám hối. Sám hối quả báo ác mộng, những cảnh tượng khủng khiếp, những sự không cát tường của trong loài người. Sám hối quả báo bịnh dữ liền năm, lắm tháng không lành, gối giường nằm chiếu, không thể đứng đi của trong loài người. Sám hối quả báo đông ôn hạ dịch(26), sốt ác tính và thương hàn của trong loài người. Sám hối quả báo thủy tai hỏa hoạn, trộm cướp giặc giả, chiến tranh nguy khốn của trong loài người. Sám hối quả  báo bị sư tử, cọp, sói, rắn độc, bò cạp, rít và sâu làm hại của trong loài người. Sám hối quả báo sanh lão bịnh tử, lo buồn khổ não của trong loài người. Sám hối quả báo thân miệng và ý toàn là công cụ tạo tác và tăng trưởng đủ thứ ác nghiệp của cả chúng sanh. Sám hối quả báo sẽ sa vào ba ác đạo, nhiều lần ngàn năm chịu mọi sự khổ sở khốc liệt của cả chúng sanh. Sám hối quả báo hay bị trôi lăn vô cùng trong địa ngục, súc sanh và loài quỉ(27) của cả chúng sanh. Sám hối quả báo lại sanh nữa trong các ác đạo của cả chúng sanh. Sám hối quả báo làm tôi tớ người, bị người sai sử của cả chúng sanh. Sám hối quả báo hoặc làm trâu bò, lừa ngựa, lạc đà, thường bị đánh dập, lại còn quả báo luôn luôn mang nặng chở nhiều, đi theo đường phải đi mà bị đói khát hành hạ, của cả chúng sanh. Sám hối quả báo bị bùa ếm, thuốc độc và quỉ khởi thi(28) ngụy tạo yêu dị của trong loài người. Cùng loại như vậy, trong hiện tại cũng như vị lai, loài người cũng như chư thiên, quả báo có vô lượng tai họa, ngang trái, biến cố, thời khí, chết chóc, hoạn nạn, suy tồn và quấy phá. Chúng con ngày nay chí thành hướng về đức phật Dược sư, về thánh chúng qui tụ như biển cả, mà cầu xin sám hối, nguyện tiêu diệt cả.

Trước đã cứu xét cái lẽ cứu cánh là bịnh này thuốc này đồng là huyễn ảo, lại cứu xét mà sám hối trọn vẹn hết thảy báo chướng do ác nghiệp gây ra. Nay nên tuần tự phát nguyện hồi hướng. Ðệ tử chúng con nguyện đem công đức được phát sanh bởi sự sám hối ba thứ chướng ngại mà hồi hướng cả, hiến cho hết thảy chúng sanh để cùng sám hối. Nguyện cùng chúng sanh, từ nay sắp đi, cho đến ngày thực hiện tuệ giác vô thượng, nhớ khổ sanh tử mà phát bồ đề tâm. Ðổi ác làm lành, bỏ tà về chánh. Thân tâm an lạc, sống lâu vô cùng, áo cơm sung túc, nhà cửa, thân thuộc, đồ dùng và kho nẫm tràn đầy. Hình tướng đoan chánh, trí tuệ thông minh, uy nghiêm dũng liệt. Các tướng Dạ xoa hộ vệ, chư Phật thánh chúng nhiếp thọ. Làm gì cũng được ân trạch của đức Từ bi.

Ðệ tử chúng con lại nguyện từ nay sắp đi, mau chứng tuệ giác bồ dề, tướng tốt tướng phụ và ánh sáng đều tráng lệ, lạ và hơn cả. Nguyện chúng sanh được ánh sáng soi sáng, tùy ý hướng mà làm mọi sự nghiệp. Nguyện chúng sanh cùng được vô tận những vật hưởng dụng, không có sự thiếu thốn. Nguyện chúng sanh xây dựng đại thừa, cùng được ở yên trong dạo giác ngộ(29). Nguyện chúng sanh dược giới thể không thiếu sót, giả sử phá phạm thì phục hồi thanh tịnh. Nguyện chúng sanh đẹp đẽ, thông minh, giác quan hoàn bị, hết mọi bịnh khổ. Nguyện chúng sanh bịnh khổ tan biến, nhà cửa, thân thuộc và đồ dùng, đầy đủ tất cả. Nguyện chúng sanh chuyển thân nữ nhân thành thân nam tử, đủ tướng trượng phu, cho đến thực hiện tuệ giác vô thượng. Nguyện chúng sanh thoát khỏi mạng lưới của ma vương, cổi mở thắt buộc của ngoại đạo. Nguyện chúng sanh, phép vua làm tội, bi thảm sầu muộn ngâm nấu bức bách, đều thoát được cả. Nguyện chúng sanh ăn uống no đủ, sau đó lại được xây dựng bằng cái vui cứu cánh của pháp vị. Nguyện chúng sanh, như sở thích của họ, mọi thứ y phục tùy ý mong muốn đầy đủ tất cả(30).

Lại nguyện tất cả chúng sanh, sống lâu, giàu có, quan chức, con trai con gái, cầu gì cũng toại nguyện cả. Nguyện tất cả quốc  độ, trăm sự quái dị, chín cái chết ngang trái, tám thứ chướng nạn, ba thứ tai họa(31), nước khác xâm lăng quấy nhiễu, đạo tặc làm phản làm loạn, hết thảy nạn dữ như vậy tiêu mất tất cả ; quốc độ yên ổn, gió mưa điều hòa, lúa má thành thục, mọi người vô bịnh, vui vẻ, hạnh nguyện bồ đề sáng chói hơn lên trong từng ý nghĩ, cứu giúp người khác đau khổ thì luôn luôn tưởng như cứu vớt bản thân.

Lại nguyện đời đời kiếp kiếp, sanh ra ở đâu cũng không rơi nhằm những chỗ biên thùy, mọi rợ, mà lại sinh vào gia đình chánh tín ; tướng mạo đoan nghiêm, trí tuệ biện tài ; viễn ly ác pháp, thân cận thiện hữu ; kiên trì giới hạnh, kiến lập đại thừa. Lại nguyện đời đời kiếp kiếp,  sanh ra ở đâu cũng chấn hưng pháp Phật, phá hủy lưới ma ; phấn chí mà tu hành đầy đủ sáu ba la mật ; quảng tu cúng dường để trang nghiêm hai thứ phước tuệ, nhẫn nhục tinh tiến để thực hiện tuệ giác bồ đề.

Chúng con ngày nay nên nghĩ báo ân đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai, bằng cách h an lạc hết thảy chúng sanh. Vì thế mà chúng con chí tâm qui y đảnh lễ :

Nam mô, Bạc già phạt đế, bệ sát xã lũ rô – bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát diệt tha : Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ – bệ sát xã – tam một yết đế, sa ha. (3 lần)

Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

 Hoàn kinh

(Tán Phật)
Kính lạy đức Dược sư,
chánh giác rất vi diệu,
ở cõi Tịnh lưu ly,
thuộc phía đông cõi này ;
Ngài thật khó nghĩ bàn,
đủ ba vô số kiếp,
và không ai sánh bằng,
với mười hiệu tôn xưng.
Trong nhân đã phát ra
mười hai môn đại nguyện
trong quả đã viên mãn
trăm ngàn loại tướng hảo ;
biển từ bi rộng lớn
khó ai lường cho nổi,
núi công đức cao cả
không thể khen cho cùng.
Nam mô đông phương Tịnh lưu ly giới, Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, phật : thế tôn.

(Niệm Phật)
Nam mô Dược sư lưu ly quang phật. (30 đến 108 tiếng)
(từ đây sắp xuống, mỗi danh hiệu 3 tiếng)
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát. 
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.

( cầu nguyện 1. Cầu nguyện cho bản thân )
Ðệ tử tên xx pháp danh xx, đem công đức bái sám theo phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, cầu nguyện bịnh chướng tiêu trừ, phước thọ tăng trưởng, đời này thiện căn không bị trở ngại, kiếp sau đích thân tiếp nhận sự thọ ký tối thượng của Phật.

(2. cầu nguyện cho người khác)
Ðệ tử tên xx pháp danh xx, chí thành vì xx, pháp danh xx, bái sám theo phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, cầu nguyện xx nhờ công đức này mà bịnh chướng tiêu tan, phước thọ tăng thượng, chánh  tín không bị phá hoại, thiện căn không bị trở ngại, đời này thân cận phụng sự tam bảo, kiếp sau đích thân nhận được sự thọ ký của Phật.

(Hồi hướng)
Nguyện đem công đức này
hướng về khắp tất cả,
nguyện con và chúng sanh
đều trọn thành Phật đạo.

(Qui y Tam bảo)
Tự qui y Phật,
xin nguyện chúng sanh,
thể theo đạo cả,
phát lòng vô thượng.

Tự qui y Pháp,
xin nguyện chúng sanh,
thấu rõ kinh tạng,
trí tuệ như biển.

Tự qui y Tăng,
xin nguyện chúng sanh,
thống lý đại chúng,
hết thảy không ngại.

Mục lục

Tiểu dẫn. 5
Lời đề khóa tụng kinh Dược Sư của Ngọc lâm quốc sư. 8
Kinh Dược  sư. 11
Sám  Dược  sư  cuốn trước. 68
Sám  Dược  sư  cuốn  giữa. 94
Sám  Dược  sư  cuốn  sau. 128
Lược giải kinh dược sư (có mục lục riêng) 153
Ghi chú. 222 

 Sám  Dược  sư – cuốn  sau

Khai kinh

(Tán lễ Phật)
Ðại từ đại bi
thương xót chúng sanh,
đại hỷ đại xả
cứu vớt muôn loài,
hào quang diệu tướng
dùng tự trang nghiêm,
chúng con chí thành
qui y đảnh lễ.
Nhất tâm đảnh lễ Phật bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Pháp bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Tăng bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nhất tâm đảnh lễ Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ chư Phật Bồ tát trong pháp hội Dược sư.

(cúng hương)
Hương thơm tâm tánh
đủ cả năm phần,
vừa được đốt lên
bởi lửa bản thể,
thì cả pháp giới
đều được chan hòa,
phàm cùng với thánh
xông ướp tất cả ;
chính trong hương thơm
quyện lên như vậy,
mà các đức Phật
hiển lộ toàn thân.
Nam mô hương cúng dường bồ tát ma ha tát (3 lần).

(Chân ngôn làm sạch ngoại cảnh)
Án lam sa ha (21 lần)

(Chân ngôn làm sạch thân miệng ý)
Án sa phạ bà phạ thuật đà, sa phạ đạt ma sa phạ, bà phạ thuật độ hám (7 lần).

(Phát nguyện)
Kính lạy chư Thế tôn,
qui y các Phật đà,
nay con phát đại nguyện,
lễ bái Dược sư sám,
trên trả bốn ơn nặng,
dưới giúp ba đường khổ,
những người thấy nghe được,
đều phát tâm bồ đề,
báo thân này kết thúc,
cùng sanh các tịnh độ.

(Niệm hiệu  Phật)
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật. (3 lần)
Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

 Phương pháp sám hối Dược sư tiêu tai Diên thọ”, cuốn sau

Chư Phật trong ba thì gian thương tưởng chúng sanh, dạy cho phương pháp sám hối đạo tràng Dược sư”, nên ngày nay chúng con đem tánh mạng mà qui y đảnh lễ hết thảy chư Phật :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi lại sám hối tiếp. Ðệ tử chúng con, từ trên đến đây, đã sám hối rồi, bây giờ nên phát sanh tâm không dơ bẩn, tâm không giận dữ tác hại, nghĩa là đối với hết thảy chúng sanh khởi lên cái tâm lợi ích an lạc, từ bi hỷ xả và bình đẳng. Chính trong tâm nguyện như vậy mà nhiếp niệm chánh quán. Bằng cách không tuyệt kiết sử mà cũng không giữ kiết sử(32), quán các pháp không, như thật tướng.

Quán các pháp không là thế nào ? Hành giả xét kỹ, hiện tại một tâm niệm đây, chỉ là vọng tâm tùy duyên hiện khởi. Tâm như vậy, là do tâm mà thành tâm ? là không do tâm mà thành tâm ? là cũng do tâm, cũng không do tâm mà thành tâm ? là không phải do tâm, không phải không do tâm mà thành tâm ? là ở quá khứ, ở hiện tại hay ở vị lai ? là ở trong, ở ngoài hay ở trung gian ? có dấu vết gì ? ở phương chỗ nào ? Trong mọi sự tương quan như vậy mà tìm tâm, vẫn thấy cứu cánh không thể tìm được, như huyễn như mộng, không danh không tướng. Bấy giờ hành giả còn không thấy tâm là sinh tử, đâu có thấy tâm là niết bàn. Và không tìm được cái bị xét thì cũng không tìm được cái hay xét, không lấy không bỏ, không dựa không bám, cũng không trú ở nơi sự yên lặng, con đường ngôn ngữ đã tuyệt(33), hết thể trình bày nói phô. Xét tâm không thật là tâm thì tội phước không có chủ thể. Tội phước tánh không thì hết thảy các pháp toàn là không. Tâm không phải tâm, pháp chẳng ở  pháp. Sám hối như vậy gọi là sự sám hối to lớn, là sự sám hối phá hủy tâm thức. Vì lý do này, tâm này cũng như tâm khác thực sự lặng mất, niệm trước cùng với niệm sau toàn không trú ở. Như hư không mà hư không cũng không thể tìm được, sự không thể tìm được cũng không thể tìm được, tự nhiên siêu việt trên các tam muội, ánh sáng chiếu sáng, vạn pháp hiển hiện, thấu suốt tất cả, không còn chướng ngại, quảng đại như pháp tánh, cứu cánh như hư không. Nguyện xin được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện. Ðệ tử chúng con, ai nấy vận dụng tất cả tâm trí mà qui y đảnh lễ :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi, lại kế tiếp xét thật tướng của tâm. Bất cứ lúc nào, bất cứ làm gì, dầu đi dầu đứng, dầu ra dầu vào, đại tiện tiểu tiện, rưới quét rửa giặt, thi vi cử động, cúi ngước xem nghe, đều nên một lòng tưởng niệm Tam bảo, xét tâm tánh không. Không được, dầu trong khoảnh khắc mà thôi, nhớ đến ngũ dục, đến việc đời, sinh tâm tà niệm.

Không cùng người nói năng bàn tán, buông thả giỡn cợt, nhìn sắc đẹp, nghe tiếng hay, bám dính cảnh trần, nổi nghiệp bất thiện, nổi ý niệm tạp mà thực chất là phiền não vô ký, không thể tu hành đúng như Phật pháp. Nếu quả tâm tâm liên tục, không rời phật tướng, không tiếc thân mạng, vì toàn thể chúng sanh mà tu hành phương pháp sám hối, thì thế gọi là chân thật, là nhất tâm tinh tiến, lấy Phật pháp mà trang hoàng. Do đó, chúng con lại chí thành, năm bộ phận gieo xuống sát đất mà qui y đảnh lễ Tam bảo thường trú :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi lại chí tâm sám hối. Ðệ tử chúng con cùng với pháp giới hết thảy chúng sanh, từ vô thỉ đến bây giờ, vì ba thứ chướng ngại vấn thắt và úp che tâm trí, nên đối với mọi cảnh tượng vọng sinh tham trước ; ngu si vô trí, thiếu mất tín tâm, đem thân miệng ý tạo đủ ác nghiệp, đến nỗi phỉ báng Phật pháp, phá phạm thi la, triển chuyển thường làm những việc bất lợi. Hoặc ở  tịnh địa(34) nhưng thánh quả chưa tròn đầy, lưu chú(35) nhỏ nhiệm nên tam muội khó kết quả. Nay gặp đức Dược sư lưu ly quang như lai là có thể trừ diệt tội  chướng mau chóng, thành tựu quả vị diệu giác(36). Nên con chí tâm qui hướng, cúi đầu trán, gieo chân thành, bộc bạch tội lỗi, cầu xin sám hối. Nguyện xin đấng Biển cả đại nguyện đại từ bi(37) bình đẳng nhiếp thọ, làm cho con, và pháp giới chúng sanh, nghiệp chướng cũ tự tiêu mất, mọi tai nạn đều thoát qua. Ðập võ vô minh, khô sông phiền não. Chánh kiến mở tỏ, diệu tâm sáng suốt. Ở yên nơi tuệ giác bồ đề, nên ánh sáng của bản thể luôn luôn vắng lặng(38) được hiện tiền. Không bịnh, yên vui, đúng như sở thích mong cầu, mọi đồ trang sức(39) tùy ý muốn gì có nấy. Giác quan tinh nhuệ, đa văn và lý giải thấu suốt. Giữ phạn hạnh một cách tinh thuần, nhập vào tam ma địa. Vận dụng vô lượng phương tiện của trí tuệ mà làm cho chúng sanh được mọi đồ dùng, không thiếu chi cả. Khéo tu đủ thứ bồ tát pháp hạnh, mau chứng vô thượng chánh đẳng bồ đề. Ðến lúc gần chết thì minh mẫn, yên lành, vui đẹp, quyết định sanh thế giới hệ Cực lạc của đức phật A di đà, thuộc về phía tây. Bằng s ị đại bồ tát. Tự nhiên hóa sinh trong hoa quí báu. Rồi tiếp nhận sự thọ ký của Phật, thực hiện vô lượng đà la ni môn. Nên hết thảy công đức đều thành tựu được cả. Sau đó phân hóa thân hình ra vô số, khắp cả thế giới hệ trong mười phương. Trong một niệm mà cúng dường hết thảy chư Phật khắp cả pháp giới, trong một niệm mà hiện đủ sức thần, độ thoát hết thảy chúng sanh khắp cả pháp giới, thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Hư không mà cùng tận đi nữa, thệ nguyện của con trên đây cũng vẫn vô cùng. Sám hối phát nguyện rồi, chúng con qui y đảnh lễ hết thảy Tam bảo thường trú.

Nam mô, Bạc già phạt đế, bệ sát xã lũ rô – bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha : Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ – bệ sát xã – tam  một yết đế, sa ha. (3 lần)

Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Hoàn kinh

(Tán Phật)
Kính lạy đức Dược sư,
chánh giác rất vi diệu,
ở cõi Tịnh lưu ly,
thuộc phía đông cõi này ;
Ngài thật khó nghĩ bàn,
đủ ba vô số kiếp,
và không ai sánh bằng,
với mười hiệu tôn xưng.
Trong nhân đã phát ra
mười hai môn đại nguyện
trong quả đã viên mãn
trăm ngàn loại tướng hảo ;
biển từ bi rộng lớn
khó ai lường cho nổi,
núi công đức cao cả
không thể khen cho cùng.
Nam mô đông phương Tịnh lưu ly giới, Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, phật : thế tôn.

(Niệm Phật)
Nam mô Dược sư lưu ly quang phật. (30 đến 108 tiếng)
(từ đây sắp xuống, mỗi danh hiệu 3 tiếng)
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát. 
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.

( cầu nguyện 1. Cầu nguyện cho bản thân )
Ðệ tử tên xx pháp danh xx, đem công đức bái sám theo phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, cầu nguyện bịnh chướng tiêu trừ, phước thọ tăng trưởng, đời này thiện căn không bị trở ngại, kiếp sau đích thân tiếp nhận sự thọ ký tối thượng của Phật.

(2. cầu nguyện cho người khác)
Ðệ tử tên xx pháp danh xx, chí thành vì xx, pháp danh xx, bái sám theo phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, cầu nguyện xx nhờ công đức này mà bịnh chướng tiêu tan, phước thọ tăng thượng, chánh  tín không bị phá hoại, thiện căn không bị trở ngại, đời này thân cận phụng sự tam bảo, kiếp sau đích thân nhận được sự thọ ký của Phật.

(Hồi hướng)
Nguyện đem công đức này
hướng về khắp tất cả,
nguyện con và chúng sanh
đều trọn thành Phật đạo.

(Qui y Tam bảo)
Tự qui y Phật,
xin nguyện chúng sanh,
thể theo đạo cả,
phát lòng vô thượng.

Tự qui y Pháp,
xin nguyện chúng sanh,
thấu rõ kinh tạng,
trí tuệ như biển.

Tự qui y Tăng,
xin nguyện chúng sanh,
thống lý đại chúng,
hết thảy không ngại.

Mục lục

Tiểu dẫn. 5
Lời đề khóa tụng kinh Dược Sư của Ngọc lâm quốc sư. 8
Kinh Dược  sư. 11
Sám  Dược  sư  cuốn trước. 68
Sám  Dược  sư  cuốn  giữa. 94
Sám  Dược  sư  cuốn  sau. 128
Lược giải kinh dược sư (có mục lục riêng) 153
Ghi chú. 222 

Lược giải kinh dược sư

Mục lục Lược giải

Tài liệu. 155
Dịch giả. 157
Mệnh đề. 158
Cương yếu. 159
Lược giải 161
A1 mở đầu. 161
A2 nội dung, có 3 B. 164
B1. Danh hiệu. 164
B2. Bản nguyện. 168
B3. Công đức, có 7C. 174
C1. nói về y chánh trang nghiêm.. 174
C2. nói về đại dụng của danh hiệu, có 5 D. 177
D1. diệt sự tham lẫn mà được sự bố thí 177
D2. diệt sự phạm tội mà được sự giữ giới 179
D3. diệt sự ganh ghét mà được sự giải thoát 181
D4. diệt sự hại nhau mà được sự thương nhau. 182
D5. được sanh Cực lạc hay các sự chuyển sanh khác  184
C3. nói về đại dụng của chú. 188
C4. nói về đại dụng của sự phụng trì, có 3 D. 194
D1. Phật dạy tổng quát và ngài Văn thù phát nguyện. 194
D2. Phật chỉ cách thức và nói ích lợi 198
D3. Phật nói ích lợi trong sự khỏi nạn. 199
C5. nói là chỗ hiểu biết sâu xa của Phật 201
C6. nói cách tiêu tai diên thọ, có 5 D. 205
D1. chỉ cách tiêu tai diên thọ. 205
D2. chỉ thêm cách tiêu tai diên thọ, đặc biệt tiêu bịnh khổ  208
D3. lại còn tiêu quốc nạn. 210
D4. tiêu bất định nghiệp. 213
D5. tiêu cả định nghiệp. 215
C7. nói sự hộ vệ của Dạ xoa. 216
A3 kết thúc. 219
B1. nói tên kinh. 219
B2. chúng hội phụng hành. 220
Ghi chú. 222


Tài liệu

Tài liệu dùng để dịch giải kinh này gồm có :

  1. Phật thuyết quán đánh bạt trừ quá tội sanh tử đắc độ kinh quyển đệ thập nhị (Chính 21/532-536) ;
  2. Phật thuyết Dược sư như lai bản nguyện kinh (Chính 14/401-404) ;
  3. Dược sư lưu ly quang như lai bản nguyện công đức kinh (Chính 14/404-408) ;
  4. Dược sư lưu ly quang thất Phật bản nguyện công đức kinh (Chính 14/409-418) ;
  5. Dược sư kinh cổ tích (Vạn 35/172-178) ;
  6. Dược sư kinh trực giải (Vạn 35/179-196) ;
  7. Dược sư lưu ly quang như lai bản nguyện công đức kinh giảng ký (TH 28/2229-2408) ;
  8. Dược sư lưu ly quang như lai bản nguyện công đức kinh (bản in riêng, của cơ quan Lưu thông sách Phật ở Hương cảng) ;
  9. Dược sư lưu ly quang như lai bản nguyện công đức kinh (Trung Anh hợp san, của cơ quan Lưu thông sách Phật ở Hương cảng).

Ngoài 9 tài liệu trên đây, còn có Dược sư đăng diệm (Vạn 59/145-146) và 10 bản Nghi quỹ (Chính 19/20 – 67). Ðiều đáng nói và đáng tiếc là, theo Pđ 2838d, còn có tài liệu gọi là Dược sư kinh sớ của ngài Khuy cơ (đệ tử ngài Huyền tráng). Tài liệu này, nếu có, tất nhiên quan trọng bậc nhất. Nhưng hiện trong Ðại tạng kinh bản Ðại chính tân tu và Tục tạng kinh bản chữ Vạn đều không có.

Sau đây là những điều cần biết :

  1. Kinh này trước sau có 5 bản dịch : bản dịch 1 là tài liệu 1, dịch giả Cát hữu, dịch quãng 317 ; bản dịch 2 là Dược sư lưu ly quang kinh, dịch giả Tuệ giản, dịch quãng 457, bản này thất lạc ; bản dịch 3 là tài liệu 2, dịch giả Pháp hạnh, dịch năm 615 ; bản dịch 4 là tài liệu 3, dịch giả Huyền tráng, dịch năm 650 ; bản dịch 5 là tài liệu 4, dịch giả Nghĩa tịnh, dịch năm 707.
  2. Ðối chiếu đại khái về 4 bản dịch hiện còn trên đây thì cần ghi ngay ở đây là 2 chỗ : (l) tên 8 vị bồ tát là trích tài liệu 1 (Chính 21/533d) ; (2) chú là trích tài liệu 4 (Chính 14/414). Ðối chiếu này còn phải nói rõ hơn nơi mục dịch giả dưới đây.
  3. Bản văn tôi dịch là tài liệu 8, đối chiếu với bản chính là tài liệu 3 (bản dịch 4) và các tài liệu đã kê. Sự đối chiếu này sẽ nói rõ trong lược giải. Sở dĩ tôi chọn tài liệu 8 là vì bản này mới thường trì tụng.

Dịch giả

Thời đại nhà Ðường, Tam tạng pháp sư Huyền tráng dịch.

Niên đại của ngài Huyền tráng là 569-664. Kinh này dịch vào lúc ngài 55 tuổi, năm 650. Trên đây là tham khảo PHNC bài 18 trang 59-81. Bài này là bản niên phổ quí nhất của ngài Huyền tráng.

Nhưng, bản tài liệu 8 mà tôi căn cứ để dịch giải, đúng ra còn phải kê thêm các dịch giả Cát hữu và Nghĩa tịnh. Vì lẽ, như khoản B cần biết ở mục tài liệu trên đã nói, bản này có bổ túc 2 chỗ là tên 8 vị bồ tát và chú. Việc bổ túc ấy do ai thì tìm chưa thấy, nhưng chú thích số 11 và số 13 của Chính 14/406 (tài liệu 3, bản chính) cho biết có bản bổ túc như vậy. Sự bổ túc này đã lưu hành xưa nay.

Ðiều phải nói hơn nữa, là cả 2 chỗ bổ túc trong tài liệu 1 đã có. Riêng về chú, tài liệu 1 không những có (Chính 21/536t) mà nói có lý hơn cả tài liệu 4 (là nơi trích chú). Tài liệu 1 lại có trước nhất và sớm nhất, vào đầu thế kỷ 4 (317), còn tài liệu 4 có gần 4 thế kỷ sau (707). Vậy trích 2 chỗ nói trên mà bổ túc cho tài liệu chính (tài liệu 3, có năm 650) là rất phải.

Mệnh đề

Kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.

Mệnh đề này có nghĩa là bản kinh nói về bản nguyện và công đức của đức Dược sư.

Bản nguyện, bản, nghĩa đen là gốc, trước, của mình. Nguyện là thề nguyền, chí nguyện. Cái nguyện gốc, trước và của mình (đức Dược sư), gọi là bản nguyện.

Công đức, ở đây, nghĩa giản dị nhất, công là công tu, đức là được : hiệu quả đạt được bởi công năng tu tập, gọi là công đức. Công đức ấy của đức Dược sư gồm có :

– Chánh báo y báo trang nghiêm, tức thân thể và vũ trụ trang nghiêm của ngài ;

– Danh hiệu của ngài ;

– Những ích lợi (diệu dụng hay thần lực) mà ngài ban cho chúng sanh, trong đó có sự tiêu tai diên thọ.

Trong 3 loại công đức trên đây, danh hiệu có khi được tách ra mà nói danh hiệu, bản nguyện và công đức.

Dược sư lưu ly quang như lai là danh hiệu đầy đủ của đức Dược sư. Dược sư, Phạn tự là Bệ sát xã lũ rô (Bhaishajyaguru), nghĩa  đen : thầy thuốc chữa bịnh. Lưu ly quang là dịch âm (lưu ly) và dịch nghĩa (quang) Phạn tự Bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã (Vaiduryaprabha-rajaya), nghĩa đen : ánh sáng lưu ly. Lưu ly là dịch âm và gọi tắt tên một thứ ngọc đá. Ngọc này trong ngoài trong suốt màu xanh, vật gì gần nó cũng thành một màu ấy. Dược sư lưu ly quang như lai : một đức Như lai có danh hiệu là Thầy thuốc chữa bịnh, ánh sáng như ngọc lưu ly.

Cương yếu

Kinh này nội dung có 2 phần, là nói về bản nguyện và công đức của đức Dược sư. Phần danh hiệu chỉ là phần công đức tách ra.

Nhưng, nói về một đức Phật thì không phải chỉ có bản nguyện và công đức. Chỉ nói bản nguyện và công đức, vì đó là 2 phần nhân và quả của một đức Phật. Nhưng, nhân và quả của một đức Phật cũng không phải chỉ có bản nguyện và công đức. Chỉ nói bản nguyện và công đức là vì nhiều lý do, mà lý do quan trọng nhất là đề cao tha lực. Kinh này nói tự lực (sự hành trì của ta) thì ít, nói tha lực (sự gia hộ của Phật) mới nhiều. Mà nhân và quả của một đức Phật thì bản nguyện và công đức là 2 phần vì chúng sanh và cho chúng sanh, nên đặc biệt nêu lên.

Ðiều phải chú ý hơn hết là, như vừa nói, kinh này đề cao tha lực. Thật vậy, kinh này đề cao tha lực đến nỗi C5 trong B3 cho biết, sự gia hộ của Phật là điều thuộc “thậm thâm hành xứ” của Phật, điều của Phật làm và của Phật biết, chỉ “nhất sanh bồ tát” là bồ tát chỉ một đời nữa làm Phật mới tin và hiểu đúng như sự thực. Còn ngài A nan đi nữa mà tiếp nhận được là do uy lực của Phật, huống chi phàm phu chúng ta.


Lược giải

Như thường lệ, kinh này vẫn có 3 A : mở đầu, nội dung và kết thúc.

A1 mở đầu

Tôi nghe như vầy.

Một thời, đức Thế tôn du hóa các nước, đến thành Quảng nghiêm, dừng ở dưới cây Tiếng nhạc. Tám ngàn vị đại tỷ kheo, ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát, và các quốc vương, đại thần,  đạo sĩ cư sĩ tám bộ thiên long, loài người và loài không phải người, đại chúng vô lượng như vậy, cung kính vây quanh đức Thế tôn để được ngài thuyết pháp cho.

Tôi nghe như vầy (như thị ngã văn), nghĩa là “toàn bộ pháp thoại như thế này là do tôi nghe”. Câu này cũng có thể dịch tôi nghe như thế này, như vầy tôi nghe. Nhưng, như vầy là tiếng thổ ngữ, bất đắc dĩ mới dùng.

Ðạo sĩ (Bà la môn), Bà la môn đúng là giai cấp đạo sĩ, cũng như Sát đế lợi đúng là giai cấp võ sĩ. Tám bộ thiên long (thiên long bát bộ). Tám bộ là 8 loài : thiên, long, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la dà (Phạn tự : deva, naga, yaksha, gandharva, asula, garuda, kimnara, mahoraga). Tám bộ này, thiên và long là 2 loại mà đứng đầu, nên hay nói “thiên long bát bộ”. Nếu chép “thiên long dược xoa” thì cũng nói 8 bộ mà chỉ kê ra 3 loại đầu. Riêng kinh này, nếu chép “thiên long dược xoa” cũng có lý, vì C7 của B3, loại dạ xoa liên hệ nhiều đến kinh này.

Lúc ấy, Mạn thù pháp vương tử vâng theo uy thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai áo bên trái, gối bên phải quì xuống sát đất, hướng về đức Phật, cong mình, chắp tay mà thưa, bạch đức Thế tôn, con xin ngài nói về tướng loại như thế này, đó là danh hiệu, bản nguyện vĩ đại và công đức thù thắng của chư Phật, làm cho người nghe tiêu trừ những sự chướng ngại do nghiệp lực tạo ra. Là vì con muốn lợi lạc cho mọi người trong thời kỳ Phật pháp tương tự xuất hiện. Ðức Thế tôn tán dương Mạn thù đồng tử, lành thay Mạn thù, lành thay, ông đem lòng thương rộng lớn thỉnh cầu Như lai nói về danh hiệu, bản nguyện và công đức của chư phật dể cứu vớt những kẻ bị nghiệp chướng buộc thắt, lợi lạc mọi người trong thời kỳ Phật pháp tương tự. Ôâng hãy nghe kỹ, suy nghĩ rất khéo, Như lai sẽ nói cho. Mạn thù bạch Phật, dạ, xin Phật chỉ dạy, chúng con thích thú mà nghe.

Mạn thù = Mạn thù thất lợi, Văn thù sư lợi, Văn thù : Manjushri. Pháp vương tử : thái tử của đấng Pháp vương. Chỉ ngài Mạn thù mới hay được gọi như vậy. Kinh này được hỏi bởi ngài Mạn thù, còn kinh Di đà do Phật tự nói chứ không ai hỏi được : hãy so sánh giữa 2 kinh, rồi so sánh giữa 2 kinh với các kinh, về sự mở đầu này mà thôi, cũng thấy được giá trị kinh này.

Tướng loại : sắc thái và bộ môn, tức danh hiệu, bản nguyện và công đức của chư Phật. Cũng có thể đọc “tương loại”, nghĩa là tương tự : tương tự giữa chư Phật, về danh hiệu, bản nguyện và công đức. Bản nguyện vĩ đại (bản đại nguyện) đúng ra phải dịch là đại nguyện gốc, trước. Thời kỳ Phật pháp tương tự (tượng pháp) Phật pháp có 3 thời kỳ. Trước thời kỳ này là thời kỳ Phật pháp nguyên chất (chánh pháp) và sau thời kỳ này là thời kỳ Phật pháp cuối cùng (mạt pháp). Nhưng tôi không tin kinh này chỉ nói cho người thuộc thời kỳ Phật pháp tương tự. Nói người thuộc thời kỳ này mới đa số tin và làm theo kinh này thì có lý hơn. Ðoạn văn trên có 2 chỗ dùng chữ tượng pháp (thời kỳ Phật pháp tương tự) là chỗ ngài Văn thù thỉnh và chỗ Phật khen. Chỗ trước, bản dịch 1 cũng dùng chữ tượng pháp (Chính 21/532g), bản dịch 3 dùng chữ lai thế chánh pháp hoại thời (Chính 14/401g), bản dịch 5 cũng dùng chữ tượng pháp (Chính 14/409t). Nhưng chỗ sau, bản dịch 1 chỉ dùng chữ nhất thế vô lượng chúng sanh (Chính 21/532g), bản dịch 3 chỉ dùng chữ chư thiên nhân (Chính 14/401g), bản dịch 5 chỉ dùng chữ vô lượng nghiệp chướng hữu tình (Chính 14/409g). Rất nên đối chiếu như vậy để thấy người mạt pháp không phải vô phần đối với kinh này.

Ðồng tử = kumara, nghĩa đen : trẻ thơ. Ở đây ý nghĩa là không có ý niệm dâm dục như tâm hồn trẻ thơ.

A2 nội dung, có 3 B

Lời thỉnh của ngài Văn thù và lời hứa của đức Thế tôn, trong văn mở đầu, đều nói danh hiệu, bản nguyện và công đức. Vậy nội dung kinh này nên chia ra 3 B : danh hiệu, bản nguyện và công đức của đức Dược sư.

B1. Danh hiệu

Phật dạy Mạn thù, phía đông, cách thế giới hệ này bởi những thế giới hệ   bằng số cát hơn mười sông Hằng, có một thế giới hệ tên Tịnh lưu ly. Ðức Phật ở đó danh hiệu là Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, phật : thế tôn.

Ðoạn này vắn tắt nhưng nói được 3  điều : chánh báo trang nghiêm của đức Dược sư, danh hiệu viên mãn của ngài, sau hết, mở đầu tổng quát cho nội dung kinh này (là nội dung nói về đức Dược sư). Tuy nói được đến 3 điều như vậy, phần danh hiệu viên mãn vẫn là phần chính.

Trước hết, thế giới hệ (thế giới) là chỉ  cho đại thiên thế giới, nên ngài Thái hư nói bằng với tinh vân hệ hay tinh hải hệ của thiên văn (TH 28/2326)(40), do đó, phải dịch là thế giới hệ mới đúng. Còn từ ngữ thế giới hay lầm lẫn với địa cầu. Mà địa cầu chỉ là một trong rất nhiều thành phần của tiểu thế giới(41). Ngàn tiểu thế giới là tiểu thiên thế  giới. Ngàn tiểu thiên thế giới là trung thiên thế giới. Ngàn trung thiên thế giới mới là đại thiên thế giới, có 1 tỷ tiểu thế giới (TH 28/2326).

Bây giờ nói danh hiệu của đức Dược sư. Danh hiệu “Dược sư lưu ly quang” đã cắt nghĩa. Nhưng, được gọi là một đức Phật, phải là đấng có 10 công đức lớn, tiêu biểu bởi 10 đức hiệu (dầu 10 công đức và 10 đức hiệu cũng chỉ nói tóm lược mà thôi). Mười đức hiệu, tài liệu chính (Chính 14/405) chép : như lai, ứng, chánh đẳng giác, minh hạnh viên mãn, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng trượng phu, điều ngự sĩ, thiên nhân sư, phật : bạc già phạn. Chép như vậy thì có 3 điều cần chú ý.

Một, 10 đức hiệu, thông thường thì nguyên Phạn tự như sau :

  1. Tathagata,
  2. Arhat,
  3. Samyaksambuddha,
  4. Vidyacarana-sampanna,
  5. Sugata,
  6. Lokavid,
  7. Anuttara,
  8. Purusa-damya-sarathi,
  9. Sasta-deavamanusyanam,
  10. Buddha-lokanatha.

Dịch nghĩa và chấm câu như sau :

  1. Như lai,
  2. Ứng cúng,
  3. Chánh biến tri,
  4. Minh hạnh túc,
  5. Thiện thệ,
  6. Thế gian giải,
  7. Vô thượng sĩ,
  8. Ðiều ngự trượng phu,
  9. Thiên nhân sư,
  10. Phật – thế tôn.

Nhưng đức hiệu Thế tôn, nếu dịch âm là Phật đà – lộ ca na tha, và nguyên Phạn tự là Buddha-lokanatha, thì Phật – thế tôn là 1 đức hiệu, nếu dịch âm là Bạc già phạn, và nguyên Phạn tự là Bhagavan, thì Thế tôn là đức hiệu riêng : đấng có 10 đức hiệu nên tôn xưng là Thế tôn (Pđ 252t). Ở đây, nguyên Hoa văn dịch âm là Bạc già phạn, thì Phạn tự là Bhagavan, nên Thế tôn là đức hiệu riêng, và phải chấm câu như đã chấm.

Hai, có mấy chỗ dịch nghĩa cần lưu ý :
Ứng = ứng cúng ;
Chánh đẳng giác (chánh đẳng chánh giác) = Chánh biến tri ;
Minh hạnh viên mãn = Minh hạnh túc ;
Vô thượng trượng phu = Vô thượng sĩ ;
Ðiều ngự sĩ = Ðiều ngự trượng phu.

Ba, 10 đức hiệu này, quan trọng nhất là như lai, ứng cúng, chánh biến tri, nên trong kinh này, và nhiều chỗ khác, có khi chỉ nói 3 đức hiệu ấy.

B2. Bản nguyện

Mạn thù, đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, xưa kia, khi làm hạnh bồ tát, đã phát ra mười hai đại nguyện, cốt làm cho mọi người thực hiện mọi sự mong ước.

Ðại nguyện thứ nhất, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì bản thân ánh sáng rực rỡ, chiếu soi vô số thế giới hệ. Thân ấy lại được trang hoàng bằng bâm hai tướng tốt của bậc đại trượng phu, và tám mươi tướng phụ. Lại làm cho mọi người không khác gì với con.

Ðại nguyện thứ hai, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì thân như ngọc lưu ly, trong ngoài trong suốt, không chút vẩn đục, ánh sáng to lớn và chiếu tỏa xa rộng. Công đức đồ sộ, lại khéo an trú. Những tia sáng rực rỡ, dệt nhau như mạng lưới, và tráng lệ quá hơn nhật nguyệt. Chúng sanh tối tăm được soi sáng cả, nên tùy ý hướng mà làm mọi sự nghiệp.

Ðại nguyện thứ ba, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì vận dụng vô lượng trí tuệ và phương tiện, làm cho mọi người cùng được vô tận những vật hưởng dụng, không để cho ai có sự thiếu thốn.

Ðại nguyện thứ tư, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì những kẻ đi theo tà đạo đều được làm cho ở yên trong đạo giác ngộ, những người tu theo thanh văn duyên giác đều được xây dựng bằng pháp đại thừa.

Ðại nguyện thứ năm, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì vô số người tu hành phạn hạnh trong chánh pháp của con, con làm cho tất cả được giới thể không thiếu sót, trọn vẹn giới pháp ba loại. Giả sử phá phạm đi nữa, nghe danh hiệu con rồi là phục hồi thanh tịnh, không rơi vào đường dữ.

Ðại nguyện thứ sáu, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ thân hình thấp kém, giác quan không đủ, xấu xí, u mê, mù điếc, câm ngọng, tay quắp, chân quẹo, lưng gù phung lác, điên cuồng, đủ thứ bịnh khổ, nhưng nghe danh hiệu con rồi, tất cả đều đẹp đẽ, thông minh, giác quan hoàn bị, hết mọi bịnh khổ.

Vạn 35/1 73a, dẫn kinh A tu la nói, Lưu ly quang bồ tát gặp Trí thắng phật thì bắt đầu phát ra đại nguyện tổng quát, nơi Bảo đảnh phật mới phát ra đại nguyện riêng biệt. Lại dẫn kinh Thập phương chư Phật hiện tiền, nói, nơi Thanh long quang phật phát ra 12 đại nguyện. Như vậy, văn từ 12 đại nguyện chữ “ngã” phải dịch “con”, vì là lời Bồ tát nguyện với Phật.

Tuệ giác vô thượng, nguyên Hoa văn ở đại nguyện 1 nói đủ là A nậu đa la tam niệu tam bồ đề (Anuttara – samyaka – sambodhi), ở 11 đại nguyện sau nói tắt là bồ đề. Ðó là tuệ giác của Phật. Nói được tuệ giác ấy có nghĩa là nói thành Phật. Lại khéo an trú (thân thiện an trú), chữ thân bỏ, vì nó đã là chủ từ cả đoạn văn này. Khéo an trú : khéo ngồi yên tịnh, khéo yên tịnh. Giới pháp ba loại (tam tụ giới) = giới pháp bồ tát, cùng lúc phải đủ nhiếp luật nghi (đoạn ác) nhiếp thiện pháp (tu thiện) nhiêu ích hữu tình (lợi người). Nghe danh hiệu con rồi là nói tắt. Nói đủ một chút thì “rồi, biết nhất tâm qui y, trì niệm, thì nhờ năng lực phước đức và uy thần của con… “

Ðại nguyện thứ bảy, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ bị mọi thứ bịnh khổ hành hạ mà không ai cứu giúp, không nơi nương tựa, không có y sĩ, không có dược liệu, không có thân thuộc, không có nhà cửa, nghèo nàn lắm khổ, thì danh hiệu của con, một khi đi qua thính giác của họ, là bịnh khổ tan biến, thân tâm an lạc, nhà cửa, thân thuộc và đồ dùng, đầy dủ tất cả, cho đến thực hiện được tuệ giác vô thượng.

Ðại nguyện thứ tám, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, nếu có nữ nhân nào bị hành hạ bởi cả trăm thứ khổ sở của nữ nhân, nên cùng cực chán ngán, muốn thoát thân ấy, thì nghe danh hiệu con rồi, tất cả đều chuyển thân nữ nhân thành thân nam tử, đủ tướng trượng phu, cho đến thực hiện được tuệ giác vô thượng.

Ðại nguyện thứ chín, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì làm cho mọi người thoát khỏi mạng lưới của ma vương, cởi mở thắt buộc của ngoại dạo. Sa vào rừng rậm ác kiến thì sẽ được dẫn ra, đem đặt vào chánh kiến, và dần dần làm cho họ thực tập các hạnh bồ tát, để thực hiện một cách mau chóng tuệ giác vô thượng.

Ðại nguyện thứ mười, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng,  thì những kẻ bị phép vua ghi sổ, xích trói đánh khảo, giam nhốt lao ngục, sắp bị hành hình, cọng với vô lượng tai nạn khổ nhục, bi thảm sầu muộn khác nữa, ngâm nấu bức bách, làm cho cả cơ thể lẫn tâm trí đều chịu thống khổ, nhưng nghe danh hiệu của con, thì vì năng lực phước đức và uy thần  của con mà họ thoát hết mọi sự lo sợ khổ sở.

Ðại nguyện mười một, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ bị đói khát hành hạ, vì cầu cái ăn mà làm mọi ác nghiệp, nhưng nghe được danh hiệu của con, nhất tâm thọ trì, thì trước hết con làm cho họ no đủ cơ thể bằng thực phẩm tuyệt diệu, sau đó con sẽ đem cái vui cứu cánh của pháp vị mà xây dựng cho họ.

Ðại nguyện người hai, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ nghèo thiếu y phục, ngày đêm khổ sở vì muỗi mòng lạnh nóng, nếu nghe danh hiệu của con mà nhất tâm thọ trì, thì như sở thích của họ, họ được liền những thứ y phục tuyệt diệu, lại được những đồ trang sức bằng vàng ngọc. Hoa vòng, hương xoa, âm nhạc hòa tấu và mọi kỹ thuật biểu diễn, tùy ý họ thích, con làm cho đầy đủ tất cả.

Mạn thù, dó là mười hai đại nguyện tối thượng, nhiệm mầu, của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, đã lập ra khi còn làm hạnh bồ tát.

Trong đại nguyện thứ 7, nhà cửa thân thuộc (gia thuộc tư cụ), tài liệu 9 (Anh văn, trang 4 dòng 11) dịch là gia tộc, bạn bè. Cho đến thực hiện được tuệ giác vô thượng, câu này, và những văn ý tương tự, có 2 điểm cần chú ý : (a) chính sự sống và phương tiện để sống, đã được sau khi trì niệm danh hiệu Phật, cũng là công cụ dẫn đến sự thành Phật ; (b) chữ cho đến là nói tắt sự tu dần các hạnh bồ tát. Pháp vị : mùi vị chánh pháp. Chánh pháp đem lại hoan lạc thật, bền, và cho cả thân lẫn tâm, nên gọi là pháp vị.

B3. Công đức, có 7C

B3 này có 7C : 1. nói về y chánh trang nghiêm, 2. nói về đại dụng của danh hiệu, 3. nói về đại dụng của chú, 4. nói về đại dụng của sự phụng trì, 5. nói là chỗ hiểu biết sâu xa của Phật(42), 6. nói cách tiêu tai diên thọ, 7. nói sự hộ vệ của Dạ xoa. Tổng quát thì, bằng 7 cách nói, C3 này nói về y chánh, danh hiệu và diệu dụng, là 3 đại yếu công đức của đức Dược sư. Cũng nên nói thêm, công đức ấy là của đại nguyện, do đại nguyện thành tựu.

C1. nói về y chánh trang nghiêm

Nhưng văn này chỉ nói y báo trang nghiêm của đức Dược sư. Mà nói rất vắn tắt. Còn chánh báo trang nghiêm đã nói trong B1.

Mạn thù, những đại nguyện tối thượng của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai đã lập ra khi còn làm hạnh bồ tát, và những công đức trang nghiêm của thế giới hệ đức Phật ấy, Như lai diễn tả trong một đại kiếp, hay hơn một đại kiếp, cũng không thể cùng tận. Thế giới hệ của đức Phật ấy hoàn toàn thanh tịnh, không có nữ nhân, không có ác đạo, không có cả đến cái tiếng thống khổ. Ðất làm bằng ngọc lưu ly. Ðường ngăn bằng giây vàng. Thành, cửa thành, cung điện, lầu gác, mái hiên, cửa sổ, lưới giăng, toàn bằng bảy thứ quí báu. Y như thế giới hệ Cực lạc ở phía tây, công đức trang nghiêm không khác gì cả.

Ðại kiếp (kiếp), kiếp này là đại kiếp. (TH 28/2326). Kiếp, Phạn tự là kalpa, âm : kiếp ba, nghĩa : trường thời (thời kỳ dài). Kiếp có tiểu, trung và đại. Sự sống con người từ 10 tuổi, cứ mỗi trăm năm tăng 1 tuổi, tăng đến 84.000 tuổi gọi là 1 tăng. Sự sống con người từ 84.000 tuổi, cứ mỗi trăm năm giảm 1 tuổi, giảm đến 10 tuổi gọi là 1 giảm. Mỗi 1 tăng hay mỗi 1 giảm gọi là tiểu kiếp ; mỗi 1 tăng và giảm gọi là trung kiếp (4 thời kỳ thành, trú, hoại, không, mỗi thời kỳ có 20 trung kiếp) ; 4 thời kỳ (nghĩa là 80 lần tăng và giảm) là 1 đại kiếp : đó là thuyết Câu xá luận. Mỗi 1 tăng và giảm mới là tiểu kiếp ; 20 tiểu kiếp (20 lần tăng và giảm) mới là trung kiếp, 4 thời kỳ thành, trú, hoại, không, mỗi thời kỳ có 1 trung kiếp, 4 thời kỳ (nghĩa là 80 lần tăng và giảm) là 1 đại kiếp : đó là thuyết Trí độ luận. Cả 2 thuyết đồng nhau về số lượng của đại kiếp.

Ðường ngăn bằng giây vàng là chỉ hay lề đường bằng vàng. Lưới giăng : kể cả các đường xoi hồi văn. Bảy thứ quí báu : kinh Di đà nói là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ xích châu, mã não (suvarna, rupya, vaidurya, sphatika, musara galva, rohita-mukta, asmagarbha).

Thế giới hệ ấy có hai vị đại bồ tát, thứ nhất danh hiệu Nhật quang biến chiếu, thứ hai danh hiệu Nguyệt quang biến chiếu. Ðó là hai vị đứng đầu chúng bồ tát nhiều vô số lượng của thế giới hệ ấy, thứ lớp kế vị thành Phật, và cùng có khả năng nắm giữ kho tàng ngọc báu chánh pháp của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Thế nên, Mạn thù, những thiện nam hay thiện nữ có đức tin hãy nguyện sanh thế giới hệ của đức Phật ấy. 

Thứ lớp kế vị thành Phật (thứ bổ Phật xứ), nghĩa đen : kế tiếp bổ vào chỗ Phật. Thứ bổ Phật xứ cũng gọi tắt là bổ xứ : bổ vào chỗ Phật. Lại hay thêm “nhất sanh bổ xứ”: một đời nữa là bổ vào chỗ Phật. Thêm bớt gì cũng chỉ một nghĩa : vị bồ tát chỉ  còn một đời nữa là thành Phật, thay vào chỗ  đức Phật của mình. Vị bồ tát như vậy gọi là bổ xứ bồ tát. Vì còn hệ thuộc một đời nên cũng gọi là nhất sanh sở hệ bồ tát. Như bổ xứ bồ tát của đức Thích ca là đức Di lạc, của đức Di đà là đức Quan âm, của đức Dược sư là đức Nhật quang (và sau đó là đức  Nguyệt quang).

Nguyện sanh thế giới hệ của đức Phật ấy, chú ý : sanh, chứ không phải vãng sanh. Nói vãng sanh chỉ để dễ hiểu. Mười phương quốc độ đều duy Tâm sở hiện. Tâm uế thì sanh uế độ, Tâm tịnh thì sanh tịnh độ. Sanh nghĩa là hiện khởi, hiện hành.

C2. nói về đại dụng của danh hiệu, có 5 D

Ðại dụng ấy đâu phải chỉ năm ba việc. Sau đây chỉ là nói 5 việc làm điển hình mà thôi.

D1. diệt sự tham lẫn mà được sự bố thí

Lúc ấy, đức Thế tôn lại bảo Mạn thù đồng tử, Mạn thù, có những kẻ không nhận thức cái lẽ thiện ác, chỉ giữ thói tham lẫn mà không biết bố thí và phước báo bố thí. Ngu muội, không có trí tuệ, thiếu cả đức tin. Dồn chứa tài sản vàng ngọc cho nhiều, nỗ lực mà giữ. Thấy người xin đến, lòng họ không vui. Giả sử bất đắc dĩ mà bố thí, thì lúc đó đau tiếc sâu xa như cắt thịt mình. Lại còn lắm kẻ tham lẫn, dồn chứa tài sản, mà đối với bản thân của họ, họ còn không hưởng dụng, huống chi có thể đem cho cha mẹ, vợ con, tôi tớ, người làm hay kẻ đến xin. Những kẻ ấy, sinh mạng kết thúc ở đây thì sanh trong thế giới quỉ đói hay súc vật. Nhưng xưa kia, khi ở trong loài người, từng được thoáng nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, nên ngày nay, dẫu ở trong ác đạo, vẫn thoáng nhớ danh hiệu của đức Như lai ấy, và ngay khi nhớ thì chết ở ác đạo mà sanh lại loài người, được sự nhớ đời trước nên sợ nỗi khổ ác đạo mà không ham dục lạc, thích bố thí và ca tụng người bố thí. Có gì cũng không tiếc. Dần dần tiếp theo, đầu mắt, tay chân, máu thịt, và những bộ phận khác của cơ thể, còn có thể đem cho người đến xin, huống chi những thứ tiền tài sản vật khác. 

 Người làm (tác sứ) : người làm việc cho mình, người của mình sai sử. Ngay khi nhớ thì chết ở ác đạo mà sanh lại loài người, được sự nhớ đời trước nên sợ nỗi khổ ác đạo mà không ham dục lạc, thích bố thí và ca tiếng người bố thí, đó là những hiệu quả tốt của sự nhớ lại danh hiệu Phật. Ở trong ác đạo mà nhớ lại được danh hiệu Phật mới khó. Nên chết liền ở ác đạo và nhớ đời trước ở đó chính là phước báo. Rồi dần dần có gì cho nấy, cho cả của ở trong là tư tưởng, sức lực, uy thế và cơ thể, thì đó là hành bồ tát đạo và cũng là hiệu quả của sự nhớ lại danh hiệu Phật. 

D2. diệt sự phạm tội mà được sự giữ giới

Mạn thù, có kẻ dầu thọ giới pháp với Như lai mà lại phá giới pháp ấy. Có kẻ không phá giới pháp mà phá qui tắc. Có kẻ đối với giới pháp và qui tắc tuy được sự không phá hoại, nhưng lại phá hoại chánh kiến. Có kẻ không phá hoại chánh kiến mà bỏ phế đa văn, nên đối với nghĩa lý sâu xa của kinh Phật nói không thể lý giải. Có kẻ tuy đa văn mà thượng mạn : vì thượng mạn úp che tâm trí nên cho mình phải, bảo người trái, ghét chê cả chánh pháp, làm bè đảng với ma. Những kẻ ngu si như vậy tự mình đã làm theo tà kiến, lại làm cho vô số người khác rơi xuống hố lớn nguy hiểm. Những kẻ ấy đáng lý trôi lăn vô cùng trong địa ngục, súc sanh và loài quỉ. Nhưng nếu được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, thì bỏ ngay tánh ác tu các pháp lành, và sẽ không sa vào các ác đạo. Giả sử có kẻ vẫn không thể bỏ ngay tánh ác, tu các pháp lành, và phải sa vào ác đạo đi nữa, thì nhờ uy lực đại nguyện của đúc Dược sư lưu ly quang như lai mà làm cho họ thoáng nghe được danh hiệu của ngài, sinh mạng kết thúc ở ác đạo, sanh lại trong loài người, được chánh kiến, tinh tiến, và ý thích khéo thuần hóa, nên thoát ly gia đình, đi đến phi gia đình, ở trong pháp Như lai mà thọ giới, giữ giới, không có phạm giới mà lại chánh kiến, đa văn, lý giải nghĩa lý cực kỳ sâu xa mà lại viễn ly thượng mạn, không chê chánh pháp, không làm bạn ma, dần dần tu hành các hạnh bồ tát và đầy đủ một cách mau chóng.

Qui tắc cũng là giới luật mà gồm hết các phần uy nghi và “kiền độ”, nói tóm, là mọi qui định về tất cả sự tổ chức và sinh hoạt của hàng xuất gia. Thượng mạn = tăng thượng mạn, là sự kiêu ngạo cho mình đã được pháp tăng thượng. Ở đây là tự thị sự đa văn cho là đã thấu triệt. Ðáng lý trôi lăn vô cùng, đáng lý, nguyên văn là ưng, nghĩa đen : nên, phải, lẽ ra, đáng lý. Mà nói như vậy là gần như nói định nghiệp. Vậy mà nghe (và trì) danh hiệu Phật thì sự đáng lý ấy không còn nữa, chứn g tỏ diệu dụng của danh hiệu Phật thật lớn và mạnh. Nhờ uy lực đại nguyện của đức Dược sư lưu ly quang như lai mà làm cho họ thoáng nghe được danh hiệu của ngài, nên chú ý văn và nghĩa của câu “nhờ uy lực đại nguyện “… “Làm cho họ thoáng nghe” (linh kỳ hiện tiền tạm văn), đủ thì phải dịch : làm cho họ hiện tại thoáng nghe. Hiện tại đây là đang lúc sa vào ác đạo. Ði đến phi gia đình (thú ư phi gia) thấy có người dịch từ Paly là sống không gia đình. Làm bạn ma : làm bè đảng với ma. Ma đây là ma vương.

D3. diệt sự ganh ghét mà được sự giải thoát

Mạn thù, có những kẻ tham lẫn ganh ghét, tán tụng bản thân, công kích kẻ khác, nên sẽ sa vào ba ác đạo, nhiều lần ngàn năm chịu mọi sự khổ sở khốc liệt. Chịu khổ sở khốc liệt rồi,  sinh mạng kết thúc ở đó mà đến sanh trong loài người, thì làm trâu bò, lừa ngựa, lạc đà, thường bị đánh đập, đói khát hành hạ, lại luôn luôn mang nặng, chở nhiều, và đi theo đường phải đi ; hoặc được làm người thì sinh nơi hèn hạ, làm tôi tớ người, bị người sai sử, thường mất tự do. Nhưng nếu xưa kia, khi còn làm người, từng nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì do nhân lành ấy mà nay nhớ lại, chí tâm qui y, nhờ thần lực của Ngài mà thoát hết khổ sở, giác quan tinh nhuệ, trí tuệ đa văn, thường cầu thắng pháp, thường gặp thiện hữu, đứt hẳn lưới ma, đập vỏ vô minh, khô sông phiền não, giải thoát hết thảy sinh lão bịnh tử, lo buồn khổ não.

Trâu bò (ngưu), Hoa văn thì trâu bò gì cũng là ngưu, phân biệt chăng là thủy ngưu hoàng ngưu mà thôi. Thắng pháp : chánh pháp hơn hết.

D4. diệt sự hại nhau mà được sự thương nhau

Mạn thù, có những kẻ tính thích chống đối, ly gián, đấu tranh, kiện tụng, gây bực tức và rối loạn cho bản thân và kẻ khác. Ðem cả thân thể, lời nói và ý nghĩ mà tạo ra và thêm lớn đủ thứ ác nghiệp. Gây mãi cho nhau những sự bất lợi để mưu hại lẫn nhau. Cáo triệu những vị thần rừng núi, cây cối mồ mả, giết sinh vật lấy máu huyết mà cúng tế dạ xoa, la sát, viết tên người mình oán, làm hình và ảnh của người ấy, đem chú thuật tàn ác mà thư, ếm phù chú, dùng thuốc độc, chú quỉ khởi thi –  dùng mọi cách này mà làm đứt sinh mạng người ấy, làm chết thân họ. Người ấy nếu được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, thì mọi việc dữ trên không cách nào hại được. Lại cùng kẻ kia, tất cả đôi bên đều nổi dậy từ tâm đối với nhau, làm lợi ích an lạc mà không còn ý thức thương tổn hay tâm lý ghét giận. Ðôi bên cùng vui đẹp. Ðối với những thứ mình hưởng thụ, ai cũng thích vừa đủ thì thôi, không muốn lấn nhau, chỉ làm lợi ích cho nhau.

Gây mãi cho nhau những sự bất lợi để mưu hại lẫn nhau… (triển chuyển thường vi bất nhiêu ích sự, hỗ tương mưu hại) cũng có thể dịch : gây mãi cho nhau những sự bất lợi, mưu hại lẫn nhau, bằng cách… Dạ xoa (dược xoa = yaksha) một loại quỉ ăn thịt người, mạnh, nhanh, khó lường, ở trên mặt đất, trong không gian và trên chư thiên. La sát ( = raksasa) tên chung các ác quỉ, ăn uống máu thịt loài người, phi trong không hoặc đi trên đất, giống cái rất đẹp (và gọi là raksasi).

Thuốc độc (cổ đạo) : đồ độc luyện có thuật, với ác ý. Chú quỉ khởi thi nghĩa là chú cho thây chết đứng dậy. Dùng chú Vetala tụng mà chú cho thây chết đứng dậy, bảo đi giết người, gọi là quỉ khởi thi (Phạn : krtya, Paly : kicca). Người ấy nếu được nghe danh hiệu…, người ấy là “người mình oán” ở trên, là người bị thù oán. Lại cùng kẻ kia…, kẻ kia là kẻ thù oán, kẻ đã dùng mọi cách mà hại người ở trên. Ðôi bên cùng vui đẹp (các các hoan duyệt) cũng có thể dịch nôm na là ai nấy đều vui vẻ. Thích vừa đủ thì thôi (hỷ túc = tri túc) dịch không thừa thì chỉ là thích đủ.

D5. được sanh Cực lạc hay các sự chuyển sanh khác

Mạn thù, trong bốn chúng tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, và những thiện nam thiện nữ khác có đức tin thuần tịnh, nếu ai có khả năng thọ trì Bát quan trai giới, bằng cách hoặc cả năm hoặc ba tháng, thọ trì giới ấy. Rồi đem thiện căn này nguyện sanh thế giới hệ Cực lạc ở phía tây, chỗ A di đà phật, để được nghe chánh pháp của ngài, nhưng chưa quyết định. Nếu nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì đến khi sinh mạng kết thúc, có tám vị đại bồ tát danh hiệu Văn thù sư lợi bồ tát, Quan thế âm bồ tát, Ðắc đại thế bồ tát, Vô tận ý bồ tát, Bảo đàn hoa bồ tát, Dược vương bồ tát, Dược thượng bồ tát và Di lạc bồ tát, tám vị đại bồ tát này lướt không gian mà đến, chỉ đường cho người ấy. Tức thì người ấy tự nhiên hóa sinh trong hoa sen bằng các thứ ngọc, và đủ mọi màu sắc xen lẫn với nhau, của thế giới hệ Cực lạc.

Cả năm (nhất niên) : trọn một năm, mỗi năm. Cả năm thọ trì Bát quan trai giới là mỗi tháng trong một năm thọ trì 6 ngày : 8, 14, 15, 23, 29, 30 (tháng thiếu thì lui lại các ngày 28, 29). Ba tháng là mỗi năm thọ trì Bát quan trai giới bằng cách chay tịnh 3 tháng : giêng, năm và chín.

Danh hiệu 8 vị đại bồ tát là trích bản dịch 1 (Chính 21/533d) mà bổ túc. Danh hiệu ấy, Phạn tự như sau, trích tài liệu 9.

Manjushri,
Avalokitesvara,
Maha srhama prapta,
Akohayamati,
Pouh thang tha (Hoa văn),
Bhaishajyaraja,
Bhaisajyasamudgata,
Maitreya.

Ðoạn này nói danh hiệu của đức Dược sư làm cho những người nguyện sanh Cực lạc được quyết định sanh thế giới hệ ấy. Ðoạn dưới đây nói danh hiệu của Ngài làm cho người sanh lên cõi trời, hoặc làm cho người chuyển nữ thành nam :

Cũng có người nhờ sự ấy mà sanh lên cõi trời. Tuy sanh lên cõi trời, nhưng thiện căn xưa cũng chưa cùng tận, và không còn sanh lại tại các ác đạo. Mà sự sống lâu trên cõi trời chấm hết thì sanh lại trong nhân gian. Bằng cách hoặc sanh làm luân vương, thống nhiếp cả bốn đại châu, uy đức tự tại, xây dựng vô lượng trăm ngàn chúng sanh vào mười thiện nghiệp. Hoặc sanh vào dòng sát đế lợi, bà la môn, cư sĩ, đại gia, nhiều tiền tài, lắm vàng ngọc, kho bồ tràn đầy, thân hình và tướng mạo đều đẹp đẽ trang nghiêm, bà con và bạn bè cùng đầy đủ, trí tuệ thông minh, sức lực mạnh mẽ như đại lực sĩ. Nếu là phụ nữ mà được nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, nhất tâm thọ trì, thì về sau không còn chịu lại thân thể phụ nữ.

Sự ấythiện căn xưa đều chỉ cho việc thọ trì Bát quan trai giới cả năm hay ba tháng nói trên. Ðại gia : gia đình thế tộc hoặc tôn xưng phụ nữ (đại gia = đại cô). Luân vương = chuyển luân vương. Luân vương có 7 thứ quí báu, nhưng quan trọng là bánh xe (luân). Luân vương có 4 : bánh vàng, bánh bạc, bánh đồng, bánh sắt. Luân vương có bánh xe vàng thì thống trị cả 4 đại châu : đông là Thắng thần châu, nam là Thiệm bộ châu, tây là Ngưu hóa châu, bắc là Câu lô châu. Các vị luân vương khác, bánh xe sắt chỉ thống trị 1 đại châu phía nam,  bánh xe đồng chỉ thống trị 2 đại châu phía nam và phía tây, còn bánh xe bạc chỉ thống trị 3 đại châu phía nam, phía tây và phía đông.

Mười thiện nghiệp là đình chỉ 10 ác nghiệp :

Thân        không sát sanh, không trộm cướp, không dâm dục,

Miệng      không nói dối trá, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói thô ác,

Ý             không tham lam, không sân hận, không tà kiến,

C3. nói về đại dụng của chú

Trọn phần này trích bản dịch 5) (Chính 14/414g) mà bổ túc.

Mạn thù, khi đức Dược sư lưu ly quang như lai thành tựu tuệ giác vô thượng bồ đề, thì do năng lực đại nguyện xưa mà quán sát chúng sanh bị mọi bịnh khổ, như những bịnh gầy ốm, co quắp, tiêu khô, vàng nóng, hoặc bị trúng bùa ếm, thuốc độc, hoặc chết non, chết ngang trái. Muốn làm cho họ tiêu trừ những bịnh khổ ấy, sở cầu mãn nguyện, nên bấy giờ đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai nhập định danh hiệu Diệt trừ mọi khổ não của chúng sanh. Nhập định ấy rồi, từ trong nhục kế phóng ra ánh sáng lớn. Trong ánh sáng này diễn ra đà la ni vĩ đại sau đây : Nam mô, Bạc già phạt dế, bệ sát xã lũ rô – bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha : Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ – bệ sát xã – tam một yết đế, sa ha. Khi trong ánh sáng diễn ra đà la ni vĩ đại ấy rồi, đại địa chấn động, phóng ánh sáng lớn, hết thảy chúng sanh bịnh khổ tiêu trừ, hưởng được cái vui yên ổn. Mạn thù, nếu thấy nam tử hay nữ nhân, ai bị bịnh khổ, thì nên nhất tâm vì bịnh nhân ấy mà luôn luôn tinh khiết, tắm rửa, súc miệng, rồi đem thực phẩm, dược phẩm, hay nước không có trùng, trì chú này một trăm lẻ tám biến, cho họ uống, ăn, thì bịnh khổ họ có tiêu tan tất cả. Nếu có cần gì, chí tâm tụng niệm thì cũng được như vậy, lại không bịnh, thêm tuổi và sau khi sinh mạng kết thúc thì sanh thế giới hệ của đức Dược sư lưu ly quang như lai, được sự không còn thoái chuyển cho đến tuệ giác bồ đề. Vì vậy, Mạn thù, nếu có nam tử nữ nhân nào đối với đức Dược sư lưu  ly quang như lai mà chí tâm, tha thiết, cung kính, cúng dường, thì hãy thường trì chú này, đừng để phế bỏ, quên mất.

 Trước hết, đây là mấy chỗ cần âm thích. Thuốc độc (cô độc = cô đạo) : coi lại trang 105. Chết ngang trái (hoạnh tử), hoạnh là phi lý, bất trắc, dữ dội ; hoạnh tử là chết không đáng, ngang trái, dữ dội hay bất trắc. Ðà la ni (dharani) dịch tổng trì, có nghĩa nắm giữ toàn thể. Ở đây, đà la ni là chú, 1 trong 4 đà la ni (văn, nghĩa, chú, nhẫn). Chú mà gọi đà la ni, vì chú do thiền định phát khởi và tổng trì vô lượng văn nghĩa, vô lượng công đức. Mật giáo còn nói, đà la ni dịch là minh (đà la ni do ánh sáng của Phật diễn ra) là chú (hiệu nghiệm như thần, diệt trừ tai họa) là mật ngữ (không thể hiểu nổi) là chân ngôn (lời nói chân thật của Phật). Luôn luôn tinh khiết, dịch luôn luôn là vì có bản chép chữ thường vào đây. Nhưng tuồng như không cần phải như vậy. Trừ trường hợp muốn như vậy.

Bây giờ có 4 chi tiết quan trọng cần nói.

Chi tiết thứ I, theo bản dịch 1 (Chính 21/536) thì tên 12 đại tướng Dạ xoa và chú này đều do Cứu thoát bồ tát nói. Xét văn ý xuất xứ trên, và văn ý của chú, thấy như vậy có lý hơn.

Chi tiết thứ 2, sau đây là Phạn tự của chú, trích tài liệu 9, phần Anh văn, trang 11 : Namo bhagavate bhaishajyaguru vaiduryaprabha rajaya tathagataya arhate samyaksambuddhaya tadyatha. Om bhaishajye bhaishajye bhaishajya samudgate svaha.

Chi tiết thứ 3, Vạn 35/189a nói, Nam mô (namo) dịch qui y. Bạc già phạt đế  (bhaigavate) dịch thế tôn. Bệ sát xã lũ rô (bhaishajyaguru) dịch Dược sư. Bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã (vaiduryaprabha-rajaya) dịch âm và nghĩa là lưu ly quang. Ðát tha yết da dã (tathagataya) dịch như lai. A ra hát đế (arhate) dịch ứng cúng. Tam miệu tam bột đà da (samyaksambuddhaya) dịch chánh biến tri. Ðát diệt tha (tadyatha) dịch tức thuyết chú viết. Liên lạc lại, có nghĩa : Qui kính đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, nói chú như sau. Từ chữ Án đến chữ sa ha mới là chú, mật ngữ.

Chi tiết thứ 4, tôi cắt in ảnh nơi 2 trang phụ sau đây : a. nguyên Phạn tự cổ của chú này (và 1 câu tiểu

 
chú), cắt Vạn 35/196a ; b. nguyên Phạn tự cổ, và một lối dịch âm khác, của chú này, cắt Chính 19/21

C4. nói về đại dụng của sự phụng trì, có 3 D

Ðại dụng này cũng không phải chỉ năm ba việc. Sau đây chỉ là nói điển hình mà thôi.

D1. Phật dạy tổng quát và ngài Văn thù phát nguyện

Mạn thù, nếu nam tử hay nữ nhân có đức tin thuần tịnh, được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, nghe rồi trì niệm. Sáng sớm đánh răng, tắm rửa, súc miệng sạch sẽ, đem các thứ hương hoa, trong đó có hương đốt, hương xoa, và diễn tấu kỹ nhạc mà cúng dường hình tượng của ngài. Ðối với kinh này, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, nhất tâm thọ trì, nghe học nghĩa lý. Ðối với pháp sư giảng giải kinh này, cũng nên cúng dường, mọi đồ giúp sống thân thể mà mình có, hãy cúng dường đầy đủ, đừng để vị ấy thiếu thốn. Như vậy thì được chư Phật hộ niệm, sở cầu mãn nguyện, cho đến thực hiện tuệ giác bồ đề.

Lời này, cũng như trọn C3 ở trên, vẫn trích Chính 14/414d, nhưng đã đổi những chữ “bảy đức Phật như trên” (như thượng thất Phật) thành những chữ “đức Dược sư lưu ly quang” (Dược sư lưu ly quang). Lời này chỉ tài liệu 4 (bản dịch 5) có.

Lời này Phật dạy tổng quát về sự cúng dường hình tượng đức Dược sư, cúng dường kinh Dược sư, và cúng dường pháp sư giảng dạy kinh ấy. Ích lợi của sự cúng dường như trên là được chư Phật hộ niệm. Hộ niệm : gia hộ, tưởng nhớ, truyền cảm hứng. Ðược chư Phật hộ niệm nên cầu gì được nấy, cho đến thực hiện tuệ giác bồ đề (nghĩa là thành Phật). Tuệ giác bồ đề, chữ tuệ giác là thêm cho dễ hiểu, thật ra chính bồ đề là tuệ giác. Nhưng nói bồ đề chỉ là nói tắt A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Trong lời trên, còn nên chú ý câu diễn tấu kỹ nhạc (tác chúng kỹ nhạc). Cứ như chỗ tôi hiểu, thì tác chúng kỹ nhạc có 2 nghĩa hẹp và rộng. Hẹp thì chỉ có nghĩa hòa tấu các nhạc khí. Rộng thì có nghĩa biểu diễn các kỹ thuật, trong đó có sự hòa tấu nhạc khí.

Lúc ấy Mạn thù đồng tử bạch Phật, bạch đức Thế tôn, con nguyện khi thời kỳ Phật pháp tương tự xuất hiện, thì dùng mọi cách làm cho những thiện nam hay thiện nữ có đức tin thanh tịnh được nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Cho đến trong lúc ngủ, con cũng đem danh hiệu Ngài thức tỉnh thính giác của họ. Bạch đức Thế tôn, đối với kinh này thì thọ trì đọc tụng hay tuyên thuyết khai thị cho người, tự chép hay bảo người chép, cung kính tôn trọng, đem hiến cúng những thứ hương hoa, hương xoa, hương vụn, hương đốt, vòng hoa, chuỗi ngọc, tràng phan, bảo cái, và kỹ thuật biểu diễn, trong đó có âm nhạc. Lấy tơ lụa có năm màu sắc làm bao mà đựng. Quét rưới chỗ thanh tịnh, trần thiết dá cao mà để. Thì khi ấy bốn đại thiên vương, cùng tùy thuộc của họ, và vô số trăm ngàn thiên chúng, đều đến chỗ đó mà cúng dường, hộ vệ. Bạch đức Thế tôn, những chỗ kinh bảo này lưu hành, có ai thọ trì được, thì vì bản nguyện, công đức, và danh hiệu được nghe, của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, mà nên biết chỗ ấy không còn chết ngang trái, không còn bị những quỉ thần ác đoạt mất tinh chất. Ðã bị đoạt thì được lại như cũ, thân tâm an lạc.

Khi thời kỳ Phật pháp tương tự xuất hiện, là khi tượng pháp xuất hiện. Nhưng tra các bản dịch, câu này khác nhau như sau : Bản dịch 1 “Phật khứ thế hậu’ (Chính 21/533d), bản dịch 3 “hậu thời” (Chính 14/403t) ; bản dịch 5 “mạt pháp” (Chính 14/4 14d). Sở dĩ tôi quan tâm và tra kỹ, vì như trước tôi đã nói, tôi không tin kinh này chỉ nói cho người tượng pháp.

Dá cao (cao tòa) tòa là cái dá, cái ghế hay bàn. Bốn đại thiên vương : đông là Trì quốc (Dhritarastra), nam là Tăng trưởng (Virudhaka), tây là Quảng mục (Virupaksa), bắc là Ða văn (Dhanada hay Vaisramana) ; 4 vị này hộ vệ 4 đại châu loài người nên gọi là 4 thiên vương hộ thế (hộ vệ thế gian). Tinh chất (tinh khí), tài liệu 9 (Anh văn, trang 13) và Pđ 2511t đều có ý nói là khí lực tinh thần của con người. Tôi cho chữ này chỉ có nghĩa đen thông thường, nghĩa là nói về tinh khí thật. Nhưng, để bớt thô, tôi đã đổi tinh khí ra tinh chất. Còn muốn hiểu chữ tinh khí với nghĩa rộng thì như Pđ 349d dẫn kinh Ðại tập 52 nói, tinh khí có 3, là của đất, của chúng sanh và của pháp ; 3 thứ này được tăng trưởng bởi sự dưỡng dục Phật pháp, xí nhiên Tam bảo chủng cho tồn tại lâu dài ở thế gian.

D2. Phật chỉ cách thức và nói ích lợi

Phật dạy, Mạn thù, đúng như vậy, đúng như ông nói. Mạn thù, nếu có thiện nam thiện nữ đức tin thuần tịnh, muốn cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì trước hết, hãy tạo lập hình tượng của ngài, trần thiết tòa thanh tịnh mà đặt để. Rãi các thứ hoa, đốt các thứ hương, đem các thứ tràng phan mà trang hoàng chỗ ấy. Bảy ngày đêm thọ Bát quan trai giới, ăn đồ ăn thanh tịnh. Tắm gội cho sạch và thơm, mặc y phục sạch sẽ. Nên phát sanh tâm không dơ bẩn, tâm không giận dữ tác hại. Nghĩa là đối với hết thảy chúng sanh khởi lên cái tâm lợi ích an lạc, từ bi hỷ xả và bình đẳng. Rồi tấu nhạc và ca tụng, nhiễu quanh tượng phật Dược sư lưu ly quang như lai theo chiều hướng bên phải. Lại nên tưởng niệm bản nguyện và công đức của đức Như lai ấy, đọc tụng kinh này, tư duy nghĩa ý và diễn giảng khai thị. Như vậy thì mọi sở cầu đều toại ý : cầu sống lâu được sống lâu, cầu giàu có được giàu có, cầu quan chức được quan chức, cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái.

Cách thức phụng thờ tượng và thọ trì kinh của đức Dược sư mà đoạn này chỉ, ngoài hình thức cần có, còn có sự thọ trì Bát quan trai giới, và khởi tâm từ bi lợi ích đối với toàn thể. Như vậy có nghĩa mọi việc phải xuất từ tâm lý vị tha. Còn lợi ích thực hiện được thì có 2 phần : phần được phước (đoạn này nói) và phần khỏi nạn (đoạn sau nói). Phần được phước thì phúc lộc thọ đủ cả. Lại rất nên thêm sự cầu nguyện làm thành việc đáng làm, “cầu làm thành việc gì thì làm thành việc ấy”.

D3. Phật nói ích lợi trong sự khỏi nạn

Nếu ai bỗng nhiên bị ác mộng, thấy đủ cảnh tượng khủng khiếp, hoặc bị những giống chim quái dị đến tập hợp lại, hoặc chỗ ở có cả trăm sự quái dị xuất hiện, kẻ ấy nếu đem những đồ tuyệt diệu cung kính cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì những ác mộng và những cảnh tượng khủng khiếp, những sự không cát tường, ẩn mất tất cả, không thể tác hại. Nếu ai bị những sự hãi sợ như thủy tai, hỏa hoạn, khí giới, độc chất, chơi vơi giữa chừng, sa xuống chỗ hiểm, voi dữ, sư tử, cọp, sói, gấu, bi, rắn độc, bò cạp, rít, sâu, muỗi, nhặng, mà chí tâm tưởng niệm được đức phật Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính cúng dường, thì mọi sự hãi sợ đều thoát được cả. Nếu ai bị nước khác xâm lăng, quấy nhiễu, nội bộ trộm cướp phản loạn, tưởng niệm cung kính đức Như lai ấy, cũng thoát hết thảy.

Ðoạn này khỏi 3 tai nạn : mọi sự quái dị, mọi sự hãi sợ và quốc gia bất an. Sau đây có vài chỗ cần âm thích. Ðộc chất (độc) cũng bao gồm độc khí. Sâu (do diên) – Thereuonema tuberculata. Nước khác xâm lăng quấy nhiễu, không những đối với lãnh thổ mà còn đối với chính trị, văn hóa và kinh tế (TH 28/2372).

Mạn thù, nếu có thiện nam thiện nữ đức tin thuần tịnh, cho đến hết đời, không thờ vị trời nào khác, chỉ nhất tâm qui y Phật Pháp Tăng, thọ trì giới pháp, như năm giới, mười giới, bốn trăm giới của bồ tát, hai trăm năm mươi giới của tỷ kheo, năm trăm giới của tỷ kheo ni. Nhưng đối với giới pháp của họ thọ trì, hoặc có kẻ phá phạm nên sợ đọa lạc ác đạo. Nếu biết chuyên tâm trì niệm danh hiệu đức phật Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính cúng dường, thì quyết chắc không phải lãnh chịu đời sống trong ba ác đạo.

Ðây là khỏi tai nạn đọa lạc ác đạo nếu phạm giới. Nhưng phạm giới mà biết sợ đọa lạc ác đạo nên trì niệm danh hiệu đức Dược sư, mới khỏi tai nạn ấy. Còn không biết sợ hay vẫn tái phạm mãi thì lại khác.

Nếu có nữ nhân nào, lúc gần sinh sản, chịu đựng đau dớn cùng cực, mà biết chí tâm trì niệm danh hiệu, lễ bái, ca tụng, cung kính, cúng dường đức Như lai ấy, thì mọi nỗi đau đớn tan biến tất cả. Ðứa con sinh ra, mọi bộ phận của thân hình đều hoàn bị, sắc tướng của thân hình ấy đẹp và nghiêm, ai thấy cũng hoan hỷ, giác quan tinh nhuệ, trí tuệ thông minh, yên ổn, ít bịnh, không có một kẻ không phải người đoạt mất tinh chất của đứa con ấy.

Ðây là khỏi sản nạn. Mẹ đã khỏi nạn mà con sinh ra cũng hoàn hảo. Kẻ không phải người (phi nhân) là những loài không phải loài người.

C5. nói là chỗ hiểu biết sâu xa của Phật

Lúc ấy đức Thế tôn bảo tôn giả A nan, công đức mà đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai có, mà Như lai đã ca tụng, là chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật, khó mà lý giải, ông tin được không? Tôn giả A nan bạch Phật, bạch đức Thế tôn uy đức cao cả, đối với khế kinh Ngài dạy, con không sinh tâm nghi ngờ. Tại sao, vì thân thể, lời nói và ý nghĩ của các đức Như lai, không động tác nào mà không thanh tịnh. Bạch đức Thế tôn, vầng nhật nguyệt kia có thể làm cho rơi rụng, và Tu di, hòn núi chúa tể trong các hòn núi, cũng có thể làm cho nghiêng đổ, nhưng lời nói của chư Phật thì không thể làm cho khác đi được. Tuy nhiên, bạch đức Thế tôn, có những kẻ đức tin không đủ, nghe nói chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật thì nghĩ, tại sao chỉ trì niệm một danh hiệu Phật của đức Dược sư lưu ly quang như lai mà thu hoạch bao nhiêu công đức và ích lợi vượt bậc như vậy. Vì sự không tin này mà quay lại phỉ báng. Những kẻ ấy suốt đêm trường mất lợi lạc lớn, đọa lạc ác đạo, trôi lăn không cùng. Phật dạy tôn giả A nan, những kẻ ấy nếu nghe dược danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, chí tâm thọ trì, không sinh nghi hoặc, mà vẫn đọa lạc ác đạo là điều không có. A nan, đó là chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật, khó thể tin và hiểu. Nay ông tiếp nhận được, phải biết toàn là do uy lực Như lai. A nan, hết thảy Thanh văn, Ðộc giác, và các vị Bồ tát chưa bước lên thập địa, đều không thể tin và hiểu một cách đúng như sự thực, chỉ trừ các vị Bồ tát còn hệ thuộc một đời mà thôi. A nan, thân thể loài người khó mà có được, sự tin tưởng tôn kính Tam bảo càng khó mà có dược, nhưng nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai lại khó được hơn những sự khó được ấy. A nan, vô lượng bồ tát hạnh, vô lượng thiện phương tiện, và vô lượng quảng đại nguyện, của đức Dược sư lưu ly quang như lai, trong một đại kiếp hay hơn một đại kiếp, Như lai nói một cách đầy đủ, thì đại kiếp ấy có thể kết thúc mau chóng, còn hạnh nguyện và phương tiện của đức Phật này vẫn không cùng tận.

Kết thúc kinh Di đà, đức Phật nói như sau, “Xá lợi phất, như ta bây giờ xưng tụng công đức bất khả tư nghị của chư Phật, thì chư Phật ấy cũng xưng tụng công đức bất khả tư nghị của ta, bằng cách nói rằng, đức phật Thích ca mâu ni làm được cái việc rất khó, hiếm có, là có thể ở trong thời kỳ dữ dội của quốc độ Sa bà, thời kỳ đầy cả 5 thứ vẩn đục là thời kỳ vẩn đục, kiến thức vẩn đục, tâm lý vẩn đục, con người vẩn đục và đời sống vẩn đục, mà thực hiện tuệ giác vô thượng bồ đề, lại còn vì mọi người nói cái pháp mà toàn thể thế gian khó tin này. Xá lợi phất, ông nên biết ta đã ở trong thời kỳ dữ dội đầy cả 5 thứ vẩn đục mà làm việc khó làm, ấy là thực hiện tuệ giác vô thượng, lại vì toàn thể thế gian nói cái pháp khó tin này, thì đó là việc rất khó”. Hãy đối chiếu đoạn văn này với đoạn văn trên, cũng thấy phần nào tình ý của Phật.

Chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật (chư Phật thậm thâm hành xứ), bản dịch 3 (Chính 14/403g) và bản dịch 5 (Chính 14/415g) đều dịch “thậm thâm cảnh giới”. Vậy hành xứ = cảnh giới. Ngài Thái hư nói, hành xứ có 2 nghĩa : một, hành xứ là chỗ biết của phật ; hai, hành xứ là chỗ làm của Phật (TH 28/2376). Ở đây, công đức của đức Dược sư, trong đó có ích lợi mà danh hiệu của ngài đem lại cho chúng sanh, là chỗ chỉ Phật làm và Phật biết, nên gọi là “thậm thâm hành xứ”. Hành xứ tuy có đủ 2 nghĩa như vậy, nhưng nghĩa sau dễ hiểu nên tôi đã dịch “chỗ hiểu biết”.

Ðêm trường (trường dạ) : thì gian dài. Ở đây chỉ cho cảnh giới sanh tử : vừa dài dặc vừa tối tăm (vì vô minh mà thiếu cả chánh tín). Bồ tát còn hệ thuộc một đời mà thôi (nhất sanh sở hệ bồ tát) coi âm thích “thứ lớp kế vị thành Phật”, trang 102. Nhưng 1 đời có 2 : (a) các vị đẳng giác bồ tát chỉ còn 1 đời ứng thân nữa là thành Phật, mới thật là 1 đời ; (b) các vị thập địa bồ tát tuệ mạng báo thân liên tục, không còn phân đoạn sanh tử, nên cũng có thể gọi là 1 đời. Thiện phương tiện = thiện xảo phương tiện.

C6. nói cách tiêu tai diên thọ, có 5 D
D1. chỉ cách tiêu tai diên thọ

Lúc ấy trong chúng hội có một vị đại sĩ danh hiệu Cứu thoát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai áo bên phải, gối bên phải quì xuống sát đất, cong mình, chắp tay mà bạch Phật, bạch đức Thế tôn uy đức cao cả, khi thời kỳ Phật pháp tương tự xuất hiện, có những kẻ bị mọi thứ bịnh hoạn làm cho nguy khốn. Bịnh mãi, gầy ốm, ăn uống không được, cổ và môi đều khô nóng. Nhìn mọi phía đều đen tối. Tướng chết xuất hiện. Cha mẹ, anh em, bà con, bạn bè, quen biết, khóc lóc vây quanh. Nhưng bản thân bịnh nhân thì tuy vẫn nằm chỗ của mình, mà lại thấy sứ giả Diêm vương dẫn thần thức của mình đến trước vị vua chấp pháp này. Nguyên mọi ngưòí đều có vị thần cùng sanh, tùy việc họ làm, tội cũng như phước, ghi chép đầy đủ, và bấy giờ trao cả cho Diêm vương. Diêm vương tra hỏi kẻ ấy, tính việc họ làm, tùy tội và phước mà xử phán. Chính trong lúc này, thân thuộc hay quen biết của bịnh nhân, nếu biết vì họ mà qui y đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, cung thỉnh chư Tăng đọc tụng kinh này, đốt cây đèn bảy tầng, treo phan thần “tiếp nối mạng sống” bằng năm màu. Thì hoặc có kẻ nơi đây thần thức về được, và như trong chiêm bao, tự thấy rõ ràng. Hoặc trải qua bảy ngày, hoặc hai mươi mốt ngày, hoặc ba mươi lăm ngày, hoặc bốn mươi chín ngày, khi thần thức về được thì như từ chiêm bao thức dậy, tự nhớ biết tất cả quả báo của thiện nghiệp ác nghiệp. Nhờ tự chứng kiến nghiệp báo, nên đến nỗi gặp phải tai nạn cho sinh mạng, cũng không tạo tác ác nghiệp. Vì vậy, những thiện nam thiện nữ đức tin thuần tịnh, hãy thọ trì danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, tùy sức có thể mà cung kính cúng dường.

Thời kỳ Phật pháp tương tự (Tượng pháp) chỉ bản dịch 5 cũng dùng chữ này (Chính 14/415g), còn bản dịch 1 không dùng chữ gì (Chính 21/535g), bản dịch 3 dùng chữ “vị lai thế” (Chính 14/403d). Nhìn mọi phía đều đen tối (kiến chư phương ám) là tả hiện tượng sắp chết, mà là cái chết đọa lạc ác đạo. Diêm vương (Diệm ma pháp vương = Yama-raja) dịch nghĩa là Phược : trói buộc tội nhân, Bình đẳng vương : bình đẳng trị tội. Diêm vương là tổng quản địa ngục. Sứ giả Diêm vương (Diệm ma sứ) là lính quỉ mà Diêm vương sai bắt dẫn những kẻ làm ác. Khác với thiên sứ của Diêm vương, thiên sứ ấy là các sự già bịnh và chết. Vị vua chấp pháp (Diệm ma pháp vương) là Diêm vương : Diêm vương chấp chưởng pháp quyền ở địa ngục, nên gọi như vậy.

Thần thức : nghiệp thức và trung hữu. Vị thần cùng sanh (câu sanh thần) : thần năm tháng ngày giờ sinh hay bản thức. Bản thức là tổng thể dị thục, lại tiếp nhận huân tập và chấp trì chủng tử của nghiệp, nên gọi là thần câu sanh. Vạn 35/177a nói, do nghiệp lực mà ý thức bịnh nhân hiện 4 tướng : sứ giả Diêm vương, thần thức của mình, Diêm vương và thần cùng sanh. Có kẻ nơi đây (hoặc hữu thị xứ), thị xứ (nơi đây) là ngay nơi cái lúc làm phước đây, do người thân làm cho bịnh nhân sắp chết. Thần thức về được (bỉ thức đắc hoàn) : sinh mạng là bản thức liên tục chấp trì, chết là ý thức hết khởi phân biệt, sống là ý thức lại khởi phân biệt. Về hay không về, chỉ có nghĩa ý thức tái tục phân biệt hay gián đoạn phân biệt. Nhưng bản thức biến nhất thế xứ. Chết chỗ này sanh chỗ kia là “tiền dị thục ký tận, phục sanh dư dị thục”. Không làm gì có sự đi, về, qua, lại (TH 28/2388). Như trong chiêm bao, tự thấy rõ ràng, là tự thấy rõ ràng như thấy trong chiêm bao. Tự thấy rõ ràng là tự thấy rõ những hình phạt mình bị phán chịu ở địa ngục, lại càng tự thấy rõ người thân làm phước cho mình. Sự tự thấy này, cũng như sự tự nhớ của những người mới chết 7 đến 49 ngày, và tự thấy tự nhớ rồi dẫu nguy đến tánh mạng cũng không dám làm ác, toàn là do thần lực của đức Dược sư.

D2. chỉ thêm cách tiêu tai diên thọ, đặc biệt tiêu bịnh khổ

Lúc ấy tôn giả A nan hỏi bồ tát Cứu thoát, thiện nam tử, nên bằng cách nào cung kính cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai ? Phan và đèn “tiếp nối mạng sống” nên làm cách nào ? Bồ tát Cứu thoát nói, đại đức, nếu bịnh nhân muốn thoát bịnh khổ, nên vì họ mà bảy ngày đêm thọ trì Bát quan trai giới. Nên đem đồ ăn, đồ uống và đồ dùng, tùy sức liệu biện mà cúng dường Tỷ kheo tăng. Ngày đêm sáu buổi lễ bái cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Ðọc tụng kinh này bốn mươi chín biến. Ðốt bốn mươi chín ngọn đèn. Tạo hình tượng đức Như lai ấy bảy vị. Trước mỗi hình tượng để bảy ngọn đèn, cái lượng mỗi ngọn đèn lớn như bánh xe. Và đến bốn mươi chín ngày đêm, ánh sáng không dứt. Còn làm phan năm màu thì dài bốn mươi chín gang tay. Nên phóng sanh đến bốn mươi chín giống khác nhau. Như vậy thì có thể qua được tai nạn nguy khốn, không bị mọi thứ ngang trái và quỉ dữ tác hại.

Gom các đoạn trước và đoạn này nữa, cách thức tiêu tai diên thọ có cái mà ngày nay gọi là đàn Dược sư. Ðàn này gồm có 2 phần chính là phan và đèn. Phan bằng vải 5 màu, dài 49 gang. Ðèn có 7 tầng, mỗi tầng thiết 1 hình tượng đức Dược sư và đốt 7 ngọn đèn càng lớn càng tốt(43). Thì gian là 49 ngày đêm, treo phan, đốt đèn, lạy tượng Dược sư mỗi ngày đêm 6 lần cách đều, trì kinh Dược sư 49 ngày đêm mỗi ngày đêm 1 biến. Thân thì tắm rửa sạch sẽ, mặc đồ sạch (và mới càng tốt). Miệng thì súc rửa sạch sẽ, ăn uống đồ thanh tịnh (nhất là nói càng phải thanh tịnh). Ý thì phát khởi từ bi, muốn ích lợi cho tất cả một cách bình đẳng. Trong thì gian 49 ngày làm đàn Dược sư như vậy còn làm 3 việc nữa : thọ trì Bát quan trai giới, tùy sức cúng dường Tỷ kheo tăng, và phóng sanh đến 49 loại (mỗi loại 49 con, hay 49 ngày đêm phóng sanh 1 lần).

Sau đây là mấy chỗ cần âm thích. Ngày đêm sáu buổi lễ bái cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, hãy chú ý chữ lễ bái cúng dường : nhiều lúc nghĩa là lễ bái và cúng dường, nhiều lúc nghĩa là đem sự lễ bái mà cúng dường. Ở đây có cả hai nghĩa. Phóng sanh : phóng thả sinh vật, tiếng tắt của từ ngữ phóng tạp loại chúng sanh (hay phóng chư sinh mạng). Phóng sanh đến 49 loại khác nhau (phóng tạp loại chúng sanh chi tứ thập cửu), sát thì phải dịch : phóng thả sinh vật nhiều loại lẫn lộn đến 49 thứ. Ngang trái (hoạnh) hoạnh là họa hoạnh : tai họa phi lý, bất trắc, dữ dội.

D3. lại còn tiêu quốc nạn

Ðại đức A nan, nếu giai cấp Sát đế lợi các vị vua đã làm lễ quán đảnh, khi tai nạn nổi dậy, như dân chúng bịnh dịch, nước khác lấn ép, nước mình phản nghịch, tinh tú quái dị, nhật thực nguyệt thực, gió mưa trái thì, quá thì không mưa, thì giai cấp Sát đế lợi, các vị vua đã làm lễ quán đảnh, lúc ấy, hãy phát khởi tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh, ân xá những người bị giam bị nhốt, và theo cách cúng dường tôi  đã nói trên mà cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Nhờ thiện căn như vậy, và nhờ năng lực bản nguyện của đức Như lai ấy, mà làm cho quốc độ của họ tức khắc yên ổn, gió mưa điều hòa, lúa má thành thục, mọi người vô bịnh, vui vẻ. Trong quốc độ của họ không có những loại thần Dạ xoa bạo ác, tác hại chúng sanh. Mọi hiện tượng dữ ẩn mất tất cả và tức thì. Còn giai cấp Sát đế lợi, và những vị vua đã làm lễ quán đảnh, thì sự sống, tướng tốt, sức mạnh, vô bịnh và tự do, đều dược tăng thêm. Nếu hoàng hậu, hoàng phi, đông cung, vương tử, đại thần, phụ chánh, thể nữ, bách quan và dân chúng, bị bịnh làm khổ, và bị những tai nạn khác, cũng nên làm phan thần năm màu và đốt đèn sáng liên tục, phóng các loại có sinh mạng, rải những bông hoa đủ màu, đốt những hương thơm nổi tiếng, thì bịnh hết, nạn khỏi.

Sát đế lợi = Kshatriya, là điền chủ, vương chủng ; giai cấp võ sĩ, 1 trong 4 giai cấp của xã hội Ấn thời cổ, làm vua và đại thần. Vua đã làm lễ quán đảnh, quán đảnh, nghĩa đen là rưới nước lên đỉnh đầu. Nước này lấy ở sông biển 4 hướng, ý chúc thống trị 4 phương thiên hạ. Làm lễ quán đảnh là như ngày nay làm lễ da miện. Giai cấp Sát đế lợi, các vị vua đã làm lễ quán đảnh (Sát đế lợi quán đảnh vương đẳng), rất nên hiệu và dịch là vị vua đã làm lễ quán đảnh thuộc giai cấp Sát đế lợi. Cách cúng dường đã nói trên là cách vừa nói ở đoạn trên đoạn này. Nhờ thiện căn như vậy và nhờ năng lực bản nguyện của đức Như lai ấy, câu này đáng lý đoạn nào cũng phải có. Mọi sự tiêu tai diên thọ và mọi sở cầu sở nguyện mà được thực hiện, là nhờ tự lực được tha lực gia hộ (như câu này nói).

Phụ chánh (phụ tướng) theo TH 28/2394 thì là tả phụ hữu bật, đứng đầu quần thần. Tài liệu 9 (Anh văn, trang 18, dòng 24) dịch là tham nghị viên hay cố vấn của triều đình. Thể nữ (trung cung thể nữ), trung cung là hoàng hậu, trung cung thể nữ là thể nữ của hoàng hậu. Tài liệu 9 (Anh văn, trang 18 dòng 26) dịch là các vị phu nhân thân cận hoàng hậu. Bách quan, quan chức tỉnh vùng. Phóng các loại có sinh mạng (phóng chư sinh mạng) là phóng sanh. Các loại có sinh mạng là chúng sanh (ở đây là các loại sinh vật).

D4. tiêu bất định nghiệp

Lúc ấy tôn giả A nan lại hỏi bồ tát Cứu thoát, thiện nam tử, tại sao mạng sống đã hết mà có thể làm cho tăng thêm ? Bồ tát Cứu thoát nói, đại đức, ngài không nghe đức Thế tôn nói có chín sự chết ngang trái hay sao? Vì chín  sự chết này mà tôi khuyên làm phan và đèn ” tiếp nối mạng sống”, tu các phước đức. Nhờ tu các phước đức mà trọn đời không trải qua một cơn đau đớn hoạn nạn nào cả. Tôn giả A nan hỏi, chín sự chết ngang trái là gì? Bồ tát Cứu thoát nói, có kẻ bị bịnh tuy nhẹ, nhưng không thầy, không thuốc, không ai coi sóc. Gặp thầy thì lại bị cho thuốc không đúng, nên thật không đáng chết mà chết một cách ngang trái. Lại tin thầy bà yêu nghiệt của tà ma ngoại đạo thuộc phạm vi  thế gian nói vớ vẩn về họa phước, nên đâm ra sợ hãi dao động. Tâm thì không tự chánh nó lại, lại đi bói hỏi để tìm lấy tai họa. Giết hại sinh vật mà giải tấu thần minh, vái yêu quái để xin làm phước giúp đỡ, mong muốn thêm tuổi nhưng chung cục không thể  đạt dược. Ngu si mê lầm, tin theo cái thấy cong và ngược, nên làm chết mình một cách ngang trái, nhập vào ñịa ngục, không có kỳ hạn thoát ra. Ðó là sự chết ngang trái thứ nhất. Thứ hai, một cách ngang trái bị phép vua giết. Thứ ba, săn bắn, chơi bời, đam mê tửu sắc, phóng túng vô độ, một cách ngang trái bị những kẻ không phải người đoạt mất tinh chất. Thứ tư, một cách ngang trái bị lửa đốt. Thứ năm, một cách ngang trái bị nước chìm. Thứ sáu, một cách ngang trái bị các giống thú dữ ăn. Thứ bảy, một cách ngang trái rơi xuống sườn núi. Thứ tám, một cách ngang trái trúng chết bởi thuốc độc, ếm vái, chú thư, quỉ khởi thi. Thứ chín, chết một cách ngang trái vì đói khát nguy khốn, không được đồ ăn thức uống. Ðó là sự chết ngang trái mà đức Thế tôn nói vắn tắt có chín thứ như vậy. Ngoài ra còn có vô số những sự ngang trái khác, khó nói cho đủ.

Tu các phước đức là thọ trì Bát quan trai giới, tùy sức cúng dường Tỷ kheo tăng, và phóng sanh đến 49 loại. Tâm thì không tự chánh nó lại, lại đi bói hỏi để tìm lấy tai họa (tâm bất tự chánh, bốc vấn mích họa), bản dịch 1 (Chính 21/535d) dịch “tâm bất tự chánh, bất năng tự định, bốc vấn mích họa” (tâm không tự chánh, không thể tự định, đi bói hỏi mà tìm lấy tai họa). Giải tấu : giải bày, tâu thưa. Cái thấy cong và ngược (tà đảo kiến) là tà kiến.

D5. tiêu cả định nghiệp

Ðại đức A nan, Diêm vương lãnh xét sự ghi chép về sách tịch của thế gian. Ai bất hiếu cha mẹ, làm năm tội nghịch, hủy nhục Tam bảo, phá phép vua tôi, làm hỏng tánh giới, thì Diêm vương theo tội nặng nhẹ xét mà phạt. Vì lý do ấy, nay tôi khuyến cáo mọi người đốt đèn, treo phan, phóng sanh, tu phước, làm cho họ qua khỏi khốn khổ, không gặp mọi sự hoạn nạn.

Ghi chép về sách tịch thế gian là ghi tội phước như trước đã nói. Tánh giới: giới năng. Nhưng tất cả bản chính đều chép “tín giới”, nghĩa là chánh tín và tịnh giới. Làm hỏng tín giới là tà kiến và phạm giới, là phá kiến và phá giới. Treo phan (tạo phan), tạo là chế tạo, bày ra, dựng lên. Ở đây nên hiểu là treo, dựng. Tu phước : như đã nói (trang 118) có 3, nay phóng sanh kể rồi thì còn 2, là cúng dường Tỷ kheo tăng và thọ trì Bát quan trai giới.

C7. nói sự hộ vệ của Dạ xoa.

Lúc ấy trong chúng hội có mười hai  vị đại tướng Dạ xoa, cùng có mặt ở  đó, là đại tướng Cung tỳ la, đại tướng Phạt chiết la, đại tướng Mê xí la, đại tướng An để la, đại tướng Ngạnh nễ la, đại tướng San để la, đại tướng Nhân đạt la, đại tướng Ba di la, đại tướng Ma hổ la, đại tướng Chân đạt la, đại tướng Chiêu đỗ la, đại tướng Tỳ yết la. Mười hai vị đại tướng Dạ xoa này, mỗi vị có bảy ngàn Dạ xoa làm tùy thuộc, cùng lúc cất tiếng bạch Phật, bạch đức Thế tôn, chúng con bây giờ nhờ uy lực của Ngài mà nghe được danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, không còn nỗi sợ hãi về ác đạo nữa. Chúng con đốc suất nhau, cùng nhau nhất tâm, suốt đời qui y Phật Pháp Tăng, thệ nguyện gánh vác hết thảy chúng sanh, tạo cho họ cái lợi chân thật, cái vui lợi ích. Tùy thôn làng, thị thành, thủ đô, và trong rừng thanh vắng, của bất cứ xứ nào, mà hoặc có kinh này lưu hành, hoặc có kẻ trì niệm danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính cúng dường Ngài, thì chúng con, và tùy thuộc của chúng con, hộ vệ người ấy, làm cho họ thoát mọi khổ nạn, mọi ước nguyện đều thỏa mãn. Hoặc ai bị bịnh khổ mà cầu thoát qua, thì cũng nên đọc tụng kinh này, dùng tơ sợi năm màu mà kết tên chúng con. Ðược toại nguyện rồi mới tháo kết ấy.

Lúc ấy đức Thế tôn tán dương các đại tướng Dạ xoa, rằng lành thay các tướng Ðại dạ xoa, lành thay, các người nghĩ báo ân đức cửa đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì thường nên như vậy mà lợi ích an lạc hết thảy chúng sanh.

Danh sách 12 đại tướng Dạ xoa, kể theo Phạn tự thì như sau.

  1. Kumbhira,
  2. Vajra,
  3. Mihira,
  4. Andira,
  5. Majira,
  6. Shandira,
  7. Indra,
  8. Pajra,
  9. Makura,
  10. Sindura,
  11. Catura,
  12. Vikarala.

Ðó  là trích tài liệu 9 (Anh văn, trang 20, dòng 23). Nhưng dịch nghĩa thì tìm không ra. Chỉ tìm thấy 2 danh sách sau đây.

(a) 1. Cực úy dược xoa đại tướng,

  1. Kim cang dược xoa đại tướng,
  2. Chấp nghiêm dược xoa đại tướng,
  3. Chấp tinh dược xoa đại tướng,
  4. Chấp phong dược xoa đại tướng,
  5. Cư xứ dược xoa đại tướng,
  6. Chấp lực dược xoa đại tướng,
  7. Chấp ẩm dược xoa đại tướng,
  8. Chấp ngôn dược xoa đại tướng,
  9. Chấp tường dược xoa đại tướng,
  10. Chấp động dược xoa đại tướng,
  11. Viên tác dược xoa đại tướng.

(b) 1. Khả úy đại tướng,

  1. Kim cang đại tướng,
  2. Hộ pháp đại tướng,
  3. Hộ tỷ đại tướng,
  4. Chánh pháp đại tướng,
  5. La sát đại tướng,
  6. Ðế sử đại tướng,
  7. Lang long đại tướng,
  8. Canh phương đại tướng,
  9. Chiết thuỳ đại tướng,
  10. Hộ thế đại tướng,
  11. Cần nộ đại tướng,

Danh sách (a) trích Chính 19/51g và 60t ; danh sách (b) trích Chính 19/67t.

Lợi chân thật (nghĩa lợi) cái lợi chân chính, chắc thật, hợp chân lý. Thủ đô (quốc ấp).

Ðoạn này cho thấy Dạ xoa mà thệ nguyện gánh vác chúng sanh, hộ vệ mọi người, là do uy lực của đức Dược sư, là công đức của ngài. Trong đoạn này, cuối cùng, còn đưa ra một cách trừ bịnh nữa. Tra đọc các tài liệu sẽ thấy cách ấy cũng rất quan trọng.

A3 kết thúc

B1. nói tên kinh

Bấy giờ tôn giả A nan bạch Phật, bạch đức Thế tôn, nên mệnh danh như thế nào về pháp môn này, và chúng con nên phụng trì kinh này như thế nào ? Phật dạy tôn giả A nan, pháp môn này nên mệnh danh Nói về bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai, cũng nên mệnh danh Nói về sự kết nguyện thần chú để lợi ích chúng sanh của mười hai thần tướng, lại nên mệnh danh Bạt trừù hết thảy nghiệp chướng. Nên phụng trì như vậy.

Phụng trì như vậy (như thị trì) chỉ có nghĩa đơn giản là nhớ như vậy. Muốn xa hơn chút nữa thì “hãy phụng trì theo ý nghĩa mệnh danh như vậy”.

B2. chúng hội phụng hành

Khi đức Thế tôn nói lời này rồi, các vị đại bồ tát cùng các vị đại thanh văn, quốc vương, đại thần, đạo sĩ, cư sĩ, thiên chúng, long chúng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la dà, loài người và loài không phải người, toàn thể đại chúng như vậy, nghe những điều Phật dạy, ai cũng cực kỳ hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

Thiên chúng… ma hầu la dà là 8 bộ thiên long. Loài người và loài không phải người (nhân phi nhân), TH 28/2406 nói, thanh văn, quốc vương, vân vân, là loài người ; thiên chúng, long chúng, vân vân, là loài không phải người. Pđ 270t giải thích lại khác : (a) là khẩn na la, vì như người mà không phải người ; (b) chỉ cho tất cả 8 bộ, vì vốn không phải người, nhưng đến Phật thì hiện hình người cả. Theo lối giải thích này, “nhân phi nhân” nên dịch “loài như người mà không phải người”. Nhưng xét văn ý kinh này, qua những chỗ nói “phi nhân”, thì thấy TH 28/2406 nói đúng với kinh này hơn.

Mục lục

Tiểu dẫn. 5
Lời đề khóa tụng kinh Dược Sư của Ngọc lâm quốc sư. 8
Kinh Dược  sư. 11
Sám  Dược  sư  cuốn trước. 68
Sám  Dược  sư  cuốn  giữa. 94
Sám  Dược  sư  cuốn  sau. 128
Lược giải kinh dược sư (có mục lục riêng) 153
Ghi chú. 222 

Ghi chú

(1) A Xà thế Vương = Ajatasatru. Con vua Tần bà ta la (Binsbisara) xứ Ma kiệt đà (Magadha). Bạn với Ðề bà đạt đa (Devadatta). Cầm tù cha mẹ, lên ngôi thôn tính các tiểu quốc, dựng nền móng thống nhất ấn độ. Vì tội hại cha mà cả mình nổi mụt (thứ mụt chữ Tàu dịch là sang, có nghĩa là một loại ung thư). Nhưng đến Phật sám hối thì lành, nên qui y Ngài. Ông là hộ pháp cho cuộc kiết tập pháp tạng lần thứ nhất.

Ương quật ma la = Angulimalaya. Theo tà thuyết giết người được niết bàn. Giết được 999, cắt mỗi người 1 ngón tay, kết vòng đội trên đầu. Thiếu 1 người mới đủ số phải có là 1000, nên đuổi giết mẹ. Phật thương mà cứu và thuyết pháp cho. Ương quật sám hối, xuất gia, đắc quả La hán liền. Chuyện vị này nhiễm đầy tính chất và phong thái Thiền tông và đốn ngộ.

(2) Câu trên của kinh Di đà, câu dưới của kinh Dược sư.

(3) Từ đây trích Chính 14/414g.

(4) Trích Chính 14/414g đến đây.

(5) Tiêu tai diên thọ : tiêu tan tai họa, kéo dài sự sống.

(6) Nguyên văn đoạn này không chỉnh. Nếu sát thì phải dịch “Lúc ấy đức Dược sư lưu ly quang như lai từ bi cứu vớt, nói kinh Bản nguyện công đức này”.

(7) Nguyên văn “sát lợi” = sát đế lợi, giai cấp làm vua và đại thần.

(8) Các sự tiêu tai tăng thọ, cũng như sự cúnghương (Nam mô hương cúng dường bồ tát) đều có năng lực như bồ tát, nên gọi như vậy.

(9) = tà kiến : lý thuyết các học phái ngoại đạo.

(10) Thân với mạng là 2 thứ. Thân lấy tứ đại làm thể, mạng lấy thọ, noãn và thức làm thể.

(11) Qui mạng đảnh lễ đức Dược sư lưu ly quang như lai… thế tôn, ở thế giới hệ Tịnh lưu ly thuộc phía đông.

(12) Cha mẹ, chúng sanh, quốc chúa và Tam bảo gồm sư trưởng) (cho tại gia) ; hay cha mẹ, sư trưởng, quốc chúa và thí chủ (gồm chúng sanh ) (cho xuất gia).

(13) Dục giới, sắc giới, không giới (vô sắc giới).

(14) Phiền não, vọng nghiệp, khổ báo (hoặc, nghiệp, khổ).

(15) Ái : lầm sự, như tham lam, sân hận…  Kiến : lầm lý, như ngã kiến, tà kiến…

(16) Phân đoạn và biến dịch.

(17) Pháp thân, bát nhã và giải thoát.

(18) Giết cha, giết mẹ, giết La hán, làm thân 292 Phật đổ máu, phá Tăng hòa hợp. Hoặc phá hủy vật của Tam bảo, phỉ báng và trở ngại Phật pháp, ngược đãi người xuất gia, phạm 1 trong 5 thứ trên, phủ nhận nghiệp báo mà làm ác mãi.

(19) = Sila : giới (thanh lương, tánh thiện).

(20) = Tà kiến

(21) Thật tướng của nhất thừa = tướng thực của giáo lý duy nhất. Tướng thực ở đây (có khi chỉ dùng chữ tướng mà thôi) phải hiểu theo từ ngữ và tư tưởng của ngài La thập : tướng thực thì không còn thực đối với giả, không còn tướng đối với tánh…

(22) = Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt.

(23) = kinh Dược sư (cũng có thể gồm kinh khác tương tự).

(24) Cùng cực tinh tiến (kiều cần), kiều là cất cao, tốt nhiều, khởi phát, nên dịch như vậy. Cũng có thể dịch phát khởi tinh tiến.

(25) Tạo phan (tạo phan), tạo là chế tạo, là bày ra, dựng lên. Ở đây nên hiểu theo 2 nghĩa sau.

(26) ôn và dịch đều là bịnh thời khí và truyền nhiễm. Bịnh ấy, mùa đông gọi là ôn, mùa hạ gọi là dịch.

(27) Ý nói sự hay đọa ác đạo (chứ không dễ sanh loài người, chư thiên) cũng là quả báo sót lại (di báo = dư báo) của chúng sanh.

(28) Quỉ khởi thi (phi thi tà quỉ) Phi thi tà quỉ có thể dịch thây chết phi chạy, ma quỉ lếu láo, nhưng rất nên chỉ dịch là quỉ khởi thi, vì đó là chữ và việc của kinh Dược sư. Quỉ khởi thi : coi trang 105

(29) = đạo bồ đề.

(30) Ðoạn này tóm lược 12 đại nguyện.

(31) 8 chướng nạn (bát nạn) : 8 nơi và sự trở ngại sự thấy Phật nghe Pháp, là địa ngục, ngạ quỉ súc sanh, câu lô châu, trường thọ thiên, đui điếc câm ngọng (giác quan không đủ), thế trí biện thông, trước hay sau Phật. 3 tai họa (tam tai) là tiểu tam tai : chiến tranh, nhiễm độc và nhân mãn (của “kiếp giảm”, không phải bình thường). Nhưng bát nạn tam tai ở đây chỉ một ít và bình thường thôi.

(32) Không giữ kiết sử (bất trú sử hải) sát thì phải dịch, không ở trong biển kiết sử.

(33) = ngôn ngữ đạo đoạn. Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, là điển ngữ của ngài Long thọ (Trung luận). Nghĩa đen : con đường ngôn ngữ đã tuyệt, cái chỗ tâm hành đã mất. Ý : bất khả tư nghị, siêu việt tư duy và mô tả.

(34) Chỗ của tỷ kheo ở mà vô tội, gọi là tịnh địa.

(35) Lưu chú : sự sinh diệt liên tục trong từng sát na (đơn vị thì gian, chỉ bằng hay mau hơn sự thoạt hiện hoặc sự thoạt biến của một ý nghĩ).

(36) Chỉ dưới Phật một bậc.

(37) = đức Dược sư.

(38) Ðiển ngữ là “thường tịch thường chiếu’, tả bản thể luôn luôn vắng lặng tức luôn luôn chiếu soi. Cũng gọi là “thường tịch quang” : ánh sáng của bản thể luôn luôn vắng lặng. Trong 9 lạy về tứ thánh Cực lạc có chữ “thường tịch quang độ”, nghĩa : quốc độ ánh sáng của bản thể luôn luôn vắng lặng, ý nói chính bản thể ấy là quốc độ của pháp thân. Nguyên văn ở đây viết thường quang là viết tắt (đáng lý phải viết thường tịch quang).

(39) Không phải chỉ là đồ trang sức mà thôi. Mà là đồ trang sức toàn thể đời sống và cuộc đời.

(40) Thiên hà (lớn hơn ngân hà mà trong đó có thái dương hệ) ?

(41) TH 28/232719 nói, Ðại phạn thiên (chúa trời), kẻ thành trước tiên trong “thành kiếp” và hoại sau hết trong “hoại kiếp”, làm chủ tiểu thế giới. Và như vậy, Ðại phạn thiên sống 60 lần tăng và giảm (60 tiểu kiếp, theo Trí độ luận).

(42) Rất nên thêm “chỗ làm và biết sâu xa”…

(43) Bản dịch 1 (Chính 21/535g) nói cây đèn 7 tầng, mỗi tầng 7 ngọn đèn (thất tằng chi đăng, nhất tằng thất đăng). 

[hết]

Kinh Phật: PHẨM HẠNH NGUYỆN PHỔ HIỀN – Thượng nhân Thích Trí Quang dịch giải

Phẩm Hạnh Nguyện Phổ Hiền

Trưởng Lão Thích Trí Quang dịch

GHI CHÚ:
Bản Phổ Hiền Hạnh Nguyện Vương Tạng ngữ là ứng với phần kệ của phẩm này. Nội dung không nhiều sai biệt, chỉ khác vài nơi ở cách phân câu và thứ tự.  Quí vị có thể hạ tải bản đối chiếu theo Tạng ngữ ở đây: [PDF - Phổ Hiền Hạnh Nguyện Vương - tạng-anh-pháp-viet]. Bảy hạnh Phổ Hiền thường nhắc trong Phật giáo Tây Tạng ứng với 12 câu kệ đầu, là phần sơ khởi của pháp tu Phổ Hiền. Đó là mượn phần sơ khởi của pháp tu Phổ Hiền làm pháp sơ khởi cho mọi công phu khác. Thiển ý, Hồng Như 

LỜI NÓI ĐẦU

Phẩm Hạnh nguyện Phổ Hiền nằm trong Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu, cuốn 10, các trang 844 – 848. Đó là chính văn mà tôi căn cứ để dịch. Và dịch thì căn cứ ý kiến của đại sư Thái Hư, qua bản giảng lục của ngài, nằm trong Thái Hư toàn thư tập 23, các trang 1027 – 1096. Có một chi tiết nhỏ xin ghi ở đây, là kinh sách tôi dịch có mấy chỗ liên hệ đến phẩm này, nhất là Hồng danh; nhưng tùy chỗ nên ý dịch không khác mà lời dịch phải khác chút ít.

Dịch phẩm này tôi không làm mục lục mà kể như đã có. Vì phần trường hàng thì dễ thấy, còn phần chỉnh cú thì coi các ghi chú 15, 16, 17, 18, 21, 24, sẽ thấy phân khoa rõ ràng.

Sánh với 4 hoằng thệ của đức Thích Tôn tuy vắn tắt bậc nhất mà đầy đủ bậc nhất, thì 10 hạnh nguyện của đức Phổ Hiền thật không bằng. Nhưng 10 hạnh nguyện ấy cũng thật đặc biệt. Tựu trung có người cho “tùy hỷ công đức” có gì khó khăn và quan trọng đâu; nhưng nếu biết con người có thể chết cho người mà khó thể khen người một câu, thì đủ biết hạnh nguyện ấy quan trọng biết bao cho tâm lý người tu.

Phẩm này có sự đặc biệt bậc nhất là hồi hướng Cực lạc. Tôi dịch là vì sự đặc biệt ấy.

*

Phẩm này, nay sao lục vào sau Pháp Hoa để trì tụng, là vì phẩm 28 cuối kinh ấy nói tu học Pháp Hoa là do thần lực Phổ Hiền, là đi theo đường đi Phổ Hiền (tức 10 đại nguyện vương), là được Phật đưa tay xoa đầu.

Trí Quang

Nhất tâm đảnh lễ Nam mô Hoa Nghiêm giáo chủ Tỳ Lô Giá Na Như Lai;
Nhất tâm đảnh lễ Nam mô Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh;
Nhất tâm đảnh lễ Như Lai trưởng tử Phổ Hiền bồ tát ma ha tát. 

 Kinh Hoa Nghiêm
PHẨM HẠNH NGUYỆN PHỔ HIỀN[1]

Vào lúc bấy giờ, Phổ Hiền đại sĩ tán dương công đức siêu việt của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai rồi, bảo chư vị bồ tát qua Thiện Tài đồng tử, rằng Thiện nam tử, công đức của đức Như Lai, giả sử chính tất cả chư vị Như Lai trong mười phương, trải qua những thời kỳ[2] nhiều bằng số lượng cực vi[3] của những thế giới đến số lượng hai lần không thể nói[4], diễn nói liên tục, cũng không thể cùng tận. Nếu muốn thành tựu công đức ấy thì phải tu tập mười hạnh nguyện rộng lớn. Mười hạnh nguyện ấy là những gì? Một là lễ kính Phật đà, hai là tán dương Như Lai, ba là hiến cúng rộng lớn, bốn là sám hối nghiệp chướng, năm là tùy hỷ công đức, sáu là xin chuyển pháp luân, bảy là xin Phật ở đời, tám là thường học theo Phật, chín là hằng thuận chúng sinh, mười là hồi hướng khắp cả.

Thiện Tài đồng tử thưa, kính bạch Đại sĩ, thế nào là lễ kính Phật đà? Cho đến thế nào là hồi hướng khắp cả?

Phổ Hiền đại sĩ bảo Thiện Tài đồng tử, Thiện nam tử, [thứ nhất] lễ kính Phật đà là đối với chư vị Thế Tôn nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, tôi nhờ sức mạnh hạnh nguyện Phổ Hiền mà tin hiểu sâu xa như đối diện trước mắt, và toàn đem ba nghiệp thân miệng ý trong sạch mà thường xuyên lễ kính. Nơi mỗi đức Thế Tôn, tôi biến thể thân hình nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói, mỗi thân hình lạy khắp chư vị Thế Tôn nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói. Hư không cùng tận, sự lễ kính của tôi mới cùng tận, nhưng hư không không thể cùng tận, nên sự lễ kính của tôi không có cùng tận; như vậy, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự lễ kính của tôi mới cùng tận, nhưng chúng sinh, nghiệp của chúng sinh, phiền não của chúng sinh, không có cùng tận, nên sự lễ kính của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na[5], không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [ thứ hai ] tán dương Như Lai là bao nhiêu cực vi của những thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, mỗi cực vi ấy có chư vị Thế Tôn nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới, mỗi đức Thế Tôn đều có hải hội[6] Bồ tát vây quanh. Tôi đem sự tin hiểu siêu việt, sâu xa, biết và thấy các Ngài như đối diện trước mắt. Tôi dùng những cái lưỡi nhiệm mầu hơn cả Đại biện tài thiên nữ, mỗi cái lưỡi xuất ra biển cả âm thanh vô tận, mỗi âm thanh xuất ra biển cả từ ngữ phong phú, ca tụng tán dương biển cả công đức của tất cả chư vị Như Lai, cùng tận thì gian không có gián đoạn, cùng tận pháp giới không có thiếu sót. Như vậy, hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự tán dương của tôi mới cùng tận; nhưng hư không cho đến phiền não không có cùng tận, nên sự tán dương của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [ thứ ba ] hiến cúng rộng lớn là bao nhiêu cực vi của tất cả thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, mỗi cực vi có chư vị Thế Tôn nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới, mỗi đức Thế Tôn có hải hội Bồ tát vây quanh, tôi nhờ sức mạnh hạnh nguyện Phổ Hiền mà tin hiểu sâu xa, biết và thấy các ngài như đối diện trước mắt. Tôi đem cúng phẩm thượng hạng và tinh tế mà hiến cúng. Mây hoa, mây vòng hoa, mây âm nhạc chư thiên, mây tàn lọng chư thiên, mây phục sức chư thiên, các loại hương liệu chư thiên, hương xoa, hương đốt, hương bột, những mây cúng phẩm như vậy hình lượng mỗi thứ bằng núi chúa Tu Di. Tôi lại đốt các loại đèn, đèn bơ, đèn dầu, các loại đèn dầu thơm, tim của mỗi thứ đèn lớn như núi Tu Di, dầu của mỗi thứ đèn nhiều như nước biển cả. Tôi đem những cúng phẩm như vậy mà hiến cúng thường xuyên. Thế nhưng, thiện nam tử, trong mọi sự hiến cúng, hiến cúng chánh pháp là hơn hết: hiến cúng bằng cách làm đúng lời Phật, hiến cúng bằng cách lợi ích chúng sinh, hiến cúng bằng cách giáo hóa chúng sinh, hiến cúng bằng cách chịu khổ thay cho chúng sinh, hiến cúng bằng cách siêng tu thiện căn, hiến cúng bằng cách không bỏ Bồ tát hạnh, hiến cúng bằng cách không rời Bồ đề tâm. Thiện nam tử, công đức vô lượng của sự hiến cúng trước, đối chiếu với một thoáng công đức của sự hiến cúng chánh pháp, thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, một phần ức, một phần triệu, một phần trăm của một cái lông, một phần của sự tính toán được, một phần của sự tính kể được, một phần của sự ví dụ được, một phần của cực vi, tất cả đều không bằng[7]. Tại sao? Vì chư vị Như Lai tôn trọng chánh pháp, vì làm đúng lời Phật thì xuất sinh chư Phật. Nếu các vị Bồ tát làm theo sự hiến cúng chánh pháp thì thế là thành tựu sự hiến cúng Như Lai, vì làm theo như vậy là hiến cúng chân thật. Như vậy, hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự hiến cúng rộng lớn và hơn hết của tôi mới cùng tận, nhưng hư không cho đến phiền não không thể cùng tận, nên sự hiến cúng của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ tư] sám hối[8] nghiệp chướng là Bồ tát tự nghĩ, trong bao thời kỳ quá khứ vô thỉ, tôi do tham sân si mà phát động thân miệng ý, làm những nghiệp dữ vô lượng vô biên. Nếu nghiệp dữ ấy có hình tướng thì cùng tận không gian cũng không thể dung chứa. Nay tôi đem cả ba nghiệp thân miệng ý trong sạch, đối trước chư vị Phật đà và chư vị Bồ tát trong những thế giới nhiều như cực vi và khắp cả pháp giới, thành tâm sám hối, sau không làm nữa, thường sống trong tịnh giới và các công đức. Như vậy, hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự sám hối của tôi mới cùng tận, nhưng hư không cho đến phiền não không thể cùng tận, nên sự sám hối của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ năm] tùy hỷ công đức là chư vị Như Lai nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, từ lúc mới phát tâm, vì Nhất thiết trí mà siêng tu cái khối phước đức, không tiếc tính mạng; trải qua thời kỳ nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói, trong mỗi thời kỳ, bỏ đầu mắt tay chân nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói; tất cả khổ hạnh khó làm như vậy viên mãn các Ba la mật, chứng nhập các Bồ tát trí, thành tựu Vô thượng Bồ đề, nhập vào Niết bàn, phân bủa xá lợi, bao nhiêu thiện căn ấy tôi tùy hỷ tất cả. Tất cả sáu đường và bốn loài chúng sinh trong hết thảy thế giới khắp cả mười phương, có bao nhiêu công đức, dầu chỉ bằng một cực vi, tôi cũng tùy hỷ tất cả. Khắp mười phương, suốt ba đời, tất cả các vị Thanh văn, Duyên giác, còn tu học, hết tu học, có bao nhiêu công đức, tôi cũng tùy hỷ tất cả. Vô lượng khổ hạnh khó làm, chí cầu Vô thượng Bồ đề, và công đức rộng lớn, của hết thảy Bồ tát tu hành, tôi cũng tùy hỷ tất cả. Như vậy, dầu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự tùy hỷ của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ sáu] xin chuyển pháp luân là bao nhiêu cực vi của những thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng pháp giới và hư không giới, mỗi cực vi là một thế giới rộng lớn, nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói. Trong mỗi thế giới ấy, mỗi sát na có chư vị Phật đà nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói, đều thành bậc Đẳng chánh giác, với hải hội Bồ tát vây quanh; nhưng tôi toàn đem ba nghiệp thân miệng ý, dùng mọi phương cách, mà thiết tha khuyên mời các ngài chuyển đẩy diệu pháp luân. Như vậy, dẫu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự thường xuyên khuyên mời chư Phật chuyển đẩy chánh pháp luân của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ bảy] xin Phật ở đời là đối với bao nhiêu chư vị Như Lai nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, ý muốn thị hiện nhập vào Niết bàn, đối với chư vị Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, còn tu học, hết tu học, cho đến hết thảy các bậc thiện tri thức, tôi đều khuyên mời đừng nhập Niết bàn, hãy sống với những thời kỳ nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới, để lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh. Như vậy, dẫu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự khuyên mời này của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ tám] thường học theo Phật là như đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai của thế giới Sa bà này, ngay khi mới phát tâm, đã tinh tiến không thoái chuyển, đem thân mạng nhiều đến hai lần không thể nói mà bố thí; lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, chích huyết làm mực, sao chép kinh điển chất bằng Tu di, vì tôn trọng chánh pháp mà thân mạng còn không tiếc, huống chi ngôi vua, hoàng thành, đô thị, thôn xóm, cung điện, hoa viên, lâm viên, và tất cả những vật sở hữu. Cọng với bao khổ hạnh khó làm khác, cho đến ngồi dưới Bồ đề thọ, thành tựu đại Bồ đề, thị hiện các thứ thần thông, phát khởi những sự biến hóa, biến thể các loại Phật thân, ở giữa các loại đại hội: hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của chư vị đại Bồ tát, hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của chư vị Thanh văn, Duyên giác, hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của chư vị luân vương, quốc vương và hoàng gia của họ, hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của sát đế lợi, bà la môn, trưởng giả, cư sĩ, cho đến hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của tám bộ thiên long, nhân loại và loài khác, ở giữa những đại hội như vậy mà đem tiếng nói viên mãn vang lên như sấm lớn, tùy ý thích của chúng sinh mà thành thục cho họ; cho đến thị hiện nhập vào Niết bàn, tất cả [những việc Phật làm] như vậy tôi đều theo mà học tập. Y như đối với đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na hiện nay, thì cũng như vậy mà đối với hết thảy chư vị Như Lai nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, trong từng sát na, tôi toàn theo mà học tập. Như vậy, dầu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự thường học theo Phật của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ chín] hằng thuận chúng sinh là bao nhiêu chúng sinh trong biển cả thế giới khắp mười phương, cùng tận pháp giới và hư không giới, có những chủng loại khác nhau: có những loại sinh bằng trứng, bằng thai, bằng thấp khí, bằng biến thể, có những loại dựa vào đất nước lửa gió mà sinh sống, có những loại dựa vào hư không hay các loại cỏ cây mà sinh sống; đủ loại cách sinh, đủ loại màu sắc, đủ loại hình dáng, đủ loại tướng mạo, đủ loại tuổi thọ, đủ loại chủng tộc, đủ loại tên gọi, đủ loại tâm tính, đủ loại thấy biết, đủ loại ưa thích, đủ loại ý thức, đủ loại cử động, đủ loại phục sức, đủ loại ẩm thực; ở nơi đủ loại làng xóm, đô thị, kinh thành, cung điện; cho đến tất cả tám bộ thiên long, nhân loại và loài khác, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, có hình sắc, không hình sắc, có tư tưởng, không tư tưởng, không phải có tư tưởng, không phải không có tư tưởng; tất cả chủng loại như vậy, đối với họ tôi đều tùy thuận cả: tôi phụng sự đủ cách, cung dưỡng đủ cách, kính như kính cha mẹ, thờ như thờ sư trưởng, thờ La hán, cho đến như thờ Như Lai, đồng đẳng không có gì khác cả. Bằng cách ai bịnh khổ thì tôi làm thầy thuốc giỏi, ai lạc đường thì tôi chỉ cho đường chính, trong đêm tối thì tôi làm ánh sáng, nghèo khốn thì tôi làm cho được kho tàng giấu trong lòng đất. Bồ tát hãy bình đẳng lợi ích chúng sinh như vậy, tại sao, vì Bồ tát có thể tùy thuận chúng sinh thì thế là tùy thuận hiến cúng Phật đà, tôn trọng phụng sự chúng sinh thì thế là tôn trọng phụng sự Như Lai, làm cho chúng sinh vui vẻ thì thế là làm cho Như Lai vui vẻ. Tại sao? Vì chư vị Như Lai thì lấy tâm đại bi làm bản thể, mà do chúng sinh mới có tâm đại bi, do tâm đại bi mới có tâm bồ đề, do tâm bồ đề mới thành Chánh giác. Tựa như đại thụ ở trong đồng nội hay sa mạc mênh mông, đại thụ ấy nếu rễ được nước thì nhánh lá hoa quả đều sum sê tươi tốt. Bồ đề đại thụ ở trong đồng nội sinh tử mênh mông cũng là như vậy, lấy chúng sinh làm rễ, lấy chư Phật chư Bồ tát làm hoa làm trái, đem nước đại bi lợi ích chúng sinh thì sinh ra hoa trái tuệ giác là chư Phật Bồ tát, tại sao, vì nếu Bồ tát đem nước đại bi lợi ích chúng sinh thì thế là thành tựu vô thượng bồ đề. Do vậy, bồ đề là thuộc về chúng sinh, không chúng sinh thì các vị Bồ tát không bao giờ có thể thành tựu vô thượng bồ đề. Thiện nam tử, đối với ý nghĩa ấy ông hãy lý giải như vầy: đối với chúng sinh mà tâm lý bình đẳng thì có thể thành tựu lòng đại bi viên mãn, đem lòng đại bi tùy thuận chúng sinh thì thế là thành tựu sự hiến cúng chư vị Như Lai. Bồ tát tùy thuận chúng sinh như vậy, dẫu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự tùy thuận ấy cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ mười] hồi hướng khắp cả là từ sự lễ kính cho đến sự hồi hướng có bao công đức, tôi đều hồi hướng cho hết thảy chúng sinh cùng tận pháp giới và hư không giới, nguyện nhờ công đức ấy mà làm cho chúng sinh thường được yên vui, không mọi bịnh khổ, muốn làm việc ác thì bất thành tất cả, muốn tu điều thiện thì mau thành hết thảy, đóng chặt cửa ngõ của các nẻo ác, mở bày đường chính của nhân loại chư thiên và niết bàn. Nếu chúng sinh vì làm bao nghiệp dữ mà bị những quả khổ nặng nề thì tôi chịu thay hết cho họ, làm cho họ được giải thoát, cứu cánh thành đạt vô thượng bồ đề. Bồ tát tu tập sự hồi hướng như vậy, dầu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự hồi hướng ấy cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, như vậy gọi là mười đại nguyện của Bồ tát đại sĩ viên mãn đầy đủ. Nếu các vị Bồ tát tùy thuận mà đi mau vào mười đại nguyện ấy thì có thể thành thục tất cả chúng sinh, thì có thể tùy thuận vô thượng bồ đề, thì có thể thành tựu đầy đủ biển cả hạnh nguyện của Phổ Hiền đại sĩ. Do vậy, Thiện nam tử, đối với ý nghĩa ấy ông hãy nhận thức như vầy: Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào đem bảy thứ quí báu loại thượng hạng và tinh tế, cùng với đồ dùng đem lại hạnh phúc hơn hết cho nhân loại và chư thiên, đầy những thế giới nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới khắp cả mười phương, vô lượng vô biên, hai lần không thể nói, bố thí cho chúng sinh trong những thế giới cũng nhiều như trên, hiến cúng chư vị Phật đà và chư vị Bồ tát trong những thế giới cũng nhiều như trên, và trải qua những thời kỳ nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới cũng nhiều như trên, liên tục không ngừng; nhưng công đức người ấy đạt được, đem đối chiếu với công đức đạt được của người nghe mười nguyện vương này một lần lướt qua thính giác, thì công đức người trước không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, cho đến một phần cực vi cũng không bằng. Đối với mười đại nguyện này, có ai đem lòng tin sâu xa mà tiếp nhận, ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, cho đến chỉ sao chép được một bài chỉnh cú bốn câu[9], cũng mau chóng diệt được năm tội vô gián, bao nhiêu khổ não trong đời như thân bịnh tâm bịnh vân vân, cho đến tất cả nghiệp dữ nhiều bằng số lượng cực vi của thế giới cũng được tiêu diệt cả; tất cả quân đội của ma vương, quỷ ăn thịt người, quỷ bạo ác, quỷ ăn tinh khí, quỷ điên cuồng, quỷ ăn thịt người loại tự hóa sinh[10], những quỷ ác thần ác uống huyết ăn thịt như vậy đều tránh xa người ấy, hoặc có khi phát tâm thân gần hộ vệ. Thế nên người nào tụng được thuộc lòng mười nguyện vương thì đi trong đời này không có gì trở ngại. Người ấy như vầng trăng đã ra khỏi mây mù che khuất. Người ấy được chư vị Phật đà và chư vị Bồ tát tán dương ca tụng. Người ấy, tất cả nhân loại và chư thiên nên lạy và tôn kính. Người ấy, tất cả chúng sinh cùng nên hiến cúng. Người ấy khéo làm thân người, đầy đủ công đức của Phổ Hiền đại sĩ, không bao lâu sẽ như Phổ Hiền đại sĩ, mau chóng được cái sắc thân nhiệm mầu, đủ cả ba mươi hai tướng của bậc đại trượng phu. Người ấy nếu sinh trong nhân loại hay chư thiên thì ở đâu cũng thuộc dòng họ hơn hết, phá hoại được tất cả đường ác, tránh xa được tất cả bạn dữ, chế ngự được tất cả ngoại đạo, giải thoát được tất cả phiền não. Người ấy như sư tử chúa làm cho các loài thú vật phải khuất phục. Người ấy kham nhận sự hiến cúng của tất cả chúng sinh.

Lại nữa, người ấy khi sắp chết, sát na sau cùng thì tất cả giác quan đều hư hỏng, tất cả thân nhân đều rời bỏ, tất cả uy thế đều tan mất, [và dầu là vua đi nữa, lúc ấy] tể tướng, đại thần, nội cung, ngoại thành, voi ngựa, xe cộ, vàng ngọc, kho tàng trong lòng đất, tất cả không ai và không gì đi theo. Chỉ có mười nguyện vương này không hề rời bỏ người ấy, lúc nào cũng hướng dẫn trước mắt. Và trong một sát na, người ấy tức khắc được sinh thế giới Cực lạc. Sinh rồi tức khắc được thấy đức A Di Đà Phật, với các vị Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, Quan Tự Tại Bồ tát, Di Lạc Bồ tát, và các vị Bồ tát đồng đẳng, sắc tướng trang nghiêm, công đức toàn hảo, cùng nhau vây quanh Ngài. Người ấy lại tự thấy bản thân sinh trong hoa sen và được đức A Di Đà Phật thọ ký cho. Được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm ngàn vạn ức triệu thời kỳ, khắp trong thế giới nhiều đến hai lần không thể nói, đem sức mạnh trí tuệ, tùy tâm ý chúng sinh mà ích lợi cho họ, và không bao lâu sẽ ngồi nơi Bồ đề tràng, chiến thắng quân đội của ma vương, thành bậc Đẳng Chánh Giác, chuyển đẩy diệu pháp luân, làm cho chúng sinh trong những thế giới nhiều bằng số lượng cực vi thế giới phát Bồ đề tâm, tùy trình độ của chúng sinh mà giáo hóa cho họ thành thục, cho đến cùng tận biển cả thời kỳ vị lai, lợi ích toàn diện cho tất cả chúng sinh. Thiện nam tử, những ai nghe và tin mười đại nguyện vương[11] này, tiếp nhận, ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, thì công đức người ấy có được, ngoại trừ chư vị Thế Tôn không ai biết hết. Thế nên các người nghe mười đại nguyện vương này đừng có hoài nghi, mà nên tiếp nhận cho chắc chắn, tiếp nhận rồi có thể đọc xét văn nghĩa, đọc xét văn nghĩa rồi có thể tụng được thuộc lòng, tụng được thuộc lòng rồi có thể ghi nhớ, cho đến sao chép, giảng nói cho người. Những người như vậy, ngay trong một sát na mà mọi hạnh nguyện đều viên thành, cái khối phước đức mà họ thu hoạch thì vô lượng vô biên. Trong biển khổ phiền não to lớn, họ cứu vớt cho chúng sinh thoát khỏi và cùng được vãng sanh thế giới Cực lạc của đức A Di Đà Phật.

Lúc bấy giờ Phổ Hiền đại sĩ muốn lập lại ý nghĩa đã nói, nên nhìn khắp tất cả khu vức mà nói những lời chỉnh cú sau đây:

(1)      Hết thảy chư Phật
trong ba thì gian
tại các thế giới
khắp cả mười phương,
tôi vận dụng cả
ba nghiệp trong sạch
kính lạy khắp cả
không có thiếu sót.

(2)      Năng lực uy thần
của hạnh Phổ Hiền
làm tôi hiện khắp
trước chư Như Lai,
một thân lại hiện
thân như cực vị,
lạy khắp chư Phật
cũng như cực vi.

(3)      Trong một cực vi
có chư Phật đà
nhiều bằng cực vị,
và đều ở trong
chúng hội Bồ tát;
cực vi tất cả
pháp giới vô tận
cũng là như vậy,
tâm tôi tin Phật
thật sâu và đầy.

(4)      Nên biển âm thanh
tôi vận dụng cả,
xuất ra vô tận
lời chữ nghiệm mầu,
cùng tận thời kỳ
của thì vị lai
tán dương biển cả
công đức của Phật.

(5)      Tôi đem vòng hoa
tốt đẹp hơn hết,
âm nhạc, hương hoa,
tàn lọng, bảo cái,
những đồ trang hoàng
hơn hết như vậy,
tôi đem hiến cúng
chư vị Như Lai.

(6)      Y phục hơn hết,
hương liệu hơn hết,
hương bột, hương đốt,
cùng với đèn đuốc,
tất cả đều như
Diệu cao núi lớn,
tôi đem hiến cúng
chư vị Như Lai.

(7)      Tôi đem cái biết
cao rộng hơn hết
tin tưởng sâu xa
tam thế chư Phật,
vận dụng sức mạnh
hạnh nguyện Phổ Hiền
mà khắp hiến cúng
chư vị Như Lai.

(8)      Bao nhiêu nghiệp dữ
xưa kia tôi làm,
đều bởi vô thỉ
những tham sân si,
động thân miệng ý
mà phát sinh ra,
ngày nay tôi nguyện
sám hối tất cả.

(9)      Mười phương hết thảy
các loại chúng sinh,
cùng với các vị
Thanh văn, Duyên giác,
Tu học tiếp tục,
Tu học hoàn tất,
tất cả Như Lai,
cùng với Bồ tát,
công đức có gì
tôi tùy hỷ cả.

(10)    Mười phương đâu có
Ngọn đèn thế giới
khi mới thành tựu
tuệ giác vô thượng,
tôi xin thỉnh cầu
tất cả các Ngài
chuyển đẩy bánh xe
diệu pháp tối thượng.

(11)    Chư vị Như Lai
muốn hiện niết bàn,
thì tôi chí thành
thỉnh cầu các Ngài
sống với đời kiếp
nhiều như cực vi,
để làm lợi lạc
hết thảy chúng sinh.

(12)    Lạy Phật, khen Phật
và hiến cúng Phật[i],
xin Phật ở đời
và chuyển pháp luân,
tùy hỷ, sám hối,
bao thiện căn ấy,
tôi đem hồi hướng
lợi ích chúng sinh
có nghĩa hồi hướng
nguyện thành trí Phật[ii].

(13)    Tôi theo mà học
chư vị Như Lai,
tu tập tất cả
hạnh nguyện Phổ Hiền,
phụng sự quá khứ
chư vị Như Lai,
cùng với hiện tại
chư vị Phật đà,

(14)    vị lai các bậc
Thầy của trời người,
bao nhiêu ý nguyện
đều viên mãn cả,
tôi nguyện học tập
tam thế chư Phật,
để mau hoàn thành
tuệ giác vô thượng.[iii]

(15)    Tất cả thế giới
khắp cả mười phương
rộng lớn trong sạch
nhiệm mầu trang nghiêm,
ở đâu cũng có
đại hội Bồ tát
bao quanh chư Phật,
trong khi chư Phật
cùng ngồi dưới cây
bồ đề đại thọ.

(16)    Cầu nguyện chúng sinh
khắp cả mười phương
thoát hết lo sợ
thường hưởng yên vui,
thu hoạch lợi ích
của Pháp sâu xa,
diệt trừ phiền não
không còn thừa sót[iv].

(17)    Khi tôi tu tập[v]
vì đại bồ đề
thì ở loài nào
cũng biết đời trước,
thường được xuất gia
nghiêm giữ tịnh giới,
không để giới thể
bị dơ bị vỡ
hay bị xuyên thủng
hoặc bị sơ suất[vi].

(18)    Tất cả chư thiên
cùng với quỷ thần,
hết thảy nhân loại
và bao loài khác,
bao nhiêu chúng sinh
bao nhiêu tiếng nói,
tôi dùng tiếng ấy
mà thuyết pháp cho.

(19)    Siêng tu các pháp
ba la mật đa
cực kỳ trong sáng,
thường xuyên chuyên chú
không để quên mất
tâm đại bồ đề,
diệt trừ dơ bẩn
không cho sót lại,
viên thành tất cả
hạnh nguyện nhiệm mầu.

(20)    Đối với mê lầm
cùng với nghiệp dữ,
đối với cảnh ngộ
hiện thân ma vương,
trong cõi đời này
mà được siêu thoát,
tựa như hoa sen
không hề dính nước,
cũng như nhật nguyệt
không vướng không gian.

(21)    Tận trừ toàn bộ
nỗi khổ đường dữ,
bình đẳng cho vui
bao loại sinh linh,
trải qua thời kỳ
nhiều như cực vi,
lợi ích mười phương
không có cùng tận.

(22)    Tôi hằng tùy thuận
các loại chúng sinh,
cùng tận thời kỳ
của thì vị lai,
thường xuyên tu tập
hạnh nguyện Phổ Hiền
cực kỳ rộng lớn,
viên mãn thành tựu
tuệ giác bồ đề
cực kỳ tối thượng.

(23)    Bao nhiêu những người
đồng hành với tôi,
nguyện ở chỗ nào
cũng thường gặp nhau,
thân miệng và ý
đều như nhau cả,
cùng nhau tu học
hết thảy hạnh nguyện.

(24)    Những thiện tri thức
lợi ích cho tôi,
chỉ dẫn cho tôi
hạnh nguyện Phổ Hiền,
cũng nguyện thường xuyên
được gặp gỡ nhau,
lại nguyện thường xuyên
hoan hỷ cho tôi.

(25)    Nguyện thường nhìn thấy
chư vị Như Lai,
cùng chư Bồ tát
vây quanh các Ngài,
đối với các Ngài
nguyện hiến cúng lớn,
cùng tận vị lai
không biết chán mệt.

(26)    Nguyện được duy trì
pháp mầu của Phật,
làm cho rực rỡ
hạnh nguyện bồ đề,
trong sạch rốt ráo
đường đi Phổ Hiền,
cùng tận vị lai
thường xuyên tu tập.

(27)    Ở trong tất cả
thế giới ba cõi,
tôi tu phước trí
thường xuyên vô tận,
định tuệ phương tiện
cùng với giải thoát,
được kho công đức
vô tận như vậy.

(28)    Mỗi một cực vi
có số thế giới
nhiều bằng cực vi,
mỗi một thế giới
có các đức Phật
khó thể nghĩ thấu,
mỗi một đức Phật
đều ở chính giữa
đại hội Bồ tát,
và tôi nhìn thấy
các Ngài thường nói
hạnh nguyện bồ đề.

(29)    Biển cả thế giới
khắp mười phương hướng,
biển cả thì gian
nhiều bằng đầu lông[vii],
biển cả Phật đà,
biển cả quốc độ,
biển cả thời kỳ
mà tôi tu hành.

(30)    Chư vị Như Lai
lời tiếng trong sáng,
mỗi tiếng đủ hết
biển cả âm thanh,
những lời tiếng ấy
tùy ý chúng sinh,
mỗi tiếng xuất ra
biển cả hùng biện.

(31)    Chư vị Như Lai
trong ba thì gian,
vận dụng vô tận
biển cả lời tiếng,
thường chuyển pháp luân
lý thú nhiệm mầu,
nhưng trí tuệ lực
sâu xa của tôi
có thể hội nhập
một cách toàn diện.

(32)    Tôi thấu hiểu được
toàn thể thời kỳ
của thì vị lai
là một sát na,
tôi cũng thấu hiểu
toàn thể thời kỳ
cả ba thì gian
là một sát na.

(33)    Trong một sát na
mà tôi thấy hết
tất cả chư Phật
trong ba thì gian,
tôi thường thấu hiểu
lĩnh vực của Phật
thể chứng các pháp
toàn như ảo thuật,
giải thoát cao sâu,
uy lực hùng mãnh.

(34)    Nơi mỗi cực vi
trên đầu sợi lông,
xuất hiện thế giới
quá khứ hiện tại
cùng với vị lai
cực kỳ trang nghiêm.
Thế giới mười phương
nhiều như cực vi
trên đầu sợi lông,
tôi thâm nhập cả
mà làm toàn thể
trang nghiêm trong sạch.

(35)    Cùng tận vị lai
có bao Phật đà
thành vô thượng giác
chuyển chánh pháp luân
mở mắt quần sinh
ở trong ba cõi,
việc Phật hoàn tất
thị hiện niết bàn,
tôi đều đi đến
thân gần phụng sự.

(36)    Năng lực thần thông
đến mau khắp cả,
năng lực đại thừa
biến thể toàn diện,
năng lực công đức
tu hết trí hạnh,
năng lực đại từ
che hết chúng sinh,

(37)    năng lực thắng phước
trang hoàng khắp nơi,
năng lực thắng trí
không hề vướng mắc,
năng lực uy thần
đủ mọi phương tiện[viii],
năng lực bồ đề
qui tụ hết thảy,

(38)    năng lực thiện nghiệp
làm sạch tất cả,
năng lực diệt trừ
tất cả phiền não,
năng lực chiến thắng
tất cả ma quân,
năng lực viên mãn
hạnh nguyện Phổ Hiền[ix];

(39)    trang hoàng sạch sẽ
biển cả thế giới,
giải thoát hết thảy
biển cả chúng sinh,
khéo léo phân biệt
biển cả các pháp,
nhập vào sâu xa
biển cả trí tuệ,

(40)    làm trong sáng hết
biển cả đại hạnh,
làm đầy đủ cả
biển cả đại nguyện,
thân gần hiến cúng
biển cả Phật đà,
tu không mệt mỏi
biển cả thời kỳ.

(41)    Bao nhiêu hạnh nguyện
tuệ giác tối thượng
của chư Như Lai
trong ba thì gian,
tôi tôn thờ cả
và tu đầy đủ:
vận dụng tất cả
hạnh nguyện Phổ Hiền
tôi giác ngộ được
vô thượng bồ đề.

(42)    Tất cả Như Lai
đều có trưởng tử,
cùng một danh hiệu
danh hiệu Phổ Hiền[x];
nay tôi hồi hướng
bao nhiêu thiện căn[xi],
nguyện bao trí tuệ
đồng đẳng các vị.

(43)    Cả thân miệng ý
thường xuyên trong sáng,
hạnh nguyện, quốc độ,
cũng đều như vậy:
trí tuệ đến thế
nên tên Phổ Hiền,
nguyện tôi đồng đẳng
với các vị ấy.

(44)    Tôi vì trong sáng
hạnh nguyện Phổ Hiền,
nên bao hạnh nguyện
của ngài Văn Thù,
tôi tu đủ cả
không có thiếu sót,
cùng tận vị lai
không hề mỏi mệt.

(45)    Sự tu của tôi
không có hạn lượng,
công đức đạt được
cũng không số lượng;
đứng vững ở trong
vô lượng hạnh nguyện,
tôi thấu triệt hết
bao thần thông lực.

(46)    Trí hạnh Văn Thù
cực kỳ dũng mãnh,
tuệ hạnh Phổ Hiền
cũng là như vậy;
nay tôi hồi hướng
bao nhiêu thiện căn,
để theo các ngài
thường xuyên tu học.

(47)    Các đại nguyện vương
tối thắng như vầy
được sự ca tụng
của chư Như Lai,
nay tôi hồi hướng
bao nhiêu thiện căn
để được hạnh nguyện
Phổ Hiền tối thượng[xii].

(48)    Nguyện tôi trong lúc
sinh mệnh sắp chết,
thì loại được cả
mọi sự trở ngại,
trực tiếp nhìn thấy
đức A Di Đà,
tức khắc được sinh
thế giới Cực lạc.

(49)    Tôi đã sinh ra
thế giới ấy rồi,
trước mắt thành tựu
đại nguyện vương này,
thành tựu đầy đủ
không có thiếu sót,
lợi lạc tất cả
thế giới chúng sinh.

(50)    Bồ tát hải hội
của đức Di Đà
ai cũng trong sạch,
còn tôi lúc ấy
hóa sinh ở trong
hoa sen tối thắng,
đích thân nhìn thấy
đức A Di Đà,
và ngài đối diện
thọ ký cho tôi
thành tựu tuệ giác
vô thượng bồ đề.

(51)    Nhờ ơn của ngài
thọ ký cho rồi,
tôi liền biến thể
vô số thân hình,
với trí tuệ lực
cực kỳ rộng lớn,
tôi làm lợi lạc
tất cả chúng sinh.

(52)    Hư không cho đến
phiền não cùng tận,
đại nguyện của tôi
mới có cùng tận,
nhưng bốn thứ ấy
không có cùng tận,
đại nguyện của tôi,
cũng không cùng tận.

(53)    Ai đem bảo vật
đầy cả thế giới
khắp mười phương hướng
mà hiến cúng Phật,
lại cho trời người
hạnh phúc tuyệt vời,
và làm như vậy
trải qua thời kỳ
bằng số cực vi
của mọi thế giới;

(54)    và ai đối với
đại nguyện vương này
một lần nghe đến
mà sinh tin tưởng,
với sự khao khát
Vô thượng Bồ đề,
thì được công đức
quá hơn người trước.

(55)    Và rồi xa rời
bạn bè xấu ác,
với lại xa hẳn
các nẻo đường dữ,
mau chóng nhìn thấy
đức A Di Đà,
và đủ hạnh nguyện
Phổ Hiền tối thượng.

(56)    Người ấy khéo được
đời sống đặc thù,
người ấy khéo sinh
ở trong loài người,
người ấy không lâu
sẽ được hoàn thành
hạnh nguyện y như
Phổ Hiền đại sĩ.

(57)    Nếu mà xưa kia
không có trí tuệ
nên tạo năm tội
địa ngục Vô gián,
nhưng nếu ngày nay
tụng đại nguyện vương
của đức Phổ Hiền,
thì một sát na
tiêu diệt tức thì
năm tội như vậy.

(58)    Lại còn toàn hảo
dòng họ, thành phần,
sắc tướng, trí tuệ,
quân đội ma vương[xiii]
và những ngoại đạo
không thể đánh đổ,
kham được ba cõi
cùng nhau hiến cúng.

(59)    Và mau đến ngồi
dưới Bồ đề thọ,
chiến thắng các đạo
quân đội ma vương,
thành Đẳng chánh giác
chuyển diệu pháp luân,
lợi lạc hết thảy
các loại chúng sinh.

(60)    Thế nên những ai
đối với hạnh nguyện
của đức Phổ Hiền
mà biết tiếp nhận,
ghi nhớ, đọc tụng,
và nói cho người,
thì được kết quả
chỉ Phật mới biết,
quyết định thực hiện
Vô thượng Bồ đề.

(61)    Người nào trì tụng
hạnh nguyện Phổ Hiền,
mà tôi nói về
chút ít thiện căn,
là một sát na
họ đủ tất cả
đại thanh tịnh nguyện
tác thành chúng sinh.

(62)       Hạnh nguyện Phổ Hiền
tối thượng của tôi,
vô biên thắng phước
tôi hồi hướng cả,
nguyện bao chúng sinh
đang còn chìm đắm,
mau chóng được sinh
thế giới Cực lạc
của đức Thế Tôn
A Di Đà Phật.

[i] Chính văn là “sở hữu lễ tán cúng dường Phật”. Câu này nếu nói rõ là sở hữu lễ Phật, tán Phật, cúng dường Phật. Vậy chữ Phật chữa thành chữ Phước là rất sai.

[ii] Mười hai bài chỉnh cú này nói về 8 đại nguyện: 1-2 là lễ kính Phật đà; 3-4 là 2 tán dương Như Lai; 5-7 là 3 hiến cúng rộng lớn; 8 là 4 sám hối nghiệp chướng; 9 là 5 tùy hỷ công đức; 10 là 6 xin chuyển pháp luân; 11 là 7 xin Phật ở đời; 12 là, theo ý đại sư Thái Hư, nói trước một cách tổng quát về đại nguyện 10 hồi hướng khắp cả.

[iii] Theo ý đại sư Thái Hư, các chỉnh cú 13-14 này là đại nguyện 8 thường học theo Phật.

[iv] ) Theo ý đại sư Thái Hư, các chỉnh cú 15-16 này là đại nguyện 9 hằng thuận chúng sinh

[v] Theo ý đại sư Thái Hư, các chỉnh cú 17-47 sau đây là đại nguyện 10 hồi hướng khắp cả, nói đầy đủ hơn. Tựu trung chia ra hai đoạn lớn: đoạn một, các chỉnh cú 17-38 là phát thêm 10 nguyện nhỏ, đoạn hai, các chỉnh cú 39-47 là tổng kết hồi hướng về 10 đại nguyện.

[vi] Lậu, dịch đúng là rỉ lọt, mà ở đây là sai sót, sơ hở, sơ suất.

[vii] Nghĩa là nhiều như cực vi trên đầu sợi lông.

[viii] Dịch đủ: Thiền định, trí tuệ, phương tiện.

[ix] Coi lại ghi chú 18. Ở đó đã nói các chỉnh cú 17-38 là phát thêm 10 nguyện nhỏ, đó là:
1. 17-18 là nguyện hộ vệ chánh pháp,
2. 19-20 là nguyện tự lợi lợi tha,
3. 21-22 là nguyện thành thục chúng sinh,
4. 23-24 là nguyện không rời đồng hành,
5. 25-26 là nguyện hiến cúng chánh pháp,
6. 27-28 là nguyện được lợi công đức,
7. 29-31 là nguyện chuyển đẩy pháp luân,
8. 32-33 là nguyện nhập cảnh giới Phật,
9. 34-35 là nguyện phụng sự chư Phật,
10. 36-38 là nguyện mau thành chánh giác.

[x] Coi lại ghi chú 3. Tất cả chữ Phổ Hiền, trong trường hàng cũng như chỉnh cú, có 3 nghĩa. Một, có khi chỉ cho đức Phổ Hiền, thì viết hoa. Hai, đa số chỉ cho tính cách phổ hiền, thì viết thường. Ba, có khi chỉ cho các đức Phổ Hiền khác, thì cũng viết hoa.

[xi] Chữ này, ở đây và ở dưới, là chỉ cho mười hạnh nguyện Phổ Hiền.

[xii] Coi lại ghi chú 18. Ở đó đã nói, theo ý đại sư Thái Hư, các chỉnh cú 39-47 là tổng kết hồi hướng về 10 đại nguyện. Gồm lại, các chỉnh cú 17-47 là nói về đại nguyện 10 hồi hướng khắp cả.

[xiii] Có 2 nghĩa, nghĩa chính là quân đội của ma vương thật; nghĩa nữa là dục vọng, cũng gọi là quân đội của ma vương. Chưa kể có nơi từ ngữ này còn nói đến cơ thể (ngũ âm) sự chết và phiền não.

Kinh Phật: HẠNH NGUYỆN VƯƠNG PHỔ HIỀN (tạng-anh-pháp-việt)

Tựa đề (title):
    ༄༅ །།འཕགས་པ་བཟང་པོ་སྤྱོད་པའི་སྨོན་ལམ་གྱི་རྒྱལ་པོ།། <link to the source>
– English: the King of Prayers of Arya Samantabhadra’s Conduct <link to the source>
    – Français:  <la Reine des Prières d’Aspiration> <link to the source>
    – Tiếng Việt: Phổ Hiền Hạnh Nguyện Vương
– Tác giả (author): kinh Phật (Buddha’s words)
– Ngôn ngữ (languages available): tạng văn, tạng âm, anh, pháp, việt (Tibetan, phonetics, English, French, Vietnamese).
Văn bản:

Chọn trang

༄༅ །།འཕགས་པ་བཟང་པོ་སྤྱོད་པའི་སྨོན་ལམ་གྱི་རྒྱལ་པོ།།
The King of Prayers of Arya Samantabhadra’s Conduct
La Reine des Prières d’Aspiration : L’Aspiration aux Actions Bénéfiques de Samantabhadra
Hạnh Nguyện Vương Phổ Hiền

རྒྱ་གར་སྐད་དུ། ཨཱརྻ་བྷ་དྲ་ཙརྻ་པྲ་ཎི་དྷཱ་ན་རཱ་ཛ།
in the language of India [Sanskrit – phạn ngữ):  Ārya bhadracarya praṇidhāna rāja
བོད་སྐད་དུ། འཕགས་པ་བཟང་པོ་སྤྱོད་པའི་སྨོན་ལམ་གྱི་རྒྱལ་པོ།
in the language of Tibet (tibétain – tạng ngữ):  pak pa zang po cho pé mon lam gyi gyalpo 

the translators’ homage  l’hommage des traducteurs – dịch giả đảnh lễ 

འཇམ་དཔལ་གཞོན་ནུར་གྱུར་པ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
jam pal shyön nur gyur pa la chak tsal lo
I prostrate to Arya youthful Manjushri.
Hommage à Manjusri le juvénile !
Đệ tử kính lễ bồ tát Văn thù, sắc tướng trẻ trung

 the meaning of the text – le sens du texte ý nghĩa chánh văn [4]

–i. accumulation and purification – accumulation et purification tích lũy và làm sạch [7]

—a. prostration – prosternation đảnh lễ [4]  

—- 1. combined prostration of all three doors of activities – prostration combinée des trois portes d’activités  đảnh lễ bằng trọn ba cửa thân khẩu và ý 

༡ ༽ ཇི་སྙེད་སུ་དག་ཕྱོགས་བཅུའི་འཇིག་རྟེན་ན། །
ji nyé su dak chok chü jik ten na
1) To all lions of men, the sugathas of the three times
1) À tous les Bouddhas, les lions de la race humaine,
1) Hết thảy chư Phật / trong ba thời gian / là bậc sư tử / trong cõi con người/

དུས་གསུམ་གཤེགས་པ་མི་ཡི་སེང་གེ་ཀུན། །
dü sum shek pa mi yi sen gé kün
to as many as they exist in the worlds of the ten directions
dans toutes les directions de l’univers, à travers passé, présent et futur,
tại các thế giới / khắp cả mười phương 

བདག་གིས་མ་ལུས་དེ་དག་ཐམས་ཅད་ལ། །
dak gi ma lü de dak tham ché la
I prostrate to all of them without exception
à chacun d’entre vous, je rends hommage en me prosternant ;
tôi vận dụng đủ / ba nghiệp trong sạch 

ལུས་དང་ངག་ཡིད་དང་བས་ཕྱག་བགྱིའོ། །
lü dang ngak yi dang wé chak gyi o
with body, speech and clear mind.
la dévotion emplit mon corps, ma parole et mon esprit.
kính lạy khắp cả / không có thiếu sót. 

—- 2. physical prostration  prostration physique – thân đảnh lễ 

༢ ༽ བཟང་པོ་སྤྱོད་པའི་སྨོན་ལམ་སྟོབས་དག་གིས། །
2) zang po chö pé mön lam tob dak gi
2) Through the strength of prayer of noble conduct
2) Par le pouvoir de cette prière, cette aspiration aux actions bénéfiques
2) Năng lực uy thần / của hạnh phổ hiền 

རྒྱལ་བ་ཐམས་ཅད་ཡིད་ཀྱིས་མངོན་སུམ་དུ། །
gyal wa tham ché yi kyi ngön sum du
all the conquerors appear directly to my mind
tous les victorieux m’apparaissent ici clairement à l’esprit
làm tôi hiện khắp / trước chư Như lai, 

ཞིང་གི་རྡུལ་སྙེད་ལུས་རབ་བཏུད་པ་ཡིས། །
shying gi dul nyé lü rab tü pa yi
I bow deeply with as many bodies as the atoms of the fields
et je multiplie mon corps autant de fois qu’il y a d’atomes dans l’univers,
một thân tôi hiện / thân như cực vi 

རྒྱལ་བ་ཀུན་ལ་རབ་ཏུ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
gyal wa kün la rab tu chak tsal lo
and fully prostrate to all conquerors.
chacun se prosternant en hommage devant tous les Bouddhas.
lạy khắp chư Phật / cũng như cực vi. /

—- 3. mental prostration  prostration mentale – ý đảnh lễ

༣ ༽ རྡུལ་གཅིག་སྟེང་ན་རྡུལ་སྙེད་སངས་རྒྱས་རྣམས། །
3) dul chik teng na dul nyé sang gye nam
3) On every atom (there) are Buddhas as many as the atoms that exist
3) Dans chaque atome président autant de Bouddhas qu’il y a d’atomes,
3) Trong một cực vi / có chư Phật đà / nhiều bằng cực vi, 

སངས་རྒྱས་སྲས་ཀྱི་དབུས་ན་བཞུགས་པ་དག །
sang gye sé kyi ü na shyuk pa dak
seated in the centre of the children of Buddhas.
entourés de leurs héritiers, les bodhisattvas ;
và đều ở trong / chúng hội Bồ tát; /

དེ་ལྟར་ཆོས་ཀྱི་དབྱིངས་རྣམས་མ་ལུས་པ། །
de tar chö kyi ying nam malüpa
thus I appreciate that all dharma spheres without exception
je les imagine ainsi emplissant
cực vi tất cả / pháp giới vô tận / cũng là như vậy, 

ཐམས་ཅད་རྒྱལ་བ་དག་གིས་གང་བར་མོས། །
tham ché gyal wa dak gi gang war mö
are filled completely with conquerors.
complètement tout l’espace de la réalité.
tâm tôi tin Phật / thật sâu và đầy./

—- 4. verbal prostration  prostration verbale  khẩu đảnh lễ 

༤ ༽ དེ་དག་བསྔགས་པ་མི་ཟད་རྒྱ་མཚོ་རྣམས། །
4) de dak ngak pa mi zé gya tso nam
4) With every sound of an ocean of melodies
4) Je les salue d’un océan infini de louanges ;
4) Nên biển âm thanh / tôi vận dụng cả, 

དབྱངས་ཀྱི་ཡན་ལག་རྒྱ་མཚོའི་སྒྲ་ཀུན་གྱིས། །
yang kyi yen lak gya tsö dra kün gyi
and an ocean of these inexhaustible praises
aux sons d’un océan de mélodies variées,
xuất ra vô tận / lời chữ nhiệm mầu, 

རྒྱལ་བ་ཀུན་གྱི་ཡོན་ཏན་རབ་བརྗོད་ཅིང་། །
gyal wa kün gyi yön ten rab jö ching
I pronounce the qualities of all conquerors
je chante les nobles qualités des Bouddhas
cùng tận thời kỳ / của thì vị lai 

བདེ་བར་གཤེགས་པ་ཐམས་ཅད་བདག་གིས་བསྟོད། །
de war shek pa tham ché dak gi tö
and praise all sugatas.
et loue tous ceux qui ont atteint la félicité suprême.
tán dương biển cả / công đức của Phật.

—b. offerings  offrandes – cúng dường [2]

—- 1. ordinary offerings  offrandes ordinaires – cúng phẩm thường 

༥ ༽ མེ་ཏོག་དམ་པ་ཕྲེང་བ་དམ་པ་དང་། །
5) me tok dam pa treng wa dam pa dang
5) With immaculate flowers and immaculate garlands,
5) À chaque Bouddha, je fais l’offrande
5) Tôi đem vòng hoa / tốt đẹp hơn hết,

སིལ་སྙན་རྣམས་དང་བྱུག་པ་གདུགས་མཆོག་དང་། །
sil nyen nam dang juk pa duk chok dang
cymbals perfumed ointments, supreme parasols and well as
de fleurs ravissantes, de guirlandes magnifiques,
âm nhạc, hương xoa, / tàn lọng, bảo cái,

མར་མེ་མཆོག་དང་བདུག་སྤོས་དམ་པ་ཡིས། །
mar mé chok dang duk pö dam pa yi
supreme butter lamps and immaculate incense,
de musique et de baumes parfumés, des plus belles ombrelles,
đèn, hương, phẩm vật / hơn hết như vậy,

རྒྱལ་བ་དེ་དག་ལ་ནི་མཆོད་པར་བགྱི། །
gyal wa de dak la ni chö par gyi
I make offerings to these conquerors.
des lampes les plus brillantes et du meilleur encens.
tôi đem hiến cúng / chư vị Như lai.

༦ ༽ ན་བཟའ་དམ་པ་རྣམས་དང་དྲི་མཆོག་དང་། །
6) na za dam pa nam dang dri chok dang
6) By (arranging) immaculate garments and supreme aromas
6) À chaque Bouddha, je fais l’offrande
6) Y phục hơn hết, / hương liệu hơn hết,

ཕྱེ་མ་ཕུར་མ་རི་རབ་མཉམ་པ་དང་། །
che ma pur ma ri rab nyam pa dang
and powdered incense as high as the supreme mountain (meru)
de splendides vêtements, des senteurs les plus suaves,
hương bột, hương đốt, / cùng với đèn đuốc,

བཀོད་པ་ཁྱད་པར་འཕགས་པའི་མཆོག་ཀུན་གྱིས། །
kö pa khye par pak pé chok kün gyi
in a formation that is superior and supreme in every (aspect)
et de poudre d’encens, en tas aussi hauts que le mont meru,
tất cả đều như / diệu cao núi lớn (núi tu di),

རྒྱལ་བ་དེ་དག་ལ་ནི་མཆོད་པར་བགྱི། །
gyal wa de dak la ni chö par gyi
I make offerings to these conquerors.
disposés en parfaite symétrie.
tôi đem hiến cúng / chư vị Như lai.

—- 2. unsurpassable offerings  offrandes inégalables – cúng phẩm vô thượng 

༧ ༽ མཆོད་པ་གང་རྣམས་བླ་མེད་རྒྱ་ཆེ་བ། །
7) chö pa gang nam la mé gya che wa
7) Vast unsurpassable offerings
7) Puis, inspiré par ma dévotion envers tous les bouddhas et
7) Tôi đem cái biết / cao rộng hơn hết

དེ་དག་རྒྱལ་བ་ཐམས་ཅད་ལ་ཡང་མོས། །
de dak gyal wa tham ché la yang mö
I imagine for all conquerors
mû par le pouvoir de ma foi dans les actions bénéfiques,
tin tưởng sâu xa / tam thế chư Phật,

བཟང་པོ་སྤྱོད་ལ་དད་པའི་སྟོབས་དག་གིས། །
zang po chö la de pé tob dak gi
through the strength of faith in the noble conduct
je me prosterne devant tous les victorieux et leur présente
vận dụng sức mạnh / hạnh nguyện phổ hiền

རྒྱལ་བ་ཀུན་ལ་ཕྱག་འཚལ་མཆོད་པར་བགྱི། །
gyal wa kün la chak tsal chö par gyi
I prostrate and offer to all conquerors.
ces offrandes immenses et insurpassables.
mà khắp hiến cúng / chư vị Như lai.

—c. confession of negativity  confession de la négativité – sám hối tội chướng 

༨ ༽ འདོད་ཆགས་ཞེ་སྡང་གཏི་མུག་དབང་གིས་ནི། །
8) dö chak shye dang ti muk wang gi ni
8) Whatever negativity exist and I have done
8) Quels que soient les actes négatifs que j’ai commis
8) Bao nhiêu nghiệp dữ / xưa kia tôi làm,

ལུས་དང་ངག་དང་དེ་བཞིན་ཡིད་ཀྱིས་ཀྱང་། །
lü dang ngak dang de shyin yi kyi kyang
with my body, speech and similarly with my mind
sous l’emprise du désir, de la haine et de l’ignorance,
đều bởi vô thỉ / những tham sân si,

སྡིག་པ་བདག་གིས་བགྱིས་པ་ཅི་མཆིས་པ། །
dik pa dak gi gyi pa chi chi pa
due to the power of attachment, hatred and confusion
avec mon corps, ma parole, ainsi que mon esprit,
động thân ngữ ý / mà phát sinh ra,

དེ་དག་ཐམས་ཅད་བདག་གིས་སོ་སོར་བཤགས། །
de dak tham ché dak gi so sor shak
I confess all of them individually.
devant vous je les confesse et les purifie tous sans exception.
ngày nay tôi nguyện / sám hối tất cả.

—d. rejoicing  réjouissance – tùy hỉ 

༩ ༽ ཕྱོགས་བཅུའི་རྒྱལ་བ་ཀུན་དང་སངས་རྒྱས་སྲས། །
9) chok chü gyal wa kün dang sang gye sé
9) I rejoice in the virtue of all conquerors of the ten directions,
9) Le cœur plein d’allégresse, je me réjouis de tous les mérites
(9) Mười phương hết thảy / các loại chúng sinh,

རང་རྒྱལ་རྣམས་དང་སློབ་དང་མི་སློབ་དང་། །
rang gyal nam dang lob dang mi lob dang
that of the children of the Buddhas,
des bouddhas et des bodhisattvas,
cùng với các vị / thanh văn, duyên giác, / tu học tiếp tục,

འགྲོ་བ་ཀུན་གྱི་བསོད་ནམས་གང་ལ་ཡང་། །
dro wa kün gyi sö nam gang la yang
that of solitary realizers, learners and non-learners
des pratyekabuddha, de ceux qui sont encore sur le chemin et des arhats au delà du chemin,
tu học hoàn tất, / tất cả Như lai, / cùng với bồ tát,

དེ་དག་ཀུན་གྱི་རྗེས་སུ་བདག་ཡི་རང་། །
de dak kün gyi je su dak yi rang
and in the merit of all migrators.
ainsi que de chaque être vivant, dans la totalité de l’univers.
công đức có gì / tôi tùy hỷ cả.

—e. urging to turn the wheel of dharma  requête à tourner la roue du dharma  thỉnh chuyển pháp luân 

༡༠ ༽ གང་རྣམས་ཕྱོགས་བཅུའི་འཇིག་རྟེན་སྒྲོན་མ་རྣམས། །
10) gang nam chok chü jik ten drön ma nam
10) All those who are the beacons of the worlds in the ten directions,
10) Vous qui êtes comme des phares dont la lumière éclaire les mondes,
10) Mười phương đâu có / ngọn đèn thế giới /

བྱང་ཆུབ་རིམ་པར་སངས་རྒྱས་མ་ཆགས་བརྙེས། །
jang chub rim par sang gye ma chak nyé
those who have found buddhahood without attachment
et qui avez traversé les étapes menant à l’éveil pour atteindre l’état de bouddha libre de tout attachement,
khi mới thành tựu / tuệ giác vô thượng, 

མགོན་པོ་དེ་དག་བདག་གིས་ཐམས་ཅད་ལ། །
gön po de dak dak gi tham ché la
in the stages of enlightenment, all those protectors
je vous exhorte, vous tous les protecteurs :
tôi xin thỉnh cầu / tất cả các Ngài 

འཁོར་ལོ་བླ་ན་མེད་པར་བསྐོར་བར་བསྐུལ། །
khor lo la na me par kor war kul
I urge to turn the unsurpassable wheel of dharma.
veuillez tourner l’insurpassable roue du dharma.
chuyển đẩy bánh xe / diệu pháp vô thượng.

—f. praying not to pass into paranirvana  requête aux bouddhas de ne pas passer en nirvana – thỈnh đừng nhập niết bàn 

༡༡ ༽ མྱ་ངན་འདའ་སྟོན་གང་བཞེད་དེ་དག་ལ། །
11) nya ngen da tön gang shyé de dak la
11) To those wishing to demonstrate paranirvana
11) je joins les mains et prie :
11) Chư vị Như lai / muốn hiện niết bàn,

འགྲོ་བ་ཀུན་ལ་ཕན་ཞིང་བདེ་བའི་ཕྱིར། །
dro wa kün la pen shying de wé chir
I pray with my palms joined together:
vous qui avez l’intention de passer en nirvāṇa,
thì tôi chí thành / thỉnh cầu các Ngài

བསྐལ་པ་ཞིང་གི་རྡུལ་སྙེད་བཞུགས་པར་ཡང་། །
kal pa shying gi dul nyé shyuk par yang
for the benefit and happiness of all migrators
demeurez en ce monde autant d’éternités qu’il y a d’atomes,
sống với đời kiếp / nhiều như cực vi,

བདག་གིས་ཐལ་མོ་རབ་སྦྱར་གསོལ་བར་བགྱི། །
dak gi thal mo rab jar sol war gyi
please remain for as many eons as there are atoms in the fields.
et apportez bien-être et bonheur à tous les êtres vivants.
để làm lợi lạc / hết thảy chúng sinh.

—g. dedication  dédicace  hồi hướng 

༡༢ ༽ ཕྱག་འཚལ་བ་དང་མཆོད་ཅིང་བཤགས་པ་དང་། །
12) chak tsal wa dang chö ching shak pa dang
12) Whatever little virtue I have accumulated through
12) Le peu de mérite que j’ai accumulé par cet hommage,
12) Lạy Phật, khen Phật, / và hiến cúng Phật,

རྗེས་སུ་ཡི་རང་བསྐུལ་ཞིང་གསོལ་བ་ཡི། །
je su yi rang kul shying sol wa yi
prostrating, making offerings, confessing,
par l’offrande, la confession et la réjouissance,
xin Phật ở đời / và chuyển pháp luân,

དགེ་བ་ཅུང་ཟད་བདག་གིས་ཅི་བསགས་པ། །
ge wa chung zé dak gi chi sak pa
rejoicing, urging and praying
par mon exhortation et ma prière, tout cela,
tùy hỷ sám hối / bao thiện căn ấy

ཐམས་ཅད་བདག་གིས་བྱང་ཆུབ་ཕྱིར་བསྔོའོ། །
tham ché dak gi jang chub chir ngo o
I dedicate them all towards enlightenment.
je le dédie à l’éveil de tous les êtres.
tôi đem hồi hướng / nguyện thành trí Phật.

–ii. the actual practices  les pratiques réelles  pháp tu chính [3]

—a. practicing the on the ground of resolute conduct  pratiquer sur le terrain de la conduite résolue – tu trên địa hạnh nguyện [10]

—-1. training to purify intention  entraînement pour purifier l’intention  nguyện tịnh tâm ý [3]

—–a. aspiration to make offerings to the Buddhas and that they perfectly complete their intentions  aspiration pour faire des offrandes aux bouddhas et qu’ils complètent parfaitement leurs intentions –nguyện hiến cúng Phật, bậc tâm ý viên mãn 

༡༣ ༽ འདས་པའི་སངས་རྒྱས་རྣམས་དང་ཕྱོགས་བཅུ་ཡི། །
13) de pé sang gye nam dang chok chu yi
13) May my offerings be made to the Buddhas of the past and
13) Que des offrandes soient faites aux bouddhas du passé,
(13) Nguyện mang cúng phẩm / dâng chư Phật đà

འཇིག་རྟེན་དག་ན་གང་བཞུགས་མཆོད་པར་གྱུར། །
jik ten dak na gang shyuk chö par gyur
to those abiding in every world of the ten directions
et à tous ceux qui demeurent à présent dans les dix directions de cet univers !
trong thời quá khứ / trong thời hiện tại / ở khắp mười phương

གང་ཡང་མ་བྱོན་དེ་དག་རབ་མྱུར་བར། །
gang yang ma jön de dak rab nyur war
and may those who have not yet come, very quickly
que tous ceux qui sont encore à venir réalisent promptement leurs souhaits
và xin nguyện cho / chư Phật sẽ thành

བསམ་རྫོགས་བྱང་ཆུབ་རིམ་པར་སངས་རྒྱས་སྤྱོན། །
sam dzok jang chub rim par sang gye chön
complete the intention of enlightenment and gradually come as Buddhas.
et gravissant les étapes de l’éveil, atteignent l’état de bouddha.
mau chóng phát tâm / sớm thành chánh quả.

—-b. intention to thoroughly purify buddha fields  intention de purifier complètement les champs de bouddha – nguyện làm sạch cõi Phật 

༡༤ ༽ ཕྱོགས་བཅུ་ག་ལའི་ཞིང་རྣམས་ཇི་སྙེད་པ། །
14) chok chu ga lé shying nam ji nye pa
14) May however many fields exist in the ten directions become vast and completely pure
14) Que tous les mondes qui existent dans les dix directions
14) Tất cả thế giới / khắp cả mười phương / rộng lớn trong sạch /

དེ་དག་རྒྱ་ཆེར་ཡོངས་སུ་དག་པར་གྱུར། །
de dak gya cher yong su dak par gyur
and may they will be filled completely by conquerors who have
se transforment en vastes royaumes parfaitement purs,
nhiệm mầu trang nghiêm, / ở đâu cũng có / đại hội bồ tát

བྱང་ཆུབ་ཤིང་དབང་དྲུང་གཤེགས་རྒྱལ་བ་དང་། །
jang chub shing wang drung shek gyal wa dang
proceeded to enlightenment under powerful bodhi trees and
peuplés entièrement de bouddhas qui se sont assis sous l’arbre puissant de la bodhi,
bao quanh chư Phật, / trong khi chư Phật

སངས་རྒྱས་སྲས་ཀྱིས་རབ་ཏུ་གང་བར་ཤོག །
sang gye sé kyi rab tu gang war shok
by children of the Buddhas
avec autour d’eux, tous leurs fils et filles bodhisattvas !
cùng ngồi dưới cây / bồ đề đại thọ.

—-c. training in the special intention for happiness for all sentient beings  entraînement à l’intention spéciale pour le bonheur de toues les êtres vivants – luyện đại nguyện thành tựu phúc lợi cho chúng sinh 

༡༥ ༽ ཕྱོགས་བཅུའི་སེམས་ཅན་གང་རྣམས་ཇི་སྙེད་པ། །
15) chok chü sem chen gang nam jin yé pa
15) May however many sentient beings exist in the ten directions
15) Que tous les êtres animés qui existent dans les dix directions
15) Cầu nguyện chúng sinh / khắp cả mười phương

དེ་དག་རྟག་ཏུ་ནད་མེད་བདེ་བར་གྱུར། །
de dak tak tu ne mé de war gyur
be always without sickness, may they have happiness
vivent à jamais heureux et en bonne santé !
thoát hết lo sợ / thường hưởng yên vui,

འགྲོ་བ་ཀུན་གྱི་ཆོས་ཀྱི་དོན་རྣམས་ནི། །
dro wa kün gyi chö kyi dön nam ni
and may the dharma-related purposed and hopes of all migrators
que tous les êtres rencontrent le dharma
thu hoạch lợi ích / của pháp sâu xa,

མཐུན་པར་གྱུར་ཅིང་རེ་བའང་འགྲུབ་པར་ཤོག །
thün par gyur ching re wa ang drub par shok
be fulfilled accordingly.
qui leur convient le mieux ! et que tous leurs espoirs puissent ainsi être comblés !
diệt trừ phiền não / không còn thừa sót.

—-2. the path remembering bodhichitta  le chemin pour se souvenir de la bodhichitta – nguyện nhớ tâm bồ đề  [5]

—–a. aspiration to remember previous births and to be ordained  aspiration à se souvenir des naissances précédentes et à prendre ordination – nguyện luôn nhớ đời trước, sống hạnh xuất gia 

༡༦ ༽ བྱང་ཆུབ་སྤྱོད་པ་དག་ནི་བདག་སྤྱོད་ཅིང་། །
16) jang chub chö pa dak ni dak chö ching
16) May I practice of conduct of enlightenment
16) En pratiquant sur le chemin de l’éveil,
(16) Khi tôi tu tập / vì đại bồ đề 

འགྲོ་བ་ཀུན་ཏུ་སྐྱེ་བ་དྲན་པར་གྱུར། །
dro wa kün tu kye wa dren par gyur
may I remember (past) births in all migrations and
puissé-je me souvenir de toutes mes naissances antérieures,
thì ở loài nào / thọ mạng ra sao

ཚེ་རབས་ཀུན་ཏུ་འཆི་འཕོ་སྐྱེ་བ་ན། །
tse rab kün tuchi po kye wa na
in all successive lives, at death, transference and birth
et dans toutes mes vies successives, dans la mort et dans la renaissance,
đi qua cảnh chết, / trung hữu, tái sinh

རྟག་ཏུ་བདག་ནི་རབ་ཏུ་འབྱུང་བར་ཤོག །
tak tu dak ni rab tu jung war shok
may I always be ordained.
puissé-je toujours renoncer à la vie mondaine !
đều nhớ đời trước, / thường được xuất gia.

—–b. aspiration not to allow the deterioration of ethics  aspiration à ne pas permettre la détérioration de l’éthique – nguyện không để giới thoái chuyển 

༡༧ ༽ རྒྱལ་བ་ཀུན་གྱི་རྗེས་སུ་སློབ་གྱུར་ཏེ། །
17) gyal wa kün gyi je su lob gyur té
17) May I train in the footsteps of all conquerors and
17) En suivant les traces de tous les bouddhas victorieux,
(17) Noi gót Thế tôn

བཟང་པོ་སྤྱོད་པ་ཡོངས་སུ་རྫོགས་བྱེད་ཅིང་། །
zang po chö pa yong su dzok jé ching
thoroughly complete the noble conduct
puissé-je mener les actions bénéfiques à leur entière perfection,
nghiêm giữ tịnh giới,

ཚུལ་ཁྲིམས་སྤྱོད་པ་དྲི་མེད་ཡོངས་དག་པ། །
tsultrim chö pa dri mé yong dak pa
may I always practice non-deteriorated and faultless,
puisse ma conduite et ma discipline être toujours impeccables et pures,
không để giới thể / bị dơ bị vỡ

རྟག་ཏུ་མ་ཉམས་སྐྱོན་མེད་སྤྱོད་པར་ཤོག །
tak ma nyam kyön mé chö par shok
stainless, thoroughly pure moral conduct.
sans aucune défaillance ni aucune faute.
hay bị xuyên thủng / hoặc bị sơ suất.

—–c. aspiration to teach dharma in individual languages  aspiration pour enseigner le dharma dans les langages individuels – nguyện tùy ngôn ngữ giáo hóa

༡༨ ༽ ལྷ་ཡི་སྐད་དང་ཀླུ་དང་གནོད་སྦྱིན་སྐད། །
18) lha yi ké dang lu dang nö jin ké
18) May I teach the dharma in all languages
18) Dans la langue des dieux, des nāga et des yakṣa,
18) Tất cả chư thiên / cùng với quỉ thần,

གྲུལ་བུམ་དག་དང་མི་ཡི་སྐད་རྣམས་དང་། །
drul bum dak dang mi yi ké nam dang
however many languages of migrators (exist, such as)
dans la langue des démons et dans celle aussi des humains,
hết thảy nhân loại / và bao loài khác,

འགྲོ་བ་ཀུན་གྱི་སྒྲ་རྣམས་ཇི་ཙམ་པར། །
dro wa kün gyi dra nam ji tsam par
the languages of gods, nagas, yakshas,
dans autant de langues différentes qui existent,
bao nhiêu chúng sinh / bao nhiêu tiếng nói,

ཐམས་ཅད་སྐད་དུ་བདག་གིས་ཆོས་བསྟན་ཏོ། །
tham ché ké du dak gi chö ten to
vampires and humans.
je proclamerai le dharma dans la langue de tous !
tôi dùng tiếng ấy / mà thuyết pháp cho.

—–d. aspiration to soften one’s mental continuum and to exert in the six perfections   aspiration pour adoucir son continuum mental et exercer dans les six perfections – nguyện tâm nhu nhuyễn, luyện hạnh ba la mật 

༡༩ ༽ དེས་ཤིང་ཕ་རོལ་ཕྱིན་ལ་རབ་བརྩོན་ཏེ། 
19) dé shing pa rol chin la rab tsön té
19a) Through that and through exertion in the (six) perfections
19) Domptant mon esprit et m’efforçant de pratiquer les pāramitā,
19) Siêng tu các pháp / ba la mật đa / cực kỳ trong sáng,

བྱང་ཆུབ་སེམས་ནི་ནམ་ཡང་བརྗེད་མ་གྱུར། །
jang chub sem ni nam yang jé ma gyur
may the mind of bodhichitta never be forgotten.
je n’oublierai jamais la bodhicitta ;
thường xuyên chuyên chú / không để quên mất / tâm đại bồ đề,

—–e. aspiration to abandon negativities and obscurations  aspiration à abandonner les négativités et les obscurcissements – nguyện từ bỏ ác hạnh ác chướng

སྡིག་པ་གང་རྣམས་སྒྲིབ་པར་གྱུར་པ་དག །
dik pa gang nam drib par gyur pa dak
19b) May whatever negativities that are obscurations (exist)
Puissent toutes mes actions négatives et les obscurcissements qu’elles causent
Diệt trừ dơ bẩn

དེ་དག་མ་ལུས་ཡོངས་སུ་བྱང་བར་ཤོག །
de dak ma lü yong su jang war shok
be thoroughly cleansed.
être complètement purifiés jusqu’au dernier.
không cho sót lại,

—-3. unaffected application  application non affectée – không vướng nhiễm tâm 

༢༠ ༽ ལས་དང་ཉོན་མོངས་བདུད་ཀྱི་ལས་རྣམས་ལས། །
20) lé dang nyön mong dü kyi lé nam lé
20) May I be liberated from the actions of the demons of karma and afflictions
20) Puissé-je être libéré du karma, des émotions nuisibles et de l’œuvre de la négativité,
(20) Đối với mê lầm / cùng với nghiệp dữ, / đối với cảnh ngộ

གྲོལ་ཞིང་འཇིག་རྟེན་འགྲོ་བ་རྣམས་སུ་ཡང་། །
drol shying jik ten dro wa nam su yang
and also in all worldly migrations may i
et agir pour tous les êtres dans le monde,
hiện thân ma vương, / trong cõi đời này / mà được siêu thoát,

ཇི་ལྟར་པདྨོ་ཆུས་མི་ཆགས་པ་བཞིན། །
ji tar pe mo chü mi chak pa shyin
remain without attachment , like the lily is with the water and
tout comme la fleur de lotus à laquelle ni l’eau ni la boue ne peuvent adhérer,
tựa như hoa sen / không hề dính nước,

ཉི་ཟླ་ནམ་མཁར་ཐོགས་པ་མེད་ལྟར་སྤྱད། །
nyi da nam khar thok pa mé tar ché
like the sun and moon (that move) unhindered in the sky.
ou le soleil et la lune dont la course est sans obstacle dans le ciel.
cũng như nhật nguyệt / không vướng không gian.

—-4. benefiting sentient beings  aider les êtres vivants – lợi ích chúng sinh 

༢༡ ༽ ཞིང་གི་ཁྱོན་དང་ཕྱོགས་རྣམས་ཅི་ཙམ་པར། །
21) shying gi khyön dang chok nam chi tsam par
21) May I thoroughly pacify the suffering of lower migrations
21) Partout, dans toute l’étendue de l’univers,
21) Tận trừ toàn bộ / nỗi khổ đường dữ,

ངན་སོང་སྡུག་བསྔལ་རབ་ཏུ་ཞི་བར་བྱེད། །
ngen song duk ngal rab tu shyi war jé
in however many vast fields and directions (it exists).j’apaiserai complètement la souffrance de tous les royaumes inférieurs,
bình đẳng cho vui / bao loại sinh linh,

བདེ་བ་དག་ལ་འགྲོ་བ་ཀུན་འགོད་ཅིང་། །
de wa dak la dro wa kün gö ching
may I place all migrators in many types of happiness
conduirai tous les êtres au bonheur
trải qua thời kỳ / nhiều như cực vi,

འགྲོ་བ་ཐམས་ཅད་ལ་ནི་ཕན་པར་སྤྱད། །
dro wa tham ché la ni pen par ché
and may I practice that which is beneficial for all.
et agirai pour le bénéfice ultime de chacun.
lợi ích mười phương / không có cùng tận.

—-5. putting on the armor  mettre l’armure – mặc áo giáp 

༢༢ ༽ བྱང་ཆུབ་སྤྱོད་པ་ཡོངས་སུ་རྫོགས་བྱེད་ཅིང་། །
22) jang chub chub chö pa yong su dzok jé ching
22) May I thoroughly complete the conduct of enlightenment and
22) J’accomplirai l’action éveillée à la perfection,
22) Tôi hằng tùy thuận / các loại chúng sinh,

སེམས་ཅན་དག་གི་སྤྱོད་དང་མཐུན་པར་འཇུག །
sem chen dak gi chö dang thün par juk
cause sentient beings to enter in accordance with their conduct,
servirai les êtres de façon appropriée à leurs besoins,
cùng tận thời kỳ / của thì vị lai,

བཟང་པོ་སྤྱོད་པ་དག་ནི་རབ་སྟོན་ཅིང་། །
zang po chö pa dak ni rab tön ching
may I teach them well (various) noble conducts and
leur enseignerai à accomplir des actions bénéfiques
thường xuyên tu tập / hạnh nguyện phổ hiền

མ་འོངས་བསྐལ་པ་ཀུན་ཏུ་སྤྱོད་པར་གྱུར། །
ma ong kal pa kün tu chö par gyur
may I practice them in all future eons.
et continuerai ainsi dans toutes les ères à venir.
cực kỳ rộng lớn / viên mãn thành tựu / tuệ giác bồ đề / cực kỳ tối thượng.

—-6. aspiration to meet with bodhisattvas of equal fortune  aspiration à rencontrer des bodhisattvas d’égale fortune – nguyện gặp bồ tát đồng tu 

༢༣ ༽ བདག་གི་སྤྱོད་དང་མཚུངས་པར་གང་སྤྱོད་པ། །
23) dak gi chö dang tsung par gang chö pa
23) May I always befriend
23) Puissé-je toujours rencontrer et être en compagnie de
23) Bao nhiêu những người / đồng hành với tôi,

དེ་དག་དང་ནི་རྟག་ཏུ་འགྲོགས་པར་ཤོག །
de dak dang ni tak tu drok par shok
those whose conduct is similar to mine.
ceux qui agissent en accord avec moi ;
nguyện ở chỗ nào / cũng thường gặp nhau,

ལུས་དང་ངག་རྣམས་དང་ནི་སེམས་ཀྱིས་ཀྱང་། །
lü dang ngak nam dang ni sem kyi kyang
may through body, speech and also mind
et puissent les actions et les aspirations de notre corps, de notre parole ainsi que de notre esprit,
thân ngữ và ý / đều như nhau cả,

སྤྱོད་པ་དག་དང་སྨོན་ལམ་གཅིག་ཏུ་སྤྱད། །
chö pa chö pa dak dang mön lam chik tu ché
pure conduct and prayer be practiced as one.
être toujours une !
cùng nhau tu học / hết thảy hạnh nguyện.

—-7. aspiration to meet and please virtuous friends  aspiration à avoir des maîtres authentiques et à leur plaire  – nguyện gặp và làm đẹp lòng bậc thiện tri thức 

༢༤ ༽ བདག་ལ་ཕན་པར་འདོད་པའི་གྲོགས་པོ་དག །
24) dak la pen par dö pé drok po dak
24) May I always meet with those friends who
24) Puissé-je toujours rencontrer des amis spirituels
24) Những thiện trí thức / lợi ích cho tôi,

བཟང་པོ་སྤྱོད་པ་རབ་ཏུ་སྟོན་པ་རྣམས། །
zang po chö pa rab tu tön pa nam
whish to benefit me and who
qui aspirent à m’aider véritablement
chỉ dẫn cho tôi / hạnh nguyện phổ hiền,

དེ་དག་དང་ཡང་རྟག་ཏུ་ཕྲད་པར་ཤོག །
de dak dang yang tak tu tre par shok
teach well the noble conduct;
et m’enseigne les actions bénéfiques ;
cũng nguyện thường xuyên / được gặp gỡ nhau,

དེ་དག་བདག་གིས་ནམ་ཡང་ཡིད་མི་དབྱུང་། །
de dak dak gi nam yang yi mi yung
may I never disappoint their minds.
jamais je ne les décevrai !
lại nguyện thường xuyên / hoan hỷ cho tôi.

—-8. aspiration to see the Buddhas and serve them in person  aspiration à voir les bouddhas et à les servir en personne – nguyện thấy và phụng sự chư Phật 

༢༥ ༽ སངས་རྒྱས་སྲས་ཀྱིས་བསྐོར་བའི་མགོན་པོ་རྣམས། །
25) sang gye sé kyi kor wé gön po nam
25) May I always behold directly the conquerors,
25) Puissé-je toujours voir les bouddhas, là devant mes yeux,
25) Nguyện thường nhìn thấy / chư vị Như lai,

མངོན་སུམ་རྟག་ཏུ་བདག་གིས་རྒྱལ་བ་བལྟ། །
ngön sum tak tu dak gi gyal wa ta
protectors surrounded by the children of the buddha.
et autour d’eux, tous leurs fils et filles bodhisattvas.
cùng chư bồ tát / vây quanh các Ngài,

མ་འོངས་བསྐལ་པ་ཀུན་ཏུ་མི་སྐྱོ་བར། །
ma ong kal pa kün tu mi kyo war
in all future eons may I never become impoverished
inlassablement, dans toutes les ères à venir,
đối với các Ngài / nguyện hiến cúng lớn,

དེ་དག་ལ་ཡང་མཆོད་པ་རྒྱ་ཆེར་བགྱི། །
de dak la yang chö pa gya cher gyi
and may I also make vast offerings to them.
puissent les offrandes que je leur fais être vastes et infinies.
cùng tận vị lai / không biết chán mệt.

—-9. aspiration to fully uphold the immaculate dharma  aspiration à préserver la prospérité du dharma  – nguyện duy trì chánh pháp

༢༦ ༽ རྒྱལ་བ་རྣམས་ཀྱི་དམ་པའི་ཆོས་འཛིན་ཅིང་། །
26) gyal wa nam kyi dam pé chö dzin ching
26) May I uphold the immaculate dharma of the conquerors
26) Puissé-je préserver les enseignements sacrés des bouddhas,
26) Nguyện được duy trì / pháp mầu của Phật,

བྱང་ཆུབ་སྤྱོད་པ་ཀུན་ཏུ་སྣང་བར་བྱེད། །
jang chub chö pa kün tu nang war jé
and illuminate every aspect of the conduct of enlightenment
et faire naître l’action éveillée ;
làm cho rực rỡ / hạnh nguyện bồ đề,

བཟང་པོ་སྤྱོད་པ་རྣམ་པར་སྦྱོང་བ་ཡང་། །
zang po chö pa nam par jong wa yang
may I practice the noble conduct (now) and
puissé-je parachever les actions bénéfiques
trong sạch rốt ráo / đường đi phổ hiền,

མ་འོངས་བསྐལ་པ་ཀུན་ཏུ་སྤྱད་པར་བགྱི། །
ma ong kal pa kün tu che par gyi
may I practice it in all future eons.
et les pratiquer dans tous les âges à venir.
cùng tận vị lai / thường xuyên tu tập.

—-10. aspiration to acquire inexhaustible treasures  aspiration à acquérir un trésor inépuisable  nguyện được kho báu bất tận 

༢༧ ༽ སྲིད་པ་ཐམས་ཅད་དུ་ཡང་འཁོར་བ་ན། །
27) si pa tham ché du yang khor wa na
27) May I find inexhaustible treasures and gnosis
27) Tandis que j’erre dans tous les états de l’existence samsarique,
(27) ở trong tất cả / thế giới ba cõi,

བསོད་ནམས་ཡེ་ཤེས་དག་ནི་མི་ཟད་བརྙེས། །
sö nam ye she dak ni mi zé nyé
when circling in all (types) of existence
puissé-je accumuler un mérite et une sagesse inépuisables,
tôi tu phước trí / thường xuyên vô tận,

ཐབས་དང་ཤེས་རབ་ཏིང་འཛིན་རྣམ་ཐར་དང་། །
thab dang she rab ting dzin nam thar dang
may I become an inexhaustible treasury of all qualities,
et devenir ainsi un trésor inépuisable de nobles qualités,
định tuệ phương tiện / cùng với giải thoát,

ཡོན་ཏན་ཀུན་གྱི་མི་ཟད་མཛོད་དུ་གྱུར། །
yön ten kün gyi mi zé dzö du gyur
method, wisdom, concentration and freedom.
d’habileté et de discrnement, de samādhi et de libération !
được kho công đức / vô tận như vậy.

—b. practicing on the ground of arya bodhisattvas  pratiquer sur la terre d’arya bodhisattavas  tu trên địa bồ tát [6]

—-1. entering the freedom of all bodhisattvas  entrer dans la liberté de tous les bodhisattvas  nhập cõi tự tại của bồ tát [8] 

—–a. aspiration to see the inhabitants of all pure realms existing in the ten directions on a single atom aspiration à voir les habitants de tous les royaumes purs existant dans les dix directions sur un seul atome – nguyện thấy chúng hội ở khắp mười phương tịnh độ trong mỗi cực vi [[22]] 

༢༨ ༽ རྡུལ་གཅིག་སྟེང་ན་རྡུལ་སྙེད་ཞིང་རྣམས་ཏེ། །
28) dul chik teng na dul nyé shying nam té
28) on every atom there are as many fields as the atoms that exist
28) En un seul atome, puissé-je voir autant de royaumes purs qu’il y a d’atomes dans l’univers :
28) Mỗi một cực vi / có số thế giới / nhiều bằng cực vi

ཞིང་དེར་བསམ་གྱིས་མི་ཁྱབ་སངས་རྒྱས་རྣམས། 
shying der sam gyi mi khyab sang gye nam
the inconceivable Buddhas in these fields
et dans chaque royaume, des bouddhas au-delà de toute imagination,
mỗi một thế giới / có các đức Phật / khó thể nghĩ thấu,

སངས་རྒྱས་སྲས་ཀྱི་དབུས་ན་བཞུགས་པ་ལ། །
sang gye sé kyi ü na shyuk pa la
abide surrounded by children of the Buddhas
entourés de leurs héritiers bodhisattvas.
mỗi một đức Phật / đều ở chính giữa / đại hội bồ tát,

བྱང་ཆུབ་སྤྱད་པ་སྤྱོད་ཅིང་བལྟ་བར་བགྱི། །
jang chub che pa chö ching ta war gyi
I behold them and practice the conduct of enlightenment.
avec eux, puissé-je accomplir les actions éveillées !
và tôi nhìn thấy / các Ngài thường nói / hạnh nguyện bồ đề.

—–b. aspiration to see all pure fields in the ten directions  aspiration pour voir tous les champs purs dans les dix directions – nguyện thấy mọi cảnh tịnh độ ở khắp mười phương 

༢༩ ༽ དེ་ལྟར་མ་ལུས་ཐམས་ཅད་ཕྱོགས་སུ་ཡང་། །
29) de tar ma lü tham ché chok su yang
29) Thus also in the expanse of a single hair there is an ocean
29) Et ainsi partout,dans chaque direction,
(29) Biển cả thế giới / khắp mười phương hướng,

སྐྲ་ཙམ་ཁྱོན་ལ་དུས་གསུམ་ཚད་སྙེད་ཀྱི། །
tra tsam khyön la dü sum tsé nyé kyi
of as many Buddhas as they exist in the three times in every
même sur la pointe d’un cheveu, puissé-je voir un océan de bouddhas ‒
biển cả thì gian / nhiều bằng đầu lông,

སངས་རྒྱས་རྒྱ་མཚོ་ཞིང་རྣམས་རྒྱ་མཚོ་དང་། །
sang gye gya tso shying nam gya tso dang
direction without exception and there is an ocean of pure fields
tous à venir dans le passé, le présent et le futur ‒ dans un océan de royaumes purs,
biển cả Phật đà, / biển cả quốc độ,

བསྐལ་པ་རྒྱ་མཚོ་སྤྱོད་ཅིང་རབ་ཏུ་འཇུག །
kal pa gya tso chö ching rab tu juk
and for an ocean of eons may I thoroughly engage in the practice of this conduct.
et durant un océan d’éternités, puissé-je entrer dans l’action éveillée dans chacun d’eux sans exception.
biển cả thời kỳ / mà tôi tu hành.

—–c. engaging the speech of the buddha  ecouter les paroles du bouddha – thâm nhập lời Phật 

༣༠ ༽ གསུང་གཅིག་ཡན་ལག་རྒྱ་མཚོའི་སྒྲ་སྐད་ཀྱིས། །
30) sung chik yenlak gyatsö draké kyi
30) With a language of an ocean of qualities in every single word
30) Chaque mot de la parole d’un bouddha, cette voix avec l’océan de ses qualités,
(30) Chư vị Như lai / lời tiếng trong sáng,

རྒྱལ་བ་ཀུན་དབྱངས་ཡན་ལག་རྣམ་དག་པ། །
gyal wa kün yang yenlak namdak pa
all conquerors speak with the pure qualities of melodiousness.
porte toute la pureté de la parole de tous les bouddhas,
mỗi tiếng đủ hết / biển cả âm thanh,

འགྲོ་བ་ཀུན་གྱི་བསམ་པ་ཇི་བཞིན་དབྱངས། །
dro wa kün gyi sam pa jishyin yang
this melodiousness is in accordance with the thoughts of all migrators.
des sons qui s’harmonisent avec tous les esprits des êtres vivants :
những lời tiếng ấy / tùy ý chúng sinh,

སངས་རྒྱས་གསུང་ལ་རྟག་ཏུ་འཇུག་པར་བགྱི། །
sang gye sung la tak tu juk par gyi
may I always engage the speech of the buddha.
puissé-je être toujours tenu par la parole des bouddhas !
lời tiếng Như lai / nguyện luôn thâm nhập.

—–d. engaging the Tathagatas ’ turning of the wheel of dharma entendre tourner les roues du dharma – thấu hiểu lời Phật chuyển pháp luân 

༣༡ ༽ དུས་གསུམ་གཤེགས་པའི་རྒྱལ་བ་ཐམས་ཅད་དག །
31) dü sum shek péi gyal wa tham ché dak
31) I will also thoroughly engage through the strength of my min
31) usant de tout le pouvoir de mon esprit, puissé-je entendre et réaliser
(31) Chư vị Như lai / trong ba thì gian, / vận dụng vô tận

འཁོར་ལོའི་ཚུལ་རྣམས་རབ་ཏུ་བསྐོར་བ་ཡི། །
khor lö tsul nam rab tu kor wa yi
in the inexhaustible melody of the speech of
l’inépuisable mélodie des enseignements
biển cả lời tiếng, / thường chuyển pháp luân

དེ་དག་གི་ཡང་གསུང་དབྱངས་མི་ཟད་ལ། །
de dak gi yang sung yang mizé la
all conquerors coming during the three times and
donnés par tous les bouddhas du passé, du présent et du futur,
lý thú nhiệm mầu, / nhưng trí tuệ lực / sâu xa của tôi

བློ་ཡི་སྟོབས་ཀྱིས་བདག་ཀྱང་རབ་ཏུ་འཇུག །
lo yi tob kyi dak kyang rab tu juk
turning the wheel (of dharma) in (different) ways.
quand ils tournent les roues du dharma !
có thể hội nhập / một cách toàn diện.

—–e. engaging the eons  entrer dans les éternités – thâm nhập toàn thể thời kỳ 

༣༢ ༽ མ་འོངས་བསྐལ་པ་ཐམས་ཅད་འཇུག་པར་ཡང་། །
32) ma ong kal pa tham ché juk par yang
32) I can even enter in an instant
32) De même que la sagesse des bouddhas pénètre toutes les éternités futures,
32) Tôi thấu hiểu được / toàn thể thời kỳ

སྐད་ཅིག་གཅིག་གིས་བདག་ཀྱང་འཇུག་པར་བགྱི། །
ke chik chik gi dak kyang juk par gyi
in all future eons
puissé-je moi aussi les connaître instantanément,
của thì vị lai / là một sát na,

གང་ཡང་བསྐལ་པ་དུས་གསུམ་ཚད་དེ་དག །
gang yang kal pa dü sum tsé de dak
whatever is the measure of the eons in the three times
et en chaque fraction d’instant, puissé-je connaître
tôi cũng thấu hiểu / toàn thể thời kỳ

སྐད་ཅིག་ཆ་ཤས་ཀྱིས་ནི་ཞུགས་པར་སྤྱད། །
ke chik cha shé kyi ni shyuk par ché
I practice entering (them) in a fraction of an instance.
tout ce qui sera jamais dans le passé, le présent et le futur !
cả ba thì gian / là một sát na.

—–f. beholding the Tathagatas and engaging the object of their practice  contemplant les tathagathas et engageant l’objet de leur pratique – thấy Phật và thâm nhập lãnh vực của phât 

༣༣ ༽ དུས་གསུམ་གཤེགས་པ་མི་ཡི་སེང་གེ་གང་། །
33) dü sum shek pa mi yi sen gé gang
33) In an instance I behold
33) En un instant, puissé-je voir tous ceux qui sont les lions de la race humaine ‒
33) Trong một sát na / mà tôi thấy hết

དེ་དག་སྐད་ཅིག་གཅིག་ལ་བདག་གིས་བལྟ། །
de dak ke chik chik la dak gi ta
the lions of men coming in the three times and
les bouddhas du passé, du présent et du futur !
tất cả chư Phật / trong ba thì gian, / là bậc sư tử / trong cõi con người

རྟག་ཏུ་དེ་དག་གི་ནི་སྤྱོད་ཡུལ་ལ། །
tak tu de dak gi ni chö yul la
I enter through the strength of illusory freedom
puissé-je être toujours engagé dans le mode de vie et d’action des bouddhas,
tôi thường thấu hiểu / lĩnh vực của Phật

སྒྱུ་མར་གྱུར་པའི་རྣམ་ཐར་སྟོབས་ཀྱིས་འཇུག །
gyu mar gyur pé nam thar tob kyi juk
in the object of their practice.
par le pouvoir de libération où tout est réalisé comme étant une illusion !
thể chứng các pháp / toàn như ảo thuật, / giải thoát cao sâu, / uy lực hùng mãnh.

—–g. actually establishing buddha fields  accomplir et entrer dans les terres pures – làm nên cõi Phật 

༣༤ ༽ གང་ཡང་དུས་གསུམ་དག་གི་ཞིང་བཀོད་པ། །
34) gang yang dü sum dak gi shying köpa
34) Moreover I arrange the pure fields of the three times
34) En un seul atome, puissé-je faire apparaître réellement
34) Nơi mỗi cực vi / trên đầu sợi lông, / xuất hiện thế giới

དེ་དག་རྡུལ་གཅིག་སྟེང་དུ་མངོན་པར་བསྒྲུབ། །
de dak dul chik tengdu ngönpar drub
I actually establish them on a single atom.
tous les royaumes purs du passé, du présent et du futur ;
quá khứ hiện tại / cùng với vị lai / cực kỳ trang nghiêm.

དེ་ལྟར་མ་ལུས་ཕྱོགས་རྣམས་ཐམས་ཅད་དུ། །
detar ma lü chok nam tham ché du
thus I enter the array of the fields of conquerors
puis entrer dans ces royaumes purs de bouddhas,
thế giới mười phương / nhiều như cực vi / trên đầu sợi lông,

རྒྱལ་བ་དག་གི་ཞིང་རྣམས་བཀོད་ལ་འཇུག །
gyal wa dak gi shying nam kö la juk
in all directions, without exception.
dans chaque atome et dans toutes les directions.
tôi thâm nhập cả / mà làm toàn thể / trang nghiêm trong sạch.

—–h. aspiration to go towards the Tathagatas  entrer en présence du bouddhas – nguyện đến với Như lai 

༣༥ ༽ གང་ཡང་མ་བྱོན་འཇིག་རྟེན་སྒྲོན་མ་རྣམས། །
35) gang yang ma jön jik ten drön ma nam
35) Moreover I proceed in front of all protectors,
35) Lorsque ceux qui illuminent le monde, encore à venir,
35) Cùng tận vị lai / có bao Phật đà / thành vô thượng giác

དེ་དག་རིམ་པར་འཚང་རྒྱ་འཁོར་ལོ་བསྐོར། །
de dak rim par tsang gya khor lo kor
the future beacons of the world
atteignent graduellement l’état de bouddha, tournent la roue du dharma,
chuyển chánh pháp luân / mở mắt quần sinh

མྱ་ངན་འདས་པ་རབ་ཏུ་ཞི་མཐའ་སྟོན། །
nya ngen de pa rab tu shyi tha tön
as they gradually become enlightened, the turn the wheel
et attestent la paix profonde et définitive du nirvāṇa :
ở trong ba cõi, / việc Phật hoàn tất / thị hiện niết bàn,

མགོན་པོ་ཀུན་གྱི་དྲུང་དུ་བདག་མཆི་འོ། །
gön po kün gyi drung du dak chi o
and demonstrate the conclusion of paranirvana’s intense peace.
puissé-je être toujours en leur présence !
tôi đều đi đến / thân gần phụng sự.

—-2. prayer to establish the ten strengths of bodhisattvas  prière pour établir les dix forces des bodhisattvas – nguyện thành tựu mười lực bồ tát 

༣༦ ༽ ཀུན་ཏུ་མྱུར་བའི་རྫུ་འཕྲུལ་སྟོབས་རྣམས་དང་། །
36) kün tu nyur wé dzu trul tob nam dang
36) The strength of all swift miracles,
36) Par le pouvoir de prompts miracles
36) Năng lực thần thông / đến mau khắp cả,

ཀུན་ནས་སྒོ་ཡི་ཐེག་པའི་སྟོབས་དག་དང་། །
kün né go yi thek pé tob dak dang
the strength of the vehicle which is the gateway for all,
le pouvoir du véhicule, tel une porte,
năng lực đại thừa / biến thể toàn diện,

ཀུན་ཏུ་ཡོན་ཏན་སྤྱོད་པའི་སྟོབས་རྣམས་དང་། །
kün tu yön ten chö pé tob nam dang
the strength of conduct of all qualities,
le pouvoir de la conduite qui détient toutes les qualités vertueuses,
năng lực công đức / tu hết trí hạnh,

ཀུན་ཏུ་ཁྱབ་པ་བྱམས་པ་དག་གི་སྟོབས། །
kün tu khyab pa jam pa dak gi tob
the strength of love which is all pervasive
le pouvoir de l’amour-tendresse, qui pénètre tout,
năng lực đại từ / che hết chúng sinh,

༣༧ ༽ ཀུན་ནས་དགེ་བའི་བསོད་ནམས་སྟོབས་དག་དང་། །
37) kün né ge wé sö nam tob dak dang
37) The strength of merit which is virtuous in all aspects,
37) Le pouvoir du mérite parfaitement pur,
(37) Năng lực thắng phước / trang hoàng khắp nơi,

ཆགས་པ་མེད་པར་གྱུར་པའི་ཡེ་ཤེས་སྟོབས། །
chak pa me par gyur pé ye she tob
the strength of gnosis without formation,
le pouvoir de la sagesse libre d’attachement, et
năng lực thắng trí / không hề vướng mắc,

ཤེས་རབ་ཐབས་དང་ཏིང་འཛིན་སྟོབས་དག་གིས། །
she rab thab dang tingdzin tob dak gi
the strengths of wisdom, method and concentration:
les pouvoirs de la connaissance, des moyens habiles et du samādhi,
năng lực uy thần / đủ mọi phương tiện

བྱང་ཆུབ་སྟོབས་རྣམས་ཡང་དག་སྒྲུབ་པར་བྱེད། །
jang chub tob nam yang dak drub par jé
may I attain pure strength of enlightenment through these.
puissé-je accomplir parfaitement le pouvoir de l’éveil !
năng lực bồ đề / qui tụ hết thảy,

—-3. establishing the antidotes  aspiration aux antidotes qui pacifient les obscurcissements  thành tựu pháp đối trị 

༣༨ ༽ ལས་ཀྱི་སྟོབས་རྣམས་ཡོངས་སུ་དག་བྱེད་ཅིང་། །
38) lé kyi tob nam yong su dak jé ching
38) May I thoroughly purify the strength of actions and
38) Puissé-je purifier le pouvoir du karma ;
(38) Năng lực thiện nghiệp / làm sạch tất cả,

ཉོན་མོངས་སྟོབས་རྣམས་ཀུན་ཏུ་འཇོམས་པར་བྱེད། །
nyön mong tob nam kün tu jom par jé
utterly destroy the strength of afflictions
détruire le pouvoir des émotions négatives,
năng lực diệt trừ / tất cả phiền não,

བདུད་ཀྱི་སྟོབས་རྣམས་སྟོབས་མེད་རབ་བྱེད་ཅིང་། །
dü kyi tob nam tob mé rab jé ching
render the strength of demons powerless and
rendre la négativité complètement impuissante
năng lực chiến thắng / tất cả ma quân,

བཟང་པོ་སྤྱོད་པའི་སྟོབས་ནི་རྫོགས་པར་བགྱི། །
zang po chö pé tob ni dzok par gyi
complete the strength of noble conduct.
et parfaire le pouvoir des actions bénéfiques  !
năng lực viên mãn / hạnh nguyện phổ hiền.

—-4. bodhisattva deeds  aapirations aux activités éveillées – hạnh bồ đề 

༣༩ ༽ ཞིང་རྣམས་རྒྱ་མཚོ་རྣམ་པར་དག་བྱེད་ཅིང་། །
39) shying nam gya tso nam par dak jé ching
39) I will purify an ocean of fields
39) je purifierai des océans de royaumes,
39) Trang hoàng sạch sẽ / biển cả thế giới,

སེམས་ཅན་རྒྱ་མཚོ་དག་ནི་རྣམ་པར་སྒྲོལ། །
sem chen gya tso dak ni nam par drol
liberate an ocean of sentient beings
libèrerai des océans d’êtres animés,
giải thoát hết thảy / biển cả chúng sinh,

ཆོས་རྣམས་རྒྱ་མཚོ་རབ་ཏུ་མཐོང་བྱེད་ཅིང་། །
chö nam gya tso rab tu thong jé ching
see through an ocean of dharmas and
comprendrai des océans de dharma,
khéo léo phân biệt / biển cả các pháp,

ཡེ་ཤེས་རྒྱ་མཚོ་རབ་ཏུ་རྟོགས་པར་བྱེད། །
ye she gya tso rab tu tok par jé
comprehend with an ocean of gnosis.
et réaliserai des océans de sagesse,
nhập vào sâu xa / biển cả trí tuệ,

༤༠ ༽ སྤྱོད་པ་རྒྱ་མཚོ་རྣམ་པར་དག་བྱེད་ཅིང་། །
40) chö pa gya tso nam par dak jé ching
40) I will perform an ocean of pure conducts
40) je parachèverai des océans d’actions,
40) Làm trong sáng hết / biển cả đại hạnh,

སྨོན་ལམ་རྒྱ་མཚོ་ཡོངས་སུ་རྫོགས་པར་བྱེད། །
mön lam gya tso yong su dzok par jé
complete an ocean of prayers
exaucerai des océans d’aspirations
làm đầy đủ cả / biển cả đại nguyện,

སངས་རྒྱས་རྒྱ་མཚོ་རབ་ཏུ་མཆོད་བྱེད་ཅིང་། །
sang gye gya tso rab tu chö jé ching
make offerings to an ocean of Buddhas
servirai des océans de bouddhas
thân gần hiến cúng / biển cả Phật đà,

བསྐལ་པ་རྒྱ་མཚོ་མི་སྐྱོ་སྤྱད་པར་བགྱི། །
kal pa gya tso mikyo chepar gyi
for an ocean of eons, without becoming weary.
et accomplirai ceci, sans jamais me lasser, à travers un océan de temps infini !
tu không mệt mỏi / biển cả thời kỳ.

—-5. training in the footsteps of others  entraînement sur les traces  noi gót  [2]

—–a. training in the footsteps of Tathagatas  imiter les bouddhas – noi gót chân Phật 

༤༡ ༽ གང་ཡང་དུས་གསུམ་གཤེགས་པའི་རྒྱལ་བ་ཡི། །
41) gang yang dü sum  shek pé gyal wa yi
41) All the conquerors of the three times
41) Tous les bouddhas, dans tous les temps,
41) Bao nhiêu hạnh nguyện / tuệ giác tối thượng /  của chư Như lai / trong ba thì gian, /

བྱང་ཆུབ་སྤྱོད་པའི་སྨོན་ལམ་བྱེ་བྲག་རྣམས། །
jang chub chö pé mön lam je drak nam
became enlightened through the noble conduct and
ont nt atteint l’éveil par les actions bénéfiques et
 tôi tôn thờ cả / và tu đầy đủ:

བཟང་པོ་སྤྱོད་པས་བྱང་ཆུབ་སངས་རྒྱས་ནས། །
zang po chö pé jang chub sang gye né
the specific prayers of the enlightened conduct:
leurs prières et aspirations à l’action éveillée :
vận dụng tất cả / hạnh nguyện phổ hiền

དེ་ཀུན་བདག་གིས་མ་ལུས་རྫོགས་པར་བགྱི། །
dé kün dak gi ma lü dzok par gyi
I will complete all these without exception.
puissé-je toutes les accomplir !
tôi giác ngộ được / vô thượng bồ đề.

—–b. training in the footsteps of bodhisattvas  imiter les bodhisattvas – noi gót chân bồ tát 

༤༢ ༽ རྒྱལ་བ་ཀུན་གྱི་སྲས་ཀྱི་ཐུ་བོ་པ། །
42) gyal wa kün gyi sé kyi thu wo pa
42) The eldest of all conquerors’ children
42) L’aîné des fils de tous les bouddhas
42) Tất cả Như lai / đều có trưởng tử,

གང་གི་མིང་ནི་ཀུན་ཏུ་བཟང་ཞེས་བྱ། །
gang gi ming ni kun tu zang shye ja
is called Samantabhadra.
se nomme Samantabhadra : « parfaitement-bon » :
cùng một danh hiệu / danh hiệu Phổ hiền ;

མཁས་པ་དེ་དང་མཚུངས་པར་སྤྱད་པའི་ཕྱིར། །
khé pa dé dang tsung par che pé chir
in order to practice with a skill similar to his
afin de pouvoir agir avec autant de talent,
nay tôi hồi hướng / bao nhiêu thiện căn,

དགེ་བ་འདི་དག་ཐམས་ཅད་རབ་ཏུ་བསྔོ། །
ge wa di dak tham ché rab tu ngo
I dedicate fully all this virtue.
je dédie complètement tous ces mérites !
nguyện bao trí tuệ / đồng đẳng các vị.

༤༣ ༽ ལུས་དང་ངག་དང་ཡིད་ཀྱང་རྣམ་དག་ཅིང་། །
43) lü dang ngak dang yi kyang nam dak ching
43) To purify my body, speech and mind
43our purifier mon corps, ma parole aussi bien que mon esprit,
43) Cả thân ngữ ý / thường xuyên trong sáng,

སྤྱོད་པ་རྣམ་དག་ཞིང་རྣམས་ཡོངས་དག་པ། །
chö pa nam dak shying nam yong dak pa
to purify my conduct and to thoroughly purify fields
pour purifier mes actions, et tous les royaumes,
hạnh nguyện, quốc độ, / cũng đều như vậy:

བསྔོ་བ་བཟང་པོ་མཁས་པ་ཅི་འདྲ་བ། །
ngo wa zang po khe pa chin dra wa
may I do a dedication that is similar to his
puissé-je être l’égal de Samantabhadra
trí tuệ đến thế / nên tên Phổ hiền,

དེ་འདྲར་བདག་ཀྱང་དེ་དང་མཚུངས་པར་ཤོག །
den drar dak kyang dé dang tsung par shok
noble and skillful one.
dans son habileté à dédier parfaitement !
nguyện tôi đồng đẳng / với các vị ấy.

༤༤ ༽ ཀུན་ནས་དགེ་བ་བཟང་པོ་སྤྱོད་པའི་ཕྱིར། །
44) kün né ge wa zang po chö pé chir
44) In order to practice totally virtuous conduct
44) Afin d’accomplir la pleine vertu des actions bénéfiques,
44) Tôi vì trong sáng / hạnh nguyện phổ hiền,

འཇམ་དཔལ་གྱི་ནི་སྨོན་ལམ་སྤྱད་པར་བགྱི། །
jam pal gyi ni mön lam che par gyi
I will practice Manjushri’s prayer and
j’agirai en accord avec les prières d’aspiration de mañjuśrī, nên bao
hạnh nguyện / của ngài Văn thù,

མ་འོངས་བསྐལ་པ་ཀུན་ཏུ་མི་སྐྱོ་བར། །
ma ong kal pa kün tu mi kyo war
without becoming weary in future eons
et sans jamais me lasser, dans toutes les ères à venir,
tôi tu đủ cả / không có thiếu sót,

དེ་ཡི་བྱ་བ་མ་ལུས་རྫོགས་པར་བགྱི། །
dé yi ja wa ma lü dzok par gyi
I will complete their actions without exception.
je remplirai parfaitement chacun de ses buts !
cùng tận vị lai / không hề mỏi mệt.

—-6. the meaning in brief  conclusion de l’aspiration – ý nghĩa tóm lượt 

༤༥ ༽ སྤྱོད་པ་དག་ནི་ཚད་ཡོད་མ་གྱུར་ཅིག །
45) chö pa dak ni tsé yö ma gyur chik
45) May this conduct be without measure
45) Que mes actes de bodhisattva soient au-delà de toute mesure !
45) Sự tu của tôi / không có hạn lượng,

ཡོན་ཏན་རྣམས་ཀྱང་ཚད་བཟུང་མེད་པར་ཤོག །
yön ten nam kyang tsé zung me par shok
may qualities not be restricted by any measure and
que mes qualités éveillées soient également sans mesure !
công đức đạt được / cũng không số lượng;

སྤྱོད་པ་ཚད་མེད་པ་ལ་གནས་ནས་ཀྱང་། །
chö pa tse me pa la né né kyang
by abiding in this immeasurable conduct
m’en tenant à cette activité incommensurable,
đứng vững ở trong / vô lượng hạnh nguyện,

དེ་དག་འཕྲུལ་པ་ཐམས་ཅད་འཚལ་བར་བགྱི། །
de dak trul pa tham ché tsal war gyi
may I set forth emanations.
puissé-je accomplir tous les pouvoirs miraculeux de l’éveil !
tôi thấu triệt hết / bao thần thông lực.

—c. the measure of actualizing the results of the prayer  la portée de l’aspiration – thước đo thành tựu hạnh nguyện 

༤༦ ༽ ནམ་མཁའི་མཐར་ཐུག་གྱུར་པ་ཇི་ཙམ་པར། །
46) nam khé thar thuk gyur pa ji tsam par
46) Sentient beings are as limitless as
46) Les êtres animés sont illimités
46) Hư không cho đến / phiền não cùng tận,

སེམས་ཅན་མ་ལུས་མཐའ་ཡང་དེ་བཞིན་ཏེ། །
sem chen ma lü tha yang de shyin té
the expanse of space.
comme l’étendue infinie de l’espace ;
đại nguyện của tôi / mới có cùng tận,

ཇི་ཙམ་ལས་དང་ཉོན་མོངས་མཐར་གྱུར་པ། །
ji tsam lé dang nyön mong thar gyur pa
may my aspiration prayers be as limitless as
que mes prières d’aspiration pour eux
nhưng bốn thứ ấy / không có cùng tận,

བདག་གི་སྨོན་ལམ་མཐའ་ཡང་དེ་ཙམ་མོ། །
dak gi mön lam tha yang det sam mo
the limitless karma and affliction of them all.
soient aussi illimitées que leur karma et leurs émotions négatives !
đại nguyện của tôi / cũng không cùng tận.

–iii. the benefits of having paid attention to this prayer  les bénéfices de l’aspiration –  lợi ích phát khởi hạnh nguyện phổ hiền [2] 

—a. benefits to be seen in this life  les bénéfices vus dans cette vie lợi ích thấy trong đời này [4]

—-1. maintaining extraordinary merit  maintenir le mérite extraordinaire – duy trì công đức phi thường 

༤༧ ༽ གང་ཡང་ཕྱོགས་བཅུའི་ཞིང་རྣམས་མཐའ་ཡས་པ། །
47) gang yang chok chü shying nam tha ye pa
47) Compared to someone who offers the conquerors
47) Quiconque entend cette reine des prières de dédicace,
47) Ai đem bảo vật / đầy cả thế giới

རིན་ཆེན་བརྒྱན་ཏེ་རྒྱལ་བ་རྣམས་ལ་ཕུལ། །
rin chen gyen té gyal wa nam la pul
limitless fields of the ten directions adorned with precious substances
et aspire à l’éveil suprême,
khắp mười phương hướng / mà hiến cúng Phật,

ལྷ་དང་མི་ཡི་བདེ་བའི་མཆོག་རྣམས་ཀྱང་། །
lha dang mi yi dewé chok nam kyang
as well as the supreme happiness of gods and humans
quiconque a eu la foi même un seul instant,
lại cho trời người / hạnh phúc tuyệt vời,

ཞིང་གི་རྡུལ་སྙེད་བསྐལ་པར་ཕུལ་བ་བས། །
shying gi dul nyé kalpar pul wa bé
for as many eons as there are atoms in the fields
gagnera un vrai mérite, plus grand encore
và làm như vậy / trải qua thời kỳ / bằng số cực vi / của mọi thế giới.

༤༨ ༽ གང་གིས་བསྔོ་བའི་རྒྱལ་པོ་འདི་ཐོས་ནས། །
48) gang gi ngo wé gyal po di thö né
48) Whoever upon hearing this king of dedications
48) Qu’en offrant aux bouddhas victorieux
48) Và ai đối với / đại nguyện vương này

བྱང་ཆུབ་མཆོག་གི་རྗེས་སུ་རབ་མོས་ཤིང་། །
jang chub chok gi je su rab mö shing
yearns for supreme enlightenment
d’infinis royaumes purs dans toutes les directions, tous ornés de joyaux,
một lần nghe đến / mà sinh tin tưởng,

ལན་གཅིག་ཙམ་ཡང་དད་པ་བསྐྱེད་པ་ན། །
len chik tsam yang de pa kye pa na
and generates faith even once
ou en leur offrant toutes les joies les plus grandes des dieux et des humains,
với sự khao khát / vô thượng bồ đề,

བསོད་ནམས་དམ་པའི་མཆོག་ཏུ་འདི་འགྱུར་རོ། །
sö nam dampé chok tu di gyur ro
will gain immaculate, supreme merit, superior to them.
durant autant d’éternités qu’il y a d’atomes dans ces royaumes.
thì được công đức / quá hơn người trước.

—-2. seeing the face of the tathagata after abandoning the lower migrations and evil companions  rencontrer les bouddhas après avoir abandonné les migrations inférieures et les compagnons diaboliques từ bỏ ác đạo ác hữu, diện kiến Như lai 

༤༩ ༽ གང་གིས་བཟང་སྤྱོད་སྨོན་ལམ་འདི་བཏབ་པས། །
49) gang gi zang chö mön lam di tab 
49) Whoever recites this prayer aspiring for noble conduct
49) Quiconque pratique vraiment cette aspiration aux actions bénéfiques,
49) Và rồi xa rời / bạn bè xấu ác,

དེས་ནི་ངན་སོང་ཐམས་ཅད་སྤོང་བར་འགྱུར། །
dé ni ngen song tham ché pong war gyur
abandons the lower migrations
ne renaîtra jamais dans les royaumes inférieurs ;
với lại xa hẳn / các nẻo đường dữ

དེས་ནི་གྲོགས་པོ་ངན་པ་སྤངས་བ་ཡིན། །
dé ni drokpo ngen pa pangwa yin
abandons evil companions
ils ne connaîtront pas de compagnons nuisibles et
mau chóng nhìn thấy / đức A di đà,

སྣང་བ་མཐའ་ཡས་དེ་ཡང་དེས་མྱུར་མཐོང་། །
nang wa tha yé de yang dé nyur thong
and will soon behold the buddha of limitless light.
verront bientôt le bouddha de lumière infinie.
và đủ hạnh nguyện / phổ hiền tối thượng.

—-3. obtaining equal fortune with bodhisattvas and acquiring gain  obtention d’égale fortune que les bodhisattvas et acquisition du gain  được sự đồng đẳng với bồ tát và được lợi ích 

༥༠ ༽ དེ་དག་རྙེད་པ་རབ་རྙེད་བདེ་བར་འཚོ། །
50) de dak nye pa rab nyé de war tso
50) Will live happily having acquired many gains
50) Ils obtiendront toutes sortes de bienfaits et vivront heureux ;
50) Người ấy khéo được / đời sống đặc thù.

མི་ཚེ་འདིར་ཡང་དེ་དག་ལེགས་པར་འོང་། །
mi tsé dir yang de dak lek par ong
things will go well in this present life
même dans cette vie présente, tout ira bien,
người ấy khéo sinh / ở trong loài người,

ཀུན་ཏུ་བཟང་པོ་དེ་ཡང་ཅི་འདྲ་བར། །
kun tu zang po de yang chin dra war
and before long
et avant longtemps,
người ấy không lâu / sẽ được hoàn thành

དེ་དག་རིང་པོར་མི་ཐོགས་དེ་བཞིན་འགྱུར། །
de dak ring por mi thok de shyin gyur
will be like Samantabhadra.
ils deviendront exactement comme Samantabhadra.
hạnh nguyện y như / Phổ hiền đại sĩ.

—-4. the benefit of having exhausted karmic obscurations  l’avantage d’avoir éradiqué les obscurcissements karmiques  lợi ích đoạn diệt nghiệp chướng 

༥༡ ༽ མཚམས་མེད་ལྔ་པོ་དག་གི་སྡིག་པ་རྣམས། །
51) tsam mé nga po dak gi dik pa nam
51) The negativity of the five heinous crimes and
51) Toutes les actions négatives – même les cinq actions à rétribu-tion immédiate –
51) Nếu mà xưa kia / không có trí tuệ / nên tạo năm tội / địa ngục vô gián,

གང་གིས་མི་ཤེས་དབང་གིས་བྱས་པ་དག །
gang gi mi she wang gi je pa dak
all those done under the power of ignorance
quoiqu’ils aient fait sous l’emprise de l’ignorance
nhưng nếu ngày nay / tụng đại nguyện vương

དེ་ཡིས་བཟང་པོ་སྤྱོད་པ་འདི་བརྗོད་ན། །
dé yi zang po chö pa di jö na
will soon be thoroughly cleansed
sera bientôt complètement purifié,
của đức Phổ hiền, / thì một sát na

མྱུར་དུ་མ་ལུས་ཡོངས་སུ་བྱང་བར་འགྱུར། །
nyur du ma lü yong su jang war gyur
if they recite this (prayer of) noble conduct.
s’ils récitent cette aspiration aux actions bénéfiques.
tiêu diệt tức thì / năm tội như vậy.

—b. benefits to be seen in future  avantages à voir dans les vies futures  lợi ích thấy trong đời sau [2]

—-1. subsuming causes  causes englobantes  nhân 

༥༢ ༽ ཡེ་ཤེས་དང་ནི་གཟུགས་དང་མཚན་རྣམས་དང་། །
52) ye she dang ni zuk dang tsen nam dang
52) Will be endowed with knowledge, form, signs,
52) Ils possèderont la sagesse parfaite, la beauté et des signes excellents,
52) Lại còn toàn hảo / dòng họ, thành phần,

རིགས་དང་ཁ་དོག་རྣམས་དང་ལྡན་པར་འགྱུར། །
rik dang kha dok nam dang den par gyur
lineage and radiance,
naîtront dans une bonne famille et auront une apparence radieuse.
sắc tướng, trí tuệ; / quân đội ma vương

བདུད་དང་མུ་སྟེགས་མང་པོས་དེ་མི་ཐུབ། །
dü dang mu tek mang pö dé mi thub
many demons and heretics will not overpower them
les démons et les hérétiques ne leur feront jamais de mal
và những ngoại đạo / không thể đánh đổ,

འཇིག་རྟེན་གསུམ་པོ་ཀུན་ནའང་མཆོད་པར་འགྱུར། །
jik ten sum po kün na ang chö par gyur
and all the three worlds will present them with offerings.
et les trois mondes les honoreront par des offrandes.kham được ba cõi / cùng nhau hiến cúng.

—-2. subsuming results  résultats  quả 

༥༣ ༽ བྱང་ཆུབ་ཤིང་དབང་དྲུང་དུ་དེ་མྱུར་འགྲོ། །
53) jang chub shing wang drung du dé nyur dro
53) Will quickly proceed beneath the powerful bodhi tree
53) Ils iront vite sous l’arbre de la bodhi,
53) Và mau đến ngồi / dưới bồ đề thọ,

སོང་ནས་སེམས་ཅན་ཕན་ཕྱིར་དེར་འདུག་སྟེ། །
song né sem chen pen chir der duk té
and sit there for the benefit of sentient beings
et là ils s’assiéront pour le bénéfice de tous les êtres animés, puis
chiến thắng các đạo / quân đội ma vương,

བྱང་ཆུབ་སངས་རྒྱས་འཁོར་ལོ་རབ་ཏུ་བསྐོར། །
jang chub sang gye khor lo rab tu kor
turn the wheel of an enlightened buddha
éveillés, tourneront la roue du dharma
thành đẳng chánh giác / chuyển diệu pháp luân,

བདུད་རྣམས་སྡེ་དང་བཅས་པ་ཐམས་ཅད་བཏུལ། །
dü nam dé dang che pa tham ché tul
and tame the hordes of demons.
et maîtriseront māra et toutes ses hordes.
lợi lạc hết thảy / các loại chúng sinh.

–iv. benefits of reciting this  les bénéfices de réciter cette prière  lợi ích tụng kinh [5] 

—a. the benefits in brief  les bénéfices exposés brièvement  lợi ích nói tóm lượt 

༥༤ ༽ གང་ཡང་བཟང་པོ་སྤྱོད་པའི་སྨོན་ལམ་འདི། །
54) gang yang zang po chö pé mön lam di
54) The maturation of those who keep, teach or read
54) Tout le bienfait d’avoir gardé, enseigné ou lu
54) Thế nên những ai / đối với hạnh nguyện

འཆང་བ་དང་ནི་སྟོན་ཏམ་ཀློག་ན་ཡང་། །
chang wa dang ni tön tam lok na yang
this aspiration prayer of noble conduct
cette prière d’aspiration aux actions bénéfiques
của đức Phổ hiền / mà biết tiếp nhận, / ghi nhớ, đọc tụng,

དེ་ཡི་རྣམ་པར་སྨིན་པའང་སངས་རྒྱས་མཁྱེན། །
dé yi nam par min pa ang sang gye khyen
is known by the Buddhas :
n’est connu que des bouddhas seuls :
và nói cho người, / thì được kết quả / chỉ Phật mới biết,

བྱང་ཆུབ་མཆོག་ལ་སོམ་ཉི་མ་བྱེད་ཅིག །
jang chub chok la som nyi ma jé chik
have no doubt about supreme enlightenment.
n’ayez aucun doute : vous atteindrez l’éveil suprême !
quyết định thực hiện / vô thượng bồ đề.

—b. dedication of the root of virtue of reciting the noble conduct, in the footsteps of bodhisattvas  dédicace des mérites de cette aspiration vertueuse, en suivant l’exemple des bodhisattvas  hồi hướng thiện căn tụng hạnh nguyện phổ hiền theo gót bồ tát 

༥༥ ༽ འཇམ་དཔལ་དཔའ་བོས་ཇི་ལྟར་མཁྱེན་པ་དང་། །
55) jam pal pa wö ji tar khyen pa dang
55) However the brave Manjushri became wise
55) Du bodhisattva Mañjuśrī qui atteignit l’omniscience
55) Trí hạnh Văn thù / cực kỳ dũng mãnh,

ཀུན་ཏུ་བཟང་པོ་དེ་ཡང་དེ་བཞིན་ཏེ། །
kun tu zang po de yang de shyin té
and in the way of Samantabhadra too
ainsi que de Samantabhadra,
tuệ hạnh Phổ hiền / cũng là như vậy;

དེ་དག་ཀུན་གྱི་རྗེས་སུ་བདག་སློབ་ཕྱིར། །
de dak kün gyi je su dak lob chir
I also fully dedicate all this virtue
je m’entraînerai à suivre les traces ;
nay tôi hồi hướng / bao nhiêu thiện căn,

དགེ་བ་འདི་དག་ཐམས་ཅད་རབ་ཏུ་བསྔོ། །
ge wa di dak tham ché rab tu ngo
in order to train in the footsteps of them all.
j’en dédie tout le mérite à l’éveil de tous les êtres.
để theo các Ngài / thường xuyên tu học.

—c. dedication in the footsteps of Tathagatas  dédicace en suivant l’exemple des bouddhas – hồi hướng theo gót Như lai 

༥༦ ༽ དུས་གསུམ་གཤེགས་པའི་རྒྱལ་བ་ཐམས་ཅད་ཀྱིས། །
56) dü sum  shek pé gyal wa tham ché kyi
56) All the conquerors, the Tathagatas of the three time
56) De même que tous les bouddhas du passé, du présent et du futur
56) Các đại nguyện vương / tối thắng như vầy

བསྔོ་བ་གང་ལ་མཆོག་ཏུ་བསྔགས་པ་དེས། །
ngo wa gang la chok tu ngak pa dé
praise dedication as supreme
ont loué l’importance et l’excellence de la dédicace,
được sự ca tụng / của chư Như lai,

བདག་གི་དགེ་བའི་རྩ་བ་འདི་ཀུན་ཀྱང་། །
dak gi gewé tsa wa di kün kyang
I also dedicate fully all this root of virtue
je dédie moi aussi tout mon mérite et ses causes
nay tôi hồi hướng / bao nhiêu thiện căn

བཟང་པོ་སྤྱོད་ཕྱིར་རབ་ཏུ་བསྔོ་བར་བགྱི། །
zang po chö chir rab tu ngo war gyi
towards the noble conduct.
afin de suivre le bon sentier.
để được hạnh nguyện / phổ hiền tối thượng.

—d. abandoning obscurations and seizing a special, pure physical basis  abandonner les obscurations et saisir une base physique pure spéciale – tiêu chướng, đạt thân thanh tịnh 

༥༧ ༽ བདག་ནི་འཆི་བའི་དུས་བྱེད་གྱུར་པ་ན། །
57) dak ni chi wé dü jé gyur pa na
57) When the time of my death comes
57) Quand il sera temps pour moi de mourir,
57) Nguyện tôi trong lúc / sinh mệnh sắp chết,

སྒྲིབ་པ་ཐམས་ཅད་དག་ནི་ཕྱིར་བསལ་ཏེ། །
drib pa tham ché dak ni chir sal té
may all my obscurations clear away
puissent tous mes obscurcissements s’évanouir,
thì loại được cả / mọi sự trở ngại,

མངོན་སུམ་སྣང་བ་མཐའ་ཡས་དེ་མཐོང་ནས། །
ngön sum nang wa tha yé dé thong né
may I behold the buddha of limitless light directly and
alors je regarderai amitābha, là en personne,
trực tiếp nhìn thấy / đức A di đà,

བདེ་བ་ཅན་གྱི་ཞིང་དེར་རབ་ཏུ་འགྲོ། །
de wa chen gyi shying der rab tu dro
go at once at the pure field of sukhavati.
et j’irai immédiatement dans sa terre pure de sukhāvatī.
tức khắc được sinh / thế giới cực lạc.

༥༨ ༽ དེར་སོང་ནས་ནི་སྨོན་ལམ་འདི་དག་ཀྱང་། །
58) der song né ni mön lam di dak kyang
58) Having reached there may everything
58) Dans cette terre pure, puissé-je actualiser chacune
58) Tôi đã sinh ra / thế giới ấy rồi,

ཐམས་ཅད་མ་ལུས་མངོན་དུ་འགྱུར་བར་ཤོག །
tham ché ma lü ngön du gyur war shok
I have prayed for, without exception, be actualized.
de ces aspirations !
trước mắt thành tựu / đại nguyện vương này,

དེ་དག་མ་ལུས་བདག་གིས་ཡོངས་སུ་བཀང་། །
de dak ma lü dak gi yong su kang
may I fulfill these aspirations without exception and
puissé-je les réaliser toutes et chacune d’entre elles,
thành tựu đầy đủ / không có thiếu sót,

འཇིག་རྟེན་ཇི་སྲིད་སེམས་ཅན་ཕན་པར་བགྱི། །
jik ten ji si sem chen pen par gyi
benefit sentient beings for as long as the world exists.
et aider les êtres aussi longtemps que l’univers demeurera !
lợi lạc tất cả / thế giới chúng sinh.

—e. receiving a prophesy and establishing the purpose of sentient beings  dedicace pour recevoir une prophétie des bouddhas dans le but de servir les êtres vivants – nhận thọ ký rồi tác thành chúng sinh 

༥༩ ༽ རྒྱལ་བའི་དཀྱིལ་འཁོར་བཟང་ཞིང་དགའ་བ་དེར། །
59) gyal wé kyil khor zang shying ga wa der
59) Having been born from an exquisite and immaculate lotus
59) Né là dans une merveilleuse fleur de lotus,
59) Bồ tát hải hội / của đức Di đà / ai cũng trong sạch,

པདྨོ་དམ་པ་ཤིན་ཏུ་མཛེས་ལས་སྐྱེས། །
pe mo dam pa shin tu dzé lé kyé
in the noble and joyous mandala of the conquerors
dans cet excellent et joyeux royaume de bouddha,
còn tôi lúc ấy / hóa sinh ở trong / hoa sen tối thắng,

སྣང་བ་མཐའ་ཡས་རྒྱལ་བས་མངོན་སུམ་དུ། །
nang wa thayé gyal wé ngön sum du
may I receive a prophesy, there
puisse le bouddha Amitābha lui-même
đích thân nhìn thấy / đức A di đà, / và Ngài đối diện

ལུང་བསྟན་པ་ཡང་བདག་གིས་དེར་ཐོབ་ཤོག །
lung ten pa yang dak gi der thob shok
directly from the buddha of limitless light.
me prédire l’annonce de mon éveil !
thọ ký cho tôi / thành tựu tuệ giác / vô thượng bồ đề.

༦༠ ༽ དེར་ནི་བདག་གིས་ལུང་བསྟན་རབ་ཐོབ་ནས། །
60) der ni dak gi lungten rab thob né
60) Having receive a prophesy there
60) Ayant reçu là cette prophétie,
60) Nhờ ơn của Ngài / thọ ký cho rồi,

སྤྲུལ་པ་མང་པོ་བྱེ་བ་ཕྲག་བརྒྱ་ཡིས། །
trul pa mang po je wa trak gya yi
may I send billions of emanations
avec un billion de mes émanations,
tôi liền biến thể / vô số thân hình,

བློ་ཡི་སྟོབས་ཀྱིས་ཕྱོགས་བཅུ་རྣམས་སུ་ཡང་། །
lo yi tob kyi chok chu nam su yang
through the strength of the mind, in the ten directions
émises par le pouvoir de mon esprit,
với trí tuệ lực / cực kỳ rộng lớn,

སེམས་ཅན་རྣམས་ལ་ཕན་པ་མང་པོ་བགྱི། །
sem chen nam la pen pa mang po gyi
and bring great benefit to sentient beings.
puissé-je apporter un immense bénéfice aux êtres animés, dans les dix directions !
tôi làm lợi lạc / tất cả chúng sinh.

 Conclusion  Conclusion  Hồi hướng 

༦༡ ༽ བཟང་པོ་སྤྱོད་པའི་སྨོན་ལམ་བཏབ་པ་ཡི། །
61) zang po chö pé mön lam thab pa yi
61) Through whatever small amount of virtue I have gathered
61) Par mon peu de mérite quel qu’il soit, accumulé
61) Người nào trì tụng / hạnh nguyện phổ hiền,

དགེ་བ་ཅུང་ཟད་བདག་གིས་ཅི་བསགས་པ། །
ge wa chung zé dak gi chi sakpa
from reciting this aspiration prayer of noble conduct
en récitant cette « aspiration aux actions bénéfiques »,
mà tôi nói về / chút ít thiện căn,

དེས་ནི་འགྲོ་བའི་སྨོན་ལམ་དགེ་བ་རྣམས། །
dé ni dro wé mön lam ge wa nam
may all virtuous aspiration prayers of migrating beings
puissent les souhaits vertueux des prières et aspirations de tous les êtres
là một sát na / họ đủ tất cả

སྐད་ཅིག་གཅིག་གིས་ཐམས་ཅད་འབྱོར་བར་ཤོག །
ke chik chik gi tham ché jor war shok
be instantly accomplished.
être instantanément exaucés !
đại thanh tịnh nguyện / tác thành chúng sinh.

༦༢ ༽ བཟང་པོ་སྤྱོད་པའི་སྨོན་ལམ་བསྔོས་པ་ཡིས། །
62) zang po chö pé mön lam ngö pa yi
62) Through whatever limitless immaculate merit
62) Par le mérite véritable et illimité
62) Hạnh nguyện phổ hiền / tối thượng của tôi,

བསོད་ནམས་དམ་པ་མཐའ་ཡས་གང་ཐོབ་དེས། །
sö nam dam pa tha yé gang thob dé
is obtained through the dedication of the aspiration prayer of noble conduct
obtenu en dédiant cette « aspiration aux actions bénéfiques »,
vô biên thắng phước / tôi hồi hướng cả,

འགྲོ་བ་སྡུག་བསྔལ་ཆུ་བོར་བྱིང་བ་རྣམས། །
dro wa duk ngal chu wor jing wa nam
may migrating beings sinking in the great river of suffering
puissent tous ceux qui se noient à présent dans l’océan de la souffrance,
nguyện bao chúng sinh / đang còn chìm đắm,

འོད་དཔག་མེད་པའི་གནས་རབ་འཐོབ་པར་ཤོག །
ö pak me pé né rab thob par shok
obtain the fine abode of (protector) Amitabha.
atteindre le royaume suprême d’Amitābha !
mau chóng được sinh / thế giới cực lạc / của đức Thế tôn / A di đà Phật.

༦༣ ༽ སྨོན་ལམ་རྒྱལ་པོ་འདི་དག་མཆོག་གི་གཙོ། །
63) mön lam gyal po di dak chok gi tso
63) May this King of prayers, the principle among supreme ones,
63) Puisse cette reine des aspirations faire naître
63) Hạnh nguyện vương này / tối cao mầu nhiệm

མཐའ་ཡས་འགྲོ་བ་ཀུན་ལ་ཕན་བྱེད་ཅིང་། །
tha yé dro wa kün la pen jé ching
bring about the benefit of limitless sentient beings.
la motivation et le bienfait suprêmes de l’infinité des êtres animés ;
 phổ độ chúng sinh / trôi lạc luân hồi.

ཀུན་ཏུ་བཟང་པོས་བརྒྱན་པའི་གཞུང་གྲུབ་སྟེ། །
kun tu zang pö gyen pé shyung drub té
having practiced this text adorned by Samantabhadra
puissent-ils parfaire ce qui est décrit dans cette prière sainte, prononcée par
Samantabhadra !
nguyện vào năng lực / tu hạnh Phổ hiền

ངན་སོང་རྒྱུད་རྣམས་མ་ལུས་སྟོངས་པར་ཤོག །
ngen song gyu nam ma lü tong par shok
may the streams of lower migrations without exception be emptied.
puissent les royaumes inférieurs se vider entièrement !
mà cõi ác đạo / không còn một ai.

འཕགས་པ་བཟང་པོ་སྤྱོད་པའི་སྨོན་ལམ་གྱི་རྒྱལ་པོ་རྫོགས་སོ།
This completes the King of Aspiration Prayers, Samantabhadra’s “Aspiration to Good Actions.”
Ceci conclut la Reine des Prières d’Aspiration, « l’Aspiration aux Actions Bénéfiques » de Samantabhadra.
Kết thúc Hạnh Nguyện Vương Phổ Hiền


 Words of Truth  Paroles de Vérité  Năng Lực Chân Ngữ 

སངས་རྒྱས་སྐུ་གསུམ་བརྙེས་པའི་བྱིན་རླབས་དང་། །
sang gye ku sum nye pé jin lab dang
by the blessings of the Buddhas who have attained the three kāyas,
par les bénédictions des bouddhas qui ont atteint les trois kāya
nương lc gia trì / ca chư Phật đà / thành tu tam thân Phật ,

ཆོས་ཉིད་མི་འགྱུར་བདེན་པའི་བྱིན་རླབས་དང་། །
chö nyi ming gyur den pé jin lab dang
and the unchanging truth of reality
et la vérité immuable de la réalité,
nương lực gia trì / pháp tánh bất biến,

དགེ་འདུན་མི་ཕྱེད་འདུན་པའི་བྱིན་རླབས་ཀྱིས། །
gen dün mi ché dün pé jin lab kyi
as well as the unwavering aspirations of the Saṅgha,
ainsi que par les aspirations indéfectibles du Saṅgha,
và của tăng đoàn / tâm ý bất chuyển,

ཇི་ལྟར་བསྔོས་བཞིན་སྨོན་ལམ་འགྲུབ་པར་ཤོག །
ji tar ngö shyin mön lam drub par shok
may all the aspirations and dedication prayers be fulfilled!
puissent toutes les aspirations et les prières de dédicace s’accomplir !
nguyện cho tất cả / hồi hướng nguyện này / đều được thành tựu


སྨོན་ལམ་འགྲུབ་པའི་གཟུངས་ནི། –
the Dhāraṇī for the Accomplishment of all Aspirations –
le Dharani pour l’Accomplissement de toutes les Aspirations –
Đà la ni Viên Thành Nguyện Ước

ཏདྱ་ཐཱ། པཉྩ་དྲི་ཡ་ཨ་ཝ་བོ་དྷ་ན་ཡེ་སྭཱ་ཧཱ། །
teyatha pen tsa dri ya awabodhanaye soha
tadyathā pañcendriya avabodhanāye svāhā
tê-ya-tha bên-dza tri-a a-oa-bô-đa-na-dê xô-ha

Chọn trang

image_pdfimage_print